Tuyển Tập Độc Thần Giáo
Charlie Nguyễn
http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_TTDTG/daoquan5.php
2007
Các Hoạt Động Chính Trị Quân Sự và Tâm Lý Chiến
của “Đạo Quân Thứ Năm Công Giáo”
nhằm yểm trợ thực dân Pháp trở lại tái chiếm thuộc địa Đông-Dương
(1947-1954)
I. Hoạt động chính trị quân sự của Công Giáo miền Nam Việt Nam.
(a) Tiểu sử đại tá Jean
LeRoy : Ông
là nhân vật chủ yếu trong
các hoạt động của Công Giáo
miền Nam trong giai đoạn
lịch sử 1947-54. LeRoy sinh
năm 1920 tại xã Bình Đại,
tỉnh Bến Tre, gia nhập
trường sĩ quan Tông (Sơn
Tây) và ra trường với cấp
chuẩn úy năm 1940. Năm 1943,
y được cử làm tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn lính Raddhé
ở Thủ Đầu Một. Cuối năm
1945, LeRoy cùng với quân
đội Pháp tái chiếm Saigon;
kế đến y thành lập những đơn
vị partisans (biệt động
quân) đánh chiếm Mỹ Tho, Cái
Răng, Bình Thủy, Cái Vồn,
Phụng Hiệp và nhiều quận lỵ
Nam Kỳ. Năm 1950, chính phủ
Nguyễn Văn Thinh cử y làm
tỉnh trưởng Bến Tre
(b) Lực
lượng võ trang UMDC
(Các đơn vị lưu động bảo vệ
tín đồ KiTô Giáo)
: Vào tháng 7-1947,
Tư Lệnh Quân Đội Pháp tại
Đông Dương là tướng De
Latour cho phép Jean LeRoy
thành lập 3 Chiến Đoàn Lưu
Động Công Giáo để bảo vệ Bến
Tre. Lực lượng võ trang này
mang tên “Unités Mobiles de
Défense des Chrétiens”, viết
tắt là UMDC, do LeRoy làm
Thanh Tra với cấp bậc đại
úy. Năm 1948, lực lượng võ
trang này đổi thành “Tiểu
Đoàn Phụ Lực Quân” (Forces
Suppletifs) thuộc quân đội
viễn chinh Pháp
do
LeRoy chỉ huy với
cấp bậc Trung Tá. Năm 1950,
Leroy được thăng cấp Đại Tá.
Điều
khôi hài là đạo quân của
LeRoy được tổ chức giống
như một doàn “Thập Tự Quân”
(the Crusade): Phù hiệu và
quân kỳ của UMDC là hình
Thập Giá mầu xanh lơ (blue)
trên nền cờ vàng có thêu 4
chữ La Tinh “PRO DEO ET
PATRIA” (Vì Chúa và Tổ Quốc).
Khẩu hiệu “Vì Chúa” có thể
chấp nhận được vì mục tiêu
của đạo quân này là “bảo vệ
Đạo”; nhưng khẩu hiệu “vì Tổ
Quốc” thì cần phải đặt vấn
đề: LeRoy là một sĩ quan
Pháp, UMDC lúc này đã trở
thành một lực lượng phụ lực
của quân đội viễn chinh
Pháp.
Như vậy, khẩu hiệu “Vì Tổ
Quốc” phải được hiểu là “Tổ
Quốc Pháp” chứ không phải là
“Tổ Quốc Việt Nam”.
Trong
mấy năm kế tiếp, UMDC được
tổ chức thành 88 đơn vị, mỗi
đơn vỉ có 71 người (60 binh
sĩ, 1 sĩ quan, 1 thượng sĩ,
3 trung sĩ và 6 hạ
sĩ).
Tổng số
quân gồm có khoảng 6,200
người. Đoàn quân này
mở các cuộc hành quân từ
Saigon - Chợ Lớn đến Biên
Hòa, Long An, Mỹ Tho, Gò
Công, Bến Tre, Long Xuyên,
Sóc Trang, Bạc Liêu, Trà
Vinh,
....
