Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Thờ Chúa
Charlie Nguyễn
http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_TCCG/VNcanthuchien.php
¿ trở ra mục lục | 2-8-2013
ĐẠO HỒI LÀ ĐỨC
TIN CỦA CHIẾN TRANH VÀ BẠO LỰC
Trong lịch sử
thế giới, chưa từng có một tôn giáo nào bành trướng một
cách mạnh mẽ và nhanh chóng cho bằng đạo Hồi. Từ một
nhóm người du mục sống trong một ốc đảo heo hút giữa sa
mạc Syro-Arabia đã mau chóng biến thành những con người
đầy quyền lực tung hoành từ Cận Đông đến Âu Châu và từ
Bắc Phi đến tận các nước Châu Á:
-
Chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày giáo chủ Muhammad qua
đời (632-642) quân Hồi Giáo Ả Rập đã chiếm trọn bán đảo
Arabia (rộng gấp 8 lần Việt Nam), chiếm Iraq, Syria,
Palestine, Ai Cập và phía Tây nước Iran.
-
Trong 2 năm (648-649), quân Hồi chiếm Carthage, Tunisia.
Một điều làm cho cả thế giới kinh ngạc là lần đầu tiên
người Ả Rập chiếm một nước Âu Châu, đó là Hy Lạp.
-
Thừa thắng xông lên, người Hồi Giáo Ả Rập mở cuộc chiến
tranh đánh Tây Ban Nha. Sau 5 năm, người Hồi chiến
thắng đã chiếm trọn nước Âu Châu rộng lớn và nổi tiếng
sùng đạo Công Giáo nhất thời bấy giờ.
-
Năm 712, quân Hồi Giáo chiếm trọn Iran (Ba Tư) và dùng
nước này làm bàn đạp tiến quân đánh chiếm các nước Trung
Á ở phía nam nước Nga, chiếm vùng Bắc Ấn rộng lớn (nay
là Pakistan và Afganistan) và xâm nhập phía Tây Trung
Quốc - Quân Hồi bị quân nhà Đường chận lại tại sông
Talas nên phải rút về Trung Á.
Sự xuất hiện và bành trướng của đạo Hồi trong thế kỷ 7
hung bạo dữ dội như cơn gió xoáy (tornado) khiến cho cả
thế giới phải kinh hoàng.
Chúng ta thử tìm hiểu những nguyên
nhân nào đã khiến cho đạo Hồi có thể bành trướng với tốc
độ vũ bão như vậy. Các sử gia đã phân tích 3
nguyên nhân sau đây:
Nguyên nhân 1: Qua nhiều
ngàn năm sống trên các cánh đồng cỏ ở sa mạc
Syro-Arabia, kiếp sống lang thang của những người Ả Rập
càng ngày càng trở nên khó khăn vì đất đai ngày càng trở
nên khô cằn. Từ thế kỷ 6, bộ lạc Quraysh (tổ tiên của
Muhammad) có sáng kiến bỏ nghề du mục để chuyển hẳn sang
nghề thương mại. Họ tổ chức các cuộc đi buôn đường xa
với những đoàn lữ hành (caravans) gồm hàng trăm người và
rất nhiều ngựa, lạc đà để chở hàng hóa lương thực, lều
vải, vũ khí... Dần dần, thị trường ngày càng được mở
rộng, nhu cầu thương mại gia tăng, những đoàn lữ hành có
thể gia tăng lên tới nhiều ngàn người.
Do nhu cầu tự vệ, mọi người trong đoàn lữ hành đều phải
học cưỡi ngựa, cưỡi lạc đà, luyện tập sử dụng các thứ vũ
khí như gươm giáo cung tên, kể cả võ thuật và chiến
thuật quân sự. Ngoài ra, họ học nói nhiều ngoại ngữ, học
cả địa lý và phong tục tập quán của các nước lân cận để
gia tăng khả năng giao dịch thương mại. Trải qua nhiều
thập niên, những thương gia (traders) Ả Rập trở thành
những người đa tài, đa năng và đa hiệu. Họ chẳng những
là những thương gia rành nghề mà còn là những quân nhân
thiện chiến, kỹ luật và còn là những người lãnh đạo quần
chúng.
Vào đầu thế kỷ 7, Mecca
là thủ phủ của những người Quraysh đã trở nên một trung
tâm thương mại lớn nhất tại Trung Đông.
Những người Quraysh không còn có
dáng dấp quê mùa nghèo khổ của thế kỷ trước nữa trái lại
họ đã trở thành những người văn minh giàu có.
