Chúng ta sẽ phân tích thêm một số bản Điều Trần
quan trọng khác của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề tôn giáo, để thấy rõ thêm
bản chất. Nhà Canh Tân Vĩ Đại Của Dân Tộc như thế nào?
Thế kỷ 19, vấn đề truyền đạo luôn luôn song hành
với phong trào đi chiếm thuộc địa. Nhiều lúc truyền giáo là một cái cớ
và tự do tôn giáo là một khí cụ lợi hại cho chủ nghĩa thực dân. Ông
Nguyễn Trường Tộ hay tự khoe là người thông thái nhưng ông đã không biết
hay cố tình làm hại cho đất nước ông qua một bản điều trần về tôn giáo
mà chúng ta sẽ thấy sau đây.
Chương 1
TỰ DO TÔN GIÁO
Qua bản di thảo số 2 , chúng ta sẽ thấy những nhận
xét sai lầm của NTT về tôn giáo.
Trong phần đầu của bài viết nầy tôi đã cố tránh vấn
đề Gia Tô giáo. Vì không phải mục đích của bài viết nầy là để bàn về cái
đó. Nhưng xét thấy, lúc Bàn Về Tự Do Tôn Giáo (Giáo Môn Luận) và các
bản Điều Trần có tính tôn giáo cũng là những bài quan trọng của Nguyễn
Trường Tộ, nên tôi phải thảo luận thêm vài điểm chính của Gia Tô giáo.
Để từ đó, chúng ta sẽ thấy cái oái oăm đau thương của vận mạng dân tộc,
đồng thời cũng để thấy được cái đúng cái sai của tư tưởng Nguyễn Trường
Tộ về vấn đề tôn giáo nói chung.
Sơ Lược Về Thuyết Thượng Đế, Thánh Kinh Và Hành
Động Của Gia Tô Giáo.
Ki Tô giáo (gồm cả đạo Gia Tô La Mã và Tin Lành)
khởi đi từ ý niệm tin rằng Thượng đế sinh ra vạn vật, và tổ tông của
loài người là ông Adam và bà Eva. Hai người nầy bị rắn dụ dỗ ăn trái táo
Thượng đế cấm vì thế mà mang tội, con cháu của hai ông bà về sau, tức là
cả nhân loại, bị tội tổ tông từ ông Adam và bà Eva mà ra. Do đó, mới có
thuyết Chúa Ki Tô giáng trần để chuộc tội cho nhân loại.
Câu chuyện về Thượng Đế (God) được trình bày rõ
ràng tỉ mỉ trong cuốn sách có tựa đề "How The Great Religions Began
(Các Tôn Giáo Lớn Được Bắt Đầu Như Thế Nào), tác giả là giáo sư Joseph
Gear, dạy khoa Tôn Giáo Đối Chiếu (Comparative Religions).
Giáo sư Gear khám phá ra rằng cách đây trên 4000
(bốn ngàn năm) tại tỉnh UR, địa phận Chaldae, nằm giữa sông Euphrates và
Tigris vùng Trung Đông (Do Thái, Ai Cập...) có ông thợ làm đồ gốm (đất
sét) tên Terah. Ông nặn tượng đủ các loại thần như thần cây, thần sông,
thần núi, thần lửa (giống như thần bình vôi ông táo ở VN). Thiên hạ
trong vùng mua về thờ. Họ tin rằng các vị thần nầy sẽ phù hộ cho họ
trong cuộc sống.
Một hôm ông Terah sai đứa con lớn tên là Abraham
vào dọn dẹp xưởng nặn tượng. Abraham đập bể tất cả các tượng đã nắn xong
sẵn sàng để bán. Sáng hôm sau ông bố vào xưởng thấy tượng bể ngổn ngang
thành những mảnh đất sét vụn. Bị bố vặn hỏi lý do, người con trả lời
rằng các ông thần nầy cãi lộn, đánh nhau vỡ tan tành chỉ còn một ông
sống sót đang cầm cái búa trong tay. Dĩ nhiên là bố không tin lời giải
thích hoang đường ấy, cuối cùng người con thú nhận đã đập vỡ các pho
tượng.
Vì sợ dân trong vùng biết chuyện tượng thần mà họ
hằng tin tưởng nay bị đập vỡ, nên bốn bố con ông Terah dời nhà về vùng
Canaan tức là nước Palestine bây giờ. Abraham còn có tên là Ibri
(Hebrews tiếng cổ của Do Thái). Ông lập nghiệp tại đây và sinh được một
người con tên là Isaac.
Issac sinh Jacob. Jacob có tên là Israel, con cháu
của Israel gọi là Israelites. Dòng họ nầy sinh nhiều tạo thành một bộ
lạc, sống nghề chăn chiên. Con thứ 11 của Jacob (Israel) là Joseph đã
dẫn cả bộ lạc của mình qua Ai Cập để sống vì nạn đói tại địa phương.
Dân Ai Cập rất ghét dân Israel vì người Ai Cập thờ
đủ loại thần như thần chó, mèo, trâu, bò, cá sấu... mà dân Israel thì
không. Vua Ai Cập bắt dân Israel làm nô lệ để họ phải thờ thần như người
chủ của họ, nhưng họ vẫn hờ hững. Vua Ai cập ghét, ra lệnh giết tất cả
các trẻ sơ sinh của dân Israel bằng cách nhận xuống nước.
Có một em bé tên Moses (Môi Se), bị thả trôi sông
trên một cái giỏ. Công chúa vua Ai Cập tắm sông, vớt được đem về nuôi.
Lúc lớn lên Moses thấy người Ai Cập hành hạ người nô lệ Israelites (cũng
gọi là Hebrews) Moses bèn giết người lính Ai Cập rồi ít lâu sau ông dẫn
cả đoàn người Hebrews ra khỏi căn nhà nô lệ. Moses cùng em là Aaron tới
gặp Vua Ai Cập và nói rằng Thượng Đế sai tôi tới đây để đòi cho dân
Hebrews được tự do. Vua Ai Cập (Pharaoh) mở sách có liệt kê Thượng Đế
của dân các bộ lạc Edom, Moab v.v... nhưng không thấy tên Thượng Đế của
Moses đâu cả, nên không trả tự do cho dân Hebrews, Moses đưa cho Pharaoh
xem cây gậy thần có chữ D viết tắt chữ Daan có nghĩa là máu. Moses nói
sẽ làm cho dân Ai Cập đổ máu và sẽ giết tất cả những ai là con sinh đầu
lòng. Vua Pharaoh sợ vì ông là con đầu lòng. Câu chuyện thần thoại cho
rằng, Moses có tài biến hóa, tạo ra ếch nhái xuất hiện khắp xứ Ai Cập và
nhiều phép lạ khác. Vì thế Pharaoh cho Moses dẫn đoàn người Do Thái
(Israelites) ra khỏi ngục tù nô lệ và về trú tại Vùng Đất Hứa (Promised
Land, hay vùng Canaan) tức là xứ Palestine bây giờ.
Đoàn người Do Thái nầy tin rằng Vùng Đất Hứa là đất
mà Thượng Đế dành cho một giống dân được Thượng Đế chọn lựa (Chosen
People).
Trước lúc tới Vùng Đất Hứa, Moses dẫn đoàn người
qua núi Sinai, ông để họ nghỉ tại chân núi, còn ông lên trên đỉnh núi.
Sau 40 ngày ông xuống và cầm theo một tấm đá có khắc 10 điều răn (Ten
Commandments) và nói là của Thần (God). Hai trong 10 điều giáo lệnh đó
là cấm dân Hebrews không được thờ bất cứ một loại thần nào ngoại trừ
thần Jehovah cũng gọi là Yahweh và cấm không được giết người. Nhưng
chính Moses giết người lính Ai Cập và giết những người thờ bò vàng
(Golden calfs) dưới chân núi.
Từ hơn 3000 năm nay tín đồ Do Thái làm lễ Vượt Qua
(Passover) vào ngày thứ Bảy, để tưởng nhớ ngày Moses dẫn họ vượt ra khỏi
Ai Cập sau hơn 400 năm làm nô lệ.
Đó là tóm lược sự tích về thần hay cũng gọi là
Thượng Đế (God) trong cuốn sách kể trên (tóm lược và dẫn theo Hoàng Hà
Thanh trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại. Văn hóa
California xuất bản, Hoa Kỳ 1996, trang 15-19).
Chữ God (tiếng Anh) dịch đúng nghĩa là thần. Do đó,
mới có môn Thần học (Theology). Nhưng để tăng vẻ quan trọng và thần
thánh hóa, người Gia Tô Việt Nam dịch là Thượng Đế cũng còn được gọi là
Chúa trời (Lord).
Đoạn tóm lược về sự tích Thượng Đế nêu trên cho
chúng ta biết sự xuất xứ gốc tích của Thượng Đế qua nhiều thế hệ để phát
triển bộ lạc, để giữ đất, người ta đã phủ lên danh từ God, một màu sắc
thần bí và gán cho nó một nhiệm vụ là tạo ra trời đất muôn loài. Nhất là
thời hoàng đế Constantine thế kỷ thứ tư. Theo ông Geoffrey Post báo
Register, chủ nhật 25, 9-1988, Cali, Hoa Kỳ. Hoàng đế Constantine đã đốt
tất cả kinh sách của Ki Tô giáo, và thuê người viết lại theo quan điểm
và chính sách của thời đại ông, để giữ thuộc địa và bành trướng thế lực.
Qua nhiều lần sửa đổi bởi nhiều người phàm trần
viết, nhưng sợ thiên hạ không tin. Vì thế, lại phủ lên những màu sắc
thần bí khác rồi gọi đó là Thánh Kinh chứ không phải Phàm Kinh.
Bởi vì không đọc Thánh Kinh, không biết sách lược
của thực dân nên Nguyễn Trường Tộ, cuồng tín đi theo họ, rồi đưa ra
những nhận định sai lầm về Thượng Đế (Tạo vật, Chúa trời) như sau:
1.- Không thấy Thượng Đế là Chúa tể cai trị các
nước cũng như vua là chúa tể trị vì một nước đó sao? Các nước khác nhau
rất xa về ngôn ngữ... nhưng Thượng đế cũng lấy một lẽ mà đối chung cả
vạn vật khiến tất cả đều thỏa ý nguyện... có thế mới sáng tỏ cái tài
năng lớn...và cái độ lượng rộng rãi...Vua đảm đang công việc giúp Thượng
Đế không phải là vua có thể biệt lập một trời đất mà một mình cầm quyền
được, chẳng qua chỉ là nhân các dân vật đã được Thượng Đế tạo thành an
bài đó mà thương yêu làm cho an ổn...(Giáo Môn Luận, TBC, sách đã dẫn
trang 116 & 117).
So sánh đoạn văn trên của Nguyễn Trường Tộ với sắc
lệnh của Giáo Hoàng Martin V (1417-1431), sau đây chúng ta thấy có những
ý tứ trùng hợp:
Sắc lệnh phát xuất từ nguyên lý là tất cả đất đai
đều thuộc về Chúa Ki Tô và người đại diện Chúa Ki Tô (tức là Giáo Hoàng,
BK) có quyền xử dụng tất cả các đất đai của người không theo đạo Gia Tô,
những kẻ ngoại đạo không có quyền sở hữu một mảnh đất nào. Nếu những
người phi Gia Tô được cấp phát đất đai thì họ phải theo đạo Gia Tô dù tự
ý hay bị cưỡng bách.
Năm 1493 Giáo Hoàng Alexandre VI cũng ký sắc lệnh
chia thế giới cho Bồ Đào Nha và Tây Ba Nha, và buộc họ phải truyền đạo
để giải thích lý do việc chiếm thuộc địa.
Nguyên văn tiếng Pháp:
La bulle, écrit Henri Martin, partait du principe
que la terre appartient au Christ et que le vicaire du Christ a droit de
disposer de tout ce qui n'est point occupé par des chrétiens, les
infidèles ne pouvant être légitimes possesseurs d'aucune portion de la
terre. Le don des terres détenues par les infidèles entrainait
implicitement l'assujettissement des habitants pour leur plus grand
bien, pour leur conversion volontaire ou forcée à la loi chrétienne”.
Plus tard le Page Alexandre VI, de par la bulle de 1493, partageait le
monde entre le Portugal et l'Espagne en leur imposant l'obligation de
propager la foi du Christ en tant que justification de toute occupation.
La bulle pose formellement comme conditon de toute mise en possession le
devoir de catéchiser tous les indigèles. (Henri Martin, Histoire de
France, Paris, Furme... T. VII p. 293), CHT, SĐD, trang 7).
Đối với tín hữu đạo Gia Tô, thì Giáo Hoàng là người
đại diện duy nhất cho Chúa. Từ đó, chúng ta mới thấy cái thâm ý của
Nguyễn Trường Tộ: -Không thấy Thượng Đế là Chúa tể cai trị các nước... -
mà Giáo Hoàng là đại diện cho Thượng Đế. Vậy Giáo Hoàng có quyền cai trị
các nước! Và - Vua đảm đang công việc giúp Thượng Đế... - mà Giáo Hoàng là
đại diện cho Thượng Đế. Như vậy, vua chỉ là người giúp việc cho Giáo
Hoàng mà thôi! Thế thì Giáo Hoàng có thể cách chức vua bất cứ lúc nào!
Con người "thông thái" như Nguyễn Trường Tộ trình bày có khác!
Đoạn văn trên Nguyễn Trường Tộ cũng rập khuôn theo
mấy cố đạo người Tây để nói rằng Thượng đế độ lượng. Trong Di Thảo Lục
Lợi Từ ở phần trước mục số 5 (tr. 72-73) Nguyễn Trường Tộ cũng nói
rằng Tạo Vật yêu người, Tạo Vật quí trọng sự sống, Tạo Vật nhân ái...
nhưng thực tế đó là một ông thần (God) rất dã man qua đoạn trích trong
Thánh Kinh dưới đây:
Dân Số Ký (Numbers) là một trong năm cuốn Kinh Cựu
Ước của Gia Tô Giáo, Chương 31, đoạn 1 đến đoạn 46 cho ta những chi tiết
như sau:
Đức Chúa Trời bảo ông Môi-Se rằng Hãy báo thù dân
Do Thái, thuộc giống Mi-đi-an rồi người sẽ được về làm dân nước Chúa
(31:1-2). Vì vậy ông Môi-Se truyền cho dân rằng: Các ngươi hãy sắm sửa
binh khí mà ra trận hãm đánh dân Mi-đi-an để báo thù cho đức Chúa Trời
(31:3). Vậy, chúng giao chiến cùng dân Mi-đi-an, như đức Chúa Trời đã
bảo ông Môi-se và giết hết thảy đàn ông (31:7). Dân Y-sơ-ra-ên bắt đàn
bà và con nít Mi-đi-an dẫn theo. Cướp hết thảy súc vật, bầy chiên và của
cải họ (31:9), đốt hết thành, nhà ở, và quê hương chúng nó (31:9) cũng
lấy đem theo hết thảy của đoạt được, bất kỳ người hay vật (31:11). Bây
giờ hãy giết hết thảy các người đàn ông trong đám trẻ con và giết những
người đàn bà nào mất trinh (31:17), nhưng các cô gái còn trinh thì để
lại làm quà cho các giáo sĩ và binh lính (31:18).
Ông Môi-se và E-lê-a-sa, thầy dòng, làm y như lời
đức Chúa Trời dạy bảo (31:31). Tài sản cướp được là 675 ngàn con chiên
cái, 72 ngàn con bò, 61 ngàn con lừa đực (31:34) và 32 ngàn cô gái còn
trinh (31:35). Số 675 ngàn con chiên cái nói trên chia cho các binh lính
50% còn đức Chúa Trời 50% (31:35-36)...16 ngàn cô gái còn trinh chia cho
binh lính, 32 cô dâng cho đức Chúa Trời (31:40). Môi-se và E-lê-a-ra lấy
vật cướp được và cô gái còn trinh bắt được dâng cho đức Chúa Trời, y như
đức Chúa Trời đã phán dặn cùng Môi-se. (31:41).
Chính Chúa Trời chứ không phải ai khác đã trực tiếp
ra lệnh phải cướp của, giết người, cưỡng dâm. Rồi chính "đức" Chúa Trời
cũng đòi thụ hưởng gái trinh nữa! Thế mà Nguyễn Trường Tộ nói Chúa Tạo
Vật, Thượng đế độ lượng, thương yêu, nhân ái...
Sau đây là nguyên văn Anh ngữ để quí độc giả đối
chiếu:
And the Lord spake unto Moses, saying, 2 Avenge the
children of Israel of the Mid'i-an-ites: afterward shalt thou be
gathered unto the people.
3 And Moses spake unto the people, saying, Arm some
of yourselves unto the war, and let them go against the Mid'i-an-ites,
and avenge the Lord of Mid'i-an.
................
7 And they warred against the Midi-an-ites, as the
Lord commanded Moses; and they slew all the males.
................
9 And the children of Israel took all the women of
Mid'i-an captives, and their little ones, and took the spoil of all
their cattle, and all their flocks, and all their good.
10 And they burnt all their cities wherein they
dwelt, and all their goodly castles, with fire.
11 And they took all the spoil, and all the prey,
both of men and of beasts.
..............
17 Now therefore kill every male among the little
ones, and kill every woman that hath known man by lying with him.
18 But all the women children, that have not known
a man by lying with him, keep alive for yourselves.
.................
31 And Moses and E-le-a'zar the priest did as the
Lord commanded Moses.
32 And the booty, being the rest of the prey which
the men of war had caught, was six hundred thousand and seventy thousand
and five thousand sheep.
33 And threescore and twelve thousand beeves.
34 And threescore and one thousand asses.
35 And thirty and two thousand persons in all, of
women that had not known man by lying with him.
36 And the half, which was the portion of them that
went out to was, was in number tree hundred thousand and seven and
thirty thousand and five hundred sheep:
..................
40 And the persons were sixteen thousand; of which
Lord's tribute was thirty and two persons.
41 And Moses gave the tribute, which was the Lord's
heave offering, unto E-le-a'zar the priest, as the Lord commanded Moses.
Chúng ta có thể thông cảm ông Nguyễn Trường Tộ về
thuyết vũ trụ và sinh vật mà khoa học mới khám phá sau nầy. Nhưng ở
thời đại của ông (1830-1871) ít nhất là đã có ba cuốn sách nổi tiếng
viết về vũ trụ, về Thượng Đế và Kinh Thánh, và về sự
tiến hóa của sinh vật. Đó là cuốn Dictionnaire Philosophique (1764) của
Voltaire; cuốn The Age of Reason của Thomas Paine (1737-1809) và cuốn
The Origin of Species (1859) của Darwin.
Nguyễn Trường Tộ tự khoe: Về việc học cái cao của
thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật
lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ không môn nào tôi không khảo cứu
(Di Thảo số 3. TBC, SĐD, trang 120). Nếu việc học quả tình được như vậy,
thì ông Nguyễn Trường Tộ nên đọc Kinh Thánh và đọc ba cuốn sách vừa kể
trên để khỏi bị mấy giáo sĩ Pháp lừa gạt và không nên tin những điều sai
lầm.
