Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Thờ Chúa
Charlie Nguyễn
http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_TCCG/VNcanthuchien.php
¿ trở ra mục lục | 2-8-2013
Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế
Constantine
Constantine sinh năm 274 (?) tại Nish, nay là
tiểu bang Serbia của Nam Tư (Yougoslavia), qua đời tại
Constantinople (nay là Istambul của Thỗ nhĩ kỳ) vào năm 337. Mẹ của
Constantine là Helena, sinh quán tại Anh quốc. Cha của Constantine
là Constantius Chlorus, một vị tướng của đế quốc La mã đồn trú tại
Anh. Cha của Constantine đã quen biết bà Helena khi bà này còