Chúng ta có cơ sở để tin rằng tất cả 58 bài chiêu dụ, Nguyễn
Trường Tộ và ông tình báo Gauthier đồng tác giả. Trong đó, ý của Gauthier
nhưng lời là của Nguyễn Trường Tộ. Thông qua Gauthier, Pháp và Vatican
muốn ông Tộ phải viết như thế nào, lộng giả thành chơn và ngụy trang như
thế nào, để có thể dụ được triều đình Việt Nam lọt vào các bẫy sập của
chúng.
Chiều
nay tôi đọc bài “Nhìn
lại những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ: Lạc
hậu hay đổi mới?”,
LêThị
Lan trên trang nhà Văn Hóa Nghệ An, và bài thứ hai; “Nguyễn
Trường Tộ (1830 – 1871) – một bi kịch lạc quan”,Trần
Hữu Tá, trên
mạng boxit.
Đúng
ra tôi không nên đối luận với tác giả nầy vì cả hai vẫn
đi theo lối mòn xưa cũ; bị
thu hút vào những cụm từ canh tân, đổi mới, thực
dụng, khai hoang…, và trích chỗ nầy một
đoạn chỗ khác một câu rồi ghép lại với nhau mà ca tụng,
chứ không để ý xem ông Nguyễn Trường Tộ viết như thế
với hậu ý gì, và nói như kia, đâu là bằng chứng?
Bà
Lê Thị Lan viết về vấn để sử mà không có sử liệu, nên
ca tụng rất sai lầm: “đã
22 năm trôi qua kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới. Đó là một thời
gian đủ dài để nhìn nhận lại các giá trị và hạn chế của
tư tưởng cải cách Nguyễn Trường Tộ trong sự vận động
khách quan của lịch sử”.
Mời
bà Lan và độc giả theo dõi nhiều sử liệu dưới đây. Để
cụ thể tôi sẽ trình bày tư tưởng cải cách (nếu
có) của Nguyễn Trường Tộ dưới góc nhìn mang tính toán
học bằng phương trình 3 chữ T:
TT= T1+T2+T3 (TT:
thành tựu, T1: Tâm, T2: Trí và T3: Tiền (hoặc phương
tiện).
Một người muốn canh tân hoặc cải cách phải có tình yêu đối
với tổ quốc (T1)? Ông có trí tuệ không (T2)? Và hoàn
cảnh cũng như phương tiện để vận hành việc canh tân (T3)?
Dưới đây là một số sử liệu:
A. T1 (TÂM, Tình yêu
tổ quốc):
Ông Nguyễn Trường Tộ có những hành động
sau đây:
1. Phụ
gây áp lực để Pháp đánh Huế:
Nguyễn
Trường Tộ không đi lính để đánh giặc cứu nước, trái
lại ông đến Đà Nẳng để đón quân Pháp và cùng làm
áp lực để Pháp đánh Huế. Sử liệu:
Ngày
‘16/10/1858), tàu Pháp đến đảo Nhãn Sơn, trước cửa
Mành Sơn, để đón Giám mục Gauthier và Linh mục Croc, nhưng
“hôm qua hai vị đã lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi
rồi”. Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà nẵng, thì thấy
thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi”Các giáo sĩ Pháp
tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng đứng đầu là Giám mục
Pellerin, đã cùng nhau làm
áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt
điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không
thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài
Gòn. Giám mục Gauthier cùng vớiNguyễn Trường
Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong
những điều kiện như thế vào đầu năm 1859, (Trương
Bá Cần, “Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo”,
TP HCM, 1988, tr. 22).
2.(Nguyễn
Trường Tộ) Cộng tác với Pháp để mở rộng vòng chiếm
đóng tại Sài gòn.
Sử liệu:
“…đầu
năm 1861 để cùng với Giám mục Gauthier trở về Sài Gòn,
theo yêu cầu của Đô đốc Charner viên chỉ huy được giao
trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài
gòn (TBC,
Sđd, tr. 22).
3. Lừa
dối việc mở trường kỷ thuật.
Sử
liệu:
Phỉnh
gạt triều đình việc mở trường kỷ thuật ở huế năm 1868.
Khai gian khả năng của 4 thầy giáo mời từ Pháp về. Trong
đó có hai Linh mục trình độ mới học hết chủng viện, chứ
không có năng khiếu kỷ thuật, một ông gọi là Bác sĩ nhưng
bị lảng tai, nghe không rõ làm sao dạy học được. Còn
ông Ca Xanh (?) đòi lương quá cao không thể thuê mướn
(TBC, sđd, tr.49-50).
4. Bày
mưu mở viện dục anh và trại tế bần để tạo một
cuộc tổng nỗi dậy toàn cõi Việt Nam.
Sử liệu (Xem Bùi Kha, Nguyễn Trường Tộ & vấn
đề canh tân, nhà XB Văn Học, 30.3.2011, tr.149-155)*.
5.
Ngày 7.4.1868 viết
thư ngăn cản triều đình đi Pháp đòi trả 3
tỉnh miền Tây Nam kỳ.
Sử liệu:
“Tình
hình Âu châu lúc này rất bất lợi, không cho phép Pháp
tiến hành một cuộc chiến tranh mới. Đô đốc La Grandière
nhận được lệnh phải từ bỏ mọi dự định chiếm đóng 3
tỉnh miền Tây Nam kỳ...
Chính
phủ Pháp phản đối mọi biện pháp vũ lực có thể làm nước
Pháp lâm vào một cuộc chiến lâu dài với Triều đình
Huế. Nhưng Đô đốc La Grandière trông đợi ở sự thành
công của hành động của ông để đặt chính phủ Pháp trước
một sự việc đã rồi. Tân Bộ Trưởng Hàng Hải, Rigault
de Genouilly, luôn luôn khuyến cáo La Grandière phải
tránh tất cả những gì có thể làm cho Triều đình Huế
lo ngại. Ngày 10/6/1867, ông còn viết cho La Grandière
là: Mặc dầu tình trạng (chính
trị Âu châu) bớt căng thẳng hơn, nhưng cho tới khi
có lệnh mới, ông đừng nghĩ tới chuyện biểu dương lực
lượng đối với 3 tỉnh. Cho nên, phản ứng đầu tiên của
Rigault de Genouilly khi được tin quân Pháp chiếm 3
tỉnh miền Tây là bất mãn đối với La Grandière... Điều
quan trọng đối với ông (La Grandière, BK) là
làm sao khiến triều đình Huế chấp nhận sự việc đã xảy
ra (đã chiếm 3 tỉnh miền Tây, BK); ngày 30/
6/1867, ông gởi thư cho vua Tự Đức để đề nghị thương
lượng, nhưng vua Tự Đức bằng một văn thư lời lẽ cứng
rắn, trách cứ La Grandière đã lạm dụng sức mạnh mà
xâm phạm quyền lợi của chính phủ Việt Nam... Nhà vua
còn tỏ ý là sẽ phái sứ giả sang Paris để thương
lượng thẳng với chính phủ Pháp” (Nguyễn
Thế Anh, “Việt Nam thời Pháp đô hộ”. Lửa thiêng
Xb, Sài gòn, tr. 54, 58-60).
