Đầu Hàng
Vân Xưa
https://sachhiem.net/LICHSU/V/VanXua.php
26/4/2009
Cập nhật 25/4/2018 (thêm ảnh và LGT của Nam Giao):
Vân Xưa là bút hiệu của Giáo sư Hồ Sỹ Khuê, người gốc tỉnh Quảng Trị, là một trong những “mưu sĩ” của hai ông Diệm Nhu không nằm trong Nhóm “Tinh Thần” (Trần Văn Đỗ, Nguyễn Tăng Nguyên, Lê Quang Luật, …) và đã từng đóng góp một phần vào chánh sách trị nước của ông Diệm trong giai đoạn thành hình của Đệ Nhất Cộng hòa.
Năm 1954, Ông trình bày với hai ông Diệm Nhu một quốc sách dựa vào sức mạnh của lòng dân “Nam kỳ” để xây dựng chiến lược đối phó với phương Bắc. Hai ông Diệm Nhu không nghe, lại dùng “kiêu dân Công giáo” di cư (cụm từ của Tạ Chí Đại Trường) làm chủ lực, gây phân hóa cho miền Nam trên cả ba tuyến Địa phương, Tôn giáo, và Chính trị. Sau đó, khi được mời tham chánh, ông từ chối và trở về dạy học tại trường Jean Jacques Rousseau (Lê Quý Đôn sau nầy) và trở thành người “quan sát thời cuộc”.
Tỵ nạn tại Pháp, với tư cách là chứng nhân và tác nhân thời cuộc, ông viết cuốn “Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh - Lịch trình Hình thành và Giải thể của Mặt trận Giải phóng Miền Nam” (Văn Nghệ xuất bản, USA, 1992) để trình bày luận điểm chính trị-văn hóa của ông và thất bại của chế độ Diệm trong giai đoạn lịch sử nầy.
Nhân kỷ niệm lần thứ 39, của ngày 30 tháng Tư năm xưa, chúng tôi xin đăng lại bài phân tích về ý nghĩa của hai chữ “đầu hàng” trong hoàn cảnh miền Nam lúc bấy giờ của Giáo sư Hồ Sỹ Khuê. – NamGiao, 2014

Vân Xưa
Rảnh rỗi mấy tháng ở Úc, thừa thì giờ nên đọc tập
hồi ký Bên Giòng Lịch Sử của linh mục Cao văn Luận viết từ hai mươi mấy
năm trước, để tán dương Ngô Đình Diệm, sau khi ông Diệm bị lật đổ. Chưa hề xem,
nên xem thử một lần.

Linh mục Cao Văn Luận (1908-1986)
Bên Giòng Lịch Sử, Hồi Ký 1940-1965, Nxb Trí Dũng, Sài Gòn, 1972
Vân Xưa quen biết ông Luận nhiều, từ 1949 đến
1954, ở Huế. Ông được giới thiệu là một tu sĩ Thiên Chúa giáo tiền tiến, du học
từ trước 45, rồi hành đạo nhiều năm ở Pháp, sau đó, năm 48/49 về nước, phục vụ
tông đồ và xứ sở. Vân Xưa kém linh mục quãng mười tuổi, nên trọng ông như thầy,
và đãi nhau như bạn, Cùng một ưu tư về tương lai đất nước, cùng chưa rơi trong
vòng thế lợi, thành ra dễ thông cảm với nhau.
Nhưng đến 54, vì chọn lựa khác nhau nên chế độ Ngô
Đình Diệm đã ngăn cách đôi bờ, không còn dịp gặp nhau đến một lần, trong suốt
chín năm ông Luận phục vụ ông Diệm, trong tư thế cố vấn, ở địa vị Viện trưởng
viện Đại học Huế. Tháng 12-1963, gặp lại nhau một lần duy nhất, trong bữa cơm
một luật sư bạn chung thết, để tiễn ông Luận lên đường sang Hoa Kỳ. Cố nhiên
phải đề cập tới chuyện ông Diệm bị lật đổ. Vân Xưa nửa đùa, nửa thực, khen:
linh mục thay đổi nhanh và kịp thời quá! Rồi thôi, cho đến khi ông mất trong
năm qua, chẳng còn gặp lại nhau nữa, và cũng chẳng buốn xem hồi ký ông cho ấn
hành nhiều lần, từ năm 1967 thì phải.
Ở Úc quay về Pháp, Quê Mẹ cho xem hồi ký Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (https://sachhiem.net/HOANHLINH/VNML0.php), tướng cũ Đỗ Mậu mới xuất bản. Xem mất ba ngày.

Thiếu tướng Hoành Linh Đỗ Mậu
Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Nxb Văn Nghệ, California, 1993
Vân Xưa có biết ông Mậu, cũng ở Huế, nhưng không
quen nhau như với ông Luận, không hề là bạn với nhau. Cả đời gặp nhau có hai
bận. Bận trước, năm 1954, ba mươi ba năm trước đây, trong một cuộc hội thảo, cả
hai cùng tham dự, giữa một số trí thức cố đô, theo yêu cầu của Ngô Đình Nhu, để
đưa ra một đường lối cầm quyền mới cho chính phủ ông Diệm sắp thành lập. Đóng
góp của Vân Xưa về vấn đề "Nam kỳ cũ" có vẻ được ông Mậu chú ý, nên sau ba ngày
xong công việc, trong cuộc rượu kết thúc cuộc hội thảo, ông Mậu mang ly đến gần,
nói vài lời ân cần ngỏ ý muốn làm quen với nhau. Rồi cũng hệt như Linh mục Luận,
chế độ Diệm đã ngăn cách, vì chọn lựa khác nhau. Có khác chăng là ông Mậu không
phải bạn, như ông Luận, nên không còn đi lại với nhau cũng là chuyện thường.
Bận thứ hai, mà cũng là sau cùng, hai mươi lăm năm
trước đây, vài tuần lễ trước ngày 1-11-63. Ông Mậu đến tìm, để bàn với Vân Xưa
việc quân đội định đảo chánh ông Diệm. Với một người không phải là bạn, chỉ gặp
nhau có một bận, chín năm trước, ông Mậu, đang cầm đầu ngành An Ninh Quân Đội,
không ngần ngại gặp lại một lần thứ hai để nói chuyện âm mưu chết sống ấy của
mình, quả thật ông đã gan tày liếp!
Không rõ có phải ông Mậu nhớ đến phần đóng góp của
Vân Xưa, trong cuộc hội thảo ở Huế chín năm trước, để không ngại tiết lộ âm mưu
của mình với một người trong đời mình nay mới gặp lần thứ hai, và sau đó không
còn gặp một lần nào khác.
Trong phần đóng góp ấy, Vân Xưa nêu vấn đề “Nam Kỳ
cũ”, ghi nhận đất đai và dân tình ở đây là điều kiện tiên quyết cho tương lai
của chế độ Sài Gòn, trong hoàn cảnh đất nước qua phân: Miền Nam thắng hay
bại, tùy thuộc quần chúng Nam kỳ cũ, tùy thuộc ở dân quê miệt vườn, trí thức
thành thị, anh em kháng chiến quốc gia, và các giáo phái, chứ không phải tùy
thuộc hoàn toàn ở cá nhân người lãnh đạo chính quyền quốc gia.
Có lẽ ông Mậu, lúc bấy giờ, đã nhận ra được nguồn
cơn thất bại và sụp đổ của chế độ nhà Ngô, nên đã không ngại lậu chuyện mà cả
gan tìm đến người chín năm trước đã từng nêu rõ cái lẽ mất còn này của miền Nam
chăng? Ông Mậu còn đó, chắc có thể trả lời cho câu hỏi này, về tâm sự hai mươi
lăm năm cũ của ông chăng?