Với những lý sự cuồng tín về tôn giáo, hiểu sai vai
trò và sự có thật của tạo vật, của Thượng Đế, Nguyễn Trường Tộ lặp đi
lặp lại nhiều lần trong bài Trần Tình về Giáo Môn Luận nầy và rải rác
hầu hết 58 bài Trần Tình của ông, đã làm cho ông có một cái nhìn sai lầm
về lịch sử và cổ xúy cho việc hợp tác với thực dân Pháp và Vatican mà
tôi đã chứng minh và sẽ chứng minh đó là giải pháp rất tai hại.
Trong Giáo Môn Luận, Nguyễn Trường Tộ viết tiếp:
2.- Xét ra đạo Công Giáo vào nước ta từ thời Lê.
Trước tiên các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp
đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin
theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lão,
Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa
đối đãi nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con
dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh
ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ.
Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào
vòng hình phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục nếu ngừng thì
chốc lát sẽ trong trở lại". Bản Điều Trần số 2 Giáo Môn Luận. ( TBC,
SĐD, trang 116).
Đoạn trên Nguyễn Trường Tộ cho rằng vì lệnh cấm đạo
nên mới sinh ra ghen ghét, kỳ thị, tội lệ, giáo dân bị lưu đày và bị
hình phạt, là những ý tưởng rất sai lầm và chắc chắn nếu ai có lòng yêu
Tổ Quốc thì cũng không thể chịu được các kế hoạch thực dân xâm lược của
các ông cố đạo sau đây:
2.1.- Linh mục Legrand De La Liraye viết:
Theo thần, chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết
quả nghiêm chỉnh tại nước đó. Cần phải chấp nhận chiến tranh như là cách
tốt nhất, phải đánh gấp ở Bắc Kỳ, Huế và Đà Nẵng cùng lúc, nếu được thì
lật đổ chính phủ, bàn chuyện giải phóng cho hai dân tộc thua trận ở
Cochinchine và đặt lên ngôi ở Bắc bộ một kẻ giả danh là con cháu nhà
Lê.
Nguyên văn tiếng Pháp:
La guerre suivant moi est le seul moyen d'arriver
avec ce pays à un résultat serieux. Il faut l'accepter comme ce qu'il y
a de mieux, la faire avec promptitude au Tonkin, à Huế et Tourane à la
fois, renverser s'il y a moyen le gouvernement, parler de l'emancipation
des deux peuples vaincus en Cochinchine et du placement sur les trône
d'un pretendant de la famille des Lê au Tonkin. (CHT, SĐD, trang 72).
2.2.- Giám mục Retort (viết thư cho M. Kleckowski):
Nước Pháp cần phải làm cái gì lớn lao quan trọng
lâu dài, xứng với nó và Hoàng Đế của nó. Nếu nước Pháp chinh phục xứ nầy
(có lẽ việc nầy không khó) và cai trị trực tiếp, người dân Bắc Kỳ sẽ
bằng lòng, nhưng họ thích sống dưới sự bảo hộ và ảnh hưởng của Pháp với
một ông vua riêng. (Đưa ra ảo tưởng để thuyết phục triều đình Pháp,
BK).
Nguyên văn tiếng Pháp:
La pensée de Mgr. Retort était plus nette encore;
Il faut, déclarait-il, que la France fasse quelque chose de grand,
d'important, de durable et digne d'elle et de son Empereur. Si la France
faisait la conquête de ce pays (et cela ne lui serait pas difficile) et
le gouvernait directement, les Tonkinois en seraient assez contents,
mais ils aimeraient mieux être sous la protection et l'influence de la
France avec un roi particulier de leur nation. (Lettre de Mgr. Retord à
M. Kleckowski précitée: Thư giám mục Retord gởi Kleckowsky trong công
văn 12-10-1857 của Đô đốc Rigault de Genouilly. Thư khố quốc gia, tài
sản Hải Quân BB4 752, CHT, SĐD, trang 80).
2.3.- Linh Mục Huc: Nên chiếm cả nước Việt Nam. Ông
trình bày trước Ủy ban Nam Kỳ:
Có một gia đình cho rằng mình thuộc dòng vua chính
thống và có lẽ chúng ta có thể xử dụng nó để lật đổ triều đình hiện
nay... Ngay từ đầu, nên lập chế độ bảo hộ mà giữ nước của vua nầy lại
nghiên cứu tổ chức trong nước giống với tổ chức của chúng ta và cuối
cùng sẽ tuyên bố chúng ta là chủ của xứ đó".
Nguyên văn tiếng Pháp:
Une famille qui prétend être la branche royale
légitime et qu'on pourrait peut-être s'en servir pour renverser la
dynastie actuelle...; il faudrait dès le principe établir le Protectorat
en gardant la personne du Roi, étudier l'organisation du pays qui
ressemble beaucoup à la nôtre et arriver enfin à nous déclarer maitres
du pays. (Réponse du Père Huc, Procès-verbal, 5è séance, commission de
Cochinchine, CHT, SĐD, trang 81, Linh mục Huc trả lời, biên bản phiên
họp thứ 5, Ủy ban Nam Kỳ).
2.4.- Giám mục Pellerin:
Việc lập một hiệp ước có chữ ký của vua, việc có
mặt của một lãnh sự, việc mở các cảng, việc xuất hiện của Hải quân bảo
đảm được trong một thời gian mọi quyền lợi của chúng ta, nhưng một sự
chiếm đóng hay một nền bảo hộ thì tốt hơn nhiều.
Nguyên văn tiếng Pháp:
La conclusion d'un traité signé par le roi, la
présence d'un consul, l'ouverture des ports, l'apparition des forces
navales garantiraient pour un temps tous nos intérêts mais une
occupation ou un protectorat serait de beaucoup préférable. (Géséance,
Commission de Cochinchine, CHT. SĐD, trang 81).
Những trích dẫn trên cho chúng ta thấy từ thời chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, giáo sĩ Dòng Tên A. de
Rhodes đã vận động chính phủ Pháp đánh chiếm Việt Nam. Về sau nầy, trước
lúc Pháp đánh chiếm Đà Nẵng 1858, các Giám mục, Linh mục Pháp như
Pellerin, Legrand, Retort, Huc đã trình bày với triều đình Pháp và với
Ủy Ban Nam Kỳ (Commission de Cochinchine) để chiếm Việt Nam. Vậy
mà nhà "thông thái" Nguyễn Trường Tộ lại nhận định quá sai lầm trong bài
Giáo Môn Luận.