(c) Đảng “Dân Chủ Thiên Chúa
Giáo Việt Nam” : Sau khi
Vatican lên tiếng kết án chủ
nghĩa Cộng Sản, tòa ổng Giám
Mục Saigon tích cực ủng hộ
LeRoy và một số nhân sĩ Công
Giáo như Jean Baptist Đôn và
Huỳnh Công Hậu đứng ra lập
“Đảng Dân Chủ Thiên Chúa
Giáo”. Mục tiêu của đảng này
là bảo vệ Đạo, ủng hộ Bảo
Đại nắm chính quyền và thiết
lập chế độ quân chủ lập
hiến, ủng hộ giải pháp Việt
Nam gồm có 3 kỳ phân lập và
Nam Kỳ tự trị. Năm 1952,
lực lượng UMDC bị sát nhập
vào Quân Đội Quốc Gia Việt
Nam. Từ 1954, LeRoy định cư
tại Pháp và không bao giờ
trở lại Việt Nam nữa.
|
|
|
Giám mục Lê Hữu Từ
- giáo khu Phát Diệm |
Các "Ma Sơ" tận tình báo cáo tin tức cho Pháp | Giám mục Phạm Ngọc Chi
- giáo khu Bùi Chu |
II. Hoạt động chính trị quân
sự của Công Giáo miền Bắc
Việt Nam.
1.
Phong Trào Quốc Gia Tự
Vệ : Phát
Diệm là tên của một làng
Công Giáo thuộc huyện Kim
Sơn, tỉnh Ninh Bình. Bùi Chu
là tên một xã Công Giáo
thuộc huyện Xuân Trường,
tỉnh Nam Định. Từ 1945, Phát
Diệm thành trụ sở Tòa Giám
Mục Phát Diệm dưới quyền cai
quản của giám mục Lê Hữu Từ.
Từ 1950, Bùi Chu thành Tòa
Giám Mục địa phận Bùi Chu
dưới quyền của giám mục Phạm
Ngọc Chi.
Sau
khi Nhật đảo chánh năm 1945,
linh mục Hoàng Quỳnh, lúc đó
là Tổng Tuyên Úy đoàn thanh
niên Công Giáo Phát Diệm, đã
lập chiến khu tại Chi Nê và
võ trang Đoàn Thanh Niên
Công Giáo thành Lực Lượng Tự
Vệ.
Đêm
20-8-1945, Hoàng Quỳnh mang
quân từ chiến khu Chi Nê về
cướp chính quyền tại huyện
Kim Sơn, Yên Khánh, Nho Quan
và Thường Tín.
Năm
1949, quân Pháp chiếm Bùi
Chu và Phát Diệm, Lực Lượng
Tự Vệ Công Giáo đổi tên
thành “Phong Trào Quốc
Gia Tự Vệ” liên lạc trực
tiếp với quốc trưởng Bảo
Đại.
2. Liên
Đoàn Công Giáo Việt Nam :
được thành lập do nghị định
của Bộ Trưởng Nội Vụ Huỳnh
Thúc Kháng, thuộc Chính phủ
Liên Hiệp Kháng Chiến cho
phép. Liên Đoàn Công Giáo
có mục đích tập họp tất cả
các hội đoàn Công giáo thành
một
khối chặt chẽ để bảo
vệ quyền lợi của giáo hội,
gây tình thân thiện giữa
đồng bào Lương-Giáo, v.v...
Đây là một tổ chức hữu danh
vô thực.
3. Khu an toàn của những
người “quốc gia” : Giám
mục Lê Hữu Từ được chủ tịch
Hồ Chí Minh cho giữ chức “Cố
Vấn Tối Cao” trong Chính
Phủ
Liên Hiệp Kháng
Chiến. Lợi dụng
chức
vụ này, giám mục Lê Hữu Từ
đã tránh cho Phát Diêm không
bị “tiêu thổ kháng chiến” và
tản cư. Ngoài ra, vào tháng
9-1947, chính phủ Hồ Chí
Minh đã cử một phái đoàn về
Phát Diệm để trao cho “cố
vấn tối cao” Lê Hữu Từ một
văn thư trong có đoạn như
sau : “ ... Tôi muốn san
sẻ một phần trách nhiệm bằng
cách nhường hẳn quyền
cai
trị toàn quận Kim Sơn gồm 40
xã ấp (trong đó có 32 giáo
xứ) với khoảng 150,000 dân.
Các cơ quan hành chánh và
quân sự của chính quyền sẽ
rút đi hết để Cố Vấn toàn
quyền tổ chức....”.
Từ đó
xuất hiện “Khu
An
Toàn Phát Diệm”. Các cán bộ
chính quyền phải rút ra hết
và không được phép xâm nhập
trở lại. Phát Diệm trở thành
“Đất Thánh” an toàn cho
60,000 người tỵ nạn từ các
nơi đổ về, hầu hất đều là
những thành phần đảng phái
chồng Cộng, các người hoạt
động chính trị bị Việt Minh
truy nã, trong số đó có vợ
chồng Trần Văn Chương, Ngô
Đình Nhu và Ngô Đình Diệm.
4,
Lực Lượng Tự Vệ Công Giáo
Bùi Chu
– Phát Diệm trở thành phụ
lực quân cho
quân
đội Pháp
: Bùi
Chu – Phát Diệm là khu tự
trị trực thuộc quốc trưởng
Bảo Đại. Sĩ quan Pháp
không
có quyền ra lệnh cho
quân nhân Việt Nam. Tuy
nhiên, giữa quân
đội Pháp và lực lượng Tự Vệ
Công Giáo có một qui ước về
hệ thống đóng quân theo hình
Tam Giác: một đồn
binh Pháp đóng ở giữa,
thì có 3 đồn Tự Vệ Công Giáo
đóng ở 3 góc, với đường kính
10 km.
Quân đội
Pháp có nhiệm vụ bao bọc che
chở cho các đồn Tự Vệ Công
Giáo bằng các loại vũ khí
nặng. Trước
khi hành quân, quân đội Pháp
phải mở những cuộc tảo thanh
mở đường.
III. Hoạt động chiến tranh tâm
lý hiểm độc của các giám mục
Việt-Pháp họp tại Hà Nội
ngày 9-11-1951
Từ năm
1948, thực dân Pháp bị quân
kháng chiến Việt Nam đánh
trả rất ác liệt trên khắp
các mặt trận khiến cho chúng
lâm vào tình trạng lúng túng
và lo sợ. Các giáo
dân
hoang mang chỉ sợ
Pháp thua bỏ chạy thì họ sẽ
bị bỏ lại và lâm vào tình
trạng nguy hiểm vì sẽ bị
“Việt Minh trả thù” !>
Vào
cuối năm 1951, tình trạng
Công Giáo Việt Nam thật bi
đát vì “sự hỗn loạn xao
xuyến đang đè nặng trên tâm
hồn giáo dân” nên các giám
mục (9 Pháp, 5 Việt) thuộc
các hội Truyền Giáo tại Việt
Nam, đã họp tại Hà Nội để
soạn thảo và công bố
Thư
Chung của các Giám Mục họp
tại Hà Nội ngày 9-11-1951
(bản chánh
bằng tiếng Pháp).
Phân
tích bức
thư chung này, chúng
ta sẽ thấy các giám mục đã
đưa ra những đón tâm lý
chiến rất thâm hiểm. Họ thừa
biết cuộc tái chiếm thuộc
địa của thực dân Pháp là
không có chính nghĩa, nên sẽ
bị mọi người Việt Nam yêu
nước, dù là Cộng Sản hay
không Cộng Sản, chống trả
mãnh liệt. Do đó, họ
khôn khéo lái “tình yêu Tổ
Quốc”
theo một hướng khác.