Vua
Tự Đức nhất quyết không chịu thương thuyết với La Grandière.
Nếu phái đoàn Việt Nam đi Pháp thì La Grandière có thể
bị thượng cấp khiển trách hoặc bãi nhiệm và Việt Nam
có thể đã lấy lại được 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Sự cố
này dĩ nhiên là ông đô đốc, các ông giáo sĩ, những kẻ
Việt gian, trong đó có Nguyễn Trường Tộ, không muốn!
Đó mới là lý do để ông viết thư khuyên triều đình “Bãi
bỏ việc cử sứ bộ đi Pháp” vào năm 1868.
6.
Khắng khít với một tên tình báo:
Bà
Lê Thị Lan và ông Trần Hữu Tá có thể vẫn chưa biết
ông Nguyễn Trường Tộ giao du chặt chẽ với một Giám
mục tình báo Pháp đến gần 20 năm. Trong bài, ông Trần
Hữu Tá mừng rỡ ca tụng “Do
những mối quan hệ tốt đẹp tình cờ, ông được giám
mục Gauthier dạy cho tiếng Pháp và các môn khoa học
phổ thông”. Ông
Tá hiểu nhầm quá lớn!
Mời
độc giả xem SÁU
sử liệu mật dưới đây về ông Giám mục tình báo nầy:
Sau
khi hiệp ước 1862 ký giữa Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha,
Triều đình vua Tự Đức kiếm cách chuộc lại 3 tỉnh đã mất.
Trong chiều hướng này, một người Ki Tô cuồng nhiệt là
Trung Tá hải quân Aubaret vận động, được bộ ngoại giao
Pháp và vua Napoléon III đồng ý. Vì thế, một hiệp ước
mới (thế hiệp ước cũ 1862) được bộ ngoại giao và bộ hải
quân soạn thảo theo quan điểm của vua Napoléon III, và
được ký tại Huế ngày 15/01/1864.
Theo
hiệp ước nầy, 3 tỉnh bị chiếm trong năm 1862 được trả
lại cho Việt Nam, ngoại trừ thành phố Sài Gòn, Mỹ Tho,
Vũng Tàu và Côn Đảo. Để đổi lại việc trả 3 tỉnh này,
Pháp có quyền bảo hộ 6 tỉnh Nam bộ, 3 hải cảng Đà nẵng,
Ba Lạt và Quảng Nam...
Aubaret
chủ trương chiếm Nam Kỳ bằng con đường tôn giáo và thương
mại, chứ không phải Aubaret có lòng tốt gì đối với dân
Việt Nam đâu (CHT. Sđd, tr. 174-175). Trong triều đình
Pháp chia làm hai phe, phe ủng hộ và phe chống. Phe chống
khuyên vua đừng phê chuẩn hiệp ước.
6.1.
Gauthier theo phe Aubaret:
Về
phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống,
phe bênh. Phe ủng hộ có Giám mục Sohier và Giám mục
Gauthier. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh
mục Pernot, cho chúng ta thấy điều đó:
“Hiệp
ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ
có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier là tán
đồng hiệp ước, nhưng đứng trên quan điểm chính trị
thực sự và quyền lợi của hội truyền giáo chúng ta,
việc trả lại 3 tỉnh để lấy tiền thật là một sự ngu
ngốc kỳ lạ. Vấn đề bây giờ là phải lấy luôn 3 tỉnh
phía Nam: Đó là ý đồ của chính phủ và của toàn thể
Bộ Tham mưu chúng ta, nhưng cần phải có một nguyên
cớ nghe được, vì cần phải có tôn trọng công lý và tôi
không biết từ khi hiệp ước được ký kết với Bonard,
người An Nam có cố tình phá vỡ hiệp ước hay không;
vì không có gì rõ ràng là Triều đình Huế không tôn
trọng, dù có nhiều vi phạm ở địa phương mà họ có thể
quy trách nhiệm cho dân chúng và quan lại, là những
người, dĩ nhiên, không mấy sẵn sàng chấp nhận bất cứ
hiệp ước nào với nước ngoài, nhất là ở Bắc Kỳ. Chắc
Cha đã gặp Giám mục Sohier, người theo phe Aubaret,
nhưng bất đồng ý kiến với tôi. Ông Aubaret đã trở lại
Xiêm, hết sức xấu hổ về việc thất bại ngoại giao của
ông, sự thất bại tôi đã cho ông thấy trước, khi ông
ghé Sài Gòn”.
Nguyên
văn tiếng Pháp:
“Le
traité Aubaret est enfoncé et ce n'est pas un malheur.
Il n'y avait que Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier qui en
paraissaient partisans, mais au vrai point de vue politique
et dans les intérêts de notre Mission, la reddition des
trois provinces pour de l'argent était une absurdité
révoltante... Il s'agit maintenant de prendre les trois
autres provinces méridionales: c'est l'intention du gouvernement
et de tout notre État-Major, mais il faudrait pour cela
une raison plausible, car il faut bien observer la justice
et ne sais si, depuis le traité conclu avec M. Bonard,
les Annamites ont donné lieu obstensiblement à une rupture
du traité; car il n'est pas évident que la Cour de Huế
n'en ait pas observé les conditions, malgré beaucoup
d'infractions locales, qu'elle peut rejecter sur les
populations et les mandarins, naturellement peu disposés
à accepter aucun traité avec une puissance étrangère,
surtout au Tonkin. Vous avez du voir Mgr. Sohier, qui
s'est fait aussi le partisan de M. Aubaret, mais dans
un autre ordre d'idées que moi. M. Aubaret est retourné
à Siam, tout confus de son échec diplomatique, que je
lui avais fait entrevois lors de son passage à Saigòn”.
(Lettre
de Mgr. Lefèbre au Père Pernot, datée du 27/9/1864, citée
par Taboulet, Bulletin de la Société des Études Indochinoise
1943, tom XVIII, N" 4, 4ème trimestre. Mgr. Sohier et
Mgr. Gauthier sont respectivement évêque de Huế et évêque
du Tonkin méridionnal (CHT, Sđd, p. 181).
Giám
Mục Jean Denis Gauthier
6.2.
Gauthier được mời họp mật:
Năm
1872, tàu Bouragne chở Trung tá Hải quân Senez ra Bắc
để dò xét tin tức cho một cuộc chiếm cứ vùng nầy. Trong
thư báo cáo của Hạm trưởng Senez gửi cho Đô đốc Dupré
chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp mật với vị Sĩ
quan Senez này:
“... Vừa
lên bờ, tôi gởi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách
đó lối mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi
sống suốt ngày giữa đám dân Công giáo, họ rất niềm
nở với chúng tôi... Lúc 4 giờ, chúng tôi thấy một nhà
truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với chúng tôi
vì Giám mục đi vắng. Cha xác nhận lại những gì mà chúng
tôi biết lúc sáng do sự tiết lộ của những phái viên:
Loạn lạc ngày càng bành trướng, từ các tỉnh Lạng sơn,
Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang lan đến Sơn Tây,
Bắc Ninh, Quảng Yên, Hải Dương và những người khởi
nghĩa làm loạn, trộm cướp, đã làm những điều cực kỳ
táo bạo”…
Nguyên
văn tiếng Pháp:
“...
Aussitôt débarqué, j'envoyai un exprès à Mgr. Gauthier
qui habite à 10 ou 12 km et donnai rendez-vous au village.
Nous passâmes la journée au milieu de cette population
chrétienne qui fut très gracieuse envers nous... Vers
4 heures nous vimes arriver un missionnaire, le père
Fricot qui en l'absence de Monseigneur venait causer
avec nous. Il confirme ce que nous avions déjà appris
le matin par l'indiscrétion des envoyés du Département:
c'est que l'insurrection s'étendait de plus en plus et
que des provinces de Lạng Sơn, Cao Bang, Thai Nguyen,
Tuyen Quang, elle avait gagné celles de Sơn Tay, Bac
Ninh, Quang Yen, Hai Dương et que les insurgés, rebelles
ou pirates commettaient les plus grande atrocitées” (Rapport
sur le voyage du Bourayne de Saigon au Nord du Tonquin,
par le Commandant Senez, 16/2/1872, Archives du ministère
de la Marine, BB4. 964 CHT, Sđd, pp. 242-243).
6.3.
Giám mục Gauthier viết: “Triều
đình Huế chỉ nghe tiếng nói của đại bác mà thôi”.
Trong
thư đề ngày 12/02/1873 và ngày 19/02/1873 gửi cho Đô
đốc Dupré, Giám mục Gauthier viết:
“Cuộc
chiến này làm hao mòn tài chánh và giết hại những
tinh hoa của dân tộc (dĩ nhiên là dân tộc Pháp,
BK). Giám mục Gauthier viết như vậy và còn
than phiền về những việc sách nhiễu con chiên. Theo
tôi, (Giám mục Gauthier) khi nói đến Triều đình Huế
và quan lại. Các người đó chỉ có nghe theo tiếng nói
của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe gì khác”.
Nguyên văn tiếng Pháp:
“…
Cette guerre ruine les finances et décime l'élite de
la population,
écrivait Mgr. Gauthier qui se plaignait en outre des
vexations dont ses chrétiens étaient victimes. Il
compte pour mois, poursuivait l'évêque, en parlant de
la cour de Huế et de ses madarins - que ces gens n'entendront
jamais que la voix du canon et resteront sourds à tout
le reste” (Mgr. Gauthier à Dupré, 12/02/1873, et 19/02/1873,
CHT, Sđd, p. 250).
6.4.
Gauthier muốn có một chính phủKi
Tô tại Bắc Kỳ.
"Bằng
những sự phóng đại đó, các kẻ truyền đạo cố lôi cuốn
các viên chỉ huy quân sự Pháp vào các cuộc chinh chiến
và họ tin rằng một khi sự xung đột tái diễn thì nhất
định Pháp sẽ mắc kẹt trong guồng máy chiến tranh.
"Tôi
tin rằng, Giám mục Gauthier và Giám mục Puginier,
nhất là ông thứ nhì, không chịu nổi ý kiến một giải
pháp hòa bình cho vấn đề: Giải pháp nầy sẽ phá tan
hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt,
chính phủ nầy có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo.
Các tín đồ Công giáo lại càng phóng đại hơn nữa các
ý tưởng đó và xúi giục các linh mục, các người chăn
dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính phủ...
Suốt ngày, chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các
lời yêu cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó”.
Nguyên văn tiếng Pháp:
“Par
ces exagérations, les missionnaires s'efforcaient d'entrainer
les chefs militaires francais dans des expéditions, convaincus
qu'une fois que les hostilités recommencaient, les Francais
seraient fatalement pris dans l'engrenage de la guerre.
“Mrg.
Gauthier et Mgr Puginier, celui-ci surtout, je le crois,
ne peureusement supporter l'idée d'une solution pacifique
de la question: cette solution est la ruine des espérances
qu'ils nourrissaient de voir créer au Tonkin un gouvernement
particulier, lequel serait un gouvernement catholique.
Les chrétiens exagèrent encore ces idées et poussent
leurs prêtres et leurs pasteurs pour amener une nouvelle
rupture entre les deux gouvernements... Toute la journée,
nous recevons rapports sur rapports et demandes d'expédition
dans ces provinces” (Philastre à Dupré, dépêche du 15/01/1874
précitée. CHT, Sđd, p. 306).
6.
5. Tại
sao giám mục Gauthier muốn có một chính phủ Ki Tô tại
Bắc Kỳ?
Trả
lời: Sẽ dễ dàng biến người Bắc Kỳ trở thành Công giáo
hoàn toàn. Có ích gì? Giám mục Puginier trả lời thế cho
chúng ta:
“Tôi
xác nhận rằng, khi nào Bắc Kỳ trở thành Công giáo,
thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn
giống như các đảo Philippines đã thành một nước Tây
Ban Nha nhỏ… Giám mục Puginier viết tiếp:
Nếu
chính phủ hiểu rõ quyền lợi thực sự của nước Pháp mà
ủng hộ chúng tôi một cách thật sự dù che đậy đôi chút
để tránh đụng chạm dư luận, tôi quả quyết rằng, trong
sứ mệnh của tôi, mỗi năm chúng ta có thể thu về cho
nước Pháp khoảng 20.000 người bạn bằng cách cải đạo,
chắc chắn tỉ lệ này sẽ gia tăng hằng năm, và có đủ
lý do mạnh để hy vọng rằng, sau 30 năm, gần hết xứ
Bắc Kỳ đều trở thành Công giáo, nghĩa là trở thành
người Pháp hết”.
Nguyên
văn tiếng Pháp:
“J'affirme
que du moment où le Tonkin deviendra chrétien, il deviendra
aussi la petite France de l'Extrême-Orient, absolument
comme les iles Philippines sont une petite Espagne...
…
Si le gouvernement comprenant les intérêts de la France,
à leur vrai point de vue, nous favorisait d'une facon
réelle quoique un peu voilée pour éviter de choquer l'opinion,
j'affirme que dans ma mission nous pourrions, chaque
année, gagner à la France environ vingt mille amis en
les faisant chrétiens sans la moindre pression. Cette
proportion irait certainement en augmentant tous les
ans, et il y a fortes raisons d'espérer que d'ici à trente
ans, à peu près tout le Tonkin serait chrétien, c'est-à-
dire Francais” (Lettre
de Mgr. Puginier au ministre de la Marine et des Colonies,
6-5-1887. Archives du ministère de la F.O.M., AOO (30)
ou N.F.541, CHT, Sđd, pp. 421-422).
6.6. Giám
mục Gauthier, người cuồng nhiệt hạng nhì:
Tất cả
các giám mục, linh mục Pháp đều là những tên thực dân
cuồng nhiệt. Trong số đó, Giám mục Puginier
được
xếp hạng nhất, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường
Tộ đứng hạng nhì.
Giám
mục Puginier
Biến
Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ sau khi đã đổi đạo
dân Bắc, chủ trương này cũng được Đô đốc Dupré chỉ trích
là quá nguy hiểm. Trong thư gửi cho Bộ trưởng
Hải quân và Thuộc địa ngày 30/12/1874 cho chúng ta thấy
điều đó:
Dupré
viết: “Những lần tôi nói chuyện với Giám mục Puginier.
Trước khi ông rời Sài Gòn, lòng tôi vẫn không thay đổi:
Vì thế, tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét mà tôi đã trình
bày với ngài, dù vị Giám mục này đã khổ công khuyến
cáo rằng, hãy bỏ cái chính nghĩa đã tạo cho dân chúng
(An Nam) có cảm tình với nước Pháp và theo con đường
mà ông Garnier, một anh hùng bị kết án, đã vạch sẵn,
nhưng người ta đã không biết những khó khăn của tình
thế, do viên sĩ quan khốn nạn này để lại mà chúng ta
phải gánh chịu”.
Giám
mục Gauthier cũng thuyết phục, nhưng Dupré
cũng không thay đổi ý kiến:
“Chắc
chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục
Gauthier được, ông ta quá hăng say và trong nhiều
trường hợp tôi nhận thấy thật sự quá nguy hiểm nếu
nhắm mắt nghe lời của ông giám mục này”.
Nguyên
văn tiếng Pháp:
Mgr.
Puginier avait beau venir en personne à Saigon pour discuter
directement avec Dupré, celui-ci restait ferme dans sa
position de non-ingérence dans les affaires intérieures
du Tonkin.
“Les
conversations que j'ai eues avec ce prélat avant son
départ de Saigon, écrivait Dupré à son ministre, n'ont
pas modifié ma conviction: Je maintiens donc les observations
que je me suis permis de vous présenter, quelque pénible
qu'il soit de conseiller l'abandon d'une cause qui éveille
en France nombreuses sympathies, et l'adoption d'une
ligne de conduite que condamneront ceux pour lesquels
M. Garnier est un héros, et qui ignorent les difficultés
la situation que nous a léguée ce malheureux officier”
(Dupré au ministre de la Marine et des Colonies, 30/12/1874,
Archives ministère de la F.O.M. A 30 (25) carton 13.
CHT. Sđd, p. 366).
Mgr.
Gauthier ne pouvait non plus changer les idées de Dupré:
“Il
me sera certainement impossible de donner une entière
satisfaction à Mgr. Gauthier; son ardeur est extrême,
et en maintes circonstances, j'ai pu reconnaitre combien
il serait dangereux d'accepter sans réserves les appréciations
de ce prélat” (Dupré au ministre de la Marine et des
Colonies, 26/7/1876, Archives du ministère de la F.O.M.
A 30 (26) carton 14. CHT, Sđd, p. 367).
Qua
sáu dẫn chứng nêu trên, chúng ta có thể quả quyết rằng, “Cho
tôi biết bạn thường thân cận với ai, tôi sẽ bảo bạn thuộc
lọai người nào” (Dis-moi
qui tu fréquentes, je te dirai qui tu es). Nguyễn
Trường Tộ và Giám mục Gauthier là hai người Pháp tay
trong. Đưa ra miếng mồi canh tân, đổi mới, thực dụng để
dễ che đậy âm mưu dối gạt triều đình và làm lợi cho Pháp.
Mời bà Lê Thị Lan và ông Trần Hữu Tá tiếp tục nhận diện
ông Nguyễn Trường Tộ:
B.
T2 (TRÍ, Trí
tuệ; kiến thức).
Một người ít trí tuệ, nghèo kiến
thức thì khó làm gì nên nổi.
Ông
Nguyễn Trường Tộ tự khoe về kiến thức của mình như sau:
“Về
việc học không môn nào tôi không để ý tới, cái cao
của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của
nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị
nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi
không khảo cứu, nhất là để nghiên cứu về sự thế dọc
ngang, tan hợp trong thiên hạ”(Di thảo
số 3, Bài trần tình, TBC, tr. 120).
Tự
khoe kiến thức như thế, và một số người vì cảm tình nào
đó ca tụng ông là “Trạng Tộ”. Nếu thông minh cở ấy, tại
sao ông thân cận với một tên tình báo người Pháp, cao
cấp (Gauthier) đến gần 20 năm mà không biết? Nếu biết
mà không tố cáo thì Nguyễn Trường Tộ yêu nước nào mà
lạ đến thế?
Việc
Tây học của Nguyễn Trường Tộ có thể biết được như sau:
“Nguyễn
Trường Tộ học rộng nhưng viết và nói tiếng Pháp không
thạo lắm, vì ông không chuyên học chữ Pháp ở Pê Năng
(Trường huấn luyện thông ngôn ở Mã Lai, BK) như
các ông Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Hoằng. Bởi thế, ông
không khi nào làm thông ngôn. Mà khi giúp việc cho
súy phủ thì chỉ làm việc từ hàn (Lettré) cũng như Tôn
Thọ Tường. Mỗi khi Triều đình cần dùng người thông
ngôn thì Nguyễn Trường Tộ cứ giới thiệu Nguyễn Hoằng
(Linh mục Hoằng) chứ tự mình không khi nào đương việc
ấy” [Đào Duy Anh, trong bài Nguyễn Trường Tộ
học ở đâu, tạp chí Tri Tân, số 7 năm 1941,
trang 167].
Qua
đoạn văn nầy chúng ta cũng biết thêm, học giả Đào Duy
Anh sắp Nguyễn Trường Tộ cùng loại với ông Việt gian
Tôn Thọ Tường.
Nếu
quả thực có kiến thức xuất chúng như một số người ca
tụng, nhưng ông ta không dùng kiến thức của mình để giúp
dân cứu nước trái lại giúp cho quân thực dân Pháp để
cứu nguy tình hình vô cùng thảm não của chúng. Sau đây
là hai trong số nhiều bằng chứng:
Bà
Lê Thị Lan tiếp tục ca tụng “chủ trương, đổi
đất lấy hoà bình “của Nguyễn Trường Tộ nhằm tận dụng
cơ hội canh tân đất nước là có cơ sở”. Mời
độc giả và bà Lan xem sử liệu dưới đây để biết “HÒA”
của Nguyễn Trường Tộ nhằm mục đích gì, có cơ sở chỗ nào? Và
đổi từ 3 tỉnh, đến 6 tỉnh, cuối cùng đổi hết cả nước!
