của Bùi Kha và Trần Chung Ngọc Giao Điểm xuất bản 4-2002
I. LỜI MỞ ĐẦU
Cuối tháng 12 năm 2001, tôi có mua được cuốn “Nguyễn Trường Tộ Thời Thế & Tư Duy Cách Tân” mà tác giả là nhà sử học Hoàng Thanh Đạm, xuất bản vào tháng 3 năm 2001 tại TPHCM. Sách dày 336 trang, tác giả giành 24 trang để phê bình cuốn “Nguyễn Trường Tộ, Thực Chất Con người và Di Thảo” của Bùi Kha (bút hiệu là Nguyễn Kha) và Trần Chung Ngọc do Giao Điểm xuất bản vào tháng 4 năm 1998 (từ nay gọi là NTT,GĐ).
Cuốn sách đem lại cho chúng tôi một niềm vui, vì từ lúc sách chúng tôi ra đời đến nay đã 4 năm, nhưng chỉ có một bài phê bình của ông Nguyễn Xuân Phong với lời tán thưởng. Nay có bài phê bình khác, chỉ trích nhiều hơn là đồng ý, vì thế, qua đó chúng tôi có dịp để đào sâu thêm vấn đề. Nhà sử học Hoàng Thanh Đạm có văn phong điềm đạm và thái độ chững chạc của một người nghiên cứu công phu, nên chúng tôi rất hân hạnh để trao đổi một số điểm dị đồng với nhà sử học lão thành nầy.
Tổng quát, ông Hoàng Thanh Đạm có vài điểm tương đồng với chúng tôi lúc phê phán Nguyễn Trường Tộ, nhưng ông dùng chữ rất khéo như: “nhận thấy điều bất cập của Nguyễn Trường Tộ”, chứ không nói rõ hoặc có chỗ xử dụng lời lẽ “chua chát” như tôi (Bùi Kha), lúc thấy ai có thái độ hay hành động bán nước là tôi trở nên bực phiền. Do đó, văn phong có khi nặng về cảm tính mà cụ Hoàng (sinh năm 1926) lại cáo buộc sai lúc nghĩ rằng chúng tôi có tư tưởng “Bình Tây Sát Tả ”. Nhưng, có lẽ vì tuổi đời chồng chất và vì thiếu chứng liệu để bác bỏ luận điểm của chúng tôi về Nguyễn Trường Tộ nên rất nhiều chỗ cụ Hoàng tự mâu thuẫn với chính mình.
Thí dụ: lúc phê bình Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc, trang 123, cụ Hoàng viết: “Đọc hết cuốn sách của hai bạn Việt kiều ở Mỹ, những người kính yêu Nguyễn Trường Tộ không khỏi liên hệ đến cách nhìn của các nhân vật chủ chiến thời Tự Đức từng đề ra khẩu hiệu “Bình Tây sát Tả ”. Đến trang 126, cụ viết: “Có thể nói rằng thái độ bài xích của hai bạn Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc đối với Nguyễn Trường Tộ là “có thể hiểu được” nhưng thực sự có thiên lệch, hoặc là quá nghiêm khắc, vì hai anh đứng trên một lập trường chủ chiến có phần cực đoan, tuyệt đối không chấp nhận bất cứ phương sách chủ hòa nào”. Nhưng qua trang 127, ông lại đoán rằng: “Hay là hai bạn ra sức công kích Nguyễn Trường Tộ để thỏa mãn yêu cầu của người đặt bài đang rất khó chịu vì những lời ca ngợi, đòi hỏi đổi mới...”
Rất nhiều chỗ mâu thuẫn trong 24 trang phê bình cũng phát xuất từ những yếu tố khác, mà chủ yếu là tác giả muốn bẻ ngược lại những luận điểm của hai Việt kiều, nhất là muốn chứng minh tấm lòng của Nguyễn Trường Tộ đối với tổ quốc, nhưng lại không đủ sử liệu và logic, nên việc phê bình cho thấy quá nhiều “điều bất cập” của tác giả.
Cũng vì thế, nên đoạn cuối trong bài phê bình (tr.128) tác giả viết thiếu logic: “Giữa thời đại ngày nay, thời đại của hòa hợp dân tộc...”. Tôi quan niệm rằng, hòa hợp dân tộc thì không nên hiềm khích hoặc khơi lại đống tro tàn, mà phải giáo dục quần chúng biết cái hay để bắt chước và cái dở nên bỏ đi, phải khoan dung và tha thứ tất cả, nhưng không có nghĩa là phải làm sai lạc hay chối bỏ lịch sử, hoặc sắp những kẻ Việt-gian ngang hàng với những anh hùng dân tộc. Đó là chưa nói đến những thành phần “sống trên quê hương nhưng vắng bóng giữa lòng quê hương”; họ chỉ kêu gọi hoà hợp và đoàn kết lúc ở thế yếu. Nhưng lúc mạnh hoặc đã kiếm được sự hậu thuẩn của ngoại bang, họ sẵn sàng rước voi dày mả tổ. Không thấy được điều nầy, quả là một “điều hết sức bất cập” khác của Hoàng sử gia.
Thêm vào đó, bài viết có quá nhiều lỗi chính tả; không chấm câu trước lúc bắt đầu đoạn mới. Và trích ý chứ không phải trích nguyên văn bài viết của tôi, nhưng tác giả lại để đoạn văn trong ngoặc kép (“ “). Điều nầy cho thấy cách làm việc thiếu đứng đắn, làm sai lạc và đổi ý cả đoạn văn của người mà mình đang tranh luận. Đó là vài nhận xét tổng quát về bài phê bình trước khi đi vào những thảo luận lý thú về N.T.Tộ qua các sử liệu.
Khách quan, Nguyễn Trường Tộ có vài ý tưởng xuất sắc như tôi đã nêu trong bài viết của mình: “...Trái lại có 3 Di Thảo không liên quan đến chính trị, kinh tế hoặc canh tân, nhưng về phương diện văn chương lý luận và sự kiện thì rất hay, xuất sắc, nhất là tác giả lúc bấy giờ đang ở lớp tuổi 35 và cách đây 130 năm. Đó là Di Thảo số 10 “Thảo Thư gởi Tây Soái ”; Di Thảo số 47 “Về Việc Cải Cách Phong Tục”; Di Thảo số 50 “Về Việc Chỉnh Đốn Quân Đội Và Quốc Phòng” (Ba Di Thảo nầy gồm 18 trang) {trích nguyên văn NTT, GĐ, tr. 11 &12}.
Phần nhận định bản Di Thảo số 27 “Tám Điều Cần Làm Gấp” tôi cũng viết rõ về Nguyễn Trường Tộ: “Giọng văn điêu luyện có tính thuyết phục và nhiều đoạn rất thực tế đã mô tả được một số “bệnh trạng” của đất nước ta thời bấy giờ. Cách trình bày, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ dường như có thành tâm thiện chí đối với nước nhà” (tr.92)...
Lác đác một vài ý tưởng khả dĩ có thể chấp nhận, được lồng vào trong vô số điều mâu thuẩn, sai lầm và tai hại của Nguyễn Trường Tộ đối với vận mạng quốc gia dân tộc, mà sử gia Hoàng Thanh Đạm, người đã để ra hơn 20 năm nghiên cứu ( ông cho biết như thế ) vẫn không thấy kế hoạch lộng giả thành chơn của ông N.T.Tộ.
II. NHỮNG SAI LẦM
1. Hợp tác với Pháp:
Để có thể thấy rõ điều lợi hoặc hại lúc Nguyễn Trường Tộ đề nghị hợp tác với Pháp, chúng ta nên tìm hiểu tổng quát tình hình quân sự và chính trị thời bấy giờ.
Về phía quân đội viễn chinh Pháp tại Việt Nam, thì từ 1858 đến 1863, họ đang ở trong tình trạng nguy khốn, mà chúng tôi đã trích thuật qua sáu văn thư mật của các ông đô-đốc Pháp gởi cho chính phủ của họ. Xin xem các trích dẫn trong cuốn Nguyễn Trường Tộ, Giao Điểm xuất bản (tr.21-29. Tr. 28-33 cuốn mới nầy). Ở đây, chỉ lược trích vài đoạn ngắn:
"...Quả thật tôi thấy cần thiết và hết sức đau đớn xác nhận với ngài
về tình trạng tồi tệ... chúng ta đang nhanh chóng tuột dốc đến kiệt quệ
và đến lúc phải bất động tại Đà Nẵng (Đđ. Genouilly, 4.1.1859)...Vì thế
Hoàng-thượng tin cậy vào kinh nghiệm và sự sáng suốt của ông...có nên
theo đuổi việc thiết lập nền bảo hộ trên vương quốc An Nam không... hay
cuối cùng là chúng ta đành bỏ các vị trí... và từ bỏ mọi mưu toan... (Bộ
Hải Quân 8.4.1859)... Càng đi sâu vào tình hình Vương Quốc An Nam...
Không thể không thừa nhận rằng cuộc chiến tranh chống lại xứ nầy còn khó
hơn cuộc chiến tranh chống lại thiên triều ( Genouilly 21.9.1859)...
Người An Nam đã tỏ ra dày dạn chiến đấu, họ đã làm đảo lộn vai trò, giờ
đây họ tấn công ngay những vị trí của chúng ta ( lời kêu cứu của
Bonard)... Các cuộc khởi nghĩa đồng loạt nổi lên khắp nơi... tôi bị đẩy
vào thế tự vệ... (Bonard 18.12.1862). Ngày 27.1.1863 Bonard cũng than
thở: Lực lượng chúng ta giảm dần... đang bị đuối sức từng ngày... không
thể tiếp tục trong sáu tháng một chiến trận như thế nầy."
Sử liệu Việt Nam cũng viết:
Ngày 17. 12. 1862 nghĩa quân Trương Định tấn công đồn Rạch Trà của
giặc Pháp, thu nhiều thắng lợi. Qua ngày 18, 1.200 nghĩa quân Trương
Định tấn công đồn Thuộc Nhiêu (trên đường từ chùa Cây Mai đi Mỹ Tho)
tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Hai trận tấn công thắng lợi liên tiếp
trong hai ngày 17 và 18.12.1862 này của nghĩa quân Gò Công đã làm cho
thực dân Pháp hoảng sợ. Bonard phải khẩn cấp xin viện binh (Dương Kính
Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử, 1858-1918, Trung Tâm Khoa Học Xã
Hội và Nhân Văn, Viện Sử Học, TP HCM, 1999, tr.34).
Những sử liệu trên cho thấy tình hình quân sự đen tối của Pháp xẩy ra
và đãø kéo dài gần 5 năm, từ tháng 9, 1858 đến tháng 2, 1863, nghĩa là
khoảng một tháng trước lúc Nguyễn Trường Tộ viết bài Thiên Hạ Đại
Luận(3-4.1863). Trong lúc quân thực dân nguy khốn đến như thế thì Nguyễn
Trường Tộ lại hù dọa quân dân nước ta:
Tàu diệt Việt, Pháp diệt Á-đông...... Ở đâu thuận với họ thì phúc,
chỗ nào trái với họ thì họa, ai hòa với họ thì được yên... Quân ta mới
nghe thân thế họ đã phách lảng hồn xiêu rồi... Tôi thường nghiên cứu sự
thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách... nên để
cho quân lính nghỉ ngơi... để họ (Pháp) giữ bờ cõi cho mình, như có hổ
báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới..(NTT, Giao-Điểm tr.
27-40. Tr.34-48 cuốn mới nầy).
Những nhận định sai lạc có dụng tâm nầy đã ảnh hưởng đến chính sách của triều đình vua Tự-Đức và tinh thần chiến đấu của nghĩa quân. Tại sao Nguyễn Trường Tộ có những tư tưởng nghịch lý đến thế ? Tôi thấy có hai lý do chính:
Lý do tình thế : Sau hòa ước Nhâm Tuất,1862, phong trào chống
Pháp rất mạnh, làm cho công cuộc bình định của Pháp gặp nhiều trở ngại.
Triều đình Huế chia làm hai: phe chủ chiến và phe chủ hòa.Phe chủ chiến
có rất nhiều ảnh hưởng và thế lực. Thượng-tướng Ohier (quyền đô đốc) gởi
thư cho triều đình vua Tự-Đức phản đối phong trào chống Pháp làm trở
ngại chương trình bình định của ông ta (Nguyễn Thế Anh,Việt Nam thời
Pháp đô hộ, Lửa Thiêng xuất bản, Saigon 1970, tr.63-64).
Phong trào nghĩa quân kháng Pháp gây cho địch khó khăn đến nỗi :Thực
dân Pháp ra điều kiện: sẽ trả lại tỉnh thành Vĩnh-Long cho triều đình
Huế, một khi triều đình Huế chấm dứt được các cuộc khởi nghĩa chống đối
Pháp ở các tỉnh Gia Định, Định Tường, và phải gọi tất cả các thủ lĩnh
nghĩa quân trở về, tuyệt đối không còn bóng dáng một ai tại hai tỉnh đó
nữa (Dương Kính Quốc, SĐD, tr. 32).
Như thế, kế hoạch hòa với Pháp là thượng sách... cho lính nghỉ ngơi
để họ giữ bờ cõi cho mình của Nguyễn Trường Tộ là cái phao đúng lúc để
quân Pháp thoát hiểm và giúp cho chương trình bình định của thực dân có
thể thực hiện được!
Lý do tín lý và giáo dục: Nguyễn Trường Tộ không muốn thực dân Pháp rút về nước nên ông đã cố ý đưa ra những nhận định sai lầm về tình hình quân sự và khuyên hòa với Pháp để cứu vãn cơn nguy khốn cho thực dân. Sau đây là một số sử liệu giải thích tại sao.
Người Công-giáo thường có khuynh hướng ly khai với tổ quốc, vì điều
răn thứ nhất trong 10 điều răn của tôn giáo nầy là Thờ Thiên Chúa trên
tất cả mọi sự, mà Giáo-hoàng là người đại diện cho Chúa theo tín lý
Công-giáo. Do đó, điều răn thứ nhất phải hiểu là Thờ Giáo-hoàng và
Vatican trên tất cả mọi sự, mà việc Pháp đánh chiếm Việt Nam là do
Vatican vận động và chủ động như chúng tôi đã chứng minh bằng nhiều tài
liệu mật trong cuốn Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người Và Di Thảo nói
trên. Bởi thế, chúng ta không lấy làm lạ, những người như các Linh Mục
Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Trần Lục, giáo sinh Trương Vĩnh Ký, Giám-mục
Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Giám-mục Hồ Ngọc Cẩn, Giám-mục Ngô Đình
Thục... đều làm tay sai cho Pháp. Còn tín đồ Công-giáo Việt Nam thì
chính Đô-đốc thực dân Page cũng mô tả:
Ngoài ra không một người Việt Nam nào theo đạo Công-giáo lại ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt nam không theo đạo không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài (Bộ-trưởng) đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ tử thù (Du reste, pas un Vietnamien catholique n'hesita à demander à s'enriler comme soldat sous les drapeau francais, les roi payen du Vietnam n'etait point leur roi “Votre Excellence comprenda sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemies ?» Depêche de L'amiral Page, du 14-12 et 25. 12. 1859. Archives Nationales, Fonds Marines BB4-777, cité par Cao Huy Thuan, pp. 128 & 129).