Các giám mục lý luận: “Ý
niệm Ki
Tô Giáo về Tổ Quốc
không loại trừ những quốc
gia khác mà chúng ta cũng
phải yêu mến bởi vì tất cả
chúng ta đều là con của cùng
một Chúa. (La
notion chrétienne de Patrie
n’exclut pas les autres
nations que nous devons
aimer aussi par
ce
que nous sommes tous fils du
même Dieu). Điều này có
nghĩa rằng: “các giáo dân
Việt Nam cũng phải yêu nước
Pháp và người Pháp vì họ và
ta đều là con một
Chúa !”
Đa số
các giáo dân quê mùa đã nghe
theo những lời nói trên của
các giám mục, vì là
“những anh em con cùng một
Chúa” (fils du même Dieu)
. Mỗi khi bọn
lính Pháp bị tử trận, các
xác chết được họ coi bọn
giặc Pháp đồng đạo đưa vào
nhà thờ để cho cha xứ “làm
phép xác” và làm lễ cầu hồn
cho chúng.
Mấy bà
già thấy bọn lính Pháp chết
đã tỏ ra thương xót, có
người còn lấy tràng hạt của
họ đeo vào cổ xác lính tây.
Trái
lại, sau mỗi lần hành quân
tại mấy làng lân cận, bọn
lính tự vệ Công giáo bắt
những người lương mà chúng
nghi là “Việt Minh”. Bọn
chúng trói những ngưòi đó và
giải lên đồn Tây. Khi
tiếp nhận những người này,
bọn lính Pháp có thói quen
dùng báng súng đập thằng vào
ngực vào mặt các nạn nhân
khiến cho họ vung máu
tung
tóe. Bọn lính tự vệ Công
giáo không hề cảm thấy
thương xót đồng bào mình,
trái lại dù cho chúng bắn
giết họ chăng nữa, chúng
cũng không hề hối hận, vì
chúng đã nghe theo bọn giám
mục coi những người kháng
chiến là “Cộng Sản vô thần”,
là “con cái ma qủi” hoặc “kẻ
thù của Thiên Chúa” (des
enemis de Dieu). Giết “Cộng
Sản Vô Thần”, cũng như giết
“con cái ma qủi” hoặc “kẻ
thù của Thiên Chúa” chẳng
khác nào giết một con rắn
độc, chẳng những không có
tội mà còn có công trước mặt
Chúa và giáo hội nữa ! Do
đó, bọn vệ sĩ Công giáo tha
hồ giết người và gây tội ác
mà không phải ăn năn hối hận
gì cả !
Bọn giám
mục không có một lý luận
chính đáng nào để có thể
biện minh cho sự có mặt của
những đoàn quân viễn chinh
Pháp tại Việt Nam. Bọn Pháp
trở lại Việt Nam chỉ có một
mục tiêu duy nhất là tái
chiếm thuộc địa Đông Dương
mà chúng đã bị mất sau 1945.
Trong
thư chung ngày
9-11-51, các giám mục
không hề đả động tới vấn đề
xung đột Pháp-Việt mà chỉ đề
cập đến vấn đề xung đột giữa
giáo hội Công giáo và Cộng
Sản: giáo hoàng Pio XII đã
tuyên bố: Không một ai có
thể cùng một lúc vừa là Công
giáo vừa là Cộng sản. Người
Công giáo gia nhập đảng Cộng
Sản là phản bội giáo hội.
Các giáo dân đều bị cấm
không được
theo
Cộng Sản, và không được làm
bất cứ điều gì có thể giúp
Cộng sản lên nắm chính
quyền...