Cuộc đảo chánh thành tựu, có tiếp tục liên lạc với
nhau trong hai tháng liền, qua trung gian, rồi thôi. Cho đến nay, cùng ly hương,
nhưng mỗi bên một ngả, và nay được xem “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”.
1950-1954-1963-1975, Cao văn Luận cũng như Đỗ Mậu
đều là những người của thời cuộc. Hơn nữa, những người đã làm thời cuộc. Viết
hồi ký là chuyện họ phải làm. Vân Xưa được xem những gì mỗi người hồi ký, thấy
có bổn phận trình bày bạn đọc mục mình đảm trách, cảm nghĩ về những gì đã xem.
Ở Úc, đọc hồi ký của một người, dù sao cũng đã
từng là bạn, Vân Xưa thấy ngao ngán cái tinh thần Ngô Đình Diệm Linh mục
Cao Văn Luận nêu cao trong Bên Giòng Lịch Sử, như sau:
“Những ai từng có địa vị, vai vế trong nền Cộng
Hòa Nhân Vị đều mang ơn nặng được ông Diệm đưa từ bóng tối ra ánh sáng, cho nên
kẻ đã lật đổ ông Diệm đều thuộc hạng phản chủ, phản thầy”
Thì ra ông, ông Linh mục thấm nhuần nhân vị
tính của nền Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, đã hồi ký cho mọi người là chế độ
nhân vị này chỉ gồm toàn đầy tớ, học trò của ông Diệm, một bọn người chỉ
biết gọi dạ, bảo vâng! Không còn chịu dạ, chịu vâng, mà lại lật đổ thầy mình,
chủ mình, thì chỉ là một bọn phản chủ, phản thầy.
Cộng Hòa: chế độ chủ
và thầy. Nhân vị: một bọn học trò, tôi tớ!
Linh mục Luận biết mình cũng chỉ là một đầy tớ
và học trò của ông Diệm, như mọi người khác đang phục vụ nhà Ngô, theo định
nghĩa của chính ông, vì ông cũng là người đã từng được ông Diệm đưa từ bóng tối
ra ánh sáng. Nhưng trong thâm tâm, Linh mục Luận hẳn muốn người xem hồi ký
liệt linh mục nằm ngoài bọn người phản chủ, phản thầy này. Tuy có một giai
đoạn, dù chỉ vài năm, sau ngày 1-11-63 và trước khi viết hồi ký, ông phô trương
việc ông đã góp phần lật đổ chế độ Diệm, trong tư cách Viện trưởng Đại học Huế
(xin xem phát biểu của ông Viện trưởng về biến cố tháng 11-63, trữ ở Viện Đại
học Huế). Việc chống đối này quả có thực, ông linh mục có tự hào hành động chống
đối ông Diệm cũng đúng. Niềm tự hào ấy đã cho Vân Xưa được cơ hội khen đùa ông:Linh
mục biết thay đổi nhanh và kịp lúc. Nhưng bước qua năm 1967, trong không khí
phục hồi Công giáo Cần lao, danh dự lật đổ chế độ Diệm đã trở nên nặng nề, hai
vai nhà tu có lẽ không mang nổi nữa, ông Luận bèn viết hồi ký, để một lần nữa
trở mình cho kịp lúc.
Chắc hẳn ông linh mục đã xếp tên Đỗ Mậu vào bọn
người phản bội, (trong đó ông linh mục không còn muốn có tên mình). Cũng đúng
thôi: đối với ai lấy cái tinh thần Ngô Đình Diệm, theo định nghĩa Cao văn
Luận, làm một giá trị nhân vị cao cả, như những người hiện nay đang hô hào phục
hồi tinh thần Ngô Đình Diệm, thì Đỗ Mậu, thoát sao khỏi là kẻ phản chủ,
phản thầy.
Nhưng đối với nhân dân miền Nam, trong đó có Vân
Xưa, thì lại khác: Người miền Nam đã reo mừng suốt ba ngày liền khi nhà Ngô
sụp đổ, nghĩa là đã nhìn "bọn phản chủ, phản thầy" theo quan niệm nhân vị của
Linh mục Luận, và trong bọn đó có Đỗ Mậu, là những người con xứng đáng
của đất nước, đã biết thoát ly tập đoàn phản dân, hại nước, lúc bấy giờ đang
hoành hành.
Từ trong tập đoàn phản dân hại nước này, Linh mục
Luận năm 1963 từng cho biết mình đã thoát ra (trong bữa ăn Vân Xưa nhắc đến ở
phần trên) như Đỗ Mậu và cùng Đỗ Mậu. Nhưng đến 1967, khi bọn Cần Lao
Nhân Vị nép sau lưng chính quyền Thiệu/Kỳ, lại tiếp tục hoành hành, Linh mục
Luận hồi ký quay vào không như Đỗ Mậu và không cùng Đỗ Mậu.
Người tu sĩ Thiên Chúa giáo bác học và tiên tiến
này, đã từng nhiều năm, trước 54, là bạn của Vân Xưa, đã từng là quân sư của ông
Diệm, đã từng là Viện trưởng Đại học, lại chưa vượt qua được tầm mức văn hoá
phong kiến! Đáng tiếc: học thức thật không hẳn là kiến thức! Trong một lần
trước ở mục này, Vân Xưa đã bàn đến cái bản chất hoàn toàn thiếu nhân vị của một
nền Cộng Hoà mệnh danh là Nhân Vị, mà Linh mục Luận đã nêu làm tinh thần Ngô
Đình Diệm, và thờ như là một giá trị tinh thần tuyệt đối.
Về Pháp, lại đọc hồi ký này, của một người chưa
từng là bạn, "ít học và dốt nát" (chữ ông Đỗ Mậu dùng cho chính ông), Vân Xưa
nhận ra một điều: không đợi phải gặp nhau mới thực là bạn. Đúng như câu Tỳ bà
hành Ỷ Lan lúc sang Úc, đã trích ghi, khi tặng Vân Xưa tập Gọi thầm giữa
Paris của Võ Văn Ái: cùng một lứa bên trời lận đận, gặp gỡ nhau lọ sẵn
quen nhau.
Đỗ Mậu viết: “Nói cho cùng thì có phải chỉ mình
Dương Văn Minh đầu hàng đâu, những kẻ bỏ nước ra đi trước hay sau ngày 30 tháng
4 cũng là những kẻ đầu hàng. Kẻ đã có lần sát cánh với Dương Văn Minh (tức
Đỗ Mậu) mang hoài bão thay đổi một cuộc cờ nay phải sống xa lìa cố quận cũng
là kẻ đầu hàng, cũng gởi tâm sự cho chim ngàn cá biển”.
Và, nhắc đến trách nhiệm trước lịch sử đối với
hiện tình đất nước, ông Mậu ghi thêm: “Ai là người không có tội”.
Xem đến đoạn vị tướng cũ “thất học”, khiêm tốn
nhận mình cũng là người có tội, và chia cả “Cái tội đầu hàng kẻ thù” với
người bạn đồng đội Dương Văn Minh của mình, tuy không ai buộc, Vân Xưa
thấy ngượng cho ông cố linh mục “bác học”.
Ông linh mục đã cố đem hết sức học quảng bác của
mình để hồi ký cái tội “phản chủ, phản thầy”, cái tội, nếu quả là tội, chính
mình cũng phạm, trút lên đầu người khác, những người trước đó mình đã một
thời minh bạch chia chác với họ công lao chống một chế độ phản nước hại dân!