Lịch sử cho thấy, đã là người Công-giáo thì luôn luôn nặng tình với Vatican hơn là đối với chính quốc gia của họ, danh từ thông thường để chỉ thái độ nầy là vong-bản. Thật vậy, ngay cả nước Mỹ, không có người nào theo đạo Công-giáo mà có thể đắc cử tổng thống, ngoại trừ Kennedy là một trường hợp đặc biệt ngoại lệ trong lịch sử 44 tổng thống vừa qua của đất nước nầy, nhờ có tài, nói năng hoạt bát, đẹp trai. Lúc ra tranh cử, có người đặt câu hỏi với ông về bổn phận một công dân và bổn phận của một tín đồ. Kennedy trả lời rằng lúc nào có sự xung đột giữa quyền lợi tôn giáo và đất nước thì ông sẽ nghiêng về phía tổ quốc. Tuy nhiên, vào thập niên 1960, Vatican có thái độ hòa bình để cứu tín đồ của giáo hội trong các quốc gia chiến tranh, thì Kennedy cũng muốn triệt thoái quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam, và ông bị ám sát năm 1963, đến nay chưa tìm ra thủ phạm. Nhưng người ta nghi rằng, một trong những nguyên nhân chính đưa đến cái chết là vì ông có tư tưởng phản chiến như Giáo-hoàng.
Tư tưởng đó và việc dự định rút quân ra khỏi Việt Nam của Kennedy đã
đi ngược lại quyền lợi của giới tư bản vì khí giới chiến tranh còn thặng
dư sau Thế Chiến Thứ 2. Mà khí giới chiến tranh chỉ có thể tiêu thụ bằng
chiến tranh khí giới. Đất Việt-Miên-Lào là thị trường thuận lợi nhất vào
giai đoạn đó để Hoa-Kỳ trút bom đạn xuống. Nhưng bom đạn và dụng cụ
chiến tranh đâu phải miễn phí. Chính phủ Mỹ dùng tiền đóng thuế của dân
chúng và tiền của các nước đồng minh viện trợ để mua khí giới do các
công ty Hoa-kỳ chế tạo. Một số lớn giai cấp tư bản được giàu nhờ có
nhiều cổ phần trong các công ty và kỹ nghệ chiến tranh ấy. Vì thế, chúng
ta không lấy làm lạ là Tết Mậu-Thân, 1968, có nhiều nơi tại miền Nam
(Việt Nam) không quân Hoa-Kỳ ồ ạt thả bom bình địa. Thủ tướng Trần Văn
Hương (VNCH) rất bực phiền nhưng cũng chỉ phát biểu được: Đánh con ruồi,
chúng ta không cần phải dùng cái búa. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ không những
chỉ dùng cái búa con để đánh ruồi mà họ dùng cái búa tạ.
Và trong cuộc chiến tranh Việt-Nam trước đây, để giết một người lính cọng-sản,
Hoa Kỳ phải tốn hơn 400 ngàn Mỹ kim (To kill one communist soldier cost the
U.S. no less than $400.000. Joseph Buttinger, Vietnam the Unforgetable
Tragedy, NY. 1977, p. 93), một cuộc chiến tranh tốn kém chưa từng thấy trong
lịch sử loài người. Và số khí giới Hoa Kỳ tiêu thụ tại Việt Nam bằng tổng số
khí giới của hai cuộc Chiến Tranh Thế Giới cọng lại. Tôi trình bày hơi dài
dòng về vấn đề nầy để chúng ta thấy mối dây chằng chịt giữa các tôn giáo
Tây-phương nhất là Công-giáo La-Mã và vấn đề chính trị cũng như giữa tư bản
và ý thức hệ...
Sử gia Hoàng Thanh Đạm bênh vực Nguyễn Trường Tộ và lý luận
rằng: ... những khó khăn mà tướng soái Pháp nêu lên là ở thời điểm
1858-1862, trong đoạn khởi đầu xâm lược, còn điều mà Nguyễn Trường Tộ
nói trong Thiên hạ đại thế luận về thế áp đảo của Pháp là ở thời điểm 1863
(Cách Tân, tr.112). Nhận định như vậy là nhà sử học Hoàng Thanh Đạm thấy
một mà không thấy được nhiều hơn. Vì ông Nguyễn Trường Tộ tự khoe là cái
gì cũng biết hết, vậy thì tình trạng quân Pháp yếu quân ta mạnh trong giai
đoạn trước lúc, chứ không phải sau khi, viết bài Thiên hạ đại thế luận tại
sao ông Nguyễn Trường Tộ không biết? Hơn nữa, một trong 6 văn thư mật mà
tôi nêu trên là mô tả tình hình nguy khốn của Pháp năm 1863; thời gian Nguyễn
Trường Tộ viết bài chiêu dụ ấy. Để biết rõ thêm thái độ Nguyễn Trường Tộ
khuyên triều đình hòa với Pháp là có hậu ý và dụng tâm của một người Việt
không ngay thẳng, chúng ta nên nhớ thêm sử liệu sau đây:
Ngày 16.10.1858, Nguyễn Trường Tộ, Linh Mục Nguyễn Hoằng,
Nguyễn Điều và 5 người Việt Nam khác cùng đi với Giám Mục tình báo
Gauthier đến cửa Mành Sơn, tại đây:...Các giáo sĩ Pháp tập trung khá
đông đảo tại Đà Nẵng đứng đầu là Giám-mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp
lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng đô-đốc
chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải
chuyển hướng về Saigon. Do đó trước khi đem quân vào Saigon, Đô-đốc Rigault
de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở
hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ
và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào
đầu năm 1859 (Giao-Điểm, SĐD, tr.166-168, dẫn theo TBC, SĐD, tr.22).
Nhắc lại đoạn sử liệu nêu trên để thấy rằng, Nguyễn Trường Tộ đã không
tham gia các phong trào chống Pháp. Trái lại, ông theo sát gót giầy của
thực dân từ ngày chúng bắt đầu chà đạp quê hương, 1. 9. 1858. Ông là một
trong những phần tử làm áp lực để Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng
dứt điểm. Nhưng bị Đô Đốc de Genouilly đuổi đi Hồng-Kông. Đến năm 1861
lại theo gót thực dân về làm thư ký cho Tổng hành dinh Soái phủ tại Sài
Gòn để chúng mở rộng vòng chiếm đóng. Từ năm 1858 đến năm 1863, ít nhất
là hơn 4 năm ròng rã ông đi theo Pháp và sát cánh với Giám Mục tình báo
Gauthier. Yêu nước Việt hay nước Pháp mà lạ đến thế ?
Từ những sự kiện trên chúng ta có thể nói, Nguyễn Trường Tộ
biết rất rõ tình hình nguy khốn của quân Pháp, nhưng ông sợ Pháp rút
quân về nên viết bài để hù dọa quân dân ta và giữ chân Pháp. Nếu quả
thật ông không biết tình hình của ta và Pháp đã và đang xảy ra xung
quanh ông và trên các vùng mà Pháp vừa chiếm được tại Đà Nẵng và Sài
Gòn, thì ông có thể biết được gì mà dám bàn Thiên hạ đại thế luận, tức
là luận bàn những tình thế lớn trong thiên hạ! Sự mâu thuẫn quá lớn như
thế, những người bênh vực Nguyễn Trường Tộ trả lời thế nào?
Để hiểu rõ hơn, một lý do khác cho thấy hậu ý Nguyễn Trường Tộ khuyên
dân Việt Nam hợp tác với Pháp, chúng ta nên tìm hiểu về nội tình của
Pháp tại Việt Nam và tại Aâu Châu trong giai đoạn Nguyễn Trường Tộ viết
bài chiêu dụ Thiên hạ đại thế luận đầu năm 1863.
'Theo hòa ước Nhâm Tuất, 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị Pháp chiếm đóng, nhưng sự chiếm đóng nầy phần lớn là ở trung tâm thành phố, còn các đồng bằng và vùng lau sậy do nghĩa quân điều khiển. Các cuộc hành quân của Pháp rất vất vả trong các vùng nầy; lính bị muỗi đốt và nước độc sinh sốt rét và dịch tả chết rất nhiều. Mặt khác, nghĩa quân đánh theo lối du kích làm cho giặc Pháp tổn thất nặng nề. Hơn nữa, từ lúc bắt đầu đánh Nam-kỳ đến lúc đạt được hòa ước 1862, Pháp phải mất hơn 4 năm và thiệt mạng trên 2 ngàn người, đó là một con số rất lớn vào thời điểm ấy' (Theo NTA, SĐD, tr. 25-54). Vì thế, các ông đô đốc Pháp đã than thở như chúng ta thấy ở trên.
Với tình hình như thế, Nguyễn Trường Tộ làm việc dịch thuật cho Tổng hành dinh của quân đội viễn chinh Pháp, sống sát cánh với tên tình báo Gauthier, thì ông không thể không biết Pháp đang khốn đốn. Vì vậy, ông viết thêm nhiều bài khác khuyên triều đình cọng tác với Pháp để giải tỏa khó khăn cho thực dân. Còn sử gia Hoàng Thanh Đạm không đồng quan điểm nầy, nhưng ông đã không trưng bày được một sử liệu nào để làm nền tảng cho luận điểm của mình.
Một cách gắn gọn, trong khi sáu bức thư mật của các đô đốc thực dân
than thở về tình hình quân sự bi đát của họ tại Việt Nam, và tình hình
chính trị tại Aâu Châu cũng không thuận tiện cho lực lượng Pháp muốn mở
rộng thêm vùng chiếm đóng tại Sài Gòn, thì Nguyễn Trường Tộ lại viết
tiếp: Theo cách ngày nay thì nên để cho quân lính nghỉ ngơi... để họ
(thực dân Pháp, BK) giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì
chồn cáo không dám bén mảng tới. Lý luận nầy cũng giống như nói rằng
trong nhà có nhiều cô con gái đẹp, nên để cho các tên sở khanh canh giữ
thì những kẻ tìm hoa sẽ không bén mảng tới . Thật là cao kiến chẳng còn
gì để phê phán !
Đọc kỹ Thiên hạ đại thế luận và những bài chiêu dụ khác của tên thuyết
khách họ Nguyễn, chúng ta sẽ thấy nhiều điều hết sức mâu thuẫn và sai
lầm có dụng tâm. Lối trích dẫn của Hoàng sử gia cũng đầy mâu thuẫn và
không để ý đến sự kiện và sử liệu. Ông viết:
Tháng 5.1863, viết Trần tình khải, ông (N.T.Tộ, BK) thanh minh rõ
thái độ của mình trước quân thù xâm lược: Đối với những hạng người cho
quân Pháp là lớn mạnh mà sợ thì tôi giận ra mặt mà bảo như thế là làm
tăng trưởng nhuệ khí của người ta mà tự diệt uy phong của mình...Tôi lại
đem những lợi hại phương Tây xa xôi ra so sánh để thấy rằng chúng mạnh
chỉ là tạm thời mà dễ yếu, còn ta tuy yếu mà dễ mạnh được lâu dài. Xin
cứ hỏi những người xung quanh sẽ biết tôi nói có đúng không... (Hoàng
Thanh Đạm, SĐD, tr.114.) Đoạn vừa dẫn cho chúng ta thấy một sự mâu thuẫn
quá lớn:
Bài Thiên hạ đại thế luận viết vào khoảng tháng 3-4. 1863, ông nói rằng
quân ta yếu, quân Pháp mạnh. Nhưng chưa đầy 2 tháng sau ông viết như
trên: có nghĩa là quân Pháp yếu, quân ta mạnh. Như thế, ông đã phủ nhận
những điều viết bậy có hậu ý trong bài Thiên hạ đại thế luận, và nói
giống tôi, tại sao cụ Hoàng Thanh Đạm lại còn trách cứ tôi ?
Thực ra, lúc viết Thiên hạ đạ thế luận, Nguyễn Trường Tộ đã cố
tình xuyên tạc lịch sử để cứu nguy cho Pháp như tôi đã chứng minh. Nhưng
có lẽ vì bị phản đối hoặc thấy sai lầm quá lộ liễu, nên viết bài khác để
bào chữa và bảo vệ mình. Cũng vì tâm chất dối trá nên tiền hậu bất nhất.
Vì thế, ông đã không thấy sự mâu thuẫn to lớn về hai bài vừa viết cách
nhau chưa đầy 2 tháng ! Còn sử gia họ Hoàng đã nhọc công nghiên cứu đến
hơn 20 năm, lại trích dẫn hai bài viết gần nhau của Nguyễn Trường Tộ,
trong đó mâu thuẫn rõ ràng đến thế mà không thấy, lại bênh vực ông ta và
cho tôi viết sai về tình hình quân Pháp, và cố ý chối bỏ sự thực lịch sử
trong các tài liệu mật của Pháp về thế khốn cùng của chúng, nên cụ Hoàng
viết tiếp:Chúng ta không vội nghi ngờ độ tin cậy của những câu trích dẫn
(của Bùi Kha) được dịch ra tiếng Việt lại còn đăng tải cả nguyên văn
tiếng Pháp (HTĐ, SĐD, tr. 111).
Một điểm quan trọng khác là trong bài nầy Nguyễn Trường Tộ viết :...lại
cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chận đường tiếp tế bằng đường
bộ và cắt đường qua lại của quân đội Cần Vương.... Mặc dầu Linh Mục
Trương Bá Cần không nói rõ trong sách, nhưng tôi được biết rằng ông
không biết chữ Nho, nên 58 bản chiêu dụ đều do ông Lý Kim Hoa dịch ra
Việt-ngữ . Tuy vậy cả dịch giả lẫn tác giả Trương Bá Cần đã không thấy
cụm từ quân đội Cần-Vương * được nhắc đến trong bài Thiên hạ đại thế
luận viết vào đầu năm 1863. Trong lúc đó, quân đội Cần-Vương chỉ xuất
hiện 22 năm sau khi vua Hàm-Nghi bỏ kinh thành đi kháng chiến do cuộc
nổi dậy chống Pháp bất thành tại Huế ngày 7. 5.1885. Nhiều tác giả,
trong đó có sử gia Hoàng Thanh Đạm, đã trích dẫn và ca tụng ông N.T.Tộ
hết mình qua bài chiêu dụ nầy, nhưng quên để ý sự sai lầm về thời gian
tính của từng biến cố, cho nên có thể đây là một bài ngụy tạo. Dù ngụy
tạo hay thật, và cụm từ nào đó bị dịch nhầm thành quân đội Cần Vương,
nhưng nếu đọc kỹ bài nầy chúng ta cũng sẽ thấy cái tư tưởng: Ăn cơm Việt
nam, thờ giặc Pháp của Nguyễn Tr. Tộ như đã chứng minh.