Bọn
giám mục nói quá nhiều về
Cộng Sản làm cho giáo dân
Việt Nam quên mất hành động
quân Pháp trở lại xâm lăng
Việt Nam và do đó họ quên
mất nghĩa vụ của người công
dân là kháng chiến chống
Pháp để cứu
nước !
Cuối
cùng, các giám mục hô hào
giáo dân hãy “kháng chiến” ,
nhưng không phải là kháng
chiến chống Pháp mà là
“kháng chiến chống Cộng Sản”
và “trung thành với Chúa”
(Alors résistez, très cher
frères, soyez fidèles à
notre Dieu).
Thư
chung
của các giám mục viết tại Hà
Nội ngày 9-11-1951 (nguyên
văn bằng tiếng Pháp) được
tất cả các linh mục thuộc
các giáo xứ trên toàn quốc
Việt Nam đọc tại nhà thờ và
được nhắc đi nhắc lại nhiều
lần trong các bài giảng để
phổ biến đến toàn thể giáo
dân Việt Nam. Đây chỉ là một
trong nhiều bằng chứng cụ
thể vể hoạt động chiến tranh
tâm lý của hàng
ngũ
giám mục Việt cũng như Pháp.
Cũng
xin nói ở đây là “Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam” (HĐGMVN)
hiện nay đã được thành lập
do sắc chỉ ngày 24-11-1960
của giáo hoàng Gioan XXIII.
Thư chung ngày 9-11-1951
nói trên đây không phải là
sản phẩm của HĐGMVN mà là
của 14 giám mục (9 Pháp, 5
Việt) thuộc các Hội Truyền
Giáo tại Việt Nam. (Les
ordinaires des Missions du
Vietnam).
Mặc
dù danh xưng có khác, nhưng
bản chất đầu óc nô lệ và
truyền thống bán nước của
bọn giám mục trẻ hiện nay so
với bọn giám mục già xưa kia
(Nguyễn Bá Tòng, Ngô
Đình Thục, Lê Hữu Từ, Phạm
Ngọc Chi, Hoàng Văn Đoàn,
Trịnh Như Khuê) chắc chắn
chẳng có gì khác nhau. Muốn
vô hiệu hóa sự tác hại của
đạo quân thứ năm Công giáo,
tôi thiết
nghĩ
việc tiên quyết là
phải giải tán HĐGMVN.
HĐGMVN là cơ quan chỉ huy
tối cao của giáo hội Công
giáo Việt Nam (chiếm 7 – 8%
dân số)
. Chính quyền cần
phải chú ý theo dõi nội dung
các Thư Luân Lưu hoặc Thông
Cáo của HĐGM, bởi vì các thư
này thường có tác dụng rất
lớn về tâm lý đối với toàn
khối 7 triệu giáo dân, và do
đó sẽ có tác dụng đối với
vận mệnh của Tổ Quốc.
Charlie
Nguyễn
5/2004
Dưới
đây là nguyên bản Thư Chung
bằng tiếng Pháp và bản dịch
Việt ngữ của Guse Phạm Hữu
Tạo :
Lettre Commune Des
Ordinaires Réunis A Hanoi
(texte
original en francais)
9 novembre 1951
Nos bien chèrs frères,
Les ordinaires des Missions
du Vietnam réunis à Hanoi
sous la présidence de son
Excellence Monseîgneur le
Délégué apostolique, ont
jugé qu'il est de leur
devoir de coordonner leurs
efforts en vue de coopérer
plus efficatement à l'oeuvre
de pacification des coeurs
et restauration chrétienne
qui s'impose à l'heure
actuelle.
Les Êvêques du Viêtnam, émus
de la confusion qui règne
dans les esprits, croient de
leur devoir de préciser la
notion de la Patrie. Le
Patriotisme, c'est l'amour
de la Patrie,
et
la Patrie étymologiquement,
c'est la terre des ancêtres.
