Bài này cho chúng ta biết về dòng tư tưởng của nhân loại đã
và đang tiến hóa theo chiều hướng nào trong suốt chiều dài của
lịch sử. Con người tiến hóa từ những niềm tin tưởng mù quáng
vào các thần thoại và ma thuật đến việc mạnh dạn sử dụng
khoa học và lý trí để giải quyết mọi vấn đề nhân sinh. Chủ
nghĩa Duy Thần của Thiên Chúa giáo thống trị toàn thể nhân
loại ở thời đại Đen Tối (Dark Ages) càng ngày càng suy thoái
trước các khám phá mới của khoa học đang khẳng định rằng
những niềm tin giáo điều Thiên Chúa giáo trong 2.000 năm qua thì
rất sai lầm.
Bài dịch này đã đăng ở trang nhà
talawas.org ngày 31 tháng 3,
2008, trong mục Tư Tưởng Văn Hóa và Phát Triển, nay xin biên tập
lại để đưa vào diễn đàn.
Trân trọng,
Trần Tiên Long
Saturday, April 02, 2011 5:48 PM
Tất cả các chân lý lớn đều bắt đầu như những lời báng bổ.
— George Bernard Shaw
Không phải điều chúng ta không biết sẽ tác hại, mà tác hại chính là điều
chúng ta tưởng đã biết nhưng thực ra chúng ta không biết.
— Will Rogers
Trong hàng triệu người vô tín ngưỡng ngoài kia, nhiều người có vẻ đang
thất vọng về tốc độ của sự tiến hoá tư tưởng gần đây. (Bằng “sự tiến hoá
của tư tưởng”, tôi muốn nói về sự chuyển dịch chậm chạp, lâu dài từ niềm
tin vào các thần thoại và ma thuật tới việc sử dụng khoa học và lý trí.)
Chúng ta đang chứng kiến những ứng cử viên chính trị lao vào những cuộc
tranh đua khó khăn xem ai có thể đến nhà thờ trước tiên, và chúng ta
nghe những nhân vật của công chúng không ngớt ca tụng rằng những công
dân có tín ngưỡng thảy đều ít nhiều lương thiện hơn những người vô
thần, người bất khả tri, hoặc người nhân bản chủ nghĩa thế tục. Có các
thiên thần chiếu trên tivi, có ma quỉ trong xi-nê, và có hàng chữ
“Chúng Ta Tin Tưởng Nơi Thiên Chúa” (“In God We Trust”)
[1] làm xấu xí đồng tiền của chúng ta. Chừng nào thì
chúng ta, trong tư cách một loài, sẽ được cấp chứng chỉ đã vượt qua
những điều này?
Chúng ta hãy bước lùi lại và nhìn xem có phải sự tiến hoá của tư tưởng
đang thực sự lê lết một cách nặng nề và chậm chạp, hay chỉ là được cảm
nhận như vậy thôi. Hai ngàn năm trước, kiến thức của nhân loại về vũ trụ
thì rất hạn chế. Chúng ta, những con người, thường không mạo hiểm dời
quá xa khỏi nơi cư trú; chúng ta đã không hiểu thời tiết, bệnh tật, hoặc
động đất đến từ đâu, và phần đông chúng ta bị phân chia rõ rệt thành
những người rất giầu (và đồng thời được ăn học) và những người rất
nghèo, hay nô lệ. Đây chính là thời đại đã cưu mang Thiên Chúa giáo.
1.
Chuyện Vườn Địa Đàng
2. Tế Thiên Chúa: Abraham giết con
3. Dâng Chúa:
Cho con đi tu làm linh mục
Đi nhà thờ đông:
Ở các họ đạo Á Châu
Mất niềm tin:
Nhà thờ bên Pháp ngày nay
Niềm tin Ki- tô qua các thời đại (Các ảnh minh họa của SH)
Phải cần gần 1.500 năm và một nền văn minh khả chuyển của phương Tây để
phát minh ra sách vở cho một số đông người có thể học hỏi (nếu họ biết
đọc) về những gì vượt ngoài vùng cận kề chung quanh họ. Sau khi phải
mất 15 thế kỷ (tính từ thời Đức Giê-Su, nếu quả Ngài từng hiện hữu) để
đi từ chỗ kéo những chiếc xe tay tới chỗ kéo những chiếc xe tinh xảo
hơn, chúng ta đã phải cần đến hai thế kỷ nữa để khởi sự đặt nền móng cho
khoa học và công nghệ hiện đại. Trong thời kỳ Khai Sáng này, chúng ta đã
bắt đầu khảo cứu về thế giới vật lý và các bầu trời tinh tú chính là
nhằm am hiểu về chúng. Khoa học đã cất cánh vào lúc mà tôn giáo đóng
cọc, khoanh vùng, và dựng rào ngăn cản. Khi khoa học và kỹ nghệ đã đưa
cuộc Cách mạng Công nghiệp đến chỗ có thể bùng nổ và giai cấp trung lưu
xuất hiện thì giáo dục, sách vở, và các phương tiện để tư duy độc lập,
cuối cùng, đã – lần đầu tiên trong lịch sử – bắt đầu mon men đến ngưỡng
cửa của quảng đại quần chúng. Hãy nhớ rằng nền giáo dục công cộng, miễn
phí, và phổ cập mới chỉ đồng hành cùng nhân loại chưa đầy 200 năm nay.
Hãy nghĩ về điều đó. Phần đông nhân loại mới chỉ thực sự truy cập các
công cụ – đừng bao giờ bận tâm về sở thích – nhằm truy vấn những huyền
thoại cổ xưa và tư duy trung cổ trong 200 năm vô tích sự. (Nhiều người
hiện còn chưa biết đến.) Hai trăm năm đó chỉ bằng mười ba phần vạn chiều
dài của lịch sử nhân loại (nếu lấy lịch sử hình thành loài người hiện
đại là 150.000 năm). Nếu không tìm đến kiến thức qua sách vở và giáo
dục, con người khó lòng kỳ vọng biết thắc mắc về các niềm tin của tổ
tiên họ. Ngay cả ngày nay, ý niệm về các tín ngưỡng cũ xưa, y thuật cổ
truyền, và những bài học lâu đời đều bao hàm một hiểu biết sâu hơn về
cuộc sống và thế giới.
Thế giới hiện đại có được những tri thức đó nhanh chóng hơn nhiều so với
thời Giê-Su hoặc thời Darwin. Hai trăm năm về trước, mấy ai đã có kiến
thức và học vấn để thách thức câu chuyện [về cách mà thế giới được] sáng
tạo trong kinh Sáng Thế ký? Giáo hội nào đã từng có lúc cảm thấy bức
bách phải soạn thảo câu trả lời hợp lý cho một thách thức như vậy? Đã có
bao nhiêu lời yêu cầu các nhà thờ, vào đầu thế kỷ này, phải đưa ra những
lập luận hợp lý hoặc khoa học để hậu thuẫn các niềm tin về con thuyền
Noah, về sự rẽ nước Biển Đỏ, hoặc về tấm vải liệm Turin? Trong nhiều
thế kỷ, hoặc là quý vị tin vào những gì mà giáo hội truyền giảng, hoặc
là quý vị bị xa lánh (bị rút phép thông công, bị hành quyết?). Thật là
nguy hiểm khi dám thách thức các giáo điều. Điều này vẫn còn nguy hiểm
ở nhiều nơi. (Trong quá khứ), các nhà thờ đã không tham gia vào bất cứ
cuộc tranh luận nghiêm chỉnh nào với những người vô tín ngưỡng, bởi họ
cảm thấy không cần thiết. Truyền thống dám thách thức công khai tôn
giáo và sự mê tín thì rất mới mẻ.
Vậy mà ngày nay đã có tranh luận. Mặc dầu các môn đồ của thuyết Sáng Tạo
đang ở giữa chúng ta, phần đông những người hiện đại muốn tiêu dao một
nghị đàm nghiêm túc về A-Đam và E-Và, cũng như một thảo luận về yêu
tinh hoặc phù thủy – những niềm tin phổ biến một thời. Trước Darwin một
thế kỷ rưỡi, ít nhà khoa học nào có nổi một tư tưởng về cách sự sống đã
tiến hoá trên hành tinh này. Vậy làm sao có thể kỳ vọng những người
bình thường có thể biện bác lại kinh Sáng Thế ký? Ngày nay, không một
nhà sinh học, động vật học, địa chất học, v.v... có trình độ nào lại
chối bỏ thuyết Tiến Hoá. Đó là sự tiến bộ, một sự tiến bộ nhanh chóng.
Ngày nay, các tôn giáo đang bấu víu vào (ít nhất là ngôn ngữ của) khoa
học để hậu thuẫn cho mình. Viện Khoa Học Sáng Tạo và Viện Vải Liệm Turin
đều là những thí dụ về những nỗ lực tôn giáo nhằm ứng phó với khối người
ngày càng có học thức hơn. Giáo hội Công Giáo đã xin lỗi Galileo – đã
chết từ lâu – về tư tưởng nhật tâm của ông, và thừa nhận có cái gì đó
hữu lý trong học thuyết Tiến Hoá. Lần đầu tiên trong lịch sử, tôn giáo
đang cảm thấy sự cần thiết phải dùng khoa học và lý trí để hỗ trợ cho
những quan điểm của nó.
Bộ
mặt của tín ngưỡng cũng đang thay đổi. Nhiều người có tín ngưỡng không
còn tin có địa ngục (hay ma quỉ) nữa. Người Công Giáo không còn tin có
Lâm-Bô (Limbo)
[2] hoặc phải kiêng ăn thịt vào các ngày thứ sáu, và
(nhiều người) tự quyết định lấy cho mình những chọn lựa về đúng và sai
(tỷ như phá thai, ngừa thai, hay tính dục trước hôn nhân) một cách độc
lập với giáo lý của nhà chung.
Năm mươi năm trước, tính cá nhân này không được biết tới, hoặc được giữ
trong im lặng. Ngày nay, các tôn giáo lớn đang mất vô số tín đồ chỉ bởi
vì mọi người không còn bị thuyết phục bởi những giáo lý cũ nữa. Đó cũng
là một sự tiến bộ.
Người ta đang sống đời sống khoa học hàng ngày. Chúng ta có thể không
[cần] hiểu vì sao xe hơi chạy, vì sao máy vi tính hoạt động, hoặc vì
sao điện thoại di động réo chuông, nhưng những phương tiện này vẫn làm
việc, và chúng ta biết [rõ] khoa học cùng lý trí đã mang chúng đến cho
chúng ta. Khoa học đem chúng ta vào không gian, chữa bệnh tật, và truyền
bá một thế giới kiến thức đến ngay nơi ở của chúng ta. Khoa học dự báo
thời tiết, cấp năng lượng cho lò sưởi, và giúp chúng ta sống thọ hơn tổ
tiên của chúng ta. Khi mạng sống lâm nguy, các tín đồ sùng đạo chạy đến
bệnh viện – chứ không chạy đến nhà thờ – nếu họ còn muốn tiếp tục sống.
Ít nhất thì khoa học đang xua tan ít nhiều nỗi sợ hãi mà tôn giáo đã
kiếm cách chiêu tập ngay từ thủa ban đầu. Xu thế này vẫn còn đang tiếp
tục.
Tôi chỉ biết rất rõ ràng rằng quá trình này quả là chậm chạp, nhưng
trong bối cảnh của lịch sử, có vẻ như những lỗ thủng của con tàu thánh
thiện tôn giáo đang trở nên ngày một khó kiểm soát hơn; trong khi khoa
học và lý trí đang chèo chống rất có phương pháp và không hề nao núng
vào miền Chưa Biết để hoá giải các thần thoại. Hãy kiên nhẫn, hỡi các
thủy thủ, hãy kiên nhẫn!
Ghi chú của TTL:
Tác giả James Underdown là Giám Đốc Trung Tâm Thẩm Sát phía Tây (Center
for Inquiry West) ở Los Angeles.
[2]Limbo:
Kinh sách Công giáo trong hai ngàn năm qua đã từng dạy chúng ta về sự
hiện hữu của Lâm-Bô (limbo), một nơi chốn tối tăm dành cho những em bé
qua đời khi chưa kịp rửa tội và những người tốt lành sống trước khi đức
Giê-Su nhập thế. Ngày nay, Vatican đã công khai bác bỏ giáo lý về sự
hiện hữu của Lâm-Bô.