MỘT CHỈ SỐ VỀ SỰ SUY THOÁI CỦA CÔNG GIÁO
[An index of Catholicism's decline]
Patrick J. Buchanan
Người dịch: Trần Chung Ngọc
https://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN77.php
ngày 10 tháng 7, 2009
Lời Nói Đầu Của Người Dịch:
ÂU CHÂU, TRONG NHIỀU THẾ KỶ LÀ CÁI NÔI CỦA CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIÁO
KI TÔ ĐI KHẮP NƠI, NAY CHÍNH NÓ LẠI TRỞ THÀNH NƠI CẦN PHẢI ĐƯỢC
TRUYỀN GIÁO. MỘT SỐ NGƯỜI NÓI RẰNG ĐÂY LÀ MỘT LỤC ĐỊA “HẬU-KITÔ”.
(
Europe, for centuries the craddle of Christian Mission, had itself
become a mission field… Some say it is a “post-Christian”
continent.)
JULIAN PETTIFER & RICHARD BRADLEY, in Missionaries
TRONG MỘT HỘI NGHỊ ĐẶC BIỆT VÀO NĂM 1999, CÁC GIÁM MỤC ÂU CHÂU
TUYÊN BỐ RẰNG CÁC DÂN TỘC TRONG TOÀN LỤC ĐỊA ÂU CHÂU ĐẢ QUYẾT ĐỊNH
SỐNG “NHƯ LÀ THIÊN CHÚA KHÔNG HỀ HIỆN HỮU. (At a special synod in
1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire
continent had decided to live “as though God did not exist”.)
JOHN
CORNWELL, in Breaking Faith: The Pope, The People, and the Fate of
Catholicism
Tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung,
Ca-Tô Rô-maGiáo nói riêng, ở phương trời Âu Mỹ là một tình trạng đã rõ
rệt, không ai có thể phủ nhận. Một vài tài liệu với vài con số thống kê
sau đây có thể cho chúng ta thấy rõ hiện tượng này. Trong cuốn Những
Nhà Đi Truyền Giáo (Missionaries) của Julian Pettifer và Richard
Bradley, cuốn sách dựa trên một chương trình TV 6 kỳ của đài BBC, nội
dung nghiên cứu về lịch sử truyền giáo của Ki Tô Giáo nói chung trên thế
giới, chúng ta có thể đọc được vài sự kiện như sau:
Trang 242: Âu châu đã trở thành
“một mối bối rối, lúng túng cho Ki Tô Giáo”, một lục địa mà nhà thần học Đức
Kierkegaard đã gọi là lục địa của những “người ngoại giáo đã được rửa tội”.
Nói ngắn gọn, Âu châu, trong nhiều thế kỷ là cái nôi của chương trình truyền
giáo Ki Tô đi khắp nơi, nay chính nó lại đã trở thành nơi cần phải được
truyền giáo.. Một số người nói rằng đây là một lục địa “hậu-Ki-Tô”.
Theo Floyd McClung (một nhà truyền giáo Ki Tô)
thì: Người ta e rằng nếu Âu châu cứ tiếp tục quay lưng lại Thượng đế thì sẽ
có ngày Thượng đế sẽ quay lưng lại Âu Châu.
Những nhà truyền giáo ngày nay tin rằng Âu Châu
hiện ở trong nguy cơ bị lún sâu trong làn sóng thủy triều của chủ nghĩa thế
tục. Họ cực lực phủ nhận đó là định mệnh tối hậu không thể tránh được của
các quốc gia theo Ki Tô Giáo.
(Europe had become “an embarrassement to
Christianity”, a continent of what the German theologian Kierkegaard called
“baptised pagans”. In short, Europe, for centuries the craddle of Christian
Mission, had itself become a mission field… Some say it is a
“post-Christian” continent.
For Floyd McClung: there is a fear that if Europe
continues to turn its back on God, the time may come when God will turn His
back on Europe.
The missionaries believe that Europe is in danger of
being swamped by a tidal wave of secularism. They vigorously deny that this
is the inevitable and ultimate destiny for all Christian nations..)
Chúng ta cũng đã biết, chính Giáo hoàng Benedict XVI
đã nhiều lần than phiền là: “Âu Châu ngày nay sống như là không có Thiên
Chúa mà cũng chẳng cần đến Giê-su nữa. “. Chúng ta chỉ biết là con số
tín đồ đi lễ nhà thờ đã sút giảm rất nhiều, nhiều trường học Ca-tô phải đóng
cửa, nhiều nhà thờ phải rao bán, nhiều linh mục và giáo dân bỏ đạo, nhưng
tới mức độ nào thì khó biết được chính xác. Bài sau đây của Patrick J.
Buchanan, viết từ năm 2002, sẽ cho chúng ta những con số chính xác về những
hiện tượng suy thoái trên của Ca-Tô Rô-maGiáo, và từ đó đến nay, tình trạng
suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Rô-maGiáo nói riêng, đã trầm trọng
hơn nhiều. Nhưng rất có thể “Người Ca-tô Việt Nam ở hải ngoại cũng như ở
trong nước” [số chủng sinh Việt Nam trong một trường Dòng ở IOWA chiếm
đa số] cùng với các tín đồ Ca-tô ở vài nước chậm tiến bên Phi Châu sẽ cứu
nguy giáo hội, đảo ngược tình trạng suy thoái này. Chúng ta hãy chờ
xem.
◎ ◎ ◎
Một Chỉ Số Về Sự Suy Thoái Của Công Giáo
Patrick J. Buchanan
Cũng như xì-căng-đan Watergate vào những năm
1973-1974 đã chuyển hướng quan tâm của quần chúng ra khỏi thảm họa lớn hơn
đang diễn tiến ở Đông Nam Á (chiến tranh Việt Nam), xì-căng-đan về các linh
mục loạn dâm đang giáng lên Giáo hội Công giáo có thể che dấu một tai ương
lớn hơn nhiều.
37 năm sau công đồng duy nhất của giáo hội trong thế
kỷ 20, bồi thẩm đoàn đã có sự phán án: Vatican II dường như đã là một thảm
họa không nguôi ngớt cho Ca-tô Rô-maGiáo.
Những kẻ nói láo có thể đưa ra những con số,
nhưng những con số thì không nói láo. Kenneth C. Jones ở St. Louis đã
tập trung những con số thống kê trong một tập sách mỏng với nhan đề: “Chỉ
Số Về Những Dấu Hiệu Về Công Giáo Trong Tương Lai: Giáo Hội Từ Sau Vatican
II.”
Những phát hiện của Jones đã tiên tri về những nhà
bảo thủ truyền thống Công Giáo, những người đã cảnh báo là Vatican II chứng
tỏ là một sự sai lầm có chiều kích lịch sử, và cũng những phát hiện đó cho
thấy những người tin rằng công đồng có thể hòa hợp Ca-tô Rô-maGiáo với hiện
đại là điên rồ và ngây thơ. Khi giáo hoàng John XXIII mở toang những cánh
cửa sổ của giáo hội, thì tất cả những hơi độc của hiện đại xâm nhập cùng với
chính quỷ Satan.
Sau đây là những thống kê tàn nhẫn của Jones về sự
suy thoái của Ca-tô Rô-maGiáo:
· Linh mục. Trong khi số linh mục
ở Mỹ tăng hơn gấp đôi từ 1930 đến 1965, tới 58,000, thì từ 1965 con số đó
chỉ còn có 45,000. Tới năm 2020, chỉ còn 31,000 linh mục, và hơn nửa là
trên 70 tuổi.
· Thụ chức linh mục. Năm 1965 có
1,575 linh mục mới thụ chức ở Mỹ. Năm 2002, con số (thụ chức linh mục) là
450. Năm 1965 chỉ có 1% giáo xứ không có linh mục. Ngày nay, có 3000 giáo
xứ không có linh mục, 15% của tổng số giáo xứ ở Mỹ.
· Tu sinh trường Dòng (để làm linh
mục). Trong khoảng từ 1965 đến 2002, số ttu sinh giảm từ 49,000 xuống còn
4,700, giảm trên 90%. 2.3 trong số 600 trường Dòng hoạt động năm 1965 nay
đã đóng cửa.
· Nữ tu (sơ). Năm 1965, có 180,000
nữ tu Ca-tô. Tới năm 2002, con số này còn lại là 75,000 và tuổi trung bình
của một nữ tu Ca-tô ngày nay là 68. Năm 1965, có 104,000 nữ tu dạy học.
Ngày chỉ còn 8,200, giảm 94% kể từ Vatican II.
· Các dòng tu. Về các dòng tu ở
Mỹ, sự dẹp tiệm không còn xa. Năm 1965, 3,559 giới trẻ học là linh mục
dòng Tên. Năm 2000, con số là 389. Dòng sư huynh, trình trạng còn thê thảm
hơn. Số các sư huynh chỉ còn 1/3, với số vào trường học làm sư huynh giảm
99%. Năm 1965, có 912 tu sinh làm sư huynh Ki-tô. Năm 2000, chỉ còn có 7.
Số người trẻ học làm linh mục dòng Francis và dòng cứu thế giảm từ 3,379 năm
1965 xuống còn có 84 năm 2000.
· Trường học Ca-Tô. Tới một nửa
tổng số các trường trung học Ca-tô ở Mỹ đã phải đóng cửa kể từ năm 1965. Số
học sinh giảm từ 700,000 còn 386,000. Số trường tiểu học giảm nhiều hơn
nữa. 4,000 trường đóng cửa, số học sinh giảm từ 4.5 triệu xuống 2 triệu.
· Kết Hôn trong Ca-tô giáo. Những
cuộc kết hôn trong Ca-tô giáo đã giảm 1/3 kể từ 1965, và con số hủy bỏ hôn
ước hàng năm tăng từ 338 năm 1968 đến 50,000 năm 2002.
· Đi lễ nhà thờ. Một cuộc thăm dò
ý kiến của viện Gallup năm 1958 cho biết kết quả là 75% tín đồ Ca-tô đi lễ
ngày chủ nhật. Một cuộc nghiên cứu gần đây của đại học Notre Dame thấy rằng
chỉ có 25% còn đi lễ ngày chủ nhật. [Giáo dân VN văn minh hơn nhiều, không
những “chăm phần chăm” đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật mà ngày nào cũng đi lễ
nhà thờ và mỗi ngày đều có mấy dạo cầu kinh, nghiện đạo như nghiện thuốc
phiện] 1
· Chỉ có 10% các giáo sư dân sự có
đạo chấp nhận giáo điều của giáo hội về ngừa thai. 53% tin rằng một tín đồ
Ca-tô có thể phá thai và vẫn là một tín đồ Ca-tô ngoan đạo. 65% tin rằng
tín đồ Ca-tô có thể ly dị và kết hôn lại. 77% tin rằng một người có thể là
một tín đồ ngoan đạo mà không cần phải đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật. Một
cuộc thăm dò ý kiến của tờ New York Times cho biết 70% các tín đồ Ca-tô
trong lớp tuổi từ 18 đến 44 tin rằng bí tích ban thánh thể (ăn thịt uống máu
Giê-su) chỉ là tượng trưng cho sự nhắc nhở lại về Giê-su.
Lúc khai mạc Vatican II, những nhà cải cách có tất
cả những sự cuồng nhiệt. Họ sẽ dẫn chúng ta ra khỏi những ốc đảo Ca-tô bằng
cách sửa đổi các lễ tiết, viết lại Thánh Kinh và những kinh bổn, bỏ đi
truyền thống cũ, làm cho chúng ta có tinh thần hòa hợp tôn giáo hơn, và dấn
thân vào thế giới. Và di sản của họ?
Bốn thập niên tàn phá giáo hội, và là điều ô nhục
cuối cùng của một hệ thống giáo quyền không có sự dũng cảm đạo đức của các
hướng đạo sinh để giữ những kẻ đồi bại ở ngoài các trường Dòng, và ném họ ra
khỏi những nơi cư trú và trường học của giáo hội mẹ thánh thiện.
Trong triều đại của Giáo hoàng Pius XII, giáo hội
chống lại những tiếng ồn ào đòi giáo hội thích nghi với thế giới và duy trì
một ngọn đèn soi sáng đạo đức cho nhân loại. Từ Vatican II, giáo hội đã
theo đuổi để gặp thế giới ở nửa đường.
Thống kê của Jones nói cho chúng ta biết cái giá
cho sự thỏa hiệp vô tổ chức.
Chú Thích:
1. Trần Tam Tĩnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm,
trang 208: Dân chúng Công giáo Việt Nam thiết tưởng là quần chúng mộ đạo
nhất thế giới. Hàng ngày họ đi dự kinh lễ sớm chiều rất đông và thích rước
kiệu, làm tuần tam nhật và nhiều việc sùng kính khác, không những vào ngày
chủ nhật, mà cả các ngày trong tuần. Tại các họ đạo nông thôn, kinh lễ buổi
mai kéo dài hai ba giờ, cuộc rước lâu cả buổi, cũng như các tuần Tam Nhật,
thường cản trở việc sản xuất của hợp tác xã, vốn theo một lịch trình khoa
học hơn. Vì thế, trong các báo chí Hà Nội, những linh mục nào quản xứ mà
rút vắn giờ lễ, hoặc đổi giờ làm lễ và chầu thánh thể, để giáo dân tiện bề
lo việc sản xuất, thì bị tiếng là yêu nước và cấp tiến. Có những
linh mục bảo thủ còn chỉ trích các hợp tác xã vi phạm quyền tự do tín ngưỡng
của xã viên, vì bắt buộc họ phải đi lao động vào các giờ, lẽ ra họ phải đi
lễ hay đi đọc kinh.
An Index of Catholicism’s Decline
Patrick J. Buchanan
Posted: December 11, 2002
1:00 a.m. Eastern
As the Watergate scandal of 1973-1974 diverted attention from the far
greater tragedy unfolding in Southeast Asia, so, too, the scandal of
predator-priests now afflicting the Catholic Church may be covering up a far
greater calamity.
Thirty-seven years after the end of the only church council of the 20th
century, the jury has come in with its verdict: Vatican II appears to have
been an unrelieved disaster for Roman Catholicism.
Liars may figure, but figures do not lie. Kenneth C. Jones of St. Louis
has pulled together a slim volume of
statistics
he has titled Index of Leading Catholic Indicators: The Church Since Vatican
II.
His findings make prophets of Catholic traditionalists who warned that
Vatican II would prove a blunder of historic dimensions, and those same
findings expose as foolish and naive those who believed a council could
reconcile Catholicism and modernity. When Pope John XXIII threw open the
windows of the church, all the poisonous vapors of modernity entered, along
with the Devil himself.
Here are Jones' grim statistics of Catholicism's decline:
· Priests. While the number of
priests in the United States more than doubled to 58,000, between 1930 and
1965, since then that number has fallen to 45,000. By 2020, there will be
only 31,000 priests left, and more than half of these priests will be over
70.
· Ordinations. In 1965, 1,575
new priests were ordained in the United States. In 2002, the number was 450.
In 1965, only 1 percent of U.S. parishes were without a priest. Today, there
are 3,000 priestless parishes, 15 percent of all U.S. parishes.
· Seminarians. Between 1965 and 2002, the
number of seminarians dropped from 49,000 to 4,700, a decline of over 90
percent. Two-thirds of the 600 seminaries that were operating in 1965 have
now closed.
· Sisters. In 1965, there were
180,000 Catholic nuns. By 2002, that had fallen to 75,000 and the average
age of a Catholic nun is today 68. In 1965, there were 104,000
teaching nuns.
Today, there are 8,200, a decline of 94 percent since the end of Vatican II.
· Religious Orders. For
religious orders in America, the end is in sight. In 1965, 3,559 young men
were studying to become Jesuit priests. In 2000, the figure was 389. With
the Christian Brothers, the situation is even more dire. Their number has
shrunk by two-thirds, with the number of seminarians falling 99 percent. In
1965, there were 912 seminarians in the Christian Brothers. In 2000, there
were only seven. The number of young men studying to become Franciscan and
Redemptorist priests fell from 3,379 in 1965 to 84 in 2000.
· Catholic schools. Almost half
of all Catholic high schools in the United States have closed since 1965.
The
student population
has fallen from 700,000 to 386,000. Parochial schools suffered an even
greater decline. Some 4,000 have disappeared, and the number of pupils
attending has fallen below 2 million – from 4.5 million.
· Catholic Marriage. Catholic
marriages have fallen in number by one-third since 1965, while the annual
number of annulments has soared from 338 in 1968 to 50,000 in 2002.
· Attendance at Mass. A 1958
Gallup Poll reported that three in four Catholics attended church on
Sundays. A recent study by the
University of
Notre Dame found that only one in four now attend.
· Only 10 percent of lay
religious
teachers now
accept church teaching on contraception. Fifty-three percent believe a
Catholic can have an abortion and remain a good Catholic. Sixty-five percent
believe that Catholics may divorce and remarry. Seventy-seven percent
believe one can be a good Catholic without going to mass on Sundays. By one
New York Times poll, 70 percent of all Catholics in the age group 18 to 44
believe the Eucharist is merely a "symbolic reminder" of Jesus.
At the opening of Vatican II, reformers were all the rage. They were
going to lead us out of our Catholic ghettos by altering the liturgy,
rewriting the Bible and missals, abandoning the old traditions, making us
more ecumenical, and engaging the world. And their legacy?
Four decades of devastation wrought upon the church, and the final
disgrace of a hierarchy that lacked the moral courage of the
Boy Scouts
to keep the perverts out of the seminaries, and throw them out of the
rectories and schools of Holy Mother Church.
Through the papacy of Pius XII, the church resisted the clamor to
accommodate itself to the world and remained a moral beacon to mankind.
Since Vatican II, the church has sought to meet the world halfway.
Jones' statistics tell us the price of appeasement.
nguồn:
https://www.theamericancause.org/patanindexofcatholicismsdecline.htm
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>