Để cho vấn đề được vô tư, rõ ràng và chính xác hơn,
tại sao triều đình nhà Nguyễn cấm đạo Gia Tô La Mã, tôi xin trích dẫn ý
kiến của Đô đốc Page trong văn thư đề ngày 14-12-1859 và 25-12-1859 sau
đây:
Sau khi đi khắp nước thấy nhiều, nghe nhiều cuối
cùng Đô đốc Page công nhận lý lẽ vững chắc của triều đình Huế, chính ông
cũng bực mình về thái độ của các nhà truyền đạo và con chiên của họ:
Thật vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn
khi quân Pháp kéo đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000
tín đồ Gia Tô đi theo Pháp và xin được đưa vô Saigòn là nơi mà Page đã
dựng lên một thị trấn. Tôi ngạc nhiên biết bao? khi hôm sau các nhà
truyền giáo đến nói với tôi, rằng các con chiên An Nam không tuân theo
một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Sao! Họ cũng không muốn có cảnh
sát để chận đứng trộm cướp du đảng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ
thẹn khi thú nhận với Ngài rằng Giáo Hội Gia Tô tại An Nam đã ngạo nghễ
đi rao giảng các nguyên lý đó: Ngoài ra không người Việt Nam theo Gia Tô
nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không
theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài đã hiểu tại sao
vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?.
Xem thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng,
cũng không thể chịu nổi những hành động của các giáo sĩ chứ trách gì các
vua quan triều Nguyễn.
Nguyên Văn tiếng Pháp:
Après avoir beaucoup parcouru le pays, beacoup
regardé, beaucoup écouté, l'amiral Page finit par reconnaitre le
bienfondé des arguments du gouvernement de Huế, lui même ayant été
choqué par l'attitude des missionnaires et de leurs chrétiens.
En effet, tandis que la population fuyait avec
épouvante à l'approche des troupes francaises et que des milices armées
s'organisaient là où il y avait un centre de population, 3.000
catholiques se rallièrent aux Francais et demandèrent à être ramenés à
Saigon où Page avait crée une municipalité. “Quelle a été ma surprise?
Lorsque le lendemain les missionnaires sont venus me déclarer que les
chrétiens annamites ne pouvaient pas obéir à une autorité payenne, c'est
leur mot. Quoi! Pas même pour la police municipale? Pour empêcher les
voleur, les vagabonds de mettre la ville au pillage? Et je suis confus
d'avouer à Votre Excellence que ces principes sont professés hautement
par les associations annamites catholiques... “Du reste, pas un
Vietnamien catholique n'hésita à demander à s'enriler comme soldat sous
le draupeau francais. Le roi payen du Vietnam n'était point leur roi.
“Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les
mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis?
(Dépêche de l'amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales,
Fonds, Marine BB4 777. CHT, trang 128 & 129).
Tôi dẫn chứng hơi dài dòng về các hành động tình
báo và chính trị mà các linh mục, giám mục ngay cả và các Giáo Hoàng La
Mã, để thấy rõ sự sai lầm và nguy hiểm của Nguyễn Trường Tộ lúc Bàn Về
Tự Do Tôn Giáo, và khuyên triều đình nên "Dùng giám mục linh mục vào
việc canh tân" cũng như bài "Những việc Giám mục Gauthier có thể
giúp".
Dưới đây là sẽ trình bày một bản Điều Trần khác
cũng thuộc về lãnh vực tôn giáo.
Chương 2
DÙNG GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀO VIỆC CANH TÂN,
viết vào tháng 8-1866.
Trong bản Di Thảo số 17 nêu trên, Nguyễn Trường Tộ
lại còn táo bạo hơn lúc đề nghị nên dùng giám mục linh mục vào việc
canh tân, và qua đề nghị nầy, chúng ta càng thấy rõ hơn cái tư tưởng
trọng đạo hơn quê hương của ông.
Nguyễn Trường Tộ viết:
Nay giám mục lên Kinh đô, những điều trước đây tôi
đã bẩm điều gì hoãn điều gì gấp giám mục có thể trình bày rõ được. Còn
việc sắp đặt và sai phái như thế nào sẽ do triều đình quyết định.
Trước đây giám mục đã từng bàn bạc với tôi rằng nếu
triều đình muốn lần lượt canh cải để làm theo các phương pháp mới thì
người rất vui mừng ủng hộ. Chỉ vì nay ta chưa có người. Nếu thật tâm tin
nhau khẩn khoản yêu cầu, giám mục sẽ đưa các linh mục và đạo đồ, một số
có khả năng am hiểu tiếng Tây, học qua một vài phương pháp của phương
Tây như Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu chẳng hạn
sang Tây trước, học gấp các kỹ thuật mới mỗi thứ một năm rồi về sớm giúp
vào việc áp dụng thi hành. Bởi vì bọn họ học sơ qua gấp rút trong một
năm vẫn còn kết quả hơn là triều đình mở trường mời người Tây đến dạy
học trong mười năm. Đó là những điều giám mục nói riêng với tôi như vậy.
Về phần tôi, tôi chỉ dùng lời khéo léo dẫn dụ giám mục và các người ấy
để họ vui vẻ cầu tiến mà thôi, chứ tôi không có quyền sai sử. Nếu triều
đình muốn gấp rút thực hành để tạm thời ứng dụng thì chỉ nên bắt đầu một
hai người và trong khi thương nghị cùng giám mục nên nêu rõ tên những
người triều đình muốn khẩn phái sang Tây học tập giám mục sẽ không từ
chối được. Nhưng không nên nói cho giám mục biết đó là những điều tôi đã
góp ý trước với triều đình. (Dẫn theo TBC, SĐD trang 188).
Một cách tổng quát, qua các sử liệu đã dẫn ở trên,
chúng ta thấy từ con chiên đến Linh mục, Giám mục như Pellerin, Retort,
Gauthier, Húc... và ngay cả các Giáo Hoàng là những người rất nguy hiểm
cho vận mạng quốc gia Việt Nam, nên không thể nhờ và dùng vào việc canh
tân được. Tuy vậy để được công bằng, chúng ta nên tìm hiểu lý lịch các
linh mục mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị trong đoạn văn nói trên.
a. Sơ lược về các Linh mục và Giám mục mà Nguyễn
Trường Tộ đề nghị vào việc canh tân.