2. Lấy thịt đè người :
Sử gia Hoàng Thanh Đạm đã dẫn chứng rất nhiều
nhân vật tên tuổi ca ngợi Nguyễn Trường Tộ, trong đó có cụ Phan Bội Châu
và Hồ Chí Minh. Quan điểm của tôi là mỗi nhân vật đều có sở trường và sở
đoản, nhất là trong thời kỳ Pháp thuộc và đất nước chiến tranh, nhiều
tài liệu mật bị khóa chặt trong các thư khố, còn một số sách thì được
viết bởi phần lớn các người theo Công Giáo, mang đầy tình cảm tôn giáo,
che đậy và đảo lộn sự thực vì mặc cảm. Thí dụ, ngay cả đến sau năm 1994,
trong cuốn Divers Voyages Et Missions tiến sĩ Thần Học Linh Mục Hồng
Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, dịch cụm từ Plusieur Soldats là vài binh lính.
Lại còn chú thích là lính thừa sai chứ không phải lính chiến. Giáo-sư
Chương Thâu, viện Sử Học Hà Nội, lại bênh vực và đồng ý ngữ nghĩa nầy.
Mà thực ra chữ plusieur soldats có nghĩa là nhiều binh lính và chữ
missionaires mới có nghĩa là lính thừa sai (tức là giáo sĩ), và chữ
quelque mới có nghĩa là (một) vài. Người ta cố tình đổi nghĩa văn tự như
vậy để che đậy cái tội vận động chính phủ Pháp vào xâm chiếm nước ta của
Linh Mục A. De Rhodes (năm 1652).
Một thí dụ khác, Thánh Kinh Tân Ước xuất bản tại thành phố HCM năm 1997.
Theo mấy trang đầu và lời giới thiệu của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình
thì ban dịch thuật có đến 14 người gồm các linh mục, tu sĩ và những
người có hiểu biết chuyên môn về Thánh-kinh và đã để ra hơn 20 năm để
nghiên cứu và dịch thuật, nhưng có nhiều chỗ sai, nhất là chương 15,
đoạn 22-26 sách Ma-thi-ơ (Matthew). Các dịch giả đã cố tình dịch sai có
hậu ý mà tôi đã vạch rõ trong cuốn Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi ? (Giao
Điểm, tái bản lần thứ nhất 2001, tr.13-18).*
Vì thế, trong cuốn Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người và Di Thảo trang
184 tôi có đặt câu hỏi :Một con người như thế tại sao có nhiều người
nhầm lẫn? Để ca tụng ông bằng những danh từ cao quí... Tôi đưa ra mấy lý
do: 1. Thiếu sử liệu; 2. Vài tác giả trích vài câu, vài đoạn rồi ghép
lại với nhau, nhưng không đọc hết toàn bài và lồng nó vào trong bối cảnh
của tình hình lúc bấy giờ để tìm xem hậu ý của Nguyễn Trường Tộ đang
thập thò sau bức màn canh tân là gì, v.v. Chính tôi lúc đầu cũng đã lầm
và ca tụng ông về việc sửa đổi võ bị đến 11 trang trong bản thảo. Nhưng
sau đó sực nhớ lại cuốn Tôn Ngô Binh Pháp mà tôi có đọc lúc học lớp 9.
Sau khi đem ra đối chiếu, tôi đã tìm ra ít nhất là 6 binh lược mà Nguyễn
Trường Tộ lấy từ trong đó lại còn không đề xuất xứ. Do đó, vấn đề đúng
sai không thể hoàn toàn căn cứ vào số đông mà phải căn cứ vào sử liệu có
chính xác hay không. Hơn nữa, chúng ta nên hiểu rằng lời ca ngợi của
Chủ-tịch Hồ chí Minh đối với N.T.Tộ là mang tính chính trị và tâm lý của
một chính khách, chứ không phải là lời phát biểu của một nhà nghiên cứu.
3. Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước?
Cũng thế, nhằm mục đích chứng minh cho
bằng được Nguyễn Trường Tộ có lòng yêu tổ quốc, sử gia Hoàng Thanh Đạm
viết Sau khi đã mất 6 tỉnh Nam-kỳ, triều đình cuống quýt lo toan cử
người sang Pháp chuộc lại, thì Nguyễn Trường Tộ trong di thảo số 36 ngày
7.4.1868, bàn với triều đình nên bãi bỏ việc cử phái bộ đi Pháp... Ông
khuyên nên tính kế lâu dài, dầân nuôi dưỡng sức ta, dần đi giao thiệp...
(Cách Tân, SĐD, tr. 116). Sử gia họ Hoàng cứ nghĩ Nguyễn Trường Tộ thật
sự yêu nước nên mới có cái cao kiến ấy, chứ không chịu tìm hiểu tình
hình Pháp và Âu-châu thời bấy giờ để biết cái hậu ý tại sao ông Việt
gian nầy lại khuyên triều đình nên Bãi bỏ việc cử phái bộ đi Pháp ? Tôi
xin trả lời hộ sử gia bằng sử liệu dưới đây:
Tình hình Âu-châu lúc nầy rất bất lợi, không cho phép Pháp tiến hành một
cuộc chiến tranh mới.Đô-đốc La Grandiere nhận được lệnh phải từ bỏ mọi
dự định chiếm đóng ba tỉnh miền tây Nam-kỳ...
Chính phủ Pháp phản đối mọi biện pháp vũ lực có thể làm nước Pháp lâm
vào một cuộc chiến lâu dài với Triều đình Huế. Nhưng Đô Đốc de La
Grandiere trông đợi ở sự thành công của hành động của ông để đặt chính
phủ Pháp trước một sự việc đã rồi. Tân Bộ Trưởng Hàng Hải , Rigault de
Genouilly, luôn luôn khuyến cáo La Grandière phải tránh tất cả những gì
có thể làm cho Triều-đình Huế lo ngại. Ngày 10 .6. 1867, ông còn viết
cho La Grandere là: Mặc dầu tình trạng (chính trị Âu-châu) bớt căng
thẳng hơn, nhưng cho tới khi có lệnh mới ông đừng nghĩ tới chuyện biểu
dương lực lượng đối với ba tỉnh. Cho nên, phản ứng đầu tiên của Rigault
de Genouilly khi được tin quân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây là bất mãn đối
với La Grandiere... Điều quan trọng đối với ông (La Grandiere, BK) là
làm sao khiến Triều Đình Huế chấp nhận sự việc đã xảy ra (đã chiếm 3
tỉnh miền Tây, BK); ngày 30. 6. 1867, ông gởi thư cho vua Tự-Đức để đề
nghị thương lượng, nhưng vua Tự-Đức bằng một văn thư lời lẽ cứng rắn,
trách cứ La Grandière đã lạm dụng sức mạnh mà xâm phạm quyền lợi của
chính phủ Việt Nam... Nhà vua còn tỏ ý là sẽ phái sứ giả sang Paris để
thương lượng thẳng với chính phủ Pháp (Nguyễn Thế Anh, SĐD, tr. 54, 58,
59 & 60).
Vua Tự-Đức nhất quyết không chịu thương thuyết với La Grandiere, nên
tên thực dân nầy đã xử dụng đường lối chính trị khác. Theo phó tiến sĩ
Y. Tsuboi thì:Khi đạo quân bên nầy không thể áp đảo bên kia được thì tìm
một giải pháp chính trị. Người Pháp biết rõ như thế và bằng cách sai một
nhân viên mật vụ, Charles Duval, đến Bắc-kỳ với sứ mệnh xúi giục một
cuộc nổi loạn chống chính quyền (Huế, BK), liên kết với giáo dân - đó là
cuộc nổi loạn do Lê Duy Phụng chỉ huy - họ hướng Triều Đình Huế đến cuộc
đình chiến ở Nam-kỳ (Y.Tsuboi, Nước Đại Nam Đối Diện Với Pháp và Trung
Hoa, 1847-1885, bản dịch của Nguyễn Đình Đầu, Ban Khoa Học Xã Hội Thành
Ủy, TP HCM, 1990, tr. 261-262).
Như vậy, nếu Triều Đình Huế cử sứ bộ đi Pháp thì La Grandiere sẽ bị
thượng cấp khiển trách và Việt Nam có thể đã lấy lại được 3 tỉnh miền
Tây Nam-kỳ. Sự cố nầy dĩ nhiên là ông đô-đốc, các ông giáo sĩ, những kẻ
Việt-gian, trong đó có Nguyễn Trường Tộ, không muốn ! Đó mới là lý do để
ông viết thư khuyên triều đình Bãi bỏ việc cử sứ bộ đi Pháp vào năm
1868, chứ chẳng phải ông Tộ có lòng yêu nước như sử gia Hoàng Thanh Đạm
lầm tưởng ! Tôi sẽ trở lại vấn đề nầy ở một đoạn sau, và sẽ dẫn thêm một
số sử liệu khác để thấy tâm địa thờ Pháp của Nguyễn Trường Tộ.
Biết được hậu ý của ông Tộ, nên trong bài trước tôi viết rõ :...tư tưởng
của Nguyễn Trường Tộ không được bố cục một cách nhất quán, mà viết theo
những biến chuyển của tình hình và chính sách thuộc địa của Pháp tại
Việt Nam cũng như theo bối cảnh lịc sử Việt Nam thời đó(NTT, SĐD,
tr.9.Tr. 16-17 cuốn mới nầy) để dối gạt triều đình và cứu nguy cho Pháp
!
4. Nhà nuôi trẻ:
Sử gia Hoàng Thanh Đạm viết ...Một kiến nghị thực
tâm thiện chí như thế bị anh Nguyễn Kha thêm vào mấy chữ do giám mục
tình báo Gauthier cử người điều khiển lập tức biến thành một âm mưu hại
nước (HTĐ, SĐD, tr. 122).
Như tôi đã viết trong bài, Nguyễn Trường Tộ lộng giả thành chơn; ông đưa
ra một vài nhận định trông có vẻ hợp lý để đánh lừa, nhưng mục đích
không phải nói cái nầy mà cái khác, cái hậu ý đàng sau đó. Nói theo kiểu
người miền Nam: Nói dậy nhưng không phải dậy. Tôi cũng đã đưa ra hai thí
dụ về vai trò của các giáo sĩ thời bấy giờ. Thứ nhất là vụ Linh Mục Ân ở
Xuân Hòa (Huế). Thứ 2 là vụ Thiên Tân Giáo Án ở Trung Quốc (Nguyễn
Trường Tộ, Giao Điểm, tr.131-135). Thực ra trong lịch sử có rất nhiều
trường hợp phản loạn do người Công Giáo chủ xướng như Lê Văn Khôi, con
nuôi Lê Văn Duyệt, chiếm toàn tỉnh Gia Định năm 1835. Giáo-sĩ Marchand
(cố Du) đóng vai cố vấn và yểm trợ với âm mưu thiết lập một Vương quốc
Công-giáo ly khai . Sau khi triều đình dẹp yên, gần 2000 giáo dân bị
chém còn Marchand bị xử lăng trì. Cùng thời, tại Bắc Kỳ, Tạ Văn Phụng
được các giáo sĩ đổi tên thành Lê Duy Phụng rồi cùng với giáo dân nổi
loạn chống lại triều đình với chiêu bài Khôi phục nhà Lê. Năm 1850 ở
Trung Quốc có loạn Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn với đạo quân
Giê Su đánh chiếm nhiều tỉnh.
Hiện tượng núp dưới chiếc áo chùng thâm * và xử dụng chiêu bài tự do tôn
giáo cho mục tiêu chính trị, cũng được công sứ Bonnal cho biết: Khi một
giáo sĩ đã thiết lập được một xứ đạo trong một làng rồi thì chuyện gì sẽ
xảy ra? Người bản xứ từ chối không đóng thuế, tuyên bố không thừa nhận
chính quyền nào ngoài chính quyền của ông giáo sĩ, là người đích thân
dạy cho giáo dân không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của
giám mục... (Tiến-sĩ Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ
Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam, 1858-1897, Hoa-kỳ 1995, tr. 360-361).
Ngay cả đến năm 1886 mà ông linh mục Việt gian tên Trần Lục, quản xứ
Phát Diệm...nhận phép của Giám-mục Puginier rồi tiếp viện cho quân Pháp
5 ngàn giáo dân. Vì vậy chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất
thủ (... père Tran Luc, curé de Phát Diệm Celui-ci avec la bénédiction
de Mgr. Puginier vint à la rescousse des Francais avec 5000 chrétiens.
Et Ba Dinh fut pris ». F. Rouvier, Loin du pays, Paris 1896, p.103-104,
cité par le Father Tran Tam Tinh, Dieu et Casar, Paris 10. 1978, pp. 41
& 42).
Ngay gần 100 năm sau thời Nguyễn Trường Tộ, con quạ lúc nào cũng vẫn màu
đen:
Những giáo-sĩ Công-giáo tự động trở nên nhữngtác viên chính trị tạo
thành nền tảng quyền lực chính trị của Giáo-hội bất cứ nơi nào họ dựng
lên những cọng đồng Công Giáo (Avro Manhattan, Catholic Imperialism and
World Freedom, London 1952, P.365, NTT, Giao-điểm, SĐD, tr. 218, bài
viết của Tiến-sĩ Vật-lý Trần Chung Ngọc ). Xin xem thêm kế hoạch Liên
Minh Thánh và lời tuyên bố của Giáo Hoàng Phao Lồ 2 trong cuốn NTT, GĐ,
SĐD, tr.153, 154.
Giám-mục Puginier cũng cho biết tín đồ Công-giáo là những người Pháp tay
trong:
Không có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp cũng giống như cua bị bẻ
gãy hết càng (Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr.
Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait
cassé toutes les pattes).
Hành động của giáo sĩ và giáo dân như thế mà ông Nguyễn Trường Tộ lại đề
nghị mỗi tỉnh mở một nhà nuôi trẻ do giám mục cử người đến điều khiển.
Phải chăng, đó không phải là một hành động giúp cua thêm càng để có được
một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt Nam do chính các
giáo sĩ chỉ huy con chiên dưới trướng họ? Sử gia Hoàng Thanh Đạm phê
bình chúng tôi như trên, nhưng ông không nêu ra được một chứng cớ nào để
cho thấy nếu theo kế sách đó của ông Tộ thì sẽ không có tình trạng nào
đáng tiếc xẩy ra cho tổ quốc? Giả sử N.T. Tộ có thành tâm thiện chí chứ
không có âm mưu làm lợi cho Pháp như sử gia Hoàng Thanh Đạm hiểu lầm thì
tôi đoan chắc rằng, kế hoạch nầy của N.T.Tộ sẽ giúp cho Pháp đánh chiếm
Việt Nam mau lẹ và rút ngắn thời gian đồng hóa dân tộc ta mà thầy của
ông từng chủ trương như tôi đã trình bày (NTT, SĐD , tr. 118-134.)
5. Trọng tâm phê phán nhắm vào tôn giáo?
Đây cũng là một trong những
điểm chính mà sử gia họ Hoàng phê bình. Ông còn cẩn thận hơn lúc viết
:Nguyễn Kha dùng tới 77 trang trong 188 trang của luận văn...và Trần
Chung Ngọc dành 48 trang trong 70 trang để nói về các vấn đề tôn giáo
nhằm phê phán Nguyễn Trường Tộ.
Tôi không xem lại để thấy số trang như vậy có đúng không. Nếu có, cũng
không phải vì thế mà bài viết của chúng tôi giảm giá trị. Vả lại, tại
sao chúng ta phải tránh né không chịu mỗ xẻ con người và cái tôn giáo đã
tác hại cho tổ quốc và cả nhân loại ? Nhưng điều thiếu sót của Hoàng sử
gia là không thấy trong hầu hết các bài viết, Nguyễn Trường Tộ đã lồng
tư tưởng Thánh Kinh, nói đến giáo hoàng, nhắc tên mấy ông giám mục, linh
mục Việt-gian và tình báo rồi đề nghị dùng họ vào việc canh tân và những
việc khác. Ông Tộ đã xử dụng hầu hết 58 bản chiêu dụ để nói về Thánh
Kinh, để thuyết khách theo sách lược của Pháp, của Vatican và của phái
đoàn truyền giáo Hải-ngoại Paris. Dẫu sao, vấn đề quan trọng vẫn không
phải ở chỗ tỉ số bao nhiều phần trăm trong bài viết nói về tôn giáo mà
vấn đề là bàn đến canh tân(?), tại sao nhà thuyết khách họ Nguyễn lại
đem những ý niệm sai lầm về Ki-tô-giáo, về Kinh Thánh, giáo hội, giám
mục, linh mục vào hầu hết các bản chiêu dụ với dụng tâm gì ? Do đó, nếu
chúng tôi có nhiều trang viết về tôn giáo thì đó là điều không thể
tránh. Nhưng nếu so với những bản chiêu dụ, chúng tôi thấy Nguyễn Trường
Tộ thuyết minh về tôn giáo của ông đến khoảng 90 phần trăm.
Và dĩ nhiên, Nguyễn Trường Tộ và có lẽ cả sử gia Hoàng Thanh Đạm chưa
biết điều nầy: mấy năm trước đây, Hội Jesus Seminar, gồm các giám mục,
mục sư, linh mục và các học giả người Công-giáo và Tin Lành, qua nhiều
năm nghiên cứu Thánh Kinh, đã khám phá ra rằng 80% Thánh Kinh được ngụy
tạo (Jesus Seminar, which recently declared that Jesus did not say 80%
of what is attributed to him. LA Times, 30. 3. 1991). Vì thế, Thánh Kinh
được in thành hai loại mực, đỏ và đen. Mực đỏ là thật, mực đen là ngụy
tạo. Thánh-kinh là tôn chỉ của một tôn giáo, cũng như hiến pháp là kim
chỉ nam cho một quốc gia. Vậy mà tôn giáo đó lại được thiết lập trên
cuốn Thánh-kinh ngụy tạo đến mức độ như thế thử hỏi còn gì là giá trị
của nó ? Dẫu vậy, cuốn Thánh Kinh vẫn được xử dụng như một loại khí giới
hiệu nghiệm nhất, và mấy chữ tự do tôn giáo đã được khai thác triệt-để
trong quá khứ để chiếm thuộc địa và đồng hóa dân lành. Ngày nay nhãn
hiệu tự do tôn giáo đang bị lạm dụng để ngoại bang theo đuổi một chính
sách thực dân mới. Vì thế, Nguyễn Trường Tộ cặp kè với ông giám-mục tình
báo và trình bày nhiều về tôn giáo của ông trong hầu hết các bài chiêu
dụ là lý do cần phải hiểu . Ông là một trong những người xử dụng chiêu
bài canh tân và sách lược tôn giáo nhằm đặt cái thứ có đến 80% ngụy tạo
ấy lên đầu dân tộc ta để khống chế trước hết là lãnh thổ và tiếp theo là
văn hoá.
Chúng tôi không dám bàn thêm vấn đề nầy mà muốn thuật lại lời than phiền
cay đắng về đạo Tin-lành và Công Giáo,* của vị giám mục Anh Giáo Desmond
Tutu, người Phi Châu, được giải thưởng hòa bình Nobel năm 1984, như sau:
Lúc người da trắng đến, chúng tôi có đất đai, họ có cuốn Thánh Kinh.
Chúng tôi tin tưởng họ, nhắm mắt lại và cầu nguyện với cuốn Thánh Kinh
trong tay.
Lúc mở mắt ra, chúng tôi có cuốn Thánh Kinh, còn họ có tất cả đất đai
của chúng tôi..
(We have our lands and they came with their Bible. We believe in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes
closed. When we open our eyes, we have the Bible and they have our lands).
Sử gia Hoàng Thanh Đạm có thể cũng chưa có thông tin sau đây:Từ 1975, số
tân tòng Tin Lành Việt-nam thuộc các dân tộc thiểu số tăng 4 lần...Ý
niệm về ngày xuống thế thứ nhì của Chúa vang vọng hấp dẫn đặc biệt với
dân Hmong...Cọng-sản VN không quên rằng người Pháp đã cho dân Hmong
(Mường) tự trị, và Hmong cũng đã được Mỹ hứa hẹn nhiều thứ. Nicholas
Tapp, một học giả Hmong, nói, Dân Hmong luôn luôn muốn có một quê hương
riêng... Vài nhà truyền giáo đã không ngần ngại hứa hẹn với dân Hmong
rằng nếu họ chấp nhận đức tin Kitô (Công-giáo và Tin-lành, BK) thì họ sẽ
có quê hương riêng, cũng như sự giàu có như người Mỹ (báo Thời-Luận, Los
Angeles, CA. Hoa-Kỳ, 29. 9.1999). Hai cái bánh vẽ: Chúa xuống thế lần
thứ nhì để cứu chuộc và giàu có như Mỹ đã làm cho một số bộ lạc dân tộc
Thiểu Số nỗi loạn muốn ly khai. Mà chính họ lại không biết rằng, ngài
Giê-su đã không tự cứu được mình nên bị đóng đinh vào cây Thập-ác, ngài
quá đau khổ khóc la, nước mắt chảy tràn trụa. Cứ nhìn vào ảnh tượng của
ngài trong nhà thờ thì thấy rõ. Còn sự giàu có thì nên nhìn nước Phi
luật-Tân kế cạnh Việt Nam. 80% theo Kitô nhưng có giàu hơn Việt-nam
không? Mặc dầu Phi độc lập và tự trị trước Việt-nam từ lâu. Và nhiều
quốc-gia Châu Mỹ La-tinh theo Tin Lành toàn diện, lại là những nước
nghèo nhất thế giới! Trong lúc đó, Nhật chỉ có 1% Tinh Lành, Công Giáo
không đáng kể, Phật Giáo chiếm đa số lại là một nước giàu thứ nhì trên
thế giới. Những người đi dụ kẻ khác cải đạo để làm hại cho tổ quốc
Việt-nam trả lời thế nào?
Một trong những chủ trương của tôn giáo độc thần Tây-phương là đổi đạo
dân miền Thượng để thiết lập những quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn,
chúng tôi đã báo động 6 kế hoạch của họ trong bài Những Đại Pháp Nạn Của
Phật Giáo Việt Nam trong cuốn Phật Giáo Trong Thế kỷ Mới tập I, Giao
Điểm xuất bản năm 1996, và được nhắc lại trong cuốn Nguyễn Trường Tộ nói
trên. Do đó, tháng 2 năm rồi (2001), tại Pleiku người sắc tộc đòi độc
lập tự trị, chúng tôi đã biết trước nên không ngạc nhiên.
Mấy thí dụ trên cho thấy đến thế kỷ nầy mà người ta còn trắng trợn chủ
trương như thế huống nữa là thời ông Nguyễn Trường Tộ. Và do đó, một lần
nữa chúng ta thấy rõ hơn tại sao ông Nguyễn Trường Tộ lồng ý niệm Thánh
Kinh, nói về Thượngđ Đế, nhắc đến giáo sĩ... vào trong hầu hết các bài
khuyến dụ. Nghiên cứu ông Tộ hơn 20 năm mà Hoàng sử-gia vẫn chưa thấy
cái chiêu bài tôn giáo lại còn phê bình sai: Trọng tâm phê phán của N.
Kha và T. C. Ngọc đối với N. T. Tộ tập trung nhất vào vấn đề tôn giáo
(HTĐ, SĐD. tr. 105).
6. Thực tâm mở Trường Kỹ Thuật?
Bài viết trước đây, tôi đã
dành gần 20 trang (từ tr.110-130) để bàn luận về vấn đề nầy một cách khá
đầy đủ, từ việc tốn kém mua sắm dụng cụ đến việc khao đãi của nhà vua và
sự tán đồng chương trình mở trường kỹ thuật của các quan đại thần trong
triều. Tôi cũng nêu lên lập luận sai lầm của Linh Mục Trương Bá Cần về
lý do khiến việc mở trường thất bại, cũng như sự mâu thuẫn giữa lý lịch
do Bộ Truyền Giáo Paris cho biết và tờ trình về khả năng các thầy giáo
mà Tộ và Gauthier trình lên vua Tự-Đức. Tôi nghĩ là vì thiếu thận trọng
và cố tình đánh bóng cho ông Tộ, nên Lm Tiến-sĩ sử học Trương Bá Cần đã
để lại vô số mâu thuẫn và sai lầm trong sách của ông mà tôi sẽ phê bình
vào một dịp khác. Lúc phân tích và đối chiếu sự mâu thuẫn nầy, tôi để
đoạn văn trong ngoặc kép và in chữ nghiêng rõ ràng. Nhưng sử gia Hoàng
Thanh Đạm trích sai rồi chê tôi, và ca ngợi Nguyễn Trường Tộ điều mà ông
ta không hề có. Hoàng Thanh Đạm viết (trang 122):
Anh (Nguyễn Kha) chứng minh việc thầy giáo không có khả năng là: một ông
thi đậu cử nhân văn chương mà nói là biết phép toán học, bản đồ và điện
khí, một ông thì mới gia nhập Hội-truyền-giáo, đi học khóa kiến trúc một
năm mà nói là thạo môn đồ bản và biết làm cột thu lôi... Ý cũng như lời
của đoạn văn nầy không có trong bài viết của tôi. Trái lại, tôi trích
nguyên văn của Linh-mục Trương Bá Cần như sau (Ng. T. Tộ, GĐ, tr.
115-117. Tr. 118-120 cuốn nầy): Theo một tờ phúc trình của Giám mục
Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23-2-1868):
- Linh mục Thông (tức là Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước
thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ
đất thứ đá ấy thì có những giống chi. Nhưng theo ký sự của Hội Truyền
giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo
Paris, ngày 1-5-1867 đã đậu cử nhân văn chương.
- Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt
trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao
cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các
nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ.
Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong
chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền Giáo Paris 14-10-1866
và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc
lên đường sang Việt Nam.
- Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là
một nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tộâ cũng được gọi
là giáo sĩ, thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh
mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc.
Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ nầy do bệnh cũ tái phát đã
xin về Pháp trở lại.
- Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca sa nhi) là một người thợ máy, trước đã
giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài gòn đem về giới
thiệu với triều đình, nhưng Ca Xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng,
tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều
kiện, nên không dùng (TBC, SĐD, tr. 49 & 50).
Đoạn văn trên (trong sách của Linh-mục Trương Bá Cần, người ca tụng NTT)
đã cho chúng ta thấy sự mâu thuẫn và lừa dối về khả năng của thầy giáo
do Nguyễn Trường Tộ và Gauthier mời về để mở trường kỹ thuật hay không ?
Sử-gia Hoàng Thanh Đạm viết bài tranh luận với chúng tôi nhưng trích dẫn
sai cả ý lẫn lời. Ông tiếp tục:
Tất cả những chuyện nầy Trương Bá Cần đều viết rõ trong tác phẩm N.T.Tộ
Con Người Và Di Thảo, và Nguyễn Kha đều sử dụng tư liệu của Tr.B.Cần,
nhưng anh lờ đi đoạn văn quan trọng của Trương Bá Cần: Triều đình vua Tự
Đức lúc bấy giờ chỉ quan tâm tới việc làm sao lấy lại được 6 tỉnh Nam-kỳ
đã mất vào tay Pháp (... nên có 3 chấm, BK). Việc dự án mở trường ở Huế
không thành là do sự cản trở của Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình là
hai vị quan có thế lực trong triều đình (...) Còn có cả một luồng dư
luận khá rộng rãi trong triều đình cũng như ở các tỉnh tỏ ra dè đặt, lo
sợ trước ảnh hưởng của các giáo sĩ Pháp (...) Những ngày tháng 4.1868 có
một sự phản ứng rất dữ dội của các nho sĩ ở khắp nơi đối với người
Công-giáo (Tr. B. Cần, sđd. tr. 51-53 , Hoàng Thanh Đạm, tr. 122-123).
Sử gia Hoàng Thanh Đạm trách không đúng. Vì cụ cho đoạn văn đó là quan
trọng nhưng tôi không nghĩ như thế. Vì vậy mà tôi không trích chứ không
phải lờ đi . Thực ra, tôi đã bác bỏ luận điểm sai lầm của Linh Mục
Trương Bá Cần về vấn đề thất bại trong việc mở trường và đã viết rõ như
sau:
Qua sự khao thưởng như trên mà tôi trích dẫn dài giòng để thấy, triều
đình Tự Đức cũng biết chiêu hiền đãi sĩ. Ngay cả việc vua Tự Đức đồng ý
đề nghị của Giám mục Gauthier và Giám mục Sohier xây dựng trường sở trên
hai mẫu đất nằm giữa nhà thờ Kim Long và tòa Giám mục Huế, theo thư của
Giám mục Gauthier viết ngày 31-3-1868 (TBC, SĐD, tr. 50).
Nhưng việc mở trường chưa bao giờ được thực hiện. Lý do, theo Linh mục
Trương Bá Cần là bị Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình, hai vị quan có
thế lực trong triều ngăn cản. Cũng theo Linh mục Trương Bá Cần (SĐD
trang 52) ngày 31-3-1868, Giám mục Gauthier gởi thư cho bộ truyền giáo
có đoạn như sau:
Công việc sẽ tiến triển nhanh hơn nếu không có việc cử phái bộ đi Pháp
và những sự chậm chạp của xứ nầy... Trong các quan thượng thư có hai vị
cựu trào tìm cách cản trở quyết tâm của nhà vua.
Linh Mục Trương Bá Cần nêu lý do trên để kết luận vì thế mà trường không
mở được. Theo tôi lý do nầy không đúng.
Thứ nhất, trong tờ tấu của Cơ Mật Viện, ngày 4-3-1868 mà chúng ta đã
thấy ở trên, có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình đề nghị ban thưởng
cho phái bộ và 4 giáo chức. Điều đó cho thấy, nếu hai vị nầy có ý cản
trở thì họ đã không đề nghị vua Tự Đức ban thưởng như vậy.
Thứ hai, thư của Giám mục Gauthier gởi cho bộ truyền giáo, đề ngày
31-3-1868, nghĩa là 27 ngày sau khi bảy vị đại thần đề nghị ban thưởng
cho phái bộ Gauthier.. Thư cho biết, vua Tự Đức đồng ý dùng hai mẫu đất
để xây trường sở. Sự đồng ý của vua Tự Đức không thể không có sự tham
khảo với các đại thần trong đó có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình.
Hơn nữa Trần Tiễn Thành mới là nhân vật chính trong Triều (chức phụ
chính) sau vua Tự Đức chứ không phải Nguyễn Tri Phương hoặc Vũ Trọng
Bình.
Thứ ba, Linh mục Trương Bá Cần trích dẫn chỉ có một đoạn thư gởi cho bộ
truyền giáo" như trên, không nói lên được điều gì cho thấy hai vị thượng
thư đó cản trở. Việc trích dẫn như vậy không rõ ràng, không chứng minh
được luận điểm mà Linh mục Trương Bá Cần muốn nói.
Theo tôi, những lý do chính để việc mở trường không thành vì triều đình
Tự Đức quá tin tưởng Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ, trái lại hai
ông nầy thì lừa dối triều đình có hậu ý: kẻ thì ngu muội chạy theo ngoại
bang, người thì khoác áo chùng thâm để làm gián điệp. Sau đây là một số
bằng chứng (8 đoạïn chữ nghiêng trên là trích nguyên văn trong cuốn NTT,
GĐ, tr. 113-115. Tr. 116-118 cuốn nầy).
Sử-gia Hoàng Thanh Đạm đọc nhưng không thấy được các chứng cớ tôi đưa
ra, nên đã nhận định sai lầm về những sự kiện lịch sử cũng như về người
mà mình đang tranh luận. Vì thế ông viết tiếp:
Rõ ràng việc mở trường ở Huế không thành là do nguyên nhân thời thế chứ
không phải do giám mục Gôchiê và Nguyễn Trường Tộ là người đã cất công
đi lo toan việc nầy trở mặt đánh lừa nhà vua bằng cách chọn thầy dạy học
thiếu năng lực. Vả lại có ai cấm một cử nhân văn học mà có thêm hiểu
biết về kỹ thuật, một linh mục học về kiến trúc một năm mà có được khả
năng dạy vẽ đồ bản và cách làm cột thu lôi. Lời buộc tội của hai bạn
Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc thật là gượng ép (HTĐ, SĐD, tr. 123).
Về nội dung đoạn văn này, tôi không những đồng ý cách đánh giá của
sử-gia Hoàng Thanh Đạm về khả năng thầy giáo, mà còn muốn nói thêm rằng
bằng cấp chỉ là một nấc thang giá trị nào đó của học vấn, chứ nó không
nhất thiết sẽ cho thấy kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của họ. Một
chuyên gia không cần có bằng cấp nhưng có thể có kinh nghiệm và kiến
thức chuyên môn về vấn đề mà mình muốn dạy cho người khác. Trong bài tôi
không hề nói ông thầy giáo nầy chỉ có bằng cử nhân văn chương, ông linh
mục kia chỉ có bằng kiến trúc sư ... Mà tôi trích văn thư của Bộ
Truyền-giáo qua LM Trương Bá Cần. Rất mong sử gia Hoàng Thanh Đạm nên
đọc kỹ hơn lúc tranh luận để tránh tình trạng Trật đường rầy (out of
context).
Giả sử không có ai cản ngăn và không vì hoàn cảnh v.v...như Linh Mục.
Trương Bá Cần nêu ra, nghĩa là trường kỹ thuật được mở như dự liệu, thì
xin Sử-gia Hoàng Thanh Đạm cho biết bốn ông thầy giáo nêu trên với khả
năng và tư cách (mà Bộ Truyền-giáo của họ cho biết) như thế, liệu họ có
thể dạy cho trường kỹ thuật được không ? Tôi nghĩ không. Nhưng nếu có ai
trả lời có thì câu hỏi khác được nêu ra: thầy trò gián điệp Gauthier -
Nguyễn Trường Tộ một mặt: muốn biến Bắc-kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ
rồi đồng hóa toàn dân Việt Nam như tài liệu mật đã cho thấy, mặt khác
lại muốn giúp dân Việt Nam tiến lên để giải phóng khỏi ách thống trị của
thực dân qua con đường giáo dục kỹ thuật, phải chăng không có một sự mâu
thuẫn quá lớn ?
Trong sách (từ tr.117-129. Tr.) tôi đã dẫn 5 sử liệu mật của Pháp cho
thấy Giám-mục Gauthier là một tên gián điệp nguy hiểm nhất tại Việt Nam
thời bấy giờ, ông ta chỉ thua ông giám mục gian ác nhất, Puginier, có
một bậc! Còn Nguyễn Trường Tộ ít nhất là 10 năm ròng rã, từ lúc ra cửa
Mành Sơn, phụ sức làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng
dứt điểm vào năm 1858, đến lúc lao xao mở trường kỹ thuật vào 1868, vai
kề vai lòng cạnh lòng với tên gián điệp Gauthier mà không biết ông ta là
gián điệp, có ai tin nỗi điều đó không? Câu thầy sao trò vậy, và Cho tôi
biết anh lân la với ai tôi sẽ nói anh thuộc thành phần nào (Dire moi qui
tu hantes je dirai qui tu es) sẽ không sai trong trường hợp Nguyễn
Trường Tộ.
Giả sử Nguyễn Trường Tộ thật tình không biết thầy mình là tên gián điệp
phá nước mình, hại dân ta, thì việc ông lớn tiếng tự khoe cái gì cũng
biết (NTT, GĐ, tr.177) sẽ trở thành một kẻ đại ngôn khoác lác và dối
trá. Nếu biết mà không tố cáo lại còn viết ...xin giám mụcgiúp đỡ...Đừng
cho giám mục biết tôi đã bàn với triều đình như thế..., Những việc
Giám-mục Gauthier có thể giúp.. như thế thì quả thật đó là một loại ngôn
ngữ kiểu gián điệp để đánh lừa những người nhẹ dạ cả tin. Chúng ta nên
dùng ngữ nghĩa nào để đánh giá Nguyễn Trường Tộ đây?
7. Bình Tây Sát Tả?
Sử gia Hoàng Thanh Đạm cho chúng tôi có
tư tưởng Bình Tây sát Tả . Đó là lời cáo buộc chỉ đúng một nửa, Bình
Tây. Cũng như nghĩ rằng chúng tôi viết bài theo lối đặt hàng, và không
muốn nước nhà canh tân đổi mới. Xin trả lại những ý nghĩ không có cơ sở
và vu khống này cho sử gia. Mong rằng, không nên cáo buộc bất cứ người
nào lúc mình không có bằng chứng.
Trở lại vấn đề bình Tây sát Tả. Sở dĩ chúng tôi không có tư tưởng Sát Tả
vì tín đồ Công Giáo và Tin Lành nguyên họ là những người Việt chân thật
đầy lòng yêu nước thương nòi. Nhưng lúc trở thành con chiên, chính sách
giáo dục của hai tôn giáo nầy đã biến họ từ một người Việt yêu nước
thành những kẻ bán nước. Do đó, họ là nạn nhân của các ông giáo hoàng,
nạn nhân của các ông giám-mục, linh-mục và mục sư, mà trên hết là nạn
nhân của hai cuốn Thánh kinh; Tân-ước và Cựu-ước. Vì thế, như trong cuốn
Nguyễn Trường Tộ, Thực chất con người và di thảo trước đây, chúng tôi đã
chứng minh rằng tại Việt-nam, các tín đồ Phật-giáo, Khổng-giáo và
Lão-giáo không bao giờ bị triều đình hay vua chúa trừng phạt, nhưng chỉ
có các tín đồ đạo Ki-tô bị mà thôi vì lý do như đã nêu trên. Đó là mấu
chốt của vấn đề, chứ chẳng phải có gì khó hiểu để sử gia Hoàng Thanh Đạm
cho rằng chúng tôi không hiểu được cái nghịch lý của thời cuộc, nghịch
lý tôn-giáo và nghịch lý của triều-đình.
Để rõ hơn, chúng ta nên lắng nghe những lời phát biểu sau đây:
Giáo-sư Lý Chánh Trung, một trí thức Công-giáo trong cuốn Tôn Giáo và
Dân Tộc phát biểu rằng 'Đặt mình vào địa vị của các vua quan nhà Nguyễn
thời bấy giờ, chúng ta cũng không thể làm khác hơn được'.
Đô-đốc R.de Genouilly cũng khẳng định: Không một nền cai trị nào, dù là
phục vụ cho đạo Công-giáo, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường
xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không
được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ, BK).
Hiến pháp 1917 của Mễ Tây Cơ đặt giáo hội Công-giáo ra ngoài vòng pháp
luật, mặc dầu 80% dân Mễ theo Công-giáo. Giáo-hội Công giáo Mễ bị truất
hữu tài sản, linh mục và bà xơ bị cấm không được dạy học, không được
nuôi trẻ, không có quyền bầu cử, ứng cử, ra đường không được mặc áo
dòng...Sở dĩ hiến pháp phải buộc chặt tay họ như thế vì sợ họ bán nước
cho ngoại bang như họ đã từng làm trong quá khứ.
Ngay cả đến ngày nay mà nhân loại vẫn còn đặt mình trong tình trạng báo
động về Ki-tô-giáo (Công-giáo và Tin-Lành). Thật vậy, quốc hội Nga ngày
22.7.1997 thông qua một dự luật với đa số tuyệt đối Cấm Tin Lành và
Công-giáo truyền đạo tại Nga, ngoại trừ Hồi, Do Thái, Phật và
Chính-thống-giáo (It pleges respect for Islam, Judaism, Buddhism, and
the nation's largest faith, Russian Orthodoxy. LA Times, Wed. July 23,
1997).
Còn Do Thái và hầu hết các quốc gia Hồi Giáo, vì an ninh quốc gia, vì
chủ quyền đất nước và toàn vẹn lãnh thổ, nên họ không bao giờ cho phép
các giáo sĩ Kitô đến truyền đạo trên đất nước họ. Dẫu vậy, cũng chẳng có
cường quốc nào hoặc tổ chức nhân quyền nào lên án họ vi phạm tự do tôn
giáo và nhân quyền đối với các nước nầy. Gần chúng ta, hiện nay Trung
Quốc cũng vẫn còn sợ cái Đạo quân thứ năm (Fifth Column) là Công giáo và
Tin-lành, đang mai phục sẵn trong nội địa !
Vì thế, trước ông Nguyễn Trường Tộ cả trăm năm, đại tư tưởng gia
Voltaire (1694-1778) đã nhận định Suốt 17 thế kỷ qua, Công-giáo và Tin
Lành chẳng làm nên tích sự gì, chỉ có hại mà thôi ( The Christian sect
has done nothing but harm).
Tháng 2, 2001, đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin Lành ở Pleiku đòi
độc lập tự trị. Vì an ninh quốc gia và vẹn toàn lãnh thổ, và giả sử đó
là chính quyền do sử gia Hoàng Thanh Đạm lãnh đạo, tôi không nghĩ là ông
có thể ngồi yên ?
Thế kỷ 17, sau những cuộc nổi dậy của giáo dân, chính phủ Nhật nhờ có
Hòa Lan giúp sức, đã tiêu diệt được những kẻ nội thù trên quê hương họ
vào năm 1637. Do đó, lúc canh tân, Nhật không bị các lực cản. Còn Việt
Nam, giả sử vua quan nhà Nguyễn có chương trình canh tân, thì chính thầy
trò Nguyễn Trường Tộ sẽ chống phá trước tiên. Vì nếu không, làm sao ông
Giám-mục tình báo Gauthier thực hiện được kế hoạch biến Bắc-kỳ trở thành
một nước Pháp nhỏ như ông đã từng chủ trương?
Gauthier là một tên gián điệp cao cấp, tôi đã chứng minh bằng 5 tài liệu
mật không thể chối cãi! Vì vậy, cựu thẩm phán Charlie Nguyễn, vốn là một
trí thức Công-giáo, đã hô lớn: Cách mạng 1 tháng 11, 1963 Muôn Năm. Điện
Biên Phủ Muôn Năm. Bình Tây Sát Tả Muôn Năm (Charlie Nguyễn, Công-giáo
Trên Bờ Vực Thẳm, Giao Điểm, Hè 2001, tr.).
Mặc dầu chúng tôi chỉ đồng ý việc bình Tây mà không sát Tả , nhưng mỗi
người có một cách nhìn chủ quan nhưng cùng phát xuất từ tinh thần yêu
nước như chúng ta. Vì thế, suy nghĩ chín chắn và nhìn lịch sử theo chiều
dài của nó, từ đó có thể rút ra được một bài học để tránh những tái
phạm.
Một số vấn đề khác mà nói ra sẽ bị mất lòng, đụng chạm và dễ bị hiểu
lầm. Nhưng dù nói hay không, thì nó là một sự thực không thể chối cãi.
Đó là Phật Giáo, Cao Đài và Hòa Hảo, tuy có số lượng tín đồ đông tại
nhiều nơi ở Việt Nam nhưng họ không bao giờ đòi độc lập tự trị. Trái
lại, nếu là Công Giáo hay Tin Lành thì sự việc sẽ xảy ra. Lúc ở thế yếu,
họ kêu gọi đoàn kết và hô hoán không có tự do tôn giáo. Nhưng lúc mạnh,
họ giết và cưỡng bách kẻ khác phải theo họ, đổi đạo. Ngay cả những vấn
đề như hôn nhân giữa các cặp vợ chồng, họ cũng bắt bí họăc lợi dụng hoàn
cảnh tang chế của những gia đình nghèo để đến giờ lâm chung cải đạo
người ta. Tình trạng vi phạm nhân quyền và chà đạp tự do tôn giáo nầy đã
kéo dài từ lâu, nay vẫn còn tiếp diễn. Thật là trắng trợn và phi lý đến
thế ! Vậy mà cứ mở miệng là cáo buộc các chính phủ Vi phạm nhân quyền và
chà đạp quyền tự do tín ngưỡng. Làm như hai thứ đó là đặc sản của riêng
họ, không ai được phép đụng đến !
Hơn tám cuộc Thánh chiến đẫm máu trong lịch sử nhân là một bài học bi
thảm. Đông Timor ở Nam Dương, sau bao năm biểu tình bạo động xương rơi
máu đổ, đã độc lập tự trị sau một cuộc bỏ phiếu (tháng 8, 1999) là một
bài học khác. Tin Lành và Công Giáo tại Bắc Ái Nhĩ Lan đang còn chém
giết nhau vì số lượng tín đồ của hai tôn giáo nầy xấp xỉ bằng nhau. Tại
Việt Nam, nếu một ngày nào đó số lượng con chiên Công-giáo và Tin-lành
tăng lên ngang ngửa với tín đồ các tôn giáo khác thì Việt Nam sẽ nội
chiến, và sẽ có nhiều tiểu quốc tự trị trên giải đất hình cong chữ S!
Do đó, bất cứ ai, có thái độ bảo hoàng hơn vua, không dám đối diện với
sự thực hoặc uốn bút theo thời, xa rời lịch sử là điều rất đáng phàn nàn
và đắc tội với tổ quốc.
Sử gia Hoàng Thanh Đạm viết: Trong lịch sử các tôn giáo khác nhau công
kích nhau thậm tệ là chuyện bình thường. Có khi còn chém giết nhau nữa.
Chúng tôi cũng biết sử gia muốn nói gì trong câu nầy. Chúng tôi chỉ mong
rằng ông đừng sợ, cứ nói rõ tên đó là tôn giáo nào, như thế câu văn mới
đủ nghĩa. Và nếu khách quan, chúng ta sẽ thấy trong suốt chiều dài lịch
sử, Phật-giáo chưa bao giờ và sẽ không bao giờ làm đổ máu bất cứ một ai
để bảo vệ hay bành trướng hoặc bất cứ một lý do nào khác. Trong giáo lý
đạo Phật, không có chỗ nào Phật dạy phải làm hại kẻ khác, kể cả các sinh
vật hữu tình lẫn vô tình. Từ đó để thấy cuộc khủng bố tại Mỹ tháng 9 năm
2001 vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ thêm rằng từ nhiều ngàn năm nay,
phần lớn các cuộc chiến tranh đều phát xuất từ tôn giáo, nhưng trong đó
không có Phật-giáo.
III. NHỮNG MÂU THUẪN VÀ SAI THỰC TẾ
Để thấy rõ hơn về ông Nguyễn Trường Tộ, chúng tôi tóm lược một số mâu thuẫn và sai thực tế giữa ý kiến của chính ông và với tình hình chính trị cũng như thực trạng xã hội lúc bấy giờ.
1. Nguyễn Trường Tộ: Ai hòa với họ là phúc, chống lại họ là họa... hòa với
Pháp là thượng sách... nên cho lính nghỉ ngơi... để Pháp giữ bờ cõi cho mình
như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới... Quân ta mới
nghe thanh thế Pháp đã phách lãng hồn xiêu.... Nhưng các tài liệu mật của
Pháp cho thấy từ 1858 đến năm 1863, tình hình quân đội Pháp tại Việt Nam vô
cùng nguy kịch. Họ có ý định rút về và bỏ hẳn mọi mưu toan đánh chiếm Việt
Nam. Hơn nữa, lúc tổ quốc lâm nguy, giang sơn bị quân thù chiếm đóng mà Cho
lính nghỉ ngơi thay vì tổng động viên. Một danh nhân cho đất nước nào mà kỳ
quái đến thế ?
2. Nguyễn Trường Tộ: Tại sao giết giáo sĩ . Ý kiến của Đô-đốc R. De
Genouilly: Không một nền cai trị nào, dẫu phục vụ cho đạo Công-giáo, lại có
thể dung thứ...
3. Nguyễn Trường Tộ: ... giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống
gian tà,... chẳng liên quan gì đến việc tranh thành tranh đất cả . Nhưng
Đô-đốc Bonard (ngày 24. 7. 1862) cho biết: Nếu những ai nối vị vua Gia Long
mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ phủ nhận tính chính thống của
vua nầy, và khi lật đổ được triều đình hiện tại, thì sẽ bầu lên một ông vua
khác theo ý họ... Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha, thường chiếm cứ miền
thượng du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn.
4. Nguyễn Trường Tộ: Lúc đầu dân bản xứ xem họ như thù địch, dần dần chịu
gần gũi... những người dân ở đây đã học được hết những kỹ xảo của người
phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra
khỏi đất mình... Họ là kẻ phở hoang mà ta thì hưởng cái thành quả! Tộ viết
như vậy để thuyết phục triều đình Việt Nam hợp tác với Pháp. Nhưng lịch sử
cấu trúc của Hoa Kỳ không cho thấy như thế. Ông viết tiếp: Xin kể ra các
phương pháp làm hột nổ và đúc súng, đúc kim loại, cùng các môn quang học, cơ
học, hóa học, khai thác mõ than. Nhưng đọc trong bài và kể cả các bài chiêu
dụ khác chúng ta cũng không thấy ông nêu ra một phương pháp nào cả.
5. Nguyễn Trường Tộ: Rồi ta lại qua nước La Mã thông hiếu với giáo hoàng..
để nhờ giúp đỡ. Nhưng kể từ Giáo Hoàng Innocent X, 1652, đến những ông giáo
hoàng kế tiếp, tất cả đều vận động để Pháp chiếm nước ta. Dưới đây, là vài
sử liệu thu gọn:
Bí thư của phái đoàn Pháp ở Trung Quốc tiếp xúc với các đại diện Giáo-hoàng
ở Thái Lan, Việt Nam và Kampuchia. Căn cứ vào các tin tức do những người này
cung cấp, chính phủ Pháp đã quyết định phái Montigny thực hiện sứ mệnh trong
vùng này... các vận động được hỗ trợ bằng sự can thiệp của các nhân vật quan
trọng như Tổng giám mục Bonnechose ở Rouen và của chính Hoàng hậu, bà này đã
thuyết phục được vua, dù lúc đó vua không có kế hoạch thực dân nào rõ rệt.
Các vận động này được thực hiện bởi hai người truyền giáo: Linh Mục Huc,...
cựu đại diện Giáo-hoàng ở Trung Quốc... và Giám-mục Pellerin đại diện
Giáo-hoàng tại Bắc Nam-Kỳ... Kế đến tháng 11, Giám Mục Pellerin đi Rôma,
Giáo Hoàng Pie IX tán thành các vận động... (đánh chiếm Việt-nam, BK). Do
đó, tôi đã kết luận: Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình thương hiếu với giáo
hoàng cũng tương tự như khuyên cha mẹ gởi con cho cọp.
6. Nguyễn Trường Tộ: Gấp rút việc sửa đổi võ bị. Nhưng về chiến lược, thì
ông cóp nhặt ý trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp. Về binh, ông khuyên nên cho
lính nghỉ ngơi thay vì phải tổng động viên, phải nghiên cứu phương pháp huấn
luyện như thế nào, đánh theo cách nào cho hợp với tình hình mới và các phong
trào nghĩa quân hiện có nên chỉnh đốn bổ túc thế nào để chống Pháp có hiệu
quả hơn, v.v... Giả sử đất nước có điều kiện và phương pháp để canh tân, và
ngay cả trong thời bình, cũng cần binh lính để giữ an ninh trật tự, huống
nữa là thời chiến mà lính thì ông Tộ khuyên nên cho nghỉ ngơi. Thật là
nghịch lý!
Còn giải pháp nhờ người Anh huấn luyện lính cho ta mà ông Tộ đề cập trong
bài Lục Lợi Từ, tôi đã chứng minh là không thể thực hiện được. Hơn nữa, dụng
tâm chính của Tộ là dụ triều đình gởi con cho cọp. Tất cả các bài chiêu dụ,
trong đó có bài Lục Lợi Từ, của Tộ cũng được viết theo tình hình chính trị
của Pháp và Việt Nam thời bấy giờ để bủa lưới, nhưng được ngụy trang và theo
lối tình báo để che đậy cái hậu ý của mình, chứ chẳng phải canh tân canh cải
gì đâu mà lầm! Để rõ hơn xin đọc tiếp dưới đây.
7. Nguyễn Trường Tộ: Giờ đây trong số các quan viên văn võ có
những vị nào quê ở lục tỉnh Nam-kỳ, triều đình phải đặc biệt ưu ái họ.
Cho họ thường xuyên về thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thân mật
nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa
đi nơi khác, đừng lánh đi xa (Di Thảo số 27, TBC, SĐD, tr.239). Tại sao
Tộ khuyên như vậy ?
Vì dân Nam Kỳ lúc đó đã làm cho thực dân khó bình định các vùng mới
chiếm, như sử gia Chesneaux mô tả:cuộc ra đi hàng loạt của các bậc sĩ
phu và của dân chúng, rời bỏ các tỉnh miền Đông Nam-kỳ bị người Pháp
chiếm đóng, để về vùng tự do ở miền Tây, và tổ chức kháng chiến.
Thái độ bất hợp tác chung khắp nơi đó buộc các đô đốc toàn quyền, muốn
duy trì bộ máy hành chính Pháp tại Nam-kỳ, chỉ còn xử dụng được một số
tối thiểu những công chức Việt Nam (phiên dịch, thư ký...) mà thôi. Và
duy chỉ có những phần tử kém hạnh kiểm nhất trong dân, tình nguyện đứng
ra phục vụ cho những ông chủ mới.
Đề-đốc Rieunier, về sau, nói rằng Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn
du thủ du thực (Xin xem thêm NTT, Giao Điểm, SĐD, tr.59-65). Đó là thêm
một bằng chứng cho thấy cái tâm địa và hành trạng của Nguyễn Trường Tộ,
là một người phục vụ những ông chủ mới, một phần tử trong những giáo dân
và bọn du thủ du thực núp dưới chiêu bài canh tân ! Chúng ta nên thận
trọng, chớ lầm.
8. Nguyễn Trường Tộ: Bổ túc kế hoạch đánh-úp Gia Định viết ngày
9.2.1871.
Vì tình yêu tổ quốc và tự ái dân tộc, nên cụm từ Kế hoạch đánh úp Gia
Định dễ khiến chúng ta có nhiều thiện cảm và kính trọng Nguyễn Trường
Tộ, tác giả của kế hoạch. Sử gia Hoàng Thanh Đạm cũng nằm trong cái tâm
tư yêu nước đáng quí ấy nên ông viết :
Thế rồi thời thế chuyển biến: năm 1870 nổ ra chiến tranh Pháp Phổ. Pháp
thua to, vua Pháp Louis Bonaparte bị bắt làm tù binh tháng 9-1870, rồi
nổ ra cách mạng Công-xã Paris tháng 3-1871. N .T. Tộ thấy rõ đây là một
cơ hội rất tốt phù hợp với điều ông dự đoán cơ hội khôi phục phải sau 10
năm (N.T.T. tr. 116). Từ tháng 2 đến tháng 5.1871 ông liên tục viết 7
bản điều trần liên quan đến kế sách khôi phục: Kế hoạch thu hồi 6 tỉnh
Nam kỳ. Bổ túc kế-hoạch đánh úp thành Gia-định, v.v. (HTĐ, SĐD, tr. 116
& 117).
Sử gia bị thu hồn vào mấy chữ kế hoạch thu hồi, kế hoạch đánh úp, cũng
như kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh, chú trọng thực dụng, phải đổi
mới, canh tân, v.v. , rồi cứ thế mà ca tụng ông Tộ lên tận mây xanh, chứ
không chịu tìm hiểu xem các đề nghị được lồng dưới các cụm từ hoa mỹ đó
có gì mâu thuẫn, khả thi và dụng tâm của N.T.Tộ là gì? Tôi nghĩ rằng
Hoàng sử gia không phải nhọc công nghiên cứu ông Tộ đến 20 năm, mà chỉ
cần khách quan tìm hiểu các đề nghị rồi đối chiếu với sử liệu, là sẽ cảm
thấy vô cùng thất vọng vì những mâu thuẫn nội tại, sai lầm, phi lý và
dối trá trong hầu hết 58 bài chiêu dụ của ông, và đặc biệt, cái gọi là
Kế hoạch đánh úp Gia-định.
Thật vậy, trước đó 7 năm (1863), ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực
dân Pháp giữ bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandière bất chấp lệnh của
chính phủ ông là Không được chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam-kỳ, nhưng y vẫn
làm. Vua Tự Đức phản đối việc nầy và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La
Grandière đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi
Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy đã được trao trả, nhưng ông Tộ viết bài chiêu
dụ cản ngăn. Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã cho lính nghỉ ngơi
từ lâu lấy ai để đánh? Ông lại bày mưu đánh. Nhưng đề nghị bí mật tuyển
người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương, chứ không hề đề cập
đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam Kỳ và kêu gọi họ hợp tác hay
ủng hộ để đuổi kẻ thù chung? N.T.Tộ còn nói ông cũng vào Gia Định để chỉ
huy nhưng ngụy trang đi giảng đạo, và đồng thời báo tin cho ông Giám-mục
tình báo Ngô Gia Hậu (Gauthier) biết. Trong bài chiêu dụ nầy, có thêm
vài chi tiết rất quan trọng khác chúng ta cần lưu ý:
(a) Ông Tộ tiết lộ: Như lần trước, lúc tôi ở Gia Định, nguyên soái Gia
Định đã nhiều lần muốn đem công việc bộ Công giao hết cho tôi (T.B. Cần,
SĐD, tr. 327). Điều nầy cho thấy ông ta được đô-đốc La Grandière, tin
dùng đến mức đem công việc bộ Công giao hết cho y.
(b) N.T.Tộ viết :Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (Khoản nầy các câu
bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới,
không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã
ba mà tan rã hết(T.B. Cần, SĐD, tr.330). Tại Gia Định làm gì có sông
nào, đê nào ngăn nước để phá để chôn thuyền như thế ?
Và dưới đây là một đề nghị hết sức quan trọng:
(c) Nếu N.T.Tộ đề nghị đánh gấp, thì ông ta quả tình là một người yêu
nước không còn phải bàn cãi. Nhưng rất tiếc, ông viết :Kế nầy phải đòi
hỏi khoảng hai năm mới thành (T.B. Cần, SĐD, tr. 331). Thời gian hai năm
đã tố cáo cái dã tâm của ông. Thế mà một sử gia đã nghiên cứu ông ta đến
hơn 20 năm mà vẫn không thấy hoặc cố tình không muốn thấy ?
Thật vậy, ông Tộ nói đến chuyện đánh nhưng không phải đánh ngay bây giờ;
sau tháng 9, 1870, thời cơ đã đến, mà phải hai năm sau, tức là 1873. Tại
sao vậy? Vì nếu đánh bây giờ thì ta nhất định thắng mà Pháp chắc chắn
thua. Đó là điều mà ông Tộ, những người Việt gian và thực dân không bao
giờ muốn! Cáo buộc Nguyễn Trường Tộ không muốn Việt Nam thắng Pháp có
oan không, chứng minh ?
Một, như trên đã nói, ông Tộ đề nghị xử dụng những thường dân (không
phải lính) chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại
địa phương, người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và
có kinh nghiệm v.v., thì làm sao thắng được ?
Hai, lịch sử cho thấy nếu đánh vào giai đọan sau tháng 9.1870 Việt Nam
nhất định thắng. Dưới đây là sử liệu:
Ở Âu-châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19. 7.
1870, nhưng mãi tới ngày 5 .8. 1870 tin ấy mới tới Sài Gòn.
Cornulier-Lucinere vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng
Triều đình Huế thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho
Lục-tỉnh Nam-kỳ nổi loạn. Song cả cho đến ngày 25. 9. 1870 là khi tin
quân Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, Triều-đình Huế vẫn án binh bất
động. Quốc triều chánh biên toát yếu chép là: Năm Canh Ngọ tháng 9, nước
Đại Pháp đánh với Phổ-lỗ-sĩ, quan Pháp-soái thương cho ta biết, ngài
khiếân quan thương-bạc hỏi thăm. Thái độ của Triều-đình Huế còn kỳ quặc
hơn khi triều đình tỏ lòng mong muốn quân Pháp sẽ rút khỏi Nam-kỳ để trở
về Pháp cứu vãn tổ quốc lâm nguy. Triều đình đã hoàn toàn không lợi dụng
những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ nhị thế chế sụp đổ thay thế bởi
một chính thể cộng hòa, và khi mà quân Pháp bị cô lập ở Nam-kỳ (Nguyễn
Thế Anh, SĐD, tr. 66).
Tình hình chín muồi như vậy, nếu không đánh ngay thì mấy tháng sau đó
phải đánh, nhưng N.T.Tộ khuyên phải hai năm sau. Ông ta yêu nước nào mà
lạ đến thế ?
Mấy hàng đầu của bài Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh (viết trước bài Kế hoạch
đánh úp Gia-định 8 ngày) ông Tộ nói Đại phàm việc thiên hạ, để thời cơ
trôi qua mà hối tiếc...gặp thời làm được thì gấp rút ra tay, không bỏ lỡ
cơ hội. Nói một đường làm một nẻo, một người mâu thuẫn dối trá không
biết ngượng, thế mà sử gia Hoàng Thanh Đạm cứ cặm cụi ca tụng một danh
nhân văn hóa, một người đã lao tâm khổ tứ lo cho dân cho nước!
Giả sử triều-đình bị mắc lừa bởi kế hoạch của ông Tộ, hai năm sau mới
đánh, thì kết quả sẽ thế nào? Hai năm sau tức là năm 1873. Lúc nầy Việt
Nam ở vào thế rất yếu nhưng Pháp rất mạnh, khó lòng thắng. Vì tại chính
quốc, tình hình chính trị đã được ổn định, chính phủ mới đã được thành
lập. Tại thuộc địa, Pháp đã bình định 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ được 11
năm, và 3 tỉnh miền Tây được 6 năm. Họ rất rảnh tay. Còn tại Bắc Kỳ,
chính phủ Pháp ngăn cấm Đô-đốc Dupré về một cuộc phiêu lưu mới tại
Bắc-kỳ, nhưng cũng giống như La Grandière, ông ta không tuân lệnh thượng
cấp. Và các viên chức trong tòa lãnh sự Pháp tại Trung Hoa cũng muốn
chính phủ họ chiếm Bắc-kỳ như Dupré. Sử liệu cho thấy:
Vào năm 1873, lãnh sự Pháp ở Quảng Đông, Bá-tước Chappedelaine, báo cáo
về Paris như sau: Ở Bắc-kỳ, quan lại An-nam-mít bị thù ghét dữ dội.
Không phải dùng đến 2000 người và 4 tuần-dương-hạm, mà chỉ cần phái một
tuần-dương-hạm cùng vài pháo-hạm và một đại đội thủy quân lục chiến tới
cửa sông Hồng Hà là đủ làm xứ Bắc-kỳ trở thành một thuộc địa Pháp (J.
Dupis, Le Tonkin de 1872 à 1886, Histoire et Politique. Paris, 1910, p.
125. Dẫn theo Nguyễn Thế Anh, SĐD, tr. 81). N.T.Tộ, một người yêu nước,
cao kiến, sáng kiến lớn là thế đấy!
Trên đây là vài phân tích để thấy cái hậu ý và âm mưu Đánh úp
Gia-địnhcủa N.T.Tộ! Nếu nhìn kế sách nầy dưới khía cạnh tình báo, gián
điệp và phản gián, chúng ta sẽ biết thêm một số dụng tâm khác của N.T.Tộ
lúc đề nghị phải hai năm nữa mới đánh chứ không phải bây giờ. Mời độc
giả đọc mục số 9 kế tiếp, để hiểu rõ thêm cái dụng tâm của ông.
9. Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh: viết ngày 1. 2. 1871, và Kế hoạch đánh
úp Gia-định viết ngày 9. 2. 1871. Hai bài nầy viết cách nhau 8 ngày, mâu
thuẫn với nhau và cũng được viết theo kiểu nước rút. Tại sao vậy ? Vì
tình hình chính trị và quân sự của Pháp quá nguy khốn như sử liệu dẫn
trên cho thấy. Tại chính quốc, Pháp bị tang gia bối rối vì thua Phổ.
Triều đình Napoleon III bị giải tán, chính phủ mới chưa thành lập, một
quốc gia vô chủ. Đó chính là thời điểm nghìn năm một thuở để đuổi thực
dân Pháp ra khỏi đất nước bằng võ lực, nhưng triều-đình vua Tự-Đức lại
quá ngây thơ không chịu đánh. Dẫu vậy, quân đội Pháp tại Nam kỳ dĩ nhiên
là thấp thỏm đứng ngồi không yên vì run sợ một trận đánh úp của quân đội
Việt-nam có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Do đó, ông Tộ hẳn được lệnh quan
thầy phải gấp rút viết các bài chiêu dụ, để kẻ thù của Pháp xử dụng con
đường ngoại giao thay vì quân sự. Trong đó có việc cử phái đoàn đi Pháp,
đi Anh và Y pha-nho để vận động xin lại phần lãnh thổ bị chiếm, chứ
không dùng võ trang. Đó là kế đẩy đối phương (Việt-nam) về hướng khác,
hướng ngoại-giao.
Tuy vậy, khuyên theo kế sách ngoại giao trông lộ liễu và phi lý quá
đáng! Hơn nữa, để cầm chắc triều đình Việt Nam theo con đường đi xin chứ
không dùng võ lực, nên 8 ngày sau, ông Tộ lại viết bài chiêu dụ Kế hoạch
đánh úp Gia-định nhằm mục đích nhận diện xem ai xuất hiện đề nghị đánh,
thì Pháp sẽ tiêu diệt ngay từ đầu. Và nhóm nào muốn đánh nhưng không thể
bắt hoặc cản ngăn được thì dùng kế hoản binh, khuyên không nên đánh bây
giờ mà phải hai năm sau, như đã phân tích ở mục số 8 nói trên !
Nói gọn, thời vua Tự-Đức có hai cơ hội tốt nhất để đuổi thực dân Pháp ra
khỏi bờ cõi. Cơ hội một là từ 1858 đến 1863. Nếu toàn dân và triều đình
một lòng quyết chiến chứ không hòa thì Pháp đã rút khỏi Việt-nam như đã
chứng minh ở phần trước. Nhưng ông Tộ khuyên nên cho lính nghỉ ngơi, hợp
tác và để Pháp giữ bờ cõi cho mình! Cơ hội hai là từ tháng 9 năm 1870
đến nửa năm 1871, Pháp thua Phổ, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
Pháp bị rối loạn. Đó là một cơ may hiếm có, nếu đánh thì tất thắng,
nhưng ông Tộ khuyên nên theo đường lối ngoại giao. Tuy vậy, vẫn sợ quân
đội Việt-nam có thể đánh, nên ông cũng bày ra chuyện đánh, nhưng không
đánh bây giờ, mà phải hai năm sau.
Nói rõ hơn, mặc dầu Hoàng sử gia hồ hởi ca ngợi, nhưng thực sự 7 bài
viết của ông Tộ từ tháng 2 đến tháng 5, 1871, chỉ xoáy vào một trọng
điểm mang tính sinh tử cho số phận, chiến lược và chính sách thuộc địa
của Pháp làø tránh, đừng để Việt-nam xử dụng vũ lực đối với quân Pháp
tại Nam-kỳ. Và nếu để ý thêm, chúng ta sẽ thấy rằng hầu hết 58 bài chiêu
dụ của ông N.T.Tộ cũng chỉ nhắm vào hai điểm then chốt. Một, bằng mọi
cách, phải kêu gọi hòa và hợp tác chứ đừng bao giờ để quân dân Việt-nam
xử dụng võ lực đối với thực dân Pháp. Hai, xử dụng tất cả các thủ đoạn
chính trị lươn lẹo để đưa các ông giám mục linh mục lọt vào hầu hết các
cơ quan công quyền nhằm Công-giáo hóa rồi Pháp hóa dân tộc ta. Để che
đậy các âm mưu ấy, ông Tộ phải giả vờ nguyền rủa Pháp, phải xử dụng
những danh từ hoa mỹ, phải bày ra chương trình nầy, kế hoạch nọ để đánh
lạc hướng và đẩy triều đình theo con đường mà thực dân Pháp và Vatican
mong muốn.
Cũng thế, hành động của ông Tộ giống như ông Huỳnh văn Trọng, một điệp
viên tình báo cao cấp của miền Bắc, được gài vào chức cố vấn cho cựu
Tổng-thống Nguyễn văn Thiệu trước năm 1975 tại Sai-gòn. Ông Trọng phải
giả bộ nguyền rủa Bác và Đảng, phải chê bai các nước Cọng-sản thậm tệ,
phải năng nổ bày ra kế hoạch nầy chính sách nọ v.v., mới có thể che được
mắt cơ quan tình báo của Mỹ và Việt Nam Cọng Hòa, để hoàn thành nhiệm vụ
mà đảng và nhà nước đã tin tưởng giao phó.
Dưới đây, tôi sẽ phân tích một bài chiêu dụ khác của ông Tộ để thấy rõ
thêm rằng, cứ mỗi bài viết, ông đều hoàn toàn tùy thuộc vào tình hình và
quyền lợi của thực dân Pháp và của Vatican.
10. Nguyễn Trường Tộ chỉ nhắc tên các giáo sĩ: Cùng thời với ông có
những tấm lòng muốn canh tân đất nước như: Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện,
Phan Thanh Giản... và các sĩ phu yêu nước như : Trương Công Định, Thủ
Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Thanh, Quản Lịch...N.T.Tộ được gán cho
hai chữ canh tân và yêu nước, nhưng đọc tất cả 58 bản điều trần, chúng
ta không thấy có chỗ nào ông Tộ nhắc đến tên vài người Việt nam yêu
nước, hoặc nêu tên một vài sĩ phu nói trên để dùng vào việc canh tân,
vào việc đánh úp mà chỉ thấy ông lặp đi lặp lại nhiều lần tên
giáo-hoàng, các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt-gian. Tại sao vậy?
Chúng ta nên nghe cuộc đối thoại giữa ông Toàn Quyền de Lanessan và Giám
Mục Puginier như sau:
De Lanessan: Theo ông thì nước Pháp nên đối xử với tầng lớp sĩ phu như
thế nào?
Puginier: Phải thủ tiêu họ đi.
De Lanessan: Tại sao?
Puginier: Vì các sĩ phu có một ảnh hưởng rất lớn, một uy tín rất lớn; họ
được kính trọng mỗi khi họ ra làm quan, cho nên cần thiết phải thủ tiêu
họ đi. Chừng nào tầng lớp sĩ phu còn, thì chúng ta còn phải lo sợ tất
cả, bởi vì với lòng yêu nước nồng nàn, họ không thể nào chấp nhận nền đô
hộ của chúng ta. Còn một điều nữa là chẳng ai trong họ chịu theo đạo
Công-giáo cả. (Nguyễn Xuân Thọ, SĐD, tr. 436-437).
Chúng ta nhớ rằng, Gauthier (thầy của ôngTộ) là thuộc hạ của Puginier
tại Việt-nam vào giai đoạn ấy. Đó là lý do để giải thích tại sao Tộ
không bao giờ nhắc đến tên một sĩ phu nào ngoại trừ các giáo sĩ thực dân
và giáo sĩ Việt-gian.
Đầy dẫy những mâu thuẫn và sai lầm trong 58 bài chiêu dụ của ông Tộ,
trong sách Nguyễn Trường Tộ con người và di-thảo của Lm. Trương Bá Cần
cũng như trong cuốn Nguyễn Trường Tộ thời thế & tư duy cách tân của H.
T. Đạm. Nhưng, bài nầy chỉ liệt kê 10 trường hợp tiêu biểu nhân lúc viết
về một chương sách mà Hoàng sử gia đề cập đến cuốn sách của chúng tôi.
IV. KẾT LUẬN
Như tôi đã viết trong bài trước đây, đọc hết 58 bản chiêu dụ của
Nguyễn Trường Tộ, một vài chỗ ông tỏ ra thành khẩn, có lòng yêu nước và
vài đề nghị hợp lý như cải cách phong tục, chỉ huy đào Thiết Cảng. Về
kiến thức, so với những thanh niên Việt Nam khác lúc bấy giờ vào tuổi
khoảng 35, thì Nguyễn Trường Tộ là người xuất sắc nhờ chu du nhiều nước.
Nhưng về những đề nghị gọi là cải cách của Nguyễn Trường Tộ, thì dưới
đây là một bức tranh khá chính xác về ông ta:
1. Ý thức hệ chủ đạo: ông Tộ phán: Tạo vật đã định như vậy, sao cưỡng
được.
2. Lúc đất nước lâm nguy: tình trạng quân Pháp suy thoái nguy hiểm muốn
rút về, ông khuyên triều đình cho lính nghỉ ngơi.
3. Về thế quốc tế: thương hiếu với giáo hoàng La Mã, như gởi con cho
cọp.
4. Cố vấn: ông Giám-mục tình báo Gauthier có thể giúp.
5. Trường kỹ thuật: được điều hành bởi 3 ông linh mục không có khả năng,
còn ông Ca Xanh đòi lương quá cao và nhiều điều kiện không thể dùng.
6. Nhà giữ trẻ, viện mồ côi: các giám mục tình báo sẽ cử người coi sóc.
7. Canh tân đất nước: có 4 ông linh mục Việt gian phụ trách: Nguyễn
Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Nguyễn Lâu* (Tất cả những chữ nghiêng
và trong ngoặc kép là của N.T.Tộ và của Lm. Trương Bá Cần ) .
Như thế, từ tư tưởng chủ đạo, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ
sở, từ ông có thế lực đến gả cố vấn, nhân viên thừa hành đều do ngoại
bang, gián điệp và các tên giáo sĩ Việt gian điều khiển hết !
Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng Nguyễn Trường Tộ cũng như
Giám-mục Gauthier là hai tên tình báo song hành, đồng tác giả của 58 bản
chiêu dụ, trong đó, ý của Gauthier nhưng lời là của N.T.Tộ. Xuyên qua
Gauthier, Pháp và Vatican muốn ông Tộ phải viết như thế nào, lộng giả
thành chơn và ngụy trang như thế nào, để có thể dụ được triều đình Việt
Nam lọt vào các bẫy sập của chúng. Vì thế, nên chúng ta không lấy làm lạ
tại sao những ý kiến trong các bài khuyến dụ của ông vừa trái ngược với
tình hình, lại vừa mâu thuẫn với nhau, bủa một mạng lưới Công Giáo toàn
cõi Việt Nam .
Công Giáo toàn cõi Việt Nam thì sao? Có gì sai trái mà hai ông Bùi Kha
và Trần Chung Ngọcdị ứng? Sợ bị hiểu lầm có tư tưởng Bình Tây Sát Tả,
nên chúng tôi mượn ý kiến và nhận xét của những người Pháp có thẩm quyền
để trả lời câu hỏi ấy một cách chính xác như sau:
Giám Mục Puginier: Lúc nào Bắc-kỳ trở thành Công Giáo thì nó cũng trở
thành một nước một Pháp nhỏ và Không có các giáo sĩ và giáo dân thì
người Pháp như cua bị bẻ gãy hết càng.
Đô Đốc Page: Không có một người Công Giáo An Nam nào lại không muốn làm
lính dưới cờ Pháp.
Công Sứ Bonnal: Khi một ông giáo sĩ lập được một họ đạo thì giáo dân từ
chối không đóng thuế, ...không thừa nhận chính quyền.
Đô Đốc Paul Bert: Nếu tất cả dân An Nam đều Công-giáo, thì chúng ta sẽ
lãnh đạo họ một cách dễ dàng theo ý muốn của chúng ta.
Nguyễn Trường Tộ, một người yêu nước nồng nàn, một nhà canh tân lớn, một
kiến thức vượt thời đại đã hăm hở nhưng lại thập thò núp sau màn sa mù
canh tân để đưa dân tộc ta vào kế hoạch mà 4 ông thực dân, gồm đô đốc,
công sứ và giám-mục đã cho thấy như trên !
V. CÔNG VÀ TỘI
Nếu lọc lựa ý tưởng của Nguyễn Trường Tộ trong 58 bài chiêu dụ rồi ghép
lại có thứ lớp thì một số đề nghị của ông có giá trị và dùng được, nhất
là thời bấy giờ. Rất tiếc, vì đường lối giáo dục của Vatican đã biến N.
T. Tộ thành một người phục vụ cho Pháp và La-Mã, nhưng được núp sau bức
màn canh tân và những mỹ từ :Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh, chỉnh
trang quốc phòng, kỹ thuật, thực dụng, đánh úp.... Vì thế, nhiều người
bị cuốn hút bởi những mỹ từ trống rỗng và lừa dối ấy. Một số khác ca
tụng vì tình cảm tôn giáo và óc địa phương, hoặc nhặt vài khúc gỗ quí
trong rừng rồi nghĩ cả cánh rừng đều chứa đầy gỗ quí. Nhưng không có cái
gì có thể che đậy lâu dài dưới ánh sáng mặt trời.
Thật ra, chúng ta có thể biết tâm chất của N.T.Tộ lúc thấy ông cùng với
Giám-mục tình báo Gauthier đến cửa Mành-sơn ngày 16.10.1858 để hỗ trợ
đồng bọn. Ở đó, đã có Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà
Nẵng, đứng đầu là Giám-mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân
Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Với hành động ấy, chúng ta
kết luận như thế nào về N. T. Tộ, ông là một người yêu nước hay một tên
đại Việt gian?
Nhưng để được công bằng hơn, chúng tôi đề nghị công và tội của ông như
sau:
* Công :
1. Chỉ huy đào Thiết cảng,
2. Làm được hai cái nhà thờ mặc dầu thời bấây giờ là chỗ để cho các giáo
sĩ gián điệp và Việt-gian cư trú,
3. Có vài tư tưởng tiến bộ, có thể xử dụng được, ở rải rác trong một số
bài như Cải cách phong tục, Thư gởi Tây-soái, Về việc chỉnh đốn quân đội
và quốc phòng, v.v.
* Tội :
1. Ngày 16..10.1858 cùng với các linh mục, giám mục Việt và ngoại quốc
làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm,
2. Năm 1861làm thư ký và thông dịchcho Tổng hành dinh của quân thực dân
Pháp để mở rộng vùng chiếm đóng tại Sài-gòn,
3. Vai kề vai lòng cạnh lòng với tên tình báo Gauthier hơn 10 năm, cùng
với tên nầy, thập thò núp bóng sau bức màn canh tân và cùng nhau viết 58
bài chiêu dụ để lừa dối nhân dân và phỉnh gạt triều đình nhằm phục vụ
cho ước vọng của Pháp và Vatican,
4. Cố tình nhận định tình hình sai lạc để cứu vãn cảnh lâm nguy của quân
đội Pháp từ 1858,
5. Dối trá trong việc mở trường kỹ thuật ở Huế,
6. Âm mưu đề nghị đào kênh từ Hải-dương vào Huế để toàn dân nổi loạn,
7. Đề nghị thương hiếu với giáo-hoàng để thúc đẩy tiến trình Công-giáo
hóa Việt Nam.
8. Đề nghị dùng các linh mục Việt gian vào việc canh tân đất nước, và mở
mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ và viện dưỡng lão do các giám mục thực dân cử
người coi sóc. Lúc các ông linh mục và giám mục có mặt khắp nơi, họ sẽ
biến những người Việt hiền hòa thành những kẻ ly khai với tổ quốc, rồi
hô hào một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt-nam,
9. Năm 1868, ngăn cản triều đình cử phái bộ đi Pháp khiếu nại để lấy lại
3 tỉnh miền tây Nam-kỳ,
10. Thay vì phải đánh gấp để đuổi giặc về nước vào những tháng cuối năm
1870 và đầu năm 1871. Vì sợ Pháp bại trận, nên N. T. Tộ khuyên phải dùng
con đường ngoại giao, thay vì vũ lực. Và nếu xử dụng vũ lực, thì không
nên thực hiện ngay mà phải hai năm sau.
Ba tội 1, 2 và 3 thuộc về đại hình, bảy tội sau thuộc về khinh tội.
Những tội danh tóm lược như trên, cũng là nguyên nhân để giải thích lý
do tại sao N. T. Tộ phải trốn ra nước ngoài và bị triều đình nghi ngờ.
Chứ chẳng có gì gọi là Điều nghịch lý như Hoàng sử-gia hiểu sai. Và
chính ông Tộ, có lẽ, cũng đã cảm thấy những việc làm bán nước hại dân
của mình nên đã trăn trở ân hận trước lúc chết: Nhất thất túc thành
thiên cổ hận! (Một lần lỡ bước, hối hận ngàn năm).
Mặc dầu bản tính của người Việt luôn luôn biết cảm thông và tha thứ cho
những người đã biết ăn năn hối hận những việc làm sai quấy của mình.
Nhưng để răn đe hậu thế, nên những con đường hay trường học mang tên N.
T. Tộ để vinh danh ông cần phải tháo gỡ để khỏi nhục quốc thể và để làm
gương cho kẻ khác. Trên bia mộ cũng cần liệt kê công và tội của ông để
lịch sử được phân minh. Viện Sử Học Việt Nam và Bộ Văn Hóa nên cử một
ban nghiên cứu công và tội của một số người được vinh danh trước đây,
trong đó có ông Nguyễn Trường Tộ, rồi công bố cho quốc dân biết. Còn ý
kiến của chúng tôi dĩ nhiên không tránh khỏi khiếm khuyết cần được các
bậc cao minh chỉ giáo.
Bùi Kha
22. 2. 2002
VI. VÀI LỜI VỚI CỤ HOÀNG THANH ĐẠM
Lúc viết bài thảo luận với cụ về ông N.T.Tộ, tôi chỉ đọc 24 trang cụ
phê bình cuốn sách của chúng tôi. Và nghĩ rằng, vì thiếu sử liệu nên cụ
đã không thấy bộ mặt thực núp sau bức màn canh tân của ông Tộ, nên cụ
mới phạm quá nhiều lầm lẫn về sử kiện, và để lại không ít những luận
điểm sai và mâu thuẫn với nhau trong chương phê bình sách của chúng tôi.
Nhưng lúc viết xong, tôi đã đọc hết cả cuốn sách. Tôi rất đổi ngạc nhiên
và thành thật để thưa rằng, cụ chẳng phải là nhà nghiên cứu sử học hoặc
sử gia, ít nhất là về N.T.Tộ. Tôi tìm thấy nơi cụ đã có một định kiến và
cái khuôn đúc sẵn về ông Tộ, nên lối lập luận của cụ chỉ dựa vào cách
suy diễn mang đầy cá tính và tùy tiện, thay vì khách quan và căn cứ vào
sử liệu để phân tích, tổng hợp và kiểm chứng để truy tìm sự thật. Nói rõ
hơn, sách cụ không phải là một tác phẩm nghiên cứu, mà chủ yếu là sắp
xếp Linh-mục Trương Bá Cần... nói thế nầy, ông Tộ nói thế kia chứ không
cần biết nói như vậy là hàm ý gì? Nói như kia đâu là bằng cớ? Cũng như
hoàn cảnh và môi trường nào thúc đẩy ông ta nói như thế?
Trong Danh mục sách và tư liệu tham khảo, cụ liệt kê một số sách mà tôi
có đọc như : Cuốn Sổ Bình Sanh của Trương Vĩnh Ký của Nguyễn Sinh Duy,
Hành Trình và Truyền Giáo của A. de Rhodes, Biên Niên sử Việt-nam
1858-1896 của Dương Kính Quốc, Việt Nam Dưới Thời Pháp Đô Hộ của Nguyễn
Thế Anh, Kinh Thánh Tân Ướùc, v.v..
Đọc sách cụ, và đối chiếu số sách dùng để tham khảo, tôi thấy cụ chẳng
để tâm đọc những cuốn sách nầy một cách nghiêm chỉnh, và cách trình bày
lại thiếu phương pháp luận và sai lầm. Đặc biệt là trong danh mục tham
khảo có liệt kê hai cuốn sách của hai giáo sư Dương Kính Quốc và Nguyễn
thế Anh, cụ chẳng đọc để thấy sự dối trá của ông Tộ. Trái lại, cũng qua
hai cuốn đó, tôi được biết thêm cái hậu ý của N.T.Tộ về việc khuyên
triều-đình trong bài chiêu du ïBải bỏ việc cử phái bộ đi Pháp, bài Kế
hoạch thu hồi sáu tỉnh và bài Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia-địnhv.v. như
đã trình bày phần trước.
Trong bài viết từ trang 95-98 (NTT, GĐ, SĐD), tôi đã chứng minh rõ: ông
Nguyễn Trường Tộ lấy ý trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp về Việc sửa đổi võ
bị. Trang 118 cụ viết:Khi N.T.Tộ bàn về kế sách quân sự thì Ng. Kha đối
chiếu các câu văn trong Tôn Ngô binh pháp và phê phán Hầu như N.T.Tộ lấy
ý trong sách nầy, đã vậy ý của N.T.Tộ còn kém xa. Điều đó có nghĩa là cụ
đã biết ông Tộ ăn cắp ý của người khác. Thế nhưng, trong sách từ trang
209-212 (NTT, Thời Thế & Tư Duy Cách Tân) nhằm ca tụng ông Tộ cho bằng
được, nên cụ không cần để ý đến điều nầy nữa. Trái lại, cụ viết, ông
(Tộ) đặt vấn đề một cách độc đáo, rồi liệt kê 6 điều độc đáo để ca ngợi
ông ta, mà thực ra 6 điều đó là của ông Tôn Tử trong cuốn Tôn Ngô Binh
Pháp. Cách viết như vậy, thật là vô trách nhiệm. Độc giả đều cảm thông
những người nhầm lẫn hoặc thiếu sử liệu, nhưng có lẽ không ai chấp nhận
kẻ cố tình lấy văn và ý của người nầy gán cho người kia!
Ngay cả lúc cụ tóm lược ý kiến của Chủ-tịch Hồ Chí Minh (SĐD, tr. 56)
nhận xét về ông N.T.Tộ, được trích ý từ cuốn hồi ký của cụ Vũ Đình Huỳnh
do nhà văn Sơn Tùng sưu tầm (cụ cho biết như thế), cụ đã không nhận ra
quan điểm của một chính khách và chính sách của nhà nước, khác với lối
nhìn dựa vào lịch sử của một nhà nghiên cứu. Đó là chưa nói đến xuất xứ
và bối cảnh lúc phát biểu của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về N.T.Tộ, và ngay cả
việc Linh Mục Lê Hữu Từ (người chủ trương khu Công-giáo Tự Trị thân
Pháp) mà cũng còn được mời làm cố vấn. Nếu có ai ngây thơ tưởng rằng Chủ
Tịch Hồ Chí Minh cũng đồng ý khu vực tự trị thân Pháp, nên mới mời linh
mục nầy làm cố vấn cho mình, thì người đó nên trở lại trường tiểu học!
Ngoài ra, cụ cũng không cho độc giả biết tên cuốn hồi ký, số trang trích
dẫn và năm xuất bản . Đã vậy, trong Lời Bạt, giáo sư Chương Thâu lại để
trong ngoặc kép và in chữ nghiêng đọan văn mà cụ tóm lược từ cuốn hồi ký
không tên không tuổi nói trên. Như thế, cụ được giáo sư Chương Thâu phụ
họa để biến một ý kiến chưa chắc đúng và có thật, thành một sử liệu
nguyên bản có nguồn gốc ! và ông còn cho đó là mộttư liệu lịch sử ( SĐD,
tr. 250).
Tôi thấy cách viết như thế là một lối đánh lừa độc giả, ngụy tạo sử
liệu, làm mất uy tín giới cầm bút. Và làm giảm giá trị nền học thuật
nước nhà sau bao năm gian khổ chống ngoại xâm để dành lại độc lập và chủ
quyền.
Ở đây, tôi chỉ phát biểu cảm tưởng và dẫn chứng vài điểm trong vô số sai
lầm trong tác phẩm viết cẩu thả và vô trách nhiệm của cụ. Một tác phẩm
viết về sử, nhưng không căn cứ vào sử liệu, một tác phẩm vơ vét và lượm
lặt những cái vụn vặt mà ông Tộ nói, chứ không cần tìm hiểu điều mà ông
ta muốn nói. Tôi rất tiếc và xin lỗi, vì đã phát biểu những điều không
vui cho cụ, mà đáng ra cụ cần có nhiều niềm vui trong những năm tháng
còn lại của cuộc đời, nhất là niềm vui về đứa con tinh thần của cụ sau
hơn 20 năm miệt mài nghiên cứu.
Dẫu vậy, tôi vẫn vô cùng biết ơn, vì nhờ bài phê bình của cụ mà chúng
tôi có dịp biết rõ hơn và chính xác hơn về ông N.T.Tộ, một người được
nhầm lẫn vinh danh do vô tình hoặc cố ý qua nhiều thế hệ!
Về giáo sư Chương Thâu, tôi cũng đã có lần góp ý về bài viết quá sai lầm
và hầu như cố ý của ông, trong âm mưu chính trị của Linh-mục Alexandre
de Rhodes và nguồn gốc chữ quốc ngữ. Bài viết đó có tựa đề, Từ Một Câu
chữ Của Alexandre de Rhodes Đến Các Dẫn Dụng Khác Nhau, Hà Nội 14. 12.
1995, đăng trong Nguyệt San Công Giáo tại Việt Nam và tờ Hiệp Nhất của
Giáo phận Orange, California, USA .
Bùi Kha
22.2.2002
Trung Tá Hải Quân Pháp, Rigault de Genouilly:
chỉ huy quân Pháp đánh Đà Nẵng ngày 1.9.1858
* Các hình được in trong các trang 178, 192, 264 lấy trong cuốn Việt
Sử Tân Biên của Phạm Văn Sơn, Sài Gòn 1961.