Trong khi ấy ông Đỗ Mậu “thất học dốt nát”, không hiện diện ở Sài Gòn hôm “Dương
Văn Minh đầu hàng kẻ thù”, vì đã ly hương trước, lại tự buộc mà không ai gán cho
mình cái tội đầu hàng người ta đang tròng vào cổ Dương Văn Minh, để thẳng tay
nguyền rủa.
Nghĩ cũng tội cho học vấn! Ở một nhà tu, học vấn
chỉ đưa đến cho ông Luận một học thức quảng bác ít ai có, và Đỗ Mậu thì nhất
định không có rồi, nhưng lương tri ông không tác dụng được trên cái vốn
học thức ấy để hoàn bị kiến thức mà kết hợp cho ông một ý thức
nhân bản hoàn chỉnh. Thành ra, cũng một việc chính ông đã làm, và đã nói
cho người khác biết (nếu Vân Xưa không phải là người duy nhất được nghe ông) là
mình đã làm, việc làm ấy hôm trước ông xem là danh dự, nên muốn ai cũng biết ông
đã làm, hôm sau người có quyền lực ngầm bảo là tội ác, ông vội vàng kể tội ác ấy
cho người khác, để thiên hạ trong nước tưởng là ông không hề làm!
Có lẽ nhà tu này không bận tâm mấy về chuyện danh
dự, hay, chuyện tội ác. Mà bận tâm hơn về chuyện thế lợi. Hôm qua, lật đổ
ông Diệm là một danh dự, ông linh mục chia cái danh dự ấy để hưởng lợi. Hôm sau,
lật đổ ông Diệm là tội ác, ông linh mục bèn gán cái tội ấy lên đầu người khác,
để khỏi mất phần thế lợi dành cho những ai đã trung thành với chủ cũ. Thế lợi đã
làm ông linh mục quên sống đạo của ông chăng? Việc hôm trước mình cho là phải,
nên mình làm, nếu hôm nay mới thấy rõ là quấy, thì con Chúa đi xưng tội để được
giải tội, không đổ vấy cho ai khác để chạy tội!
Thảo nào thầy Mạnh (Mạnh Tử) cứ nói đi nói lại mãi cái
chuyện lương tri. Đạo Khổng đặt lương tri lên trên hết các khả năng của
mỗi người để thể hiện con người trong bản thân thành thực với chính mình
là căn bản của lương tri. Chúa Jesus không dạy chỉ khác hơn, khi dặn: có muốn
ném đá vào người, hãy xem mình có cùng tội với người mình định ném đá hay không,
trước đã. Khi lật đổ ông Diệm là một công lao, ông linh mục chia công lao ấy với
những người như ông Đỗ Mậu. Khi lật đổ ông Diệm là một cái tội, ông linh mục gán
cái tội ông đã phạm ấy để 'ném đá" vào những người như ông Đỗ
Mậu, hòng chạy tội của mình, bằng ngôn ngữ đạo hạnh của một quan
toà buộc tội người khác! Kể cũng tiện …
Đã bận tâm về thế lợi thì Linh mục Luận, trước sau
cũng vẫn chỉ thuỷ chung với thế lợi, đâu có dốt nát đến nỗi tự buộc mình
vào cái tội "đầu hàng" để chia với Dương văn Minh những lời nguyền rủa. Chỉ có
người "quê mùa dốt nát" như ông Mậu mới hồi ký nhận tội mình trước lịch sử, và
chia với Dương văn Minh cái tội mà một số người đang phỉ nhổ! Một sự phỉ nhổ
không dấu nổi dụng ý, và bài này dùng nguyên tắc chính danh để lột trần.
Cho nên hôm nay "Người Việt Tiếng Việt" bàn về từ
ngữ Đầu hàng. Gọi là để ghi nhận "tấm lòng Đỗ Mậu" đã thuỷ chung với
chính con người mình.
◎◎◎
Quay về phân tích ngôn từ là tâm cảnh trong mục
này, bạn đọc quen rồi với giới hạn đã định, không phải nhắc lại nữa.
Ngôn từ và các loại tâm cảnh được phân tích xong,
bạn đọc mỗi người mang nhận định riêng ứng dụng vào quan điểm xử thế của mình,
thế này thế khác, để có một thái độ của mình, một thái độ chính trị mình chọn
lựa lấy. Đấy là việc của người đọc, không phải của người viết. Người viết chỉ
giữ công việc chính danh, để vạch chỗ tâm cảnh và ngôn từ dùng để diễn đạt tâm
cảnh, có hoàn cảnh khớp hay không khớp vào nhau, hòng giúp bạn đọc tránh chuyện
xử thế lầm lẫn… Vua ra vua, cha ra cha… như lời thầy Khổng.
Ngôn từ phân tích hôm nay là Đầu hàng. Bạn
đọc mục này hãy cùng Vân Xưa, như thường lệ, tìm vào các loại tâm cảnh của
đồng bào trong nước lúc Dương văn Minh đầu hàng Cộng Sản ở sảnh đường dinh Độc
Lập trưa ngày 30-4-1974, để xem hai chữ đầu hàng khớp hay không khớp
với tâm cảnh nào, rồi chính danh cho mỗi loại tâm cảnh.
1. Thoá mạ để chạy tội: Dương văn Minh đã đầu
hàng Cộng Sản
Gần mười hai năm nay, kể từ 30-4-75, tướng cũ
Dương văn Minh được xem là người đã đầu hàng Cộng Sản.
Ở nước ngoài, đồng bào di tản đến đâu, Dương văn
Minh được chỉ danh đến đấy là người đã phản bội đất nước, phản bội dân tộc, vì
đã đầu hàng Cộng sản.
Không phải những người liều mình vượt biên, vượt
biển, lìa bỏ quê hương, sau ngày Dương văn Minh đầu hàng, đã lên tiếng thoá mạ
tướng cũ này như thế. Những thành phần di tản lại là mục tiêu mà âm mưu thoá mạ
Dương văn Minh nhắm vào. Người ta áp dụng định luật Pavlov, chủ ý tạo cho
đồng bào tị nạn các điều kiện tâm lý hướng dẫn, để cho mỗi khi nghe đến tên
Dương Văn Minh liền phản xạ là ông Minh đã đầu hàng Cộng Sản.
Đây là âm mưu của cả một tập đoàn, hai mươi năm
trước ngày Dương Văn Minh đầu hàng, đã liên tục nắm giữ quyền chính để mưu lợi
riêng, lũng đoạn quốc gia, để rồi miền Nam không thoát được tay Cộng Sản.
Cho đến khi không còn hy vọng tiếp tục vơ vét thêm
được nữa, tập đoàn này đã phân tán chạy như một bầy chó đạp phải lửa, hối hả
tháo thân cho kịp trước ngày Sài Gòn sụp đổ. Để lại an hưởng tài sản đã thụ đắc
năm này qua năm khác, lúc cầm quyền trong nước, trên xương, trên máu, của lính,
của dân, mà tiếp tục cuộc sống đế vương ở nước ngoài. Cố nhiên nay ra nước
ngoài, bọn họ thừa tài sản, thừa học thức, thừa bộ hạ tay chân, thừa phương
tiện. Chỉ thiếu có liêm sỉ, nên không ngần ngại sử dụng đủ mọi thứ mánh khóe, kể
cả mánh khóe văn hóa, báo có, sách có, để hài cái tội đầu hàng của Dương
Văn Minh.
Một cách để nói mà không phải nói là: bọn họ vô
tội, không phản bội đất nước, vì không đầu hàng, như Dương Văn Minh (bởi đã trốn
kịp ra nước ngoài). Chỉ Dương Văn Minh là kẻ đã bán đứng miền Nam cho Cộng Sản.
Ở trong nước, không cần phải nói, ai không biết
tướng Dương Văn Minh đã đầu hàng, đã trao quyền chính miền Nam cho phe Cộng
Sản, trưa ngày 30 tháng 4.
Biết rõ như thế, nên quần chúng miền Nam đã cám
ơn ông: trong con mắt nhân dân miền Nam, Dương Văn Minh là con người anh hùng
ngay cả trong giờ phút đất nước sụp đổ, con người đã kề vai gánh trọn sự sụp đổ
của cả một dân tộc lên người mình, hòng tránh cho nhân dân Sài Gòn khỏi phải
thảm sát.
2. Cội nguồn sụp đổ miền Nam: chán ghét chế độ
chiến tranh, thờ ơ trước thế cuộc.
Lúc Quốc hội Mỹ không chấp nhận viện trợ thêm 700
triệu Mỹ kim cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, mọi người đều biết giờ sụp đổ của
chế độ Sài Gòn đã điểm.
Sau biến cố Bình Long thất thủ, Pleiku, Kontum bỏ
ngỏ tháng 1 và 2-75, sang tháng 3-75, lần lượt Huế mất, ngày 25, Đà Nẵng mất
ngày 29. Sau khi chiếm được Đà Nẵng, Hà Nội thấy phải đánh gấp vào thủ đô miền
Nam, để Sài Gòn không kịp chuẩn bị đương đầu, nên đã ra lệnh làm ngơ vùng duyên
hải, giao Trần Văn Trà và Phạm Hùng tập trung lực lượng ở Lộc Ninh, sát nách
thành phố, gởi Văn Tiến Dũng vào Nam cùng tổ chức tấn công Sài Gòn. Và Lê Đức
Thọ vào tiếp để lãnh đạo chiến dịch, về sau được gọi là chiến dịch Hồ Chí Minh,
do bộ ba Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng, Trần Văn Trà chỉ huy.
Các tỉnh vùng duyên hải, sau Đà Nẵng, không còn là
mục tiêu chính của Cộng Sản. Cán cân lực lượng gồm người, vũ khí, phương tiện,
nghiêng hẳn về phía Cộng Hòa, nên Hà Nội phải dồn tất cả sức mạnh hạn chế của
mình ở miền Nam để đánh thẳng vào Sài Gòn.
Thế nhưng lần lượt, sang đầu tháng 4-75, thành
phố Nha Trang, rồi Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, Bình Tuy đã rụng như sung vào
miệng Cộng Sản.
Đây là hiện tượng mọi người ghi nhận: quân dân
miền Nam đã tự thất thủ.
Nhắc lại lịch trình sụp đổ, không phải để nói
chuyện thời cuộc, chuyện chính trị, chuyện quân sự, đã xảy ra trong hai tháng 3
và 4-75 ngắn ngủi, nhưng rất tai hại cho đất nước. Mà là để phơi bày cặn kẽ
nguồn cơn của một sự sụp đổ vẻn vẹn chỉ trong vòng hai tháng. Nguồn cơn của hiện
tượng tự thất thủ nằm trong tâm cảnh quần chúng miền Nam, trong tâm cảnh quân
đội cộng hòa. Tâm cảnh phức tạp và đa dạng của quân nhân, đồng bào miền Nam, đã
là động cơ đưa đến sự sụp đổ mau chóng của một tổ chức nhà nước, gần hay mươi
năm liên tục, nằm trong tay bao thầu của một tập đoàn lãnh đạo chóp bu, không
gốc, không rễ trong lòng dân tộc.
Tâm cảnh chung của toàn thể đồng bào từ lâu rồi đã
chán chiến tranh vì thù ghét một chế độ cộng hòa giả hiệu, hết phong kiến đến
quân phiệt, mà người Mỹ đã không thương tiếc phương tiện dựng nên, để chống Cộng
bất chấp quần chúng trong nước. Cứ nhìn quang cảnh, đầu năm 73, lúc bắt đầu
thi hành thỏa hiệp đình chiến cũng rõ. Nói cho thật gọn, mà cũng thật đúng,
quân dân miền Nam không còn một chút tin tưởng nào ở chính quyền do các ông
tướng Thiệu/Kỳ bám chặt, binh sĩ miền Nam không còn gắn bó với quân đội do các
ông tướng Khiêm/Viên khống chế.

Những cảnh sống ở một góc phố thời trước năm 1975: chợ chiều, đánh giày, con lai |

|
3. Tâm cảnh riêng của anh em quân nhân binh sĩ
Cộng Hòa: chán chiến tranh.
Hai mươi năm quân dân miền Nam chịu đựng cảnh
người Mỹ bao che bất tài, bất công, tham nhũng, bè phái, của một “chí sĩ” lạc
hậu và phong kiến, và nằm trong tay quân phiệt tiếp theo sau. Tất cả đều
nhân danh đủ mọi thứ giá trị tinh thần tốt đẹp, trừ sự ngay thẳng, trừ ý thức
trách nhiệm trước lẽ sống còn của quê hương đất nước.
Nhằm mục đích chế ngự các thế hệ đang trưởng
thành, không để cho thanh niên sinh viên học sinh rảnh tay phát động phong trào
chống đối, nhà Ngô từ các biến cố tháng 11-60, tháng 2-62, cho đến tháng 11-63,
rồi Thiệu/Kỳ từ 1967, đã dùng biện pháp động viên để ngăn chận. Người ta lùa vào
các quân trường lớp sinh viên học sinh mà lựu đạn cay, giây thép gai, không ngăn
được họ biểu tình phản đối vụ ông Diệm đàn áp Phật giáo, phản đối Thiệu/Kỳ âm
mưu hồi sinh Cần Lao Công Giáo. Để khi họ tốt nghiệp, dùng quân kỷ mà giam lỏng
lớp trẻ có học vấn cao vào hàng ngũ các chỉ huy cấp thấp của quân đội.
Lớp chỉ huy cấp thấp ấy, lớp chuẩn úy, thiếu úy,
đại úy ấy, đã mang vào hàng ngũ anh em binh sĩ vốn liếng trí thức và những nhận
xét thiết thân về thời cuộc, rất sắc bén của họ. Hằng ngày họ cùng chia với anh
em binh sĩ một ý thức mới, một cái nhìn khác, về xã hội, về chế độ, về lịch sử,
về lãnh đạo, về chỉ huy, về tình trạng áp bức bất công mà toàn thể anh em binh
sĩ đang là nạn nhân. Chính lớp sĩ quan cấp thấp này, vừa trẻ, vừa có học thức,
được anh em binh sĩ mến chuộng, vì biết tận tụy lo lắng cho anh em, đã gây cho
binh sĩ trong đơn vị họ chỉ huy, một tinh thần chiến đấu chống bất công, bất kể
từ đâu đến. Tất cả dần dà kết hợp nên một thành phần quân đội biết nhận ra chân
tướng của bọn đang thao túng xã hội, thao túng binh sĩ, nhận ra giá trị thực sự
của quân nhân, từ đó họ liền đới với nhau trong một tình cảm huynh đệ.
Họ chống Cộng, nên chịu đựng. Chịu đựng trong hy
vọng sẽ trưởng thành trong quân đội, sẽ cùng một số thượng cấp trong sạch, có tư
cách, có tinh thần trách nhiệm, phối hợp thành một sức mạnh để từ các binh chủng
và một lúc nào đó thuận lợi, làm áp lực chính trị mà cải thiện quân đội, chế độ
và xã hội. Vì họ biết quân đội là cột trụ của chế độ, nên người Mỹ quyết tâm giữ
cho lớp tham nhũng cầm đầu, để dễ sai khiến.