Chúng ta có các chi tiết sau đây:
1.- Theo bài viết Nguyễn Trường Tộ Học Ở Đâu của
nhà học giả Đào Duy Anh trong tạp chí Tri Tân, số 7 năm 1941, trang 167
cho chúng ta biết chi tiết về Nguyễn Trường Tộ và Linh mục Nguyễn Hoằng
như sau:
Nguyễn Trường Tộ học rộng nhưng viết và nói tiếng Pháp không thạo
lắm, vì ông không chuyên học chữ Pháp ở Pê Năng (Trường huấn luyện thông
ngôn ở Mã Lai, BK) như các ông Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Hoằng. Bởi thế
ông không khi nào làm thông ngôn. Mà khi giúp việc cho súy-phủ thì chỉ
làm việc từ-hàn (Lettré) cũng như Tôn Thọ Tường. Mỗi khi triều đình cần
dùng người thông ngôn thì Nguyễn Trường Tộ cứ giới thiệu Nguyễn Hoằng
(Linh mục Hoằng) chứ tự mình không khi nào đương việc ấy.
2.- Về những người làm thông ngôn như Nguyễn Hoằng,
những viên thư ký, như Nguyễn Trường Tộ, nhà sử học Cultru đánh giá họ
như thế nào? Xin xem lại phần 2. Dưới đây tôi chỉ tóm lược:
Về sau, Đề đốc Rieunier nói: "Chúng tôi chỉ có
những giáo dân và bọn du thủ du thực.
Đại tá Bernard cũng viết bọn lang bạt bị trục
xuất khỏi làng vì đói rét, hoặc vì tội phạm xô về đây với cái lưng mềm
dễ uốn, họ ham sống sợ chết, họ hoàn toàn hờ hững với cuộc đấu tranh của
dân tộc họ, phụng sự bất cứ những ông chủ nào...
Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ tất cả nhân
viên hành chánh cần thiết cho địa phương hoặc những người giúp việc gia
đình: làm đày tớ, khuân vác, chạy giấy, và có những tên phiên dịch, hoặc
những người ghi chép, được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của hội
Truyền giáo, chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn nầy mà quân
đội thực dân mới đổ bộ lên làm quen với người Việt Nam.
Qua ba sử liệu vừa trích dẫn trên cho thấy chính Đề
đốc và đại tá người Pháp cũng đánh giá người Việt Nam theo Gia Tô lúc
bấy giờ, những người thông ngôn, phiên dịch, ghi chép là những kẻ khốn
nạn...; "Lưng mềm, dễ uốn, ham sống, sợ chết, phụng sự bất cứ những ông
chủ nào....
3.- Còn Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường
Tộ, Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều là những tên gián điệp mà tôi đã đưa ra
nhiều dẫn chứng ở phần trước nhất là từ các trang 118 đến 135. Sau đây
là một số dẫn chứng khác cho thấy cả thầy lẫn trò của Gauthier nói trên
là những thành phần nào?
3.1.- Theo Sự Tích Ông Nguyễn Trường Tộ thì năm
1858, Giám mục Gauthier có đem theo vào Đà Nẵng cụ Khang, cụ Điều (người
An Phú), cụ Huấn (người Trung Hậu), khi ấy cả ba ông chưa thụ chức thầy
cả. (TBC, SĐD, phần chú thích, trang 190).
Sau nầy chúng ta chỉ thấy Nguyễn Hoằng, Nguyễn
Điều và Joannes. Vị cùng đi Pháp với Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường
Tộ (1867-1868). (TBC, SĐD, trang, 90).
Gauthier dẫn mấy ông nầy vào để đón giặc Pháp chiếm
Đà nẵng năm 1858 mà chúng ta được biết rõ thêm như sau:
3.2.- "Theo lời khai của một lang y (người thôn
Thuận An, tổng Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An) tên Trần Vinh bị
tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được, kể lại thì ngày 10 tháng 9
(tức 16-10-1858), tàu Pháp (trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhãn Sơn,
trước cửa Mành Sơn, để đón "Đức Thầy Huy và Cố Lý" (tức Giám mục
Gauthier và Linh mục Croc, cũng có tên là Hậu và Hòa) nhưng "hôm qua hai
vị đã lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi rồi". Khi tàu Pháp trở về Trà
Sơn, Đà nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi." (Xem Châu bản
Triều Nguyễn CBR 22/47). Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà
Nẵng đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp
chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp
đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài
Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Sài Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly
đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm
lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những
người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu
năm 1859" (TBC, SĐD, trang 22).
Qua hai đoạn văn trên mà tôi đã trích lại của Linh
mục Trương Bá Cần, Tiến Sĩ Sử Học Pháp, chúng ta thấy Giám mục Gauthier,
Giám mục Croc, Linh mục Nguyễn Hoằng, Linh mục Nguyễn Điều và Nguyễn
Trường Tộ... tổng cọng là 8 người đã có mặt tại Đà nẵng để chào mừng
quân viễn chinh xâm lăng Pháp chứ không thể có hành động nào khác như đi
truyền đạo hay du lịch! Đoạn văn thứ hai trên còn cho biết các giáo sĩ
Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà nẵng, đứng đầu là Giám mục Pellerin
(là người được Giáo Hoàng Pie IX tán thành cuộc vận động để Pháp chiếm
Việt Nam, BK, xin xem phần trước), đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp
chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm..". Đô Đốc R. de Genouilly không
đồng ý vì thấy đó là vấn đề nguy hiểm nên đã tìm cách bắt buộc các giáo
sĩ, Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục
Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi sang
Hồng Kông... đầu năm 1859.
3.3.- Linh mục Trương Bá Cần cho biết thêm:
"Hơn nữa, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp thì sớm
nhất là giữa năm 1859 (14) mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hồng Kông
đầu năm 1861 để cùng với Giám Mục Gauthier trở về Sài Gòn, theo yêu cầu
của Đô đốc Charner viên chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở
rộng vùng chiếm đóng ở Sài gòn. (TBC, SĐD, trang 22).
Nối kết ba đoạn vừa dẫn trên, theo thứ tự thời gian
chúng ta thấy, hai Linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều mà Nguyễn Trường
Tộ đề nghị triều đình dùng vào việc canh tân thì tất cả hai ông đều đã
có mặt trong đám linh mục Pháp mà đứng đầu là Giám mục Pellerin áp lực
để quân Pháp đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Còn Nguyễn Trường Tộ
thì có mặt trong đám giáo sĩ gián điệp và thực dân hai lần. Lần đầu là
tại Đà Nẵng 1858, bị Đô Đốc Genouilly bắt buộc đi Hồng Kông cùng với
thầy mình là Gauthier. Lần thứ hai, 1861 cùng với Giám mục tình báo
Gauthier trở về Sài Gòn theo yêu cầu của Đô Đốc Charner...để mở rộng
vùng chiếm đóng ở Sài Gòn...