La Patrie, c'est donc une
extension de la famille,
l'une comme l'autre se
rattachent à la vertu de
piété, et par conséquent
nous ne pouvons que
l'encourager et le
développer au même titre que
les autres vertus
chrétiennes. La notion
chrétienne de Patrie
n'exclut pas les autres
nations
que nous devons aimer aussi
parce que nous sommes tous
fils du même Dieu.
Animé par le sentiment de
notre grave responsabilité
devant Dieu et d'une grande
affection pour vous tous,
nos très chers frères, nous
estimons qu'il est de notre
devoir de vous mettre en
garde contre le très grand
danger du communisme athée,
qui est le plus grand danger
existant de nos jours. Le
communisme
est
la négation de Dieu, la
négation de toute religion,
la négation de l'existence
d'une âme immortelle, la
négation des droits de la
personne humaine et de la
famille.
Il y a la plus
entière opposition entre
l’Église Catholique et le
communisme à tel point que
notre Saint Père le pape a
déclaré qu'il est absolument
impossible d'être à la fois
communiste et catholique et
que tout catholique qui
adhère au parti communiste
est par le fait même séparé
de L’Église. Non seulement,
il
vous est interdit d'adhérer
au Parti Communiste, mais
vous ne pouvez pas coopérer
avec lui ou faire quoi que
ce soit qui puisse de
quelque facon amener le
Parti Communiste au pouvoir.
Le danger est si grave et
les conséquences possibles
si terribles que nous nous
sentons obligés de vous
mettre en garde aussi contre
les détours et les ruses
employés par les communistes
pour tromper le peuple,
ruses qui ne servent que les
seules fins des communistes.
En premier lieu,
ils
font preuve d'un grand zèle
pour les réformes sociales
et mettent en avant leur
doctrine comme un remède aux
maux sociaux de nos jours.
Ils
se cachent aussi sous le
masque du patriotisme et
cherchent par leur prétendu
zèle pour le bien être de
leurs compatriotes à rallier
le peuple sous leur
bannière. Mais
ce
ne sont là que des moyens
pour atteindre leurs fins
inavoués et une fois au
pouvoir, ils installent une
dictature impitoyable. Ce ne
sont plus les intérêts des
pauvres
et des ouvriers, ni
les intérêts de la Patrie
qui comptent, ce sont
uniquement les intérêts du
communisme. Ainsi dans les
pays sous le joug
communiste, règnent la
suppression de tout les
biens et la persécution des
milliers de nos frères
catholiques, ces derniers
vivent dans la terreur, ils
dépérissent en prison,
payant même de leur sang
leur fidélité à la foi.
Alors
résistez, très chers frères,
ne vous laissez pas tromper,
soyez fidèles à notre Dieu.
Veuillez, soyez vigilants,
restez ferme dans la foi.
Et
vous, chers prêtres,
enseignez la doctrine
sociale de l'Église,
instruisez les peuples des
vertus chrétiennes de
charité et de justice.
Prêtres
et fidèles, vivez
intensément votre vie
chrétienne selon les maximes
de L'Évangile. La charité
des premiers chrétiens a
amené la conversion du
monde: la charité, c'est à
dire supporter son prochain,
lui pardonner, lui vouloir
et
réellement lui faire du
bien.
L'amour du Christ a vaincu
la haine, votre charité
vaincra la haine des enemis
de Dieu. Que voire
voie soit toujours
un
témoignage pour Dieu, le
Christ et l’Église.
Pour conclure, nous vous
répétons encore avec
saint
Paul: “Veillez, restez ferme
dans la foi, soyez
vigilants, soyez forts, tout
ce que vous faites,
faites-le dans la charité”
(I Cor. XVI, 13-14).
Nous demandons à nos prêtres
de lire la présente lettre
dans les Églises
et
leurs Oratoires. A tous,
prêtres
et fidèles, nous
donnons de tout coeur notre
bénédiction paternelle.
Grace et
paix vous soit données de la
part de Dieu, notre Père, et
du Signeur Jésus Christ.
Hanoi,
le 9 novembre 1951
- John Dooley, Délégué
apostolique en Indochine.
- Jean
Baptiste Chaballier, Vicaire
apostolique de Phnom-Penh.
- Pierre
Ngô Đình Thục, Vicaire
apostolique de Vĩnh Long.
- Jean Cassaigne (Sanh) - de
Saigon.
- Marcel
Piquet (Lợi) - de Qui
Nhơn.
- Jean Marie Maze (Kim) - de
Hưng Hóa.
- Anselme
Tadée Lê Hữu Từ - de Phát
Diêm.
- Jean Baptiste Urritia - de
Huế.
- Pierre
Marie Phạm Ngọc Chi - de Bùi
Chu.
- Domonique Hoàng Văn Đoàn -
de Bắc Ninh.
- Joseph
Maide Trịnh Như Khuê - de
Hanoi.
- Fr. Félice Pérez (Hiên) -
Provicaire apostolique de
Haiphong.
- Bernard
Illomera (Yên) - Provocaim
apostoloque de Thái Bình.
- Paul Renaud
(Ái) - Provicaire
apostolique de Kontum.
Thư Chung Của Các Giám Mục
Công Giáo La Mã Họp tại Hà
Nội
ngày
9 tháng 11 năm 1951
(bản
dịch của Guse Phạm Hữu Tạo)
Anh em thân mến,
Chúng tôi, những giám mục
của Hội Truyền Giáo tại Việt
Nam họp tại Hanoi, dưới
quyền chủ tọa của Đức Ông
Khâm Mạng Tòa Thánh, đã thấy
bổn phận của chúng tôi là
phải kết hợp những nỗ lực để
công tác hữu hiệu trong sự
mưu tìm an bình cho lòng
người và phục hoạt đạo Chúa
hiện nay.
Là những giám mục tại Việt
Nam, xao xuyến trước sự hỗn
loạn đang đè nặng trên tâm
hồn giáo dân, nghĩ rằng bổn
phận của chúng tôi là phải
xác định rõ ràng ý niệm Tổ
Quốc! Ái quốc là tình yêu
dành cho Tổ quốc, tổ quốc
theo
ngữ học là mảnh đất của tổ
tiên. Vì vậy, tổ quốc chính
là sự nối tiếp của gia đình,
cả hai ràng buộc với nhau
trong sự sùng kính, nên
chúng tôi phải khuyến khích
sự phát triển ngang nhau với
những lẽ đạo khác. Ý niệm
của đạo về Tổ Quốc không hề
bỏ ra ngoài các quốc gia
khác mà chúng ta phải yêu
mến vì thất cả chúng ta đều
là con cái Chúa!
Tác động bởi trách nhiệm
nặng nề của chúng tôi trước
Chúa và với một tình yêu lớn
dành cho anh em, chúng tôi
thấy cần phải nhắc nhở các
anh em hãy cảnh giác trước
hiểm họa Cộng sản vô thần là
một hiểm họa lớn nhất trong
thời đại chúng ta, Cộng sản
chối bỏ Chúa, chối bỏ tín
ngưỡng, chối bỏ linh hồn bất
diệt, chối bỏ nhân quyền và
gia đình. Lại còn có sự
chống đối toàn diện ác liệt
giữa Cộng sản và giáo hội,
đến nỗi đức thánh Cha đã
phải tuyên bố quyết liệt
rằng không thể nào có thể
vừa là Công giáo vừa là Cộng
sản. Và người Công giáo khi
gia nhập đảng Cộng sản, bằng
hành vi
ấy đã xa lìa giáo hội. Không
những anh em bị cấm không
được gia nhập đảng Cộng sản,
mà anh em còn không được
cộng tác để làm bất cứ điều
gì để có thể đưa đảng ấy lên
cầm quyền. Hiểm họa quá lớn
và những hậu qủa rất ghê sợ,
nên chúng tôi cũng buộc lòng
phải cảnh giác anh em trước
những lèo lái hay xảo thuật
Cộng sản đã dùng để lừa bịp
dân chúng chỉ nhằm chiếm
đoạt được mục tiêu của họ.