Một Hà Thúc Nhơn vì chống tham nhũng, bị
giới tham nhũng giết ở Nha Trang, một Phạm Văn Lương, mở chốt lựu đạn
ngồi trước thềm Quốc hội chống cường quyền, đã là những điển hình tâm cảnh chán
chường của thành phần quân nhân thanh niên và học thức này trong quân đội.
Đến một lúc nào đó, họ nhận ra các đàn anh họ
trong quân đội đành cũng bó tay trước sự ngu muội của người Mỹ, cho rằng chống
Cộng chỉ cần có một bọn tay sai nắm trọn quyền binh, mà không cần đến quần chúng
nhân dân trong nước. Tướng “ngồi chơi xơi nước” Dương Văn Minh điển hình tình
trạng bó tay này. Cho nên dần dà tâm cảnh buông súng đã manh nha ở lớp sĩ quan
trẻ.
Trong tâm cảnh buông súng, các sĩ quan cấp thấp,
thuộc các lớp thanh niên bị động viên, đã chỉ huy binh sĩ của họ để đánh một
trận oai hùng ở Xuân Lộc với tướng Hưng, tỏ ra dũng cảm của một thế hệ trẻ không
vươn lên được trong hàng ngũ quân đội Cộng Hòa.
Kỳ dư, họ bỏ mặc cho anh em binh sĩ dưới quyền tan
hàng, từ chối chiến đấu, sau khi Bình Long thất thủ: Do đó, từ Huế vào Bình
Tuy, không phải Cộng quân đã chiến thắng, mà binh sĩ Cộng Hòa đã buông súng, và
nhân dân miền Nam đã như nước vỡ bờ, phó mặc tương lai cho một định mệnh Ngô
Đình Diệm rồi Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, dựa trên những người Mỹ mù quáng,
dựa trên Công giáo Cần Lao, đã suốt hai mươi năm xếp đặt sẵn cho miền Nam.
Xuân Lộc: bằng chứng của một quân đội dũng cảm
quyết tâm tự thất thủ vì ghét tham nhũng, chán chiến tranh.

Đoàn xe rút lui khỏi Kontum
4. Tâm cảnh của quần chúng: thờ ơ
Năm 1954, lòng ham chuộng hòa bình được thỏa mãn,
tuy đất nước xẻ đôi, quần chúng trong nước cũng đành lòng, để hành xử quyền được
lựa chọn: hoặc sống ở miền Nam quốc gia để xây dựng một xã hội tự do, hoặc ra
miền Bắc làm cách mạng với Cộng Sản. Quyền chọn lựa ấy được thực hiện cụ thể.
Gần một triệu đồng bào rời bỏ đất Bắc quê hương, vào nương náu ở miền Nam, mong
tìm một đời sống có nhân tình. Nhưng đồng bào Bến Nghé, Đồng Nai, chẳng có mấy
ai chọn lựa theo Cộng Sản ra Bắc. Trừ các cán bộ trung kiên, không kể gốc Nam,
gốc Bắc.
Tất cả người sống ở miền Nam đều đã chọn lựa tự
do, không ai chối cãi được, kể cả bọn Cộng Sản mồm loa mép giải đã quen.
Trong tinh thần chọn lựa ấy, đồng bào di cư được
đùm bọc đến nơi, đến chốn. Cũng không ai chối cãi được sự kiện này, khi các khu
trù mật Vị Thanh, Cái Sắn, được thiết lập riêng cho người di cư mà không hề gây
một xúc động tranh ghét nào của đồng bào tại chỗ.
Trong tinh thần chọn lựa ấy, dân chúng đất cũ Nam
Kỳ đinh ninh đã đến lúc cùng tất cả các thành phần nhân dân miền Nam xây dựng và
mở mang phần đất đã cùng nhau chọn để mà sống với nhau trong tự do. Cũng không
ai chối cãi được sự kiện này: quần chúng Nam kỳ cũ không hề hùa theo các giáo
phái để chống chính quyền Ngô Đình Diệm, tuy chẳng ủng hộ con người họ chưa biết
hẳn là thế nào. Chỉ vì ai cũng muốn tránh xáo trộn để sống an lành, sau chín năm
chiến tranh giải phóng.
Từ bước đầu tốt đẹp nhường ấy, hai mươi năm tiếp
theo sau đã diễn ra một cảnh tượng, ngày nay nhắc đến, không ai khỏi bàng hoàng.
Một người được xưng tụng là chí sĩ mở đầu một chế độ gọi là Cộng Hòa,
sau đó gán thêm vào mỹ từ Nhân Vị để che đậy bản chất độc tài, kỳ thị,
gia đình trị, dần dà tách chính quyền xa hẳn nhân dân, đưa đến tình trạng biến
Nhà nước và nhân dân thành hai đối tượng thù nghịch lẫn nhau. Nhà cầm quyền lo
củng cố địa vị nên chỉ bận đương đầu với quần chúng trong nước, hơn là lo việc
kiến thiết đất nước, hơn là lo việc xây dựng một xã hội đáng sống cho người
trong nước. Khi thấy không có ai theo mình, lại dùng trò tố Cộng để khủng bố,
đàn áp, mà chống nhân dân.
Ai đã từng xem tranh ảnh nhà Ngô đăng trên tờ
Paris Match, các anh em xiêm thêu, gấm áo, rực rỡ, xuê xoang, vây quanh ông
Diệm, đều ý thức được đến nơi sự phân cách giữa Nhà nước họ Ngô và quần chúng
miền Nam. Nhất là bức ảnh chụp sau ngày được giải cứu khỏi cuộc binh biến
1960: ông Tổng thống xun xoe đứng trên bực cao, tay cầm một xấp giấy bạc 500,
thả lòa xòa xuống thấp, một lũ quần thần tay chân, bộ trưởng có, tướng tá có,
chen nhau khom lưng nhặt từng tờ, như một món tiền thưởng công, để chia nỗi mừng
thoát nạn của chủ, của thầy mình. Ai ở Pháp có thể tìm xem bức ảnh này ở các thư
viện, ở tuần báo Match. Hoặc ông Ngô Đình Luyện còn giữ làm kỷ niệm chăng.

Dân chúng mừng rỡ tràn đến xem quanh hàng rào Dinh Độc Lập
Cứ nhìn cảnh dân chúng miền Nam, suốt ba ngày
liền, đã chạy rông ngoài đường phố reo hò vang dội, để mừng việc sụp đổ của gia
đình họ Ngô, đủ thấy lòng dân chán ghét chế độ Cộng Hòa Nhân Vị đến thế nào.
Dương Văn Minh, người anh hùng Rừng Sát, một lần nữa lại xuất hiện trước mặt
quần chúng miền Nam là người anh hùng đất nước. Nhân dân miền Nam nghĩ là khi đã
loại bỏ được nhà Ngô rồi, chế độ mới sẽ đáp ứng được các đòi hỏi của dân tộc,
dân quyền, để xây dựng một xã hội văn hóa và phát triển, trong tinh thần nhân
tình, tự do, công lý.
Nhưng hết Cộng Hòa Nhân Vị phong kiến lại Cộng
Hòa Quân Phiệt. Một số tướng lãnh thối nát nối vòng
tay lớn với Cần Lao Công Giáo, để tiếp tục đục khoét miền Nam, biến nước ta
thành vùng đất mầu mỡ cho tham nhũng, cho bất công.
Hiệp định đình chiến thi hành. Nhóm tướng lãnh cầm
quyền phô trương khí thế giả tạo, để che đậy các mánh khóe có vết gấp, hòng thu
thập tài sản chợ chiều còn sót, chờ cuốn gói kịp lúc. Đất nước, nhân dân, chưa
bao giờ họ đã bận tâm, trong giờ phút vơ vét hối hả sau cùng, lại càng chẳng
phải bận tâm đến. Để hốt cho thật trọn vẹn, chúng bám chặt quyền lực đến cùng.
Đến lúc ngày một ngày hai là sụp đổ, chúng mới chịu buông để tháo chạy.
Trong vòng đúng một tuần lễ, Thiệu/Khiêm “dọt”
trước, hôm 24-4. Rồi lần lượt những Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang “dọt” tiếp
theo. Lả lướt hơn cả là ông tướng tàu bay. Một ngày trước khi Cộng quân tiến vào
dinh Độc Lập, chân ông bước lên máy bay để “dọt”, miệng ông dõng dạc tuyên cáo
quyết tâm không rời bỏ quê hương, kêu gọi đồng bào hãy cùng với ông tử thủ chống
Cộng.
Quần chúng trong nước biết trước sự tình rồi sẽ
xảy ra như thế. Biết rõ trước sau mình cũng sẽ là nạn nhân. Cảnh tượng tự
thất thủ, từ Bình Long đến Pleiku, Kontum, sau đó là miền duyên hải, đã hiện
thực nỗi chán chường của toàn thể nhân dân. Tâm cảnh chung là buông xuôi, là
phó mặc, biểu thị sự thờ ơ, tình thế ra sao thì ra, Cộng Sản có vào cũng thế
thôi, chẳng còn chi khác để chọn lựa.
Tâm cảnh phó mặc, tâm cảnh thờ ơ của quần chúng,
cùng tâm cảnh buông súng của thành phần quân đội trong sạch và lý tưởng, đã kết
hợp dọn đường cho xe tăng Cộng Sản tiến vào dinh Độc Lập mau chóng. Bộ Chính trị
Hà Nội không đủ quân lực mạnh ở miền Nam để thắng gấp. Nhóm Thiệu/Kỳ và tướng tá
Sài Gòn lo vơ vét, có nghĩ đến việc chiến đấu đâu để thắng, để bại. Chỉ có thời
cuộc đất nước chúng ta đã ngưng đọng trong tâm cảnh nhân dân, quân đội, trưa
ngày 30-4-75: Quân và Dân miền Nam đã “tự thất thủ” để chấm dứt chiến
cuộc.
5. Tâm cảnh nhóm tướng lãnh cầm quyền: tháo
thân kịp lúc
Khi nhân dân thờ ơ, khi binh sĩ buông súng, có chế
độ nào tồn tại được. Nhóm tướng lãnh cầm quyền hiểu rõ điều này trước mọi người,
nhất tề xếp đặt việc sụp đổ, từ cuối tháng 3-75. Chúng bày trò thiết quân lập,
cấm dân thường đi lại vào ban đêm, để tự do di chuyển nhân sự và tài sản riêng
của chúng hòng sửa soạn cho trôi chảy việc tháo thân.
Tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng này khác, tướng
tá đầu não quân đội Cộng Hòa, những người trước sau vẫn thao túng đời sống xã
hội bằng quyền lực không có kiểm soát, tha hồ tự tung, tự tác, nay cấp kỳ, có
sẵn đủ mọi thứ phương tiện để đào tẩu kịp thời. Nên vẫn giữ giọng hùng hổ, nhất
hô thiên ứng, mong đánh lừa quần chúng không cho nhìn thấy sụp đổ đến nơi. Để
người trong nước không chú ý là bọn chúng đang lo việc tháo thân. Nhưng chẳng
bịp được ai.


Những tâm cảnh tháo thân này đa dạng:
Tháo thân nhưng còn
phải chuyển tài sản quốc gia, nhất là vàng, theo ra nước ngoài thành của riêng
mình, như Thiệu/Khiêm.
Tháo thân, nhưng còn
phải bày trò huê dạng người hùng Cầu Muối, như ông tướng “trừ gian”.
Tháo thân nhưng buộc
phải lừa lọc anh em binh sĩ, như tướng Viên, tướng Lộc, chia nhau sau trước vụ
Tổng tham mưu, để “tham mưu” việc xa chạy cao bay, trốn bỏ quân đội.
Nhưng phải nói đến thành phần nhân viên Nhà nước,
những công chức cao, không bè phái, không thế lực, không có tài sản lớn; phải
nói đến các lớp sĩ quan không biết chia chác, luồn cúi, đục khoét. Họ mang
tâm cảnh bế tắc. Vì thấy rõ mình là nạn nhân bị đàn anh bỏ rơi lại, để riêng
gánh chịu sự trừng phạt, sự nguyền rủa, đánh vào các cơ thể nhà nước trong giờ
sụp đổ. Và nhất là sau đó, trong khoảnh khắc, họ biến thành “ngụy quân/ngụy
quyền”. Cho đến nay, mười hai năm qua, phần lớn nếu còn sống sót dưới gót sắt
của Cộng Sản, đang quằn quại trong các trai học tập cải tạo bất nhân. Tâm cảnh
sợ hãi khiến họ mong được yên thân, rồi có ra sao cũng đành chịu.
Chưa kể đến hai thành phần khác, quan không hẳn ra
quan, dân không còn là dân. Thành phần trước: một số lớn những người có chân
trong các đoàn thể, đảng phái, tôn giáo, trước sau vẫn giữ được không vấy bùn.
Họ mang tâm cảnh thản nhiên, thế tục trước sau vẫn không làm họ bận lòng, và
họ chỉ mong mỏi hòa bình, ngưng việc chém giết, cho đồng bào được sống an lành.


Và những người sinh hoạt trong các cơ sở kỹ nghệ,
thương mại, nhân viên chưa từng chia phần lợi kinh tài của chủ. Trong giờ phút
quyết liệt sắp đến, chẳng có quyền lực nào ngó ngàng đến họ, và họ mang tâm cảnh
những con tốt phải mang thí chỉ mong được yên thân, ai thắng ai bại không còn là
vấn đề họ phải thiết thân đến nữa.
Thành phần sau: đa số đồng bào di cư, người Bắc
thiên di vào Nam từ 1954, được cột chặt vào nhiệm vụ hậu cần chính trị cốt tủy
và liên tục cho hai nền Cộng Hòa miền Nam. Đa số họ kém ý thức, đã phục tùng vô
điều kiện tập đoàn lãnh đạo của họ gồm một số tu sĩ Thiên Chúa giáo hiếu động và
quá khích, và các tay kinh tài chuyên nghiệp trong việc đồng lõa với tập đoàn
cầm quyền. Hai hạng người này thường xuyên toa rập với nhà nước, đã mau chóng
chia được phần thế lực, nhờ thế mà mau chóng trở thành tỷ phú, triệu phú miền
Nam. Suốt hai mươi năm, đoàn thể đồng bào di cư đã hoàn toàn bị hai hạng người
này điều động, chỉ huy, mua chuộc, đẩy ra múa rối trên sân khấu chính trị miền
Nam, thành phần này thấy rõ trong giờ phút mất còn đang điểm, “lãnh tụ” của họ
vội vàng bỏ rơi họ, nên cũng mang tâm cảnh sợ hãi, mong mua chuộc những tội ác
không phải do mình.
Nhưng phải liệt ra ngoài thành phần di cư một số
nhà tu, một số kinh tài, đồng lõa thường xuyên với tập đoàn tham nhũng, đấu thầu
việc bao biến đồng bào di cư để làm hậu cần cho Diệm, cho Thiệu, cho Kỳ. Nên
được cất lên hàng lãnh tụ, thừa uy thế, thừa tài sản, đủ phương tiện, để không
cần đến ai vẫn thoát đi được. Có ăn, có chia mà không có chịu. Hạng người này
cũng mang tâm cảnh thoát thân, bất chấp đồng bào cùng họ đã từ Bắc di cư vào
Nam, mà họ đã đẩy vào ngõ cụt.
6. Quyền lực Nhà nước vứt bỏ trên đường phố
Trước ngày Sài Gòn thất thủ, trong hoàn cảnh dân
chúng thờ ơ, binh sĩ buông súng, tập đoàn cầm đầu nhà nước hối hả lo việc thoát
thân, các cơ chế nhà nước bề ngoài tuy còn nguyên vẹn, nhưng quyền lực nhà nước
đã bị vứt bỏ trên đường phố, chẳng ai đoái hoài đến. Dân ngoài phố sợ bọn vô lại
làm càn trong những ngày không còn phép nước, nên càng mong thời cuộc kết liễu
gấp. Mọi người sẵn sàng chấp nhận một cuộc đổi mới, dù không tin rồi sẽ an lành,
nhưng không còn tránh được. Chế độ tham nhũng cuốn cờ, ít ra đây cũng là điều
làm mọi người thỏa dạ.
Ai cũng biết thủ đô đang bị vây hãm, bà con có thể
bị pháo kích, bị tấn công. Quân đội Cộng Hòa đã tan hàng, binh sĩ cởi giáp quăng
súng khắp các ngõ hẻm thành phố, trực thăng Mỹ di tản rầm rộ trên bầu trời. Ông
Trần Văn Hương mấy ngày trước nhận làm cầu thang cho Thiệu/Khiêm nhẹ mình lên
máy bay chạy trốn, lại lẩm cẩm lên giọng kháng cự, tử thủ, khi Chính phủ đã nhàu
như giấy bị nhai, khi quân lực không còn xương sống, khi nhà nước mềm như xác
chết! Ông làm gì được đây, và làm với ai đây?


Quân nhân VNCH vất bỏ quân trang ngày 30/4/1975
Cộng Sản tàn ác, điều ấy chẳng đợi tuyên truyền,
dân chúng đã biết. Nhưng làm thế nào thoát được họ đây? Cộng Sản có giết, có
tha, nhân dân miền Nam tránh sao khỏi. Hai mươi năm qua, Diệm, Thiệu, Kỳ và tay
chân, trước sau đã thay tay nhau đặt gọn miền Nam vào trong tay Cộng Sản rồi!
Mọi người đều mong rồi ra người trong nước, dù Bắc dù Nam, dù Cộng Sản dù Quốc
gia, sẽ dung hợp với nhau trong một đất nước hòa bình, tuy ngờ ngợ chỉ là ảo
vọng.
Cộng Sản Hà Nội muốn thắng lợi ngàn năm một thuở
của chúng được hoàn toàn rực rỡ, nên buộc “chính quyền bù nhìn” Sài Gòn phải đầu
hàng vô điều kiện. Miệng lưỡi Võ Đông Giang, chỉ huy cuộc tấn công thủ đô: Đầu
hàng nhân dân, không phân biệt miền Nam, miền Bắc, Cộng Sản đã thắng Mỹ, miền
Nam, miền Bắc cùng thắng với nhau, giữa hai miền không có thắng bại.
Tất cả bài toán là đây: ông quyền Tổng thống
Hương, mang tâm cảnh chí sĩ, nói cứng, nhất định tử thủ chứ không đầu hàng.
Nếu cụ làm như cụ nói, cụ tử thủ với lực lượng nào? Dân chúng đã thờ ơ, quân đội
đã tan hàng, binh sĩ theo nhau cởi bỏ quân phục, vứt cả vũ khí trên đường phố
giữa thanh thiên bạch nhật. Cụ nghĩ chuyện tiết tháo, chuyện hảo hớn, nhưng
không nhìn ra được tiết tháo ở Phan Thanh Giản, hảo hớn ở Võ Tánh, lúc chính
quyền cụ giữ trong tay chỉ là một chính quyền ma, dân không, quân không. Trong
tâm cảnh trái chứng muộn màng ấy, cụ muốn quần chúng thủ đô chịu thảm sát để cho
cụ thành hảo hớn, thành chí sĩ! Sự kiện này không phải người viết võ đoán mà
nêu ra ở đây.
Cụ Hương muốn thủ đô đi vào biển lửa: người chiến
sĩ đầu hàng sao được! Cũng phải! Hai chữ đầu hàng này, ngày nay ở nước
ngoài, những người đã hai mươi năm dày xéo lên miền Nam đang mang ra thóa mạ
Dương Văn Minh. Tội nghiệp cho cụ! Cụ mắc lỡm Thiệu/Khiêm: chúng mớm cho cụ hai
chữ tiết tháo để chúng được nhẹ nhàng cất cánh, và cụ nhất đinh chờ chúng mang
quân về cứu, như chúng đã hẹn với cụ! Cho nên người ta phải khuyên cụ nhường
“việc ô nhục người chí sĩ không thể làm” ấy cho tướng Dương Văn Minh.
Hai ông Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu được ghép
theo Dương Văn Minh, như là đảm bảo của hai thế lực tinh thần còn lại, để ông
đứng ra chấm dứt một tình trạng không lật ngược được nữa, và nếu kéo dài, chỉ
kéo dài thêm chết chóc thê thảm. Sự kiện đảm bảo này cũng không phải người
viết võ đoán mà nêu ra ở đây.
Tình trạng không lật ngược được nữa ấy, ai đã gây
nên? Ngô Đình Diệm/ Nguyễn Văn Thiệu/ Nguyễn Cao Kỳ, hay Dương Văn Minh? Những
người thay nhau cầm chính quyền, những tướng lãnh từng thao túng quân đội, đã
vội vã tháo chạy, giờ đây thóa mạ Dương Văn Minh đã đầu hàng, không chịu tử thủ!
Thế sao chúng không ở lại để tử thủ mà bỏ trốn? Nếu có chuyện đầu hàng, thì
Dương Văn Minh đã đầu hàng thay cho chúng đó thôi.
Chính việc chúng tháo chạy là hành động đầu hàng
Cộng Sản. Dương Văn Minh đã chịu ô nhục thay cho chúng để thể hiện tâm cảnh muốn
khai tử giai đoạn tủi nhục, của những người sống trên đất nước miền Nam trong
giờ phút quyết liệt ấy.
Ông Diệm đã nói với Vân Xưa năm 1948 rằng Ý Dân là
Ý Trời. Nhưng ông chỉ theo Chúa của ông, chẳng bao giờ theo Trời cả! Phải đợi
đến ngày 30-4-75, ý dân mới thực sự là ý trời, trong một hoàn cảnh thật bi đát
cho dân!
Đối với một võ tướng chân chính như Dương Văn
Minh, không thuộc loại chạy trốn như Thiệu / Kỳ / Khiêm, đầu hàng bao giờ cũng
là một việc ô nhục.
Dương Văn Minh đầu hàng để tránh cuộc thảm sát
thủ đô. Hiên ngang, dũng cảm như khi ông cầm quân chiến thắng ở Rừng Sát. Trong
việc đầu hàng này, người sống ở miền Nam 30-4-75 đã nhận ra ông là anh hùng đất
nước. Trong việc đầu hàng này, tập đoàn tham nhũng thoát trước ra ngoài, muốn
chạy tội phản quốc, vẫn không ngớt chửi rủa ông là phản quốc.
Ông đã phải đứng ra khai tử hai chế độ Cộng Hòa và
đầy những tội ác ông không dự vào. Tiểu nhân cười là ông tham quyền vị. Dân
trong nước thấy rằng ông đã chịu cúi người xuống đất nhặt một quyền chính bỏ rơi
ngoài đường. Để trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ sau đó đứng ra nuốt nhục cứu
độ quần chúng thủ đô miền Nam.
◎◎◎
Bạn đọc đến đây, hãy cùng người viết quay về các
tâm cảnh được tỉ mỉ phân tích ở trên
Tâm cảnh chung của nhân dân thờ ơ, mặc thế cuộc
đến đâu hay đó. Chấp nhận đổi cái đời hai mươi năm phải chịu đựng độc tài, phong
kiến, quân phiệt, trong một xã hội thối nát, tham nhũng, không lúc nào biết đến
nhân dân. Tâm cảnh thù ghét chế độ, đòi hỏi thay đổi: Cộng Sản cũng thế thôi.
Tâm cảnh của anh em binh sĩ, sĩ quan, khinh bỉ
thượng cấp vô tài, bất nghĩa, không còn muốn chiến đấu, để đuổi bọn bán dân,
buôn nước. Tâm cảnh đòi chấm dứt một giai đoạn phi nhân: Cộng Sản cũng thế
thôi.
Tâm cảnh của những thành phần đồng bào ít nhiều có
dính líu đến chính quyền thối nát là sợ hãi, nên mong một hình thức giải quyết
thế cuộc cho êm thuận, có thể tránh cho họ nhiều ảnh hưởng nặng nề quá đáng. Tâm
cảnh chịu đựng, cầu an: Cộng Sản cũng thế thôi.
Tâm cảnh của tập đoàn lãnh đạo nhà nước, quân đội,
là chạy trốn. Khi chúng đã thoát thân kịp lúc, Cộng Sản có chiếm miền Nam, đâu
phải là chuyện chúng bận tâm. Tâm cảnh tháo thân cho kịp: Cộng Sản vào thay
chỗ để tàn hại đồng bào, đối với chúng cũng thế thôi.
“Cũng thế thôi”, trong đầu óc những người quẳng
quyền lực nhà nước để tháo chạy, có nghĩa là “mặc kệ”. Trong tâm tư quần chúng
và binh sĩ, lại là một cách để nói “cũng đành”! Những kẻ hai mươi năm thay nhau
cầm quyền phi nhân phi nghĩa, đã dọn sẵn đường cho Hà Nội thắng, nhân dân và
binh sĩ không muốn đầu hàng cũng không xong. Đầu hàng: một mỹ từ, người miền Nam
muốn dùng để che một thảm bại.
Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu,
nạn nhân một thế cuộc bế tắc họ không dự phần trách nhiệm, đã đương lấy cái nhục
của Diệm, của Thiệu, của Kỳ, để cứu nạn dân lành.
Khi nhân dân ruồng bỏ chế độ, binh sĩ, cảnh sát
tan hàng, khi người cầm quyền chạy trốn, thì chế độ sụp đổ. Quyền lực Nhà nước
tự nó đã cáo chung.
Cụ Hương muốn làm chí sĩ, nhưng không còn Nhà
nước, nên ông chỉ là một bù nhìn vô nghĩa: bình phong cho Thiệu/Khiêm và tướng
lãnh tay chân êm ái trốn chạy.
Dương Văn Minh cũng chỉ là một bù nhìn, nhưng có
nghĩa: kết liễu sự sụp đổ của miền Nam, để tránh thảm họa cho dân.
Cho nên quần chúng miền Nam đã thương hại cho cụ
Hương mà biết ơn tướng cũ Dương Văn Minh.
Hà Nội nhìn rõ tình trạng ấy. Trưa hôm 30-4-75,
Cộng Sản đã chẳng bảo, khi Dương Văn Minh lên tiếng đầu hàng để trao lại Quyền
lực Nhà nước, là: chế độ Sài Gòn đã chết, Dương Văn Minh có Quyền lực Nhà nước
đâu mà đòi trao đổi để nói chuyện đầu hàng?
◎◎◎
Tâm cảnh Đầu hàng Cộng Sản không phải đã
xảy ra hôm 30-4-75.
Ngay từ khởi thủy chế độ Quốc gia Sài Gòn. Ngô
Đình Diệm lo ngại không giữ quyền binh được lâu, nên đã làm ngơ, rồi tàn hại,
thành phần kháng chiến quốc gia, và kỳ thị đồng bào Nam kỳ cũ. Thay vào hai thực
lực nội tại ấy của miền Nam chính ông đã thấy rõ từ trước, lúc chưa cầm quyền,
ông giả tạo hai thế lực ngoại lai (đối với miền Nam), dựa vào đó mà củng cố địa
vị, cá nhân và gia đình: đồng bào di cư và tổ chức Cần Lao Công giáo.
Không ai có thể chống Cộng Sản miền Bắc mà không
cần đến nhân dân miền Nam. Nhưng Ngô Đình Diệm đã làm như thế! Tham vọng cá nhân
đã là mục đích, chống Cộng chỉ là một phương tiện để ông củng cố quyền lực ông.
Đối đầu miền Bắc là nhiệm vụ chính yếu, ông
Diệm đổi ra thành phương tiện cầm quyền: đầu hàng
Cộng Sản nằm sẵn trong tâm cảnh ông Diệm từ đầu!
Tướng tá tiếp sau ông dốt nát võ biền, làm sao
nhìn ra bài học thất bại của ông. Họ chỉ thêm được quyền lực, được địa vị, như
ông đã hưởng. Đâu có chuyện miền Nam đối đầu miền Bắc, họ theo ông mang sẵn tâm
cảnh đầu hàng Cộng Sản rồi.
Ông Diệm bị giết. Thiệu/Kỳ/Khiêm và tay chân, cùng
mang tham vọng của ông, chỉ có thể tiếp tục con đường ông đã vạch: cũng đồng bào
di cư, cũng Cần Lao Công Giáo. Họ nối theo ông đưa quốc gia miền Nam đến chỗ
chết, ngày 30-4-75. Nay trốn được kịp ra ngoài, dùng mọi phương tiện thừa thãi
trong tay để trâng tráo phỉ nhổ Dương Văn Minh về cái tội đầu hàng Cộng Sản miền
Bắc.
Dương Văn Minh đã không thoát thân, gánh chuyện ô
nhục vào thân, để cứu đồng bào thủ đô Sài Gòn. Rồi giữ im lặng, trước những lời
thóa mạ của những kẻ ông đã gánh thay điều ô nhục ấy.
Trong số các bạn, ai còn nghĩ đến sự nghiệp giải
phóng đất nước còn chưa thành, nếu đọc xem đến bài đầu hàng này, xin xem
thận trọng hơn là những người chỉ đọc cho vui.
Hình như ông Dương văn Minh đang sống ở Pháp, Vân
Xưa viết bài hôm nay hướng về ông. Trân trọng ngỏ một lời khiêm tốn biết ơn
ông, của một người chưa từng cùng ông quen biết hay gặp gỡ, như Đỗ Mậu, như
Cao văn Luận.
VÂN XƯA
[Nguồn: Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt trận
Giải phóng Miền Nam của Hồ Sĩ Khuê - Nhà Xuất Bản Văn Nghệ,
Westminster, California, 1995]
Trang Chính Trị Xã Hội