Qua đó chúng ta đã thấy rõ, Nguyễn Trường Tộ có mặt
giữa đoàn quân xâm lăng Pháp trong hai biến cố trọng đại: chiếm Đà nẵng
năm 1858 và mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài Gòn năm 1861. Lịch sử đã không
cho thấy Linh mục Hoằng, Linh mục Điều và Nguyễn Trường Tộ có một lời
phản đối nào trước hai cuộc xâm lăng của thực dân Pháp nói trên mà chỉ
cho thấy họ có mặt trong đoàn quân chiếm đánh nước ta.
Để làm sáng rõ thêm các chi tiết như số lính, ngày
tháng và kết quả của đoàn quân Charner, trong đó có cả Nguyễn Trường Tộ
và Gauthier mà Linh mục Trương Bá Cần nêu trên, sử liệu cho thấy rằng:
Lúc ký xong hòa ước với Trung Quốc ngày 25-10-1860, Phó Đô Đốc Charner
lên đường đi Sài Gòn để tăng cường việc chiếm đóng. Ông ta đến đây vào
tháng 2-1861 cùng với ba tiểu đoàn bộ binh, 1.200 lính thủy đánh bộ và
gần cả một hạm đội mang theo vật dụng cần thiết.
Liên tiếp các ngày 25, 26, 27 tháng 2, lực lượng
Pháp chiếm Kỳ Hòa... (CHT, SĐD, bản luận án in bằng Rônéo, trang 133).
Nguyên văn tiếng Pháp:
La paix signée avec la Chine (25 Octobre 1860), le
vice-amiral Charner se mit en route vers Saigon pour renforcer
l'occupation. Il arriva en février 1861, suivi de 3 bataillons des
troupes de la guerre, douze cents hommes d'infanterie de marine et
presque toute l'escadre apportant le matériel nécessaire. Les 25 - 26 -
27 fevrier, les forces Francaises s'emparèrent de Kỳ Hòa..." (CHT,
SĐD,trang 133).
(Ghi chú: Charner lúc đó chỉ là phó Đô đốc,
Vice-admiral, chứ chưa phải Đô đốc. Có lẽ Linh mục Trương Bá Cần nhầm
lẫn).
Nếu các vị linh mục nêu trên không thuộc loại người
Khốn nạn, cong lưng, chạy theo chủ mới như đại tá Bernard người Pháp
nhận định thì cũng không thể dùng mấy vị nầy vào việc canh tân đất
nước được. Không phải ai nói được tiếng Pháp, làm được thông ngôn thì
có thể học được các kỹ thuật mới?. Nghề linh mục thì có thể canh tân
giáo hội, còn canh tân đất nước thì cần đặt lại vấn đề. Hơn nữa bốn vị
Linh mục trên được vị Giám mục tình báo Gauthier dẫn dắt, cũng làm chúng
ta vô cùng lo âu cho cuộc canh tân nếu triều đình dùng đến họ. Ngay cả
Nguyễn Trường Tộ đi sát với một vị giám mục tình báo trong một bối cảnh
đất nước lúc bấy giờ, và có mặt ít nhất là hai lần trong đoàn quân xâm
lăng nước ta, và theo đám giáo sĩ gián điệp nước ngoài có cho phép chúng
ta nghi ngờ Nguyễn Trường Tộ là một người Việt gian hay không? Và Linh
mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều đã đến Đà Nẵng đón rước quân xâm lược
Pháp. Vậy họ chỉ được dùng vào việc canh tân cho sách lược của Pháp để
dễ đồng hóa dân tộc Việt Nam ta mà thôi.
Sử liệu cũng cho thấy, sau khi Nguyễn Trường Tộ
chết, năm 1871, ý kiến đề nghị "Dùng giám mục linh mục vào việc canh
tân" đã có phần "kết quả" như sau:
"...Sau khi Hàm Nghi lên ngôi đi kháng chiến, Chánh
Mông sang tòa khâm sứ Pháp xin De Courcy để tên đại tướng giặc thương
tình cho hai đội lính Pháp hộ tống sang thành nội làm lễ đăng quang lên
ngôi hoàng đế, đặt ra niên hiệu Đồng Khánh thì ông vua bù nhìn nầy được
sự cố vấn của Trương Vĩnh Ký và Linh mục Nguyễn Hoằøng (Chức Ngự Tiền
Hành Nhân) hợp cùng tay sai đắc lực Pháp như Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm...
ra sức dùng mồi danh lợi kêu gọi nghĩa quân..."(Phong Trào Nghĩa Hội
Quảng Nam , trang 340). Cùng trang 340 sách nầy, tác giả Nguyễn Sinh
Duy, chú thích thêm:
"Còn Nguyễn Hoàng (có chỗ chép Hoằng), sinh 1839,
người Hà Tĩnh, theo đạo Thiên Chúa, từng du học ở chủng viện Pénang, Mã
Lai. Năm 1876, được cử làm Tham Biện Thương Chính ở Hải Phòng và Hải
Dương, năm 1885, hàm Hường lô tự Khanh kiêm Tham Biện việân Cơ Mật, năm
1886, giữ chức Phụ tế đại thần và Ngự Tiền triều vua Đồng Khánh."
Thật là đại họa, triều vua nhà Nguyễn nuôi ong tay
áo, nhận giặc làm con. Đến lúc Đồng Khánh được De Courcy cho lên làm vua
bù nhìn để dễ sai bảo. Thực dân Pháp đã đưa được ít nhất là hai tên Việt
gian là Linh mục Nguyễn Hoằng và Trương Vĩnh Ký giữ chức quan trọng
trong triều vua tay sai Đồng Khánh. Trương Vĩnh Ký là một giáo sĩ Gia
Tô tu xuất và đã viết thư tay yêu cầu chính phủ Pháp đánh chiếm Việt
Nam. Xin xem cuốn "Ki Tô Giáo, Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại" như đã dẫn
chứng ở đoạn truớc. Nguyễn Trường Tộ đề nghị dùng giám mục linh mục
"canh tân" kiểu nầy thì thật là hoàn toàn đúng ý và đúng kế hoạch của
Giám mục Puginier và Gauthier: nhanh chóng biến "Bắc Kỳ thành một nước
Pháp nhỏ" dĩ nhiên, sau đó là đến lượt Trung Kỳ và Nam Kỳ.