Trong Thiên
hạ đại thế luận và một số bài chiêu dụ khác, Nguyễn
Trường Tộ khuyên triều đình và quan dân Việt Nam nên
hòa, nên hợp tác với Pháp, nên cho lính nghỉ ngơi để
Pháp giữ bờ cõi cho mình. Trong lúc tình hình quân
Pháp thê thảm như sau:
Bản
báo cáo của tướng Bonard đề ngày 18/12/1862 cho thấy:
“Các
tàu tôi hiện có, trừ hai chiếc Forbin và Cosmao, đều
không thể ra khơi... Đoàn quân viễn chinh bị bệnh tật,
chết chóc, sự giảm quân làm cho yếu kém, đang bị sử
dụng quá sức: Tôi hoàn toàn bị tê liệt về các phương
tiện hành động; tàu bè thì thiếu và bị hư... Tình trạng
thảm hại đó nếu không sửa chữa sẽ đưa thẳng chúng ta
đến một tai họa không xa! Tôi thấy có bổn phận phải
báo cho ngài biết... Thật là đau đớn, sau bao cố gắng
quá sức con người mà tôi đã làm từ 15 tháng nay, bây
giờ thì mọi thứ đều phải xem xét lại, do sự bỏ rơi
các vấn đề của Nam Kỳ... các cuộc khởi nghĩa đồng loạt
nổi lên khắp nơi... Tôi bị đẩy vào thế tự vệ, không
có phương tiện để lập một đoàn quân chỉ 200 người...
Tôi yêu cầu Đô đốc Jaurès gởi ngay cho một số viện
quân. Nếu lực lượng tăng viện đến ngay, tôi có thể
làm chủ được tình hình, nếu không thì đành bất lực” (Thư
khố Bộ Ngoại giao châu Á, kỷ yếu và tài liệu,
tập 28, tr. 221-224. Dẫn theo CHT, tr. 170).
Nguyên
văn tiếng Pháp:
“Les
vieux bâtiments dont je dispose sont, à l'exception du
Forbin et du Cosmao, incapables de prendre la mer...
Le personnel du corps expéditionnaire affaibli par les
maladies, les morts et les congédiements, est surmené:
Je suis complètement paralysé dans mes moyens d'action;
mes navires sont insuffisants et en trop mauvais état...
Cet état déplorable, si l'on n'y porte un prompt remède,
nous mène droit à une catastrophe qu'il est de mon devoir
de signaler à Votre Excellence comme imminente... Il
est pénible, après les efforts surhumains que je fais
depuis 15 mois, de voir tout remis en question, par suite
de l'abandon dans lequel sont laissées les affaires de
Cochinchine... L'insurrection a éclaté partout à la fois...
Je suis réduit à la défensive, n'ayant pas les moyens
de former une colonne de 200 hommes... Je demande à l'amiral
Jaurès instamment de m'envoyer quelques renforts. Si
ces renforts arrivent promptement, je pourrai me rendre
maitre de la position, si non, non” (Dépêche du 10, 12,
1862, Archives du Ministère des Affaires Étrangères Asie,
Mémoires et Documents, vol. 28, fol. 221-224).[Có thể
xem thêm nhiều thí dụ trong: Bùi Kha, Nguyễn Trương
Tộ & vấn đề canh tân, Nhà xb Văn học, 30.3.2011,
tr.50-59].
Trước
tình hình nguy ngập ấy, ngày 8-4-1859 một chỉ thị khác
của Bộ Hải Quân và Thuộc Địa gởi cho Đô
đốc R. de Genouilly như sau:
“…Vì
thế Hoàng Thượng tin cậy ở kinh nghiệm và sự sáng suốt
của Ông trong mọi quyết định, với lực lượng dưới quyền
Ông điều khiển, có nên theo đuổi việc thiết lập nền
bảo hộ trên Vương quốc An Nam không; hay chỉ nên cưỡng
bức Chính phủ họ, nhờ vào việc chiếm đóng Đà nẵng và
nhiều cứ điểm khác mà Ông đã chiếm hay sẽ chiếm được.
Cùng với việc phong tỏa một hay nhiều cảng ở Nam Kỳ
để đi đến sự ký kết một hiệp ước trên nền tảng kế hoạch
25-11-1857; hay cuối cùng là chúng ta đành bỏ các vị
trí mà chúng ta chiếm đóng và từ bỏ hẳn mọi mưu toan
rõ ràng ngoài tầm các phương tiện hoạt động mà Ông
có” [1].
[1] [“Sa
Majesté s'en rapporte donc à votre expérience et à
votre sagacité pour décider si avec les forces placées
sous votre commandement, il convient de poursuivre
l'établissement de notre protectorat sur l'Empire annamite;
s'il est préférable de se borner à peser sur son gouvernement
par l'occupation de Tourane et de tels autres points
dont vous avez pu ou vous emparer, ainsi que par le
blocus d'un ou de plusieurs ports de Cochinchine, pour
arriver à conclure un traité sur les bases du projet
du 25 Novembre 1857; ou enfin s'il faut nous résigner
à abandonner les positions que nous occupons et à renoncer
complètement à une entreprise, décidément hors de proportion
avec les moyens d'action dont vous disposer”. (Instruction
du Ministre de la Marine et des Colonies 8-4-1859,
Archives Nationales, Fonds Marine, BB4 1045)].
Nếu
ông Nguyễn Trường Tộ, quả tình, không biết tình hình
nguy ngập của quân Pháp thì ông là « Trạng Tộ » như
thế nào, cân im lặng. Cố vấn kiểu nầy cần xét xử hay
nên ca tụng ?
Về
chỉnh trang võ bị, ông không có một sáng kiến nào mà
chỉ cóp nhặt trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp lại còn không
đề xuất xứ. Sử liệu:
Tám
điều cần phải làm gấp của
Nguyễn Trường Tộ. Điều thứ nhất: “Xin
gấp rút việc sửa đổi võ bị”.
Đọc
cuốn Tôn Ngô binh pháp, chúng ta thấy Nguyễn Trường
Tộ lấy ý trong cuốn sách này. Đã vậy, ý của ông so ra
còn kém xa, sau đây là một số dẫn chứng.
a. Nguyễn Trường Tộ viết: “Cái khó của môn học này là
người học võ học các sách binh thư đồ trận. Học sách
xong phải thể nghiệm tập tành. Học cái gì tập luyện
cái đó. Óc sáng suốt, cái nhìn nhanh như thần mới nắm
được cốt cách mau lẹ...”.
Tôn
Ngô binh pháp:
“Việc
binh, lấy trá mà thành. Lấy lợi mà động. Lấy hợp tan
làm biến hóa. Nhanh như gió. Thong thả như rừng. Lấn
cướp như lửa. Bất động như núi. Khó biết như mây” (Tôn
Ngô binh pháp, Ngô Văn Triện dịch, tr. 121-122).
b.
Nguyễn Trường Tộ:
“Kẻ
học võ học các phép động tĩnh đánh đấm đúng chân truyền
mới không sai khi ứng dụng...”.
Tôn
Ngô binh pháp:
“Tính
giỏi thì biết cái thế đắc thất. Tác động để biết cái
động tĩnh. Nghiên cứu địa hình để biết sống chết. So
đọ để biết chỗ thiếu thừa” (TNBP, tr. 108-109).
c. Nguyễn
Trường Tộ:
“Kẻ
học võ đối với những nơi hiểm yếu có tính cách sinh
tử, những hình thể có tính cách quyết định thắng bại,
phải giả tạo hiện địa, lập trận đồ đích thân luyện
tập (Binh pháp phương Tây như thế) mới thể nhận được
rõ ràng…”.
Tôn
Ngô binh pháp:
Ứng
biến về địa thế: “Tránh chỗ bằng, đón chỗ nghẽn, lấy
một đánh mười đâu bằng chỗ nghẽn, lấy mười đánh trăm
đâu bằng chỗ hiểm, lấy trăm đánh nghìn đâu bằng chỗ ngẵng”
(TNBP, tr. 281).
d.
Nguyễn Trường Tộ:
“Kẻ
học võ quan sát đồn bót xem mặt nào có thể đánh được
giữ được, hướng nào có thể ra được vào được, phải chính
mắt xem xét rõ ràng hình thế địa lý và ghi nhớ trong
lòng (Võ quan phương Tây như thế).
Tôn
Ngô binh pháp:
“Người
giỏi đánh quân địch không biết đâu mà giữ, người giỏi
giữ quân địch không biết đâu mà đánh” (TNBP, tr.
89).
e. Nguyễn
Trường Tộ:
“Con
nhà võ khi ra trận tên đạn trước mặt, gươm giáo sau
lưng, tiến lên thì chết vào tay giặc, thoái lui thì
luật nước không cho. Lệnh xuất quân đã ban thì quên
nhà, trống thúc quân đã giục thì quên mình...”.
Tôn
Ngô binh pháp:
“Ra đến cửa như thấy quân địch, khi lâm trận không
nghĩ đến sự sống, phá được quân địch mới tính chuyện
ra về”(TNBP, tr. 278).
g. Nguyễn
Trường Tộ:
“Con
nhà võ biết bắc cầu đắp đường, dựng đồn lập lũy. Công
việc của họ làm thiên biến vạn hóa. Nương theo địch
mà tìm cách thắng địch, tùy theo địa thế mà lập cách
phục binh, xuất quỷ nhập thần không theo một phương
thức sẵn có hay một khuôn khổ nhất định. Cho nên, cái
kỳ diệu của nhà binh không thể báo trước được”.
Tôn
Ngô binh pháp:
“Việc dụng binh hễ được thế thì mạnh mất thế thì
yếu. Mạnh thì hăm hở, yếu thì rụt rè” (TNBP,
tr. 89). “Dọa phía Đông, đánh phía Tây,
nhử phía trước đánh úp đằng sau, biến hóa khôn cùng”
(TNBP, tr. 98).“Tiến mà họ không chống
được bởi ta xông vào chỗ thực, lui mà họ không đuổi
kịp vì ta nhanh chóng mà họ không thể theo” (TNBP,
tr. 100).
“Tránhlúc
địch hung hăng, đánh úp lúc chúng trễ biếng. Lấy gần
đợi xa, lấy nhàn đợi nhọc, lấy no đợi đói” (TNBP,
tr. 128-129). “Mồi nhử chớ ăn, giặc cùng chớ bách”
(tr. 133-134).
Sáu
đoạn so sánh trên có lẽ đã cho chúng ta biết ý kiến về
võ bị của Nguyễn Trường Tộ phát xuất từ đâu.
C.
T3 (Tiền
hoặc phương tiện)
Một
số người gán nhầm cho Nguyễn Trường Tộ rằng ông ta có
chương trình và kế sách canh tân. Dưới đây chúng ta sẽ
nêu vài điểm để làm cơ sở lý luận và xác minh:
- Muốn
canh tân, quốc gia phải có chủ quyền. Nhưng Nguyễn Trường
Tộ đã viết bài khuyên triều đình cho lính nghỉ ngơi để
Pháp giữ bờ cõi cho mình (Thiên hạ đại thế luận,
TBC, tr.107). Ngay cả không có lính hoặc cảnh sát, công
an giữ an ninh trật tự thì có canh tân được không, giả
thiết ông có chương trình canh tân?
Nhân
sự để canh tân:
Trong bài chiêu dụ “Dùng giám mục linh mục vào việc
canh tân” (TBC. Tr. 188) Nguyễn Trường Tộ đề nghị bốn
linh mục là các ông Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng,
Nguyễn Điều và Nguyễn Lâu.Sơ lược về các linh
mục và giám mục mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị vào việc
canh tân. Chúng ta có các chi tiết sau đây:
* Theo
bài viết Nguyễn Trường Tộ học ở đâu, học giả Đào
Duy Anh đã dẫn ở trên, chúng ta được biết: Nguyễn Trường
Tộ và Linh mục Nguyễn Hoằng như sau:
“Nguyễn
Trường Tộ học rộng nhưng viết và nói tiếng…như các
ông Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Hoằng. Bởi thế, ông không
khi nào làm thông ngôn. Mà khi giúp việc cho súy phủ
thì chỉ làm việc từ hàn (Lettré) cũng như Tôn Thọ Tường.
Mỗi khi Triều đình cần dùng người thông ngôn thì Nguyễn
Trường Tộ cứ giới thiệu Nguyễn Hoằng (Linh mục Hoằng)
chứ tự mình không khi nào đương việc ấy”.
* Về
những người làm thông ngôn như Nguyễn Hoằng, những viên
thư ký, như Nguyễn Trường Tộ, nhà sử học Cultru đánh
giá họ như thế nào? Tôi chỉ tóm lược:
Đề
đốc Rieunier nói: “Chúng tôi chỉ có những giáo dân
và bọn du thủ du thực”.
Đại
tá Bernard cũng khinh miệt: “Bọn lang bạt bị trục
xuất khỏi làng vì đói rét, hoặc vì tội phạm xô về đây
với cái lưng mềm dễ uốn, họ ham sống sợ chết, họ hoàn
toàn hờ hững với cuộc đấu tranh của dân tộc họ, phụng
sự bất cứ những ông chủ nào...”.
Người
ta sẽ tuyển dụng trong số họ tất cả nhân viên hành
chánh cần thiết cho địa phương hoặc những người
giúp việc gia đình: Làm đầy tớ, khuân vác, chạy giấy,
và có những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép,
được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của hội Truyền
giáo, chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn
này mà quân đội thực dân mới đổ bộ lên làm quen với
người Việt Nam”.
Qua
sử liệu vừa trích dẫn trên cho thấy chính đề đốc và đại
tá người Pháp cũng đánh giá những người thông ngôn, phiên
dịch, ghi chép là những kẻ khốn nạn... “Lưng mềm,
dễ uốn, ham sống, sợ chết, phụng sự bất cứ những ông
chủ nào…”.
*
Còn Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn
Hoằng và Nguyễn Điều là một tên gián điệp mà tôi đã đưa
ra sáu dẫn chứng ở phần trước. Sau đây là một số dẫn
chứng khác
*
Theo sự tích ông Nguyễn Trường Tộ, thì năm 1858, Giám
mục Gauthier có đem theo vào Đà Nẵng cụ Khang, cụ Điều
(người An Phú), cụ Huấn (người Trung Hậu), khi ấy cả
ba ông chưa thụ chức thầy cả”(TBC,
Sđd, phần chú thích, tr. 190).
“Sau
này chúng ta chỉ thấy Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và
Joannes Vị cùng đi Pháp với Giám mục Gauthier và Nguyễn
Trường Tộ (1867-1868) (TBC, Sđd, tr. 90).
*
Gauthier dẫn mấy ông này vào để đón giặc Pháp đánh Đà
nẵng năm 1858 mà chúng ta được biết rõ thêm như sau:
“Theo
lời khai của một lang y (người thôn Thuận An, tổng
Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) tên Trần
Vinh bị tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được,
kể lại thì ngày 10 tháng 9 (tức 16/10/1858), tàu Pháp
(trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhãn Sơn, trước cửa
Mành Sơn, để đón “Đức Thầy Huy và Cố Lý” (tức Giám
mục Gauthier và Linh mục Croc, cũng có tên là Hậu và
Hòa) nhưng “hôm qua hai vị đã lấy thuyền Nhà Chung
với 8 người đi rồi”. Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà
nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi” (xem Châu
bản Triều Nguyễn CBR 22/47). Các giáo sĩ Pháp
tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng đứng đầu là Giám
mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp
chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ
huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến
đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước
khi đem quân vào Sài Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly
đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về
nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục
Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp
tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như
thế vào đầu năm 1859” (TBC, Sđd, tr. 22).
Qua
đoạn văn trên mà tôi đã trích lại của Linh mục Trương
Bá Cần, Tiến sĩ Sử học Pháp, chúng ta thấy Giám mục Gauthier,
Giám mục Croc, Linh mục Nguyễn Hoằng, Linh mục Nguyễn
Điều và Nguyễn Trường Tộ... tổng cộng là 8 người đã có
mặt tại Đà nẵng để chào mừng quân viễn chinh xâm lăng
Pháp chứ không thể có hành động nào khác như đi truyền
đạo hay du lịch! Đoạn văn thứ hai trên còn cho biết các
giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà nẵng, đứng
đầu là Giám mục Pellerin (là người được Giáo hoàng Pie
IX tán thành cuộc vận động để Pháp chiếm Việt Nam, BK,
xin xem phần trước), đã cùng nhau làm áp lực để quân
Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm... Đô
Đốc R. de Genouilly không đồng ý vì thấy đó là vấn đề
nguy hiểm nên đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ, Pháp,
hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám
mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người
tháp tùng đã đi sang Hồng Kông... đầu năm 1859.
Linh
mục Trương Bá Cần cho biết thêm:
“Hơn
nữa, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp thì sớm nhất là
giữa năm 1859 mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hồng
Kông đầu năm 1861 để cùng với Giám mục Gauthier trở
về Sài Gòn, theo yêu cầu của Đô đốc Charner viên chỉ
huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng
chiếm đóng ở Sài gòn”(TBC, Sđd, tr. 22).
Nối
kết các đoạn vừa dẫn trên, theo thứ tự thời gian, chúng
ta thấy, hai Linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều mà
Nguyễn Trường Tộ đề nghị Triều đình dùng vào việc canh
tân thì tất cả hai ông đều đã có mặt trong đám linh mục
Pháp mà đứng đầu là Giám mục Pellerin áp lực để quân
Pháp đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Còn Nguyễn Trường
Tộ thì có mặt trong đám giáo sĩ gián điệp và thực dân
hai lần. Lần đầu là tại Đà Nẵng năm 1858, bị Đô Đốc Genouilly
bắt buộc đi Hồng Kông cùng với thầy mình là Gauthier.
Lần thứ hai, năm 1861, cùng với Giám mục tình báo Gauthier
trở về Sài Gòn theo yêu cầu của Đô Đốc Charner... để
mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài Gòn...
Nếu
các vị linh mục nêu trên không thuộc loại người khốn
nạn, cong lưng, chạy theo chủ mới như đại tá Bernard
người Pháp nhận định, thì cũng không thể dùng mấy vị
này vào việc canh tân đất nước được. Không phải ai nói
được tiếng Pháp, làm được thông ngôn thì có thể học được
các kỹ thuật mới? Linh mục thì có thể canh tân giáo hội,
còn canh tân đất nước thì cần đặt lại vấn đề. Hơn nữa,
bốn vị linh mục trên được vị Giám mục tình báo Gauthier
dẫn dắt, cũng làm chúng ta vô cùng lo âu cho cuộc canh
tân nếu Triều đình dùng đến họ.
Sử
liệu cũng cho thấy, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, năm
1871, ý kiến đề nghị “dùng giám mục linh mục vào việc
canh tân” đã có phần “kết quả” như sau:
”… Sau
khi Hàm Nghi lên ngôi đi kháng chiến, Chánh Mông sang
tòa khâm sứ Pháp xin De Courcy để tên đại tướng giặc
thương tình cho hai đội lính Pháp hộ tống sang thành
nội làm lễ đăng quang lên ngôi hoàng đế, đặt ra niên
hiệu Đồng Khánh thì ông vua bù nhìn này được sự cố
vấn của Trương Vĩnh Ký và Linh mục Nguyễn Hoằng (chức
Ngự Tiền Hành Nhân) hợp cùng tay sai đắc lực Pháp như
Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm... ra sức dùng mồi danh lợi
kêu gọi nghĩa quân...”(Phong trào Nghĩa
Hội Quảng Nam, tr. 340). Cùng trang 340 sách này,
tác giả Nguyễn Sinh Duy, chú thích thêm:
“Còn
Nguyễn Hoàng (có chỗ chép Hoằng), sinh 1839, người
Hà Tĩnh, theo đạo Thiên Chúa, từng du học ở chủng viện
Pénang, Mã Lai. Năm 1876, được cử làm Tham Biện Thương
Chính ở Hải Phòng và Hải Dương, năm 1885, hàm Hường
lô tự Khanh kiêm Tham Biện viện Cơ Mật, năm
1886, giữ chức Phụ tế đại thần và Ngự tiền Triều vua
Đồng Khánh”.
Thật
là đại họa, vua nhà Nguyễn nuôi ong tay áo, nhận giặc
làm con. Đến lúc Đồng Khánh được De Courcy cho lên làm
vua bù nhìn để dễ sai bảo, thì thực dân Pháp đã đưa được
ít nhất là hai tên Việt gian là Linh mục Nguyễn Hoằng
và Trương Vĩnh Ký giữ chức quan trọng trong Triều vua
tay sai Đồng Khánh. Trương Vĩnh Ký là một giáo sĩ Ki
Tô tu xuất và đã viết thư tay yêu cầu chính phủ Pháp
đánh chiếm Việt Nam. Xin xem cuốn “Ki Tô giáo, từ
thực chất đến huyền thoại”. Nguyễn Trường Tộ đề nghị
“dùng giám mục linh mục vào việc canh tân” kiểu này
thì thật là hoàn toàn đúng ý và đúng kế hoạch của Giám
mục Puginier và Gauthier: Nhanh chóng biến Bắc Kỳ “thành
một nước Pháp nhỏ” dĩ nhiên, sau đó là đến lượt Trung
Kỳ và Nam Kỳ.
Tóm
lại, qua phương trình ba chữ T nêu trên, chúng ta đã
biết được khá rõ: Tâm, Trí và Phương tiện canh tân, đổi
mới, thực dụng… của Nguyễn Trường Tộ như thế nào?
Trong
bài, Bà Lê Thị Lan ca tụng Nguyễn Trường Tộ đề nghị “Canh
tân nông nghiệp” . Bà viết rất sai vì không đọc
cuốn “Việt
Nam sử lược”,
quyển 2, Trần Trọng Kim, Bộ Giáo Dục, Trung tâm Học
liệu xuất bản, Sài gòn 1971. Có thể tìm thấy một phần
trong Bùi Kha, sđd, tr. 120-126.
KẾT
LUẬN
Đọc
hết 58 bản chiêu dụ của Nguyễn Trường Tộ, một vài chỗ
ông tỏ ra thành khẩn, có lòng yêu nước và vài đề nghị
hợp lý như cải cách phong tục, chỉ huy đào Thiết Cảng.
Về kiến thức, so với những thanh niên Việt Nam khác lúc
bấy giờ vào tuổi khoảng 35, thì Nguyễn Trường Tộ là người
xuất sắc nhờ chu du nhiều nước. Nhưng về những đề nghị
gọi là cải cách của Nguyễn Trường Tộ, thì dưới đây là
một bức tranh khá chính xác về ông ta:
1.
Ý thức hệ chủ đạo:
Nguyễn Trương Tộ phán: Tạo
Vật đã định như vậy, sao cưỡng được.
2.
Lúc đất nước lâm nguy:
tình trạng quân Pháp suy thoái nguy hiểm muốn rút
về, ông khuyên triều đình cho
lính nghỉ ngơi để Pháp giữ bờ cõi cho mình!
3.
Về thế Quốc tế:
Thương hiếu với Giáo hoàng La Mã. Nhưng lịch sử đã
cho thấy là nhiều
cuộc chiến trên
thế giới từ trước đến nay, nhất là giai đoạn Pháp
chiếm Việt Nam đều phát
xuất từ độc thần giáo.
4.
Cố vấn:
Ông Giám mục tình
báo Gauthier có thể giúp.
5.
Trường kỹ thuật:
Được điều hành bởi 3
ông linh mục không có khả năng,
còn ông Ca Xanh đòi lương quá cao và nhiều điều kiện
không thể dùng.
6.
Nhà giữ trẻ, viện mồ côi: giám
mục tình báo sẽ cử người coi sóc để
tạo một mạng lưới gián điệp cùng cả nước Bùi Kha,
sđd, tr.150-155).
7.
Canh tân đất nước: Có
4 ông linh mục Việt gian phụ trách:
Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Nguyễn
Lâu.
Như
thế, từ
tư duy chủ đạo, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng
cơ sở, từ ông có thế lực đến gã cố vấn, nhân viên thừa
hành đều do ngoại bang, gián điệp và các tên giáo sĩ
Việt gian điều khiển hết!
Chúng
ta có cơ sở để tin rằng tất cả 58 bài chiêu dụ, Nguyễn
Trường Tộ và ông tình báo Gauthier đồng tác giả. Trong
đó, ý của Gauthier nhưng lời là của Nguyễn Trường Tộ.
Thông qua Gauthier, Pháp và Vatican muốn ông Tộ phải
viết như thế nào, lộng giả thành chơn và ngụy trang như
thế nào, để có thể dụ được triều đình Việt Nam lọt vào
các bẫy sập của chúng. Vì thế, nên chúng ta không lấy
làm lạ là tại sao những ý kiến trong các bài khuyến dụ
của ông lại vừa thuận lợi cho tình hình quân đội Pháp
tại Việt Nam và nhiều ý lại mâu thuẫn với nhau (tiền
hậu bất nhất), núp dưới chiêu bài canh tân đổi mới, thực
dụng để bủa một mạng lưới gián điệp cùng cả nước nhằm
Pháp hóa toàn cõi Việt Nam. Để được chính xác, mời
độc giả xem một đoạn ý kiến của
giám mục và viên chức cao cấp Pháp:
Giám
Mục Puginier: Lúc
nào Bắc Kỳ trở thành Công giáo thì nó cũng trở thành
một nước một Pháp nhỏ, và Không có các giáo sĩ và giáo
dân thì người Pháp như cua bị bẻ gãy hết càng.
Đô
Đốc Page: Không
có một người Công giáo An Nam nào lại không muốn làm
lính dưới cờ Pháp.
Công
Sứ Bonnal:Khi
một ông giáo sĩ lập được một họ đạo thì giáo dân từ
chối không đóng thuế, ... không thừa nhận chính quyền.
Đô
Đốc Paul Bert:Nếu
tất cả dân An Nam đều là Công giáo, thì chúng ta sẽ
lãnh đạo họ một cách dễ dàng theo ý muốn của chúng
ta.
Vì
kế sách “HÒA” hoặc dụ hòa nên Việt Nam mất ba tỉnh
miền Đông, rồi ba tỉnh miền Tây, cuối cùng mất cả nước.
Nguyễn Trường Tộ, “một người yêu nước nồng nàn,
một nhà canh tân lớn, một kiến thức vượt thời đại”đã
hăm hở và thập thò núp sau bức màn canh tân để
đưa dân tộc ta vào kế hoạch mà 4 ông thực dân, gồm
đô đốc, công sứ và giám mục đã cho thấy như trên!
Do
đó, mong bà Lê Thị Lan và ông Trần Hữu Tá lúc viết nên
kèm theo sử liệu, không nên tùy hứng ca tụng một người
phản dân hại nước. Nhất là vô tình đưa một người có tội
lên ngang hàng với các anh hùng dân tộc!
Bùi
Kha,
6.12.2011
*Nguyễn
Trường Tộ & vấn đề canh tân, Bùi Kha, nhà xb
Văn học 30.3.2011, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học phát
hành. Có bán tại các nhà sách. Có thể liên lạc tòa
soạn Hồn Việt, Đc: 72 Trần Quốc Thảo, P.7, Q.3, TP
HCM. ĐT(08) 6. 290-7530.