Điều đó làm cho nhiều bộ lạc Ả Rập khác phải thèm muốn
và cố gắng noi theo. Một
trong những bộ lạc nổi tiếng hung dữ là bộ lạc Bedouins
bắt chước bộ lạc Quraysh đã bỏ nghề du mục và tham gia
vào các đoàn caravans của
Mecca.
Vào giữa thế kỷ 7, gặp cơ hội đạo Hồi phát triển, các bộ
lạc Ả Rập, nhất là Quraysh và Bedouin, đã nô nức nhập
cuộc dùng tôn giáo làm phương tiện bành trướng lãnh thổ
để thay đổi môi trường sống tại bán đảo Ả Rập quá cằn
cỗi.
Nguyên nhân 2: Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, toàn
vùng Trung Đông và Bắc Phi bị hai đế quốc Byzantine và
Sassanian thay phiên nhau thống trị. Đế quốc Byzantine
là hậu thân của đế quốc La Mã, được Đại Đế Constantine
thành lập năm 330, đặt thủ phủ tại hải cảng Byzantine
của Hy Lạp. Từ đời Constantine (thế kỷ 4) đến đời hoàng
đế cuối cùng của đế quốc Byzantine vào giữa thế kỷ 15,
tất cả đều là những hoàng đế theo Ki Tô Giáo Đông Phương
(Eastern Christian Church) sau này trở thành Chính Thống
Giáo. Đế Quốc Sassanian là
đế quốc Ba Tư, tồn tại 427 năm (từ năm 224 đến 651). Các
hoàng đế của đế quốc Sassanian đều
theo đạo Hỏa Giáo (Zoroastrianism). Cả hai đế
quốc nói trên đánh nhau liên miên suốt 4 thế kỷ, đến đầu
thế kỷ 7 thì cả hai đế quốc này đều bị kiệt quệ tạo nên
một khoảng trống quyền lực (a power vacuum) tại Trung
Đông và Bắc Phi. Do đó, những đoàn kỵ binh của Hồi Giáo
Ả Rập đã tiến vào lãnh thổ của cả hai đế quốc này như
tiến vào chỗ không người.
Nguyên nhân 3: Giáo lý đạo Hồi là sản phẩm của
người Ả Rập nên được người Ả Rập đón nhận một cách dễ
dàng và tự nhiên. Từ thời xa xưa, người Ả Rập đã chấp
nhận niềm tin của Abraham, nghĩa là tin có Thiên Chúa
(tiếng Ả Rập gọi là Allah) tin có Thiên đàng, Hỏa ngục,
tin có các thiên thần v.v... Cho nên
người Ả Rập không coi Hồi Giáo như một đạo ngoại lai mà
là đạo cổ truyền của dân tộc. Văn thơ trong kinh
Koran đối với người Ả Rập là những áng thơ văn tuyệt
tác. Mỗi khi họ đọc kinh Koran là một dịp họ ngâm thơ,
họ cảm thấy những vần thơ đó rất hấp dẫn vì rất hợp với
khiếu thẩm mỹ văn chương của họ. Ý niệm thánh chiến
(Jihad) và ý niệm tử đạo (martyrdom) hoàn toàn phù hợp
với tâm lý vốn hung bạo của người Ả Rập vì họ rất quen
thuộc với cuộc sống đầy bất trắc tại
sa mạc. Kinh Koran mô tả thiên đàng rất hấp dẫn
đối với các chiến binh trẻ tuổi: Sau khi chết trận, được
coi như tử đạo, sẽ được Chúa cho lên thiên đàng để hưởng
đủ lạc thú cho đến muôn đời. Lạc thú độc đáo nhất mà chỉ
đạo Hồi mới có, đó là những người chết trận hoặc tử đạo
đều được những cô gái trinh tuyệt đẹp đón tiếp và phục
vụ lạc thú tình dục cho đến muôn đời vì mọi người ở
thiên đàng đều trẻ mãi không già! Niềm tin đặc biệt này
đã là một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho những người
lính Hồi Giáo trở thành những chiến sĩ rất dũng cảm
trong các cuộc thánh chiến. Chỉ vì cuồng tín, những đoàn
quân Hồi Giáo đã lập nên những chiến công oanh liệt như
những kỳ tích vượt xa sự dự tưởng của mọi người.
Những cuộc chiến tranh mở rộng nước Chúa của Hồi Giáo (Kingdom
of Allah)
từ ngày lập đạo tới nay có thể được chia ra làm hai thời
kỳ:
-
Thời kỳ I- từ thế kỷ
7 đến thế kỷ 13: Đạo Hồi bành trướng và phát triển tạo
thành một số quốc gia theo đạo Hồi, đứng đầu cộng đồng
Hồi Giáo là một vị vua được gọi là Caliph, có nghĩa là
"người kế vị giáo chủ Muhammad về phương diện thế quyền
". Xin ghi thêm ở đây là đạo Hồi tin
giáo chủ Muhammad là thiên sứ cuối cùng của Allah cho
nên không một ai có quyền tự xưng là kẻ thừa kế của Ngài
về phương diện thần quyền.
-
Thời kỳ II- từ thế kỷ
13 đến thế kỷ 20: Do những biến cố đặc biệt của thế giới
đã đưa đến sự hình thành ba đế quốc Hồi Giáo. Trước hết
là sự xâm lăng của quân Mông
Cổ chiếm các nước Trung Đông và sau đó chiếm các nước
Bắc Ấn và nhiều nước Á Châu khác tạo thành một đế quốc
Mông Cổ rộng lớn. Từ cuối thế kỷ 13, nhiều hoàng đế Mông
Cổ theo đạo Hồi đã tạo nên đế
quốc Hồi Giáo Mughul (do chữ Mongol mà ra). Trong thế kỷ
15, tại Âu Châu, người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi Giáo chế ra thuốc
súng và lập ra binh chủng pháo binh đầu tiên trên thế
giới. Dựa vào sức mạnh quân sự, người Thổ Hồi Giáo xua
quân đánh chiếm nhiều nước trên cả 3 lục địa Âu, Á, Phi
và lập nên đế quốc Ottoman. Cuối cùng, dân tộc
Azerbaizan ở tây nam biển Caspian bỗng nhiên trở nên
hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16, cất quân đánh chiếm nhiều
nước Âu Châu và Trung Đông tạo thành đế quốc Safavids
theo giáo phái Shiite.
I. THỜI KỲ CAI
TRỊ CỦA CÁC CALIPHS (The Caliphate Rulers)
A. Bốn người kế vị đầu
tiên của Muhammad (632-661):
Danh từ Hồi Giáo Ả Rập gọi chung
cả bốn vị thừa kế đầu tiên của giáo chủ Muhammad là
RASHIDUN - Họ được coi là 4 trụ cột của Hồi Giáo trong
thời kỳ sơ khai. Họ đã lần lượt thay thế nhau trong 29
năm kể từ khi Muhammad qua đời, nhưng những việc làm của
họ đã có những ảnh hưởng hết sức lớn
lao cho sự tồn vong của đạo Hồi. Bốn vị đó
là : Abu Bakr, Umar Khattab,
Uthman Affan và Ali Talib.
1. Abu Bakr (632-634). Sau khi Muhammad qua đời,
cộng đồng Hồi Giáo non trẻ lâm vào tình trạng hỗn loạn
vì không có lãnh đạo. Không một ai
được đa số tín đồ Hồi Giáo tín nhiệm bầu lên làm nguời
kế vị Muhammad. Trước tình thế bế tắc đó, Abu
Bakr tự động đứng lên dành quyền lãnh đạo.
Ông là một thương gia giàu có và có
uy tín bậc nhất ở
Mecca.
Ông đã nghiêm khắc ra 2 lệnh cấm khẩn cấp để bảo vệ đạo
Hồi và cộng đồng Hồi Giáo:
-
Tuyệt đối cấm không một tín đồ nào được rời bỏ cộng đồng
Hồi Giáo (Islamic confederacy)
-
Không một ai được tự xưng là tiên tri vì Muhammad là vị
tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa trên thế gian này.
Abu Bakr đã mau chóng phá tan các âm mưu chia rẽ cộng
đồng Hồi Giáo và chỉ sau 2 năm, toàn bán đảo Ả Rập đã
theo đạo Hồi. Bán đảo Ả Rập rất rộng lớn, (gấp 8 lần
diện tích Việt Nam) hiện được chia thành nhiều quốc gia
độc lập: Saudi Arabia, Yemen,
Quatar, Omar và Emerite.
2. Umar Khattab (634-644). Sau khi Abu Bakr qua
đời, Umar được bầu làm người kế vị (Caliph)
cai quản cả một cộng đồng Hồi
Giáo rộng lớn trên toàn bán đảo Ả Rập.
Umar là một thiên tài quân sự kiệt
xuất trong lịch sử Hồi Giáo. Ông đã ban hành trên
toàn lãnh thổ Ả Rập những biện pháp sau đây:
- Để bảo toàn lực lượng Hồi Giáo,
các bộ lạc trong Cộng đồng đạo Hồi tuyệt đối không được
đánh nhau.
-
Mọi người nam giới trong các bộ lạc trên lãnh thổ bán
đảo Ả Rập đều là các binh sĩ, tất cả đều được huấn luyện
quân sự và được sắp xếp thành các đơn vị quân đội.
Umar tự xưng là "Tư lệnh của các tín
đồ" (The commander of the faithful). Sau hai năm
huấn luyện các binh sĩ và trang bị vũ khí đầy đủ, Umar
bắt đầu mở mang nước Chúa bằng sức mạnh quân sự:
*
Năm 636, Umar đích thân chỉ huy quân Hồi Giáo chiếm Iraq
và Syria.
*
Năm 637, Umar chiếm toàn lãnh thổ của đế
quốc Sassanian (Ba Tư) và
chiếm thành phố lớn nhất của đế quốc Byzantine là
Anatolia.
*
Năm 638, Umar xua quân chiếm Palestine
và thánh địa Jerusalem.
*
Năm 641, Umar chiếm toàn bộ các nước Bắc Phi gồm Ai Cập,
Algeria, Tunisa và
Maroc.
Một điều đáng chú ý là những đoàn quân Hồi Giáo đã tiến
chiếm những vùng đất xa xôi thuộc nhiều hướng khác nhau
nhưng vị chỉ huy tối cao là Umar vẫn đặt bản doanh ở
Medina, một ốc đảo trong sa mạc Syro - Arabia. Ông chỉ
huy các đoàn quân Hồi Giáo trên những
sa bàn và những bản đồ tại
văn phòng của ông. Dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của Umar
trong 10 năm, Hồi Giáo từ một giáo phái nhỏ ở
sa mạc đã biến thành một đế
quốc rộng lớn. Các tín đồ Hồi Giáo cho đó là một phép lạ
của Allah, trong khi Âu Châu bắt đầu cảm thấy e ngại
trước sự lớn mạnh của một tôn giáo mới.
Họ gọi đạo Hồi là "đức tin của bạo
lực" (A violent faith) hoặc là một "tôn giáo quân phiệt"
(a militaristic religion). Vào một ngày định mệnh
trong tháng 11 năm 644, trong khi Umar đang cầu nguyện
trong đền thờ tại Medina thì bị một tù binh người Ba Tư
đâm chết.
3. Uthman (644-656). Uthman là cánh
tay mặt và phục vụ dưới
trướng của Umar 10 năm. Uthman đã
học hỏi được nhiều kinh nghiệm về tài thao lược quân sự
của người tiền nhiệm. Vào lúc nầy, Hồi Giáo là
một quyền lực quân sự lớn ở trong vùng vì họ đã tịch thu
được rất nhiều chiến lợi phẩm quân sự và tích lũy được
rất nhiều tài nguyên kinh tế dự trữ tại các vùng chiếm
đóng. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Uthman trong 12 năm,
quân Hồi đã lập nên nhiều kỳ tích chưa từng thấy:
- Trước hết,
quân Hồi chiếm Hy Lạp và nhiều nước phía đông Địa Trung
Hải.
-
Mấy năm sau, một cánh quân tiến về phía Tây chiếm Libya.
-
Một cánh quân khác tiến về phía đông chiếm nước Âu Châu
Armenia, tiến vào miền Caucase của Nga.
Trong khi đó một cánh quân khác tràn
xuống phía nam đánh chiếm Bắc Ấn Độ (tức Afganistan và
Pakistan ngày nay).
Tới lúc này, Hồi Giáo đã thành một đế quốc mênh mông kéo
dài từ Âu sang Á tới Bắc Phi. Những quân lính Ả Rập Hồi
Giáo hầu hết đều đã xa nhà trên 10 năm, phần đông đều
cảm thấy chán nản. Nhiều tướng lãnh
Hồi Giáo xa chủ tướng đã quá lâu nên cũng mất đi tình
thân ban đầu.
Năm 656, một nhóm tướng và binh sĩ bất mãn đã bất thần
trở về Medina
vây bắt và giết chết Uthman tại chỗ. Nhóm này đưa Ali
Talib lên làm vị Caliph thứ
tư của Hồi Giáo.
4. Ali Talib (656-662). Vụ sát hại Uthman để đưa
Ali lên thay là một biến cố vô cùng
tai hại cho Hồi Giáo trong suốt nhiều thế kỷ qua
và có thể còn kéo dài mãi mãi về sau. Ali là em họ và
đồng thời là con rể của Muhammad.
Khi vừa được bầu lên làm Caliph, Ali đã gặp phải sự
chống đối của Muawiyah là người nhà của Uthman.
Muawiyah lúc đó là quan toàn quyền Hồi Giáo
cai trị Syria lên tiếng chỉ
trích Ali đã không trừng phạt kẻ sát hại Uthman.
Ali mang quân đến đánh Muawiyah
nhưng hai bên đánh nhau khá lâu không phân thắng bại nên
phải ngưng chiến. Năm 662, Ali bị ám sát chết.
Muawiyah tự cho mình là người đang nắm quyền lực quân sự
mạnh nhất nên tự xưng là Caliph lãnh
đạo cộng đồng Hồi Giáo. Y tự ý dời
thủ đô Hồi Giáo từ
Medina
về Damacus lúc đó là thủ đô của Syria.
Muawiyah mở đầu cho một triều đại
Hồi Giáo kéo dài tới 6 thế kỷ. Đó là triều đại
Umayyad (Umayyad Dynasty) gồm những vị vua
cai trị các nước Hồi Giáo,
tất cả đều tự xưng là Caliph (661-1250). Do đó, tất cả
các vua Hồi Giáo thuộc triều đại Umayyad đều được gọi
chung là "Caliphate Rulers",
có nghĩa là các nhà lãnh đạo cộng đồng với tư cách là
người kế vị Muhammad.
Riêng cá nhân Muawiyah cai
trị toàn bộ cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trong 19 năm.
Ông biến những người theo ông
thành một giai cấp quí tộc mới, nói đúng hơn là một giai
cấp thống trị (a ruling class). Chủ thuyết của Muawiyah
là cai trị dân bằng sức mạnh
quân sự (military aristocracy).
Muawiyah chết vì bệnh năm 680.
Trong thời gian đó, những người Hồi Giáo thân Ali đã lập
ra một giáo phái mới là giáo phái Shiite. Số tín đồ Hồi
Giáo còn lại được gọi chung
là Sunni, có nghĩa là Đa số. Năm
680, vua Yazid (con của Muawiyah) đến
Medina
chặn bắt con trai của Ali là Husayn và giết nhiều người
thuộc giáo phái Shiite.
Năm sau (681), Yazid mang quân trở
lại Medina
(nơi ở cuối cùng của Muhammad) tàn phá và dìm thành phố
thánh địa này trong biển máu. Để trả thù,
giáo phái Shiite mang quân chiếm thánh địa
Mecca và
tàn phá nặng nề thành phố này. Từ đó đến nay, trải qua
trên 13 thế kỷ, hai giáo phái Sunni và Shiite thường
xuyên xung đột nhau nhiều trận đẫm máu.
Số người tử trận cả hai bên có thể
lên tới nhiều chục triệu người. Đây là một thảm họa lớn nhất trong
lịch sử thế giới Hồi Giáo.
II. THỜI KỲ CỦA NHỮNG ĐẾ QUỐC HỒI
GIÁO - TỪ THẾ KỶ 13 ĐẾN THẾ KỶ 20.
1. Đế Quốc Mughul
:
Mughul là tiếng phiên âm Ả Rập để
gọi người Mông Cổ (Mongol).
Người sáng lập đế quốc Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn
(Genghis Khan 1162-1227). Thoạt đầu
ông thống nhất các bộ lạc du mục Mông Cổ vốn có tài cưỡi
ngựa và bắn cung. Sau đó ông huấn luyện và tổ
chức họ thành quân ngũ và
biến họ thành những đoàn kỵ binh bách chiến bách thắng.
Với đoàn quân hùng mạnh này, Thành Cát Tư Hãn đã lần
lượt đánh chiếm nhiều nước từ Á sang Âu tới tận Trung
Đông và Phi Châu. Luật tác chiến rất nổi tiếng của Thành
Cát Tư Hãn là : Hễ tới nơi
nào ngoan ngoãn đầu hàng thì tha, bất cứ một thành phố
hay làng mạc nào chống cự đều bị phá bình địa và tất cả
mọi người dân không kể già trẻ lớn bé đều phải chết!
- Năm 1219,
quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm Thổ Nhĩ Kỳ.
Vua Thổ cùng đoàn tùy tùng bỏ chạy bị quân Mông Cổ truy
kích qua Iran tới tận Azerbaizan thì bị bắt.
Quân Mông Cổ tới đâu đều để lại phía
sau sự đổ nát hoang tàn.
- Năm 1231,
hàng loạt các thành phố nổi tiếng của Hồi Giáo như
Baghdad, Bukhara,
Damacus... đều bị đốt phá bình địa với những xác chết la
liệt trên đường phố. Dân chúng sợ hãi
lũ lượt kéo nhau chạy qua các
nước lân cận.
- Năm 1255,
Mông Cổ hoàn thành một đế quốc rộng lớn bao la bao gồm
Trung Quốc, Cao Ly, Ngoại Mông, hàng chục nước Trung Á
và Bắc Ấn Độ, Syria, Palestine, Thổ Nhĩ Kỳ.
Nhưng một
biến cố quan trọng đã xảy ra cho cả Hồi Giáo lẫn Mông
Cổ, đó là vào năm 1295, hoàng đế Mông Cổ Ghazan Khan
theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Từ đó về sau, các
hoàng đế Mông Cổ đều theo đạo
Hồi. Càng về sau, các quan và cả triều đình Mông Cổ
trong đế quốc đều thành những tín đồ Hồi Giáo thành tín.
Các học sĩ Hồi Giáo Ả Rập (Ulama) được trọng dụng, nhất
là trong việc soạn thảo các bộ luật hình sự và dân sự
phỏng theo luật Hồi Giáo
Sharia.
Hoàng đế Mông
Cổ Timur Lenk đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ xua quân đánh chiếm
Iran năm 1387, chiếm hải cảng Golden Horde của Nga năm
1395, chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn phá thủ đô New Delhi và
giết hàng chục ngàn tù binh Hindu tại đây. Năm 1400,Timur
chiếm hai nước Iran và Iraq.
Tại đây, Timur ra lệnh tàn sát hàng
triệu người thuộc giáo phái Shiite. Vì quá say máu chiến thắng, năm
1404, Timur kéo quân ngược về phía Trung Á rồi vượt biên
giới tiến đánh vào phía Tây Trung Quốc. Cuộc
chiến kéo dài qua năm sau, Trung Quốc phản công giết
quân Mông Cổ rất nhiều và bản thân Timur cũng bị tử trận
trong năm 1405.
Những hoàng
đế Mông Cổ kế tiếp chú trọng việc mở rộng đế quốc ở Châu
Á:
- Năm 1478,
đế quốc Mughul chiếm Indonesia và biến nước này thành
nước Hồi Giáo. Ngày nay, Indonesia
là một nước đông dân nhất của thế giới đạo Hồi với trên
200 triệu dân.
- Từ 1520 đến
1837, đế quốc Mughul cai trị
toàn Ấn Độ. (Ấn Độ mang tên Mughul Empire of India).
Hoàng đế Mông Cổ đóng đô tại
New Delhi.
Năm 1643, hoàng đế Mông Cổ cho xây ngôi mộ của hoàng hậu
ở ngoại ô New Delhi rất nổi tiếng, đó là ngôi mộ Taj
Mahal..
- Năm 1747,
đế quốc Mughul chiếm Afganistan và
cai trị nước này 100 năm.
Năm 1831,
người Anh chiếm Ấn Độ và chấm dứt đế quốc Mughul trên
lục địa Châu Á.
2. Đế quốc Ottoman (1289-1924)
Danh từ Ottoman xuất phát từ tên
của một bộ lạc du mục là OSMAN ở phía tây Thổ Nhĩ Kỳ. Bộ
lạc này bắt đầu khởi binh từ năm 1280. Chỉ
trong 9 năm, họ chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn gồm có
Tây Nam Á Châu, Đông Nam
Âu Châu và Đông Bắc Phi Châu. Họ gọi
đế quốc của họ là OTTOMAN. Những người lãnh đạo
đế quốc này đều theo đạo Hồi
thuộc giáo phái Sunni. Họ chẳng
những nổi tiếng về tài năng thao lược quân sự mà còn nổi
tiếng về khả năng chính trị rất khéo léo của họ.
Nhờ vậy, đế quốc Ottoman đã tồn tại qua 7 thế kỷ.
- Năm 1389,
quân Ottoman chiếm Albania
và Kosovo, biến vùng này thành những nước
theo Hồi Giáo.
- Năm 1444,
quân Ottoman đánh tan Thập Tự Quân của giáo hoàng La Mã
tại Bulgaria.
- Tháng
4.1453, quân Hồi Giáo Ottoman xóa sổ đế quốc Byzantine,
tức đế quốc Ki Tô Giáo Đông Phương và chiếm thủ đô của
đế quốc này là thành phố Constantinople. Điểm son của
Ottoman là sau khi chiếm Constantinople và nhiều lãnh
thổ của Byzantine, Ottoman công bố chính sách khoan dung
tôn giáo đối với Do Thái Giáo và Ki
Tô Giáo. Nhờ vậy, trong nhiều thế kỷ sau, Ottoman
đã mở rộng thương mại với các nước Âu Châu Ki
Tô Giáo và trong lãnh thổ đế
quốc không có một cuộc nổi loạn nào. Tuy nhiên, đối với
giáo phái Shiite, Ottoman có một chính
sách quyết liệt không khoan
nhượng.
- Năm 1467,
Ottoman công bố thánh chiến với giáo phái Shiite, các
tín đồ Shiite trong đế quốc bị lùng giết.
- Từ 1467 đến
1520, quân Ottoman tiến chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và
toàn bán đảo Arabia.
- Từ 1520 đến
1534, quân Ottoman chiếm Nam Tư và một phần Âu Châu tới
thủ đô Vienne của Áo.
- Năm 1606,
Ottoman chiếm Romania, Hungaria, Ba Lan và Tiệp Khắc.
Tới lúc này, đế quốc Ottoman trở thành siêu cường quốc
tế (World Power).
Từ đầu thế kỷ
19, các cường quốc Âu Châu (Anh, Pháp, Đức) bắt đầu xâm
chiếm các phần đất của Ottoman và dồn đế quốc này vào
chỗ suy tàn.
3. Đế quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779)
Thoạt đầu Safavids là một nhánh
của giáo phái Shiite xuất phát tại nước Azerbaizan ở tây
nam biển Caspian.
Năm 1501,
lãnh tụ của giáo phái Safavids là Esmail khởi binh chiếm
luôn cả nước Azerbaizan. Esmail tự xưng là "Vua Hồi
Giáo" (Sha/Sultan) và ra lệnh cho toàn dân phải
theo đạo Hồi (giáo phái
Shiite). Ít lâu sau, Esmail xua quân đánh chiếm các nước
lân cận theo Chính Thống Giáo
là Armenia, Georgia
và vùng núi Caucase của Nga. Trong thời gian chiếm đóng,
quân Hồi Safavids đã giết hại rất nhiều người Chính
Thống Giáo. Riêng tại Armenia, số tín đồ Chính Thống
Giáo bị giết lên tới một triệu người. Sau đó quân
Safavids chuyển qua phía đông tấn công thành phố
Anatolia để dằn mặt đế quốc Ottoman
theo giáo phái Sunni. Trong khi đó, một nhóm khác
thuộc giáo phái Shiite ở Ba Tư nỗi lên cướp chính quyền
của giáo phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra lệnh cho cả nước
Ba Tư phải theo Shiite, ai
bất tuân lệnh đều bị giết. Tất cả
các học sĩ (Ulamas) lãnh đạo giáo phái Sunni đều bị chém
đầu, không sót một ai. Kể từ đó, nước Ba Tư (Iran)
trở thành một quốc gia toàn tòng
theo giáo phái Shiite. Các vua Hồi Giáo Ba Tư
được gọi là SHA, vừa là vua vừa là giáo chủ, phần đông
đều cực đoan và hung dữ.
Phần đông các
học sĩ Hồi Giáo Ba Tư đều theo
môn phái triết học thần bí (mystical philosophy) tóm tắt
như sau: "Chính trị và tôn giáo là một, không thể tách
rời. Mọi cải cách xã hội không thể
vượt quá tư tưởng tôn giáo".
Với bản chất cuồng tín cực đoan
cố hữu của giáo phái Shiite, nay lại có thêm chủ thuyết
thần bí của các Mullahs (học sĩ) giáo phái Shiite càng
ngày càng trở nên cực đoan nguy hiểm.
Họ luôn luôn có thái độ bất khoan
dung với các tôn giáo khác, nhất là đối với giáo phái
Hồi Giáo Sunni, chiếm 80% dân số đạo Hồi.
* * *
Như đã trình bày trên đây, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20,
trong thế giới Hồi Giáo đã xuất hiện ba đế quốc riêng
biệt và luôn tranh chấp với nhau. Cả ba đế quốc Hồi Giáo
đã được thành lập và suy tàn vào những thời điểm khác
nhau:
- Đế quốc Mughul thành lập đầu thế
kỷ 13, suy tàn cuối thế kỷ 19.
- Đế quốc Ottoman thành lập cuối thế
kỷ 13, suy tàn đầu thế kỷ 20.
- Đế quốc Safavids thành lập đầu thế
kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ 18.
Như vậy, hai đế quốc Hồi Giáo lớn mạnh nhất là Ottoman
và Mughul đã cùng tồn tại song hành và chia nhau thống
trị thế giới Hồi Giáo bao la trong 7 thế kỷ. Ít nhất là
trong 200 năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, cả ba đế quốc
Mughul, Ottoman và Safavids cùng tồn tại trong thế giới
đạo Hồi (The Islamic World).
Từ thế kỷ 18 trở đi, các nước
Âu Châu trở nên hùng cường mọi mặt đã đẩy lùi các đế
quốc Hồi Giáo đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là nước Nga đánh
tan quân Ottoman ở vùng Biển Đen năm 1774, chiếm lại
Armenia và vùng núi Caucase. Năm 1792, Nga chiếm Georgia
và Romania từ
tay Ottoman.
Đầu thế kỷ 19, Nga chiếm toàn bộ miền Trung Á gồm nhiều
nước theo đạo Hồi thuộc đế
quốc Mughul.
(Sau Cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga
năm 1917, các nước Hồi Giáo Trung Á đều biến thành các
tiểu bang thuộc Liên Bang Xô Viết).
-
Cũng trong đầu thế kỷ 19, Hòa Lan
chiếm Indonesia và Mã Lai. Anh chiếm Ấn Độ bao gồm cả
một tiểu lục địa (sau 1947, Ấn Độ bị chia thành nhiều
nước: Pakistan, Bangladesh,
Tích Lan và Ấn Độ).
-
Cuối thế kỷ 19, Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Pháp chiếm
Algeria, Tunisia và
Maroc.
- Đầu thế kỷ 20, Ý chiếm Lybia.
Anh và Pháp chiếm Palestine, Jordan, Iraq, Syria
và Liban.
Tóm lại, từ đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ một nước duy
nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, còn lại toàn bộ thế giới Hồi Giáo
đều trở thành những thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu
Châu.
Lịch sử bành trướng và phát triển
của đạo Hồi luôn luôn gắn liền với chiến tranh và bạo
lực. Vì thế đạo Hồi nổi tiếng
là "tôn giáo của lưỡi gươm" (Religion of Sword) hoặc
"tôn giáo quân phiệt" (Militaristic Religion).
Kinh Thánh Koran của Hồi Giáo được gọi là "Cuốn sách của
tử thần" (The Book of Death) và đức tin Hồi Giáo là:
"đức tin hung bạo" (a violent faith). Trong hơn một thế
kỷ qua, thế giới Hồi Giáo đã bị Tây Phuơng dồn vào thế
suy kiệt mọi mặt. Họ không còn con
đường nào khác hơn là thực hiện chủ nghĩa khủng bố.
Về hình thức thì ngày nay chiến tranh có khác với ngày
xưa, nhưng về thực chất thì chủ nghĩa khủng bố cũng là
một hình thái của chiến tranh và bạo lực. Chỉ khác một
điều: chủ nghĩa khủng bố là hình thái chiến tranh của
những kẻ đã bị dồn vào thế yếu nhưng buộc phải chiến đấu
với kẻ thù lớn mạnh hơn mình để tồn tại.
Nhìn về tương lai, chúng ta khó đoán được cuộc chiến
tranh khủng bố sẽ đưa nhân loại đi về đâu, nhưng nhìn về
quá khứ chúng ta phải công nhận sức mạnh của Hồi Giáo đã
tạo nên nhiều thành tích quan trọng:
-
Trong thế kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập tiêu diệt đế quốc
Sassanian đã từng làm mưa làm gió ở Trung Đông trong 10
thế kỷ trước đó.
-
Trong thế kỷ 15, Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt đế quốc
Ki Tô Giáo Byzantine (hậu thân của đế quốc La Mã) chặn
đứng sự bành trướng của Ki Tô Giáo xuống bán đảo Ả Rập
và Trung Đông.
-
Nói chung, sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của đạo
Hồi đã tạo nên một đối trọng ngang ngửa với Ki Tô Giáo
và tựu trung Hồi Giáo đã phá tan tham vọng bá chủ toàn
cầu của đế quốc Vatican.
Các chương khác trong sách:
- Bảy Cuộc Chiến Tranh Chống Hồi Giáo ...
- Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo Công Giáo
- Hỏa Giáo Ba Tư là Tiền Thân ...
- JESUS dưới cái nhìn của Do Thái Giáo và Hồi Giáo
- Những tước hiệu bịp bợm của Giáo Hoàng
- Thiên Chúa Đang Được Động Viên ...
- Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế Constantine
- Truyền Thống Abraham Dưới Ánh Sáng ..
- Vai trò của chính quyền (Charlie Nguyễn)
- Việt Nam Cần Thưc Hiện Những Biện Pháp Mạnh.. (Charlie Nguyễn)
- Đạo Hồi là Đức Tin của Chiến Tranh và Bạo Lực
- Đạo Thiên Chúa chỉ là Đạo Thờ Bò Cải Biến
- Ảnh Hưởng Thần Học Do Thái Giáo và Kitô Giáo ...
Trang Charlie Nguyễn
Trang Tôn Giáo