Muốn rõ thêm một linh mục, giám mục có thể dùng để
canh tân xứ sở hay không, chúng ta nên biết qua cái bổn phận mà họ được
đào tạo từ xưa đến nay.
b. Nhiệm vụ của một linh mục giám mục:
Để vấn đề được chính xác hơn, chúng ta nên nghe lời
phát biểu của Linh mục Trịnh Văn Phát: "Giúp quê hương không phải là bổn
phận trực tiếp của tôi, nhưng tôi có bổn phận với giáo hội vì tôi là
người của giáo hội và được đào tạo để sau nầy, phục vụ cho giáo hội. Có
nhiều anh em yêu cầu tôi giúp địa phận, tôi thẳng thắn trả lời là tôi
không có tự do lựa chọn, tôi đã được huấn luyện để phục vụ theo nhu cầu
của giáo hội (Tập san Giáo Hoàng Học Viện PIO X Đà Lạt - Liên Lạc, số 2
tháng 7 năm 1995 trang 72. Nhóm Úc Châu thực hiện, dẫn theo Lê Trọng Văn
trong tác phẩm Việt Nam những sự kiện lịch sử trong thế kỷ 20", Hoa Kỳ,
1997, trang VIII).
Mục đích huấn luyện linh mục là để phục vụ cho giáo
hội mà các giáo hội Gia Tô trên toàn cầu lại phải trực tiếp lệ thuộc
Vatican, giám mục linh mục không có quyền thoát khỏi sự đặt để và chỉ
thị trực tiếp của Giáo Hoàng La Mã. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên
lúc Vatican bật đèn thì các cố đạo ngoại quốc hướng dẫn hoặc toa rập
với các phong trào chiếm thuộc địa như chúng ta đã thấy trong bài nầy.
Cũng vì vậy mà ngay cả 70 năm, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, Giám mục
Nguyễn Bá Tòng năm 1940, tại nhà thờ Phát Diệm đã nhận lãnh Ngũ Hạng Bắc
Đẩu Bội Tinh, do thống tướng Pétain, quốc trưởng Pháp tặng. Trong phần
đáp lễ, Giám mục Nguyễn Bá Tòng nói Tỏ lòng cảm ơn chính phủ, tỏ lòng
trung thành con dân Việt Nam đối với Mẫu quốc Pháp. (xin xem cuốn Hội
Hè Đình Đám của Toan Ánh). Với bổn phận của một giám mục linh mục như
thế, nên trong thư viết tay ngày 21-8-1944 Giám mục Ngô Đình Thục (anh
của TT. Ngô Đình Diệm) từ tòa truyền giáo Vĩnh Long gởi cho Đô đốc Jean
Decoux chúng ta thấy có đoạn:
Với tư cách của một Giám mục, của một người Annam
và với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi (tức là Ngô
Đình Khả, BK) được phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An Nam, và
đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha
tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan
Đình Phùng chỉ huy tại Nghệ An và Hà Tịnh".
Nguyên văn tiếng Pháp:
Je la désapprouve au font du coeur, comme évêque,
comme Annamite, et comme membre d'une famille dont le père a servi la
France dès sa première venue en Annam et a exposé maintes fois sa vie
pour elle dans les expéditions menées, comme lieutenant de Nguyễn Thân,
contre les rebelles commandés par Phan Đình Phùng au (à) Nghệ An et Hà
Tịnh. (Xin xem thêm cuốn Hồi Ký "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi". Hoành
Linh Đỗ Mậu, Hoa Kỳ 1995, phần phụ lục).
Linh mục Hoàng Quỳnh cũng đã từng tuyên bố Thà mất
nước không thà mất Chúa.
Linh mục giám mục được đào tạo với mục đích để phục
vụ Giáo hội (hay phục vụ Vatican cũng thế, BK). Còn Nguyễn Hoàng và
Nguyễn Điều thì đã cong lưng theo Pháp. Vậy mà Nguyễn Trường Tộ lại đề
nghị triều đình Tự Đức nên dùng giám mục linh mục vào việc canh tân là
một hậu ý hết đường phê phán!
Đoạn kế tiếp của bản Điều Trần nầy, Nguyễn Trường
Tộ viết:
Xin giám mục giúp đỡ... nói rõ rằng triều đình
muốn giám mục (tức Giám mục gián điệp Gauthier, BK) đến La Mã đạo đạt
lên Giáo Hoàng về ý muốn giao hảo. Tôi quả thật bị choáng váng với cái
đề nghị tai hại nầy nên không dám bàn thêm sợ thiếu ái ngữ.
Cũng như hầu hết những người Việt Nam khác, lòng tự
ái dân tộc, tình yêu quê hương nồng nàn, nhưng lúc thấy Giám mục
Gauthier, Giám mục Sohier, Giám mục Croc, Linh mục Nguyễn Hoằng, Linh
mục Nguyễn Điều và Nguyễn Trường Tộ là những người hoặc có tham dự ít
nhiều vào việc mở trường tại Huế, hoặc Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều
đình nên dùng vào việc canh tân đất nước, thì chính những người nầy
lại có những hành động đón rước, hợp tác, hỗ trợ cho thực dân Pháp xâm
lăng quê hương trong bước đầu chiếm Đà nẵng và mở rộng vùng bị chiếm
đóng tại Sài Gòn. Nghĩ lại cái cảnh toa rập, "áp lực" và cong lưng ấy,
lòng tôi bị quặn đau, bị se lại và buồn thương cho đất nước, cho triều
đình vua Tự Đức không hề biết gì về hành động nguy hiểm của các người
đó.
Vì thế, để tránh thiếu ái ngữ, tôi không dám nhận
định thêm một số bài Di Thảo có tính tôn giáo như Di Thảo số 13 Những
việc Giám mục Gauthier có thể giúp, Di Thảo số 48 Thương lượng với
Giám Mục Croc.
Nhưng đất nước Việt Nam vẫn còn có phước, triều
đình nhà Nguyễn vì Ngu muội không chịu áp dụng những đề nghị của
Nguyễn Trường Tộ, còn không thì những con vi trùng trong thịt sư tử đã
ăn hết cả thịt lẫn xương của con sư tử từ lâu rồi!
Trước khi qua phần tổng luận tôi có một ý kiến nhỏ
với Linh mục Trương Bá Cần về danh từ giáo sĩ. Tôi chưa hề nghe ai nói
giáo sĩ là nhân sĩ tôn giáo bao giờ. Chỉ được biết danh từ giáo sĩ là
chỉ các vị đi tu bên đạo Gia Tô. Và theo Tờ Trình Của Tỉnh Nghệ An ngày
26-4-1870 của Hoàng Tá Viêm, Ngụy Khắc Đản và Trần Nhượng thì Nguyễn
Trường Tọa trước là linh mục (TBC, SĐD, trang 478). Có lẽ, vì thế mà
nhiều người gọi Nguyễn Trường Tộ là giáo sĩ, chứ không phải giáo sĩ là
nhân sĩ tôn giáo?