Trước hết, họ đã chứng tỏ có
nhiều nhiệt tình để cải cách
xã hội và đề ra lý thuyết
như là phương thuốc chữa trị
những tệ đoan xã hội.
Họ không
che dấu mặt nạ yêu nước và
cũng tìm cách đặt ra sự
nhiệt tình làm như lo cho
hạnh phúc đồng bào để quy tụ
dân chúng dưới mầu cờ của
họ. Nhưng đó chỉ là
những phương tiện nhắm đạt
tới những mục tiêu không
tưởng của họ và khi cầm
quyền rồi, họ áp đặt một nền
độc tài tàn nhẫn. Không còn
nữa những phúc lợi của người
nghèo hay của giới công nhân
lao
động, cũng chẳng còn quyền
lợi gì của tổ quốc nữa, mà
chỉ còn quyền lợi của Cộng
sản thôi. Bởi vậy, ngự trị
trong các nước Cộng sản là
sự tước bỏ mọi phúc lợi và
sự đàn áp hàng ngàn anh em
Công giáo, những người này
phải sống trong sợ hãi, chết
rũ
trong tù ngục, phải đổ máu
ra để bảo vệ đức tin.
Vậy xin anh em hãy chống cự,
đừng bị mắc lừa, hãy trung
thành với Chúa!
Xin hãy
thức tỉnh và sống mạnh bằng
đức tin. Và qúy vị,
những linh mục, hãy giảng
dậy học thuyết xã hội Công
giáo, dậy cho giáo dân những
đức tính Công giáo về bác ái
và công bình. Linh mục và
giáo dân hãy sống đạo
theo
đúng với những lời dậy trong
Thánh kinh.
Đức bác
ái của những người Công giáo
đầu tiên là hoán cải thế
giới. Đức bác ái là
giúp đỡ đồng loại, tha thứ
cho họ và thực sự làm những
điều tốt cho họ.
Tình yêu
của đấng Ki-tô đã thắng hận
thù, tình yêu của anh em
cũng sẽ thắng kẻ thù của
Chúa. Ước gì con
đường anh em đi là sự làm
chứng cho Chúa, đấng Cứu Thế
và Giáo hội.
Để kết thúc, chúng tôi xin
nhắc lại với anh em lời nói
của thánh Phao-lồ:”Xin hãy
vững mạnh trong đức tin, hãy
thức tỉnh và hãy mạnh dạn
trong mọi việc của anh em
làm trong tình bác ái!”
Chúng tôi xin các linh
mục đọc
thư này trong các nhà
thờ và nhắc nhở trong bài
giảng. Với các linh mục và
các anh em, chúng tôi ban
phép lành thần phụ của chúng
tôi. Xin Chúa Trời là Cha
của chúng ta, và đấng KiTô
ban ơn sủng và sự bình
an
cho các anh em.
Hanoi,
ngày
9-11-1951
ký
tên : 14 giám mục (9 gốc
Pháp, 5 gốc Việt)
Các chương khác trong sách:
Alexandre De Rhodes và Chữ Quốc Ngữ
Con Đường Cụt của Vatican (Charlie Nguyễn)
Các Hoạt Động Chính Trị của Đạo Quân Thứ 5
Hồ Sơ Tội Ác của Hội Thừa Sai ...
In God We Trust
Màn Kịch Lộ Đức
Một Vấn Đề về Huyền Thoại Giáng Sinh
Nhận Xét về Thư của Phan Dình Diệm
Quan Niệm Ông Trời của Người Việt
Từ Thái Độ Khinh Miệt ...
Việt Nam cần thực hiện ...
Đòi Lại Đất bị Nhà Thờ Chiếm Đoạt
Độc Thần Giáo ...
Trang Charlie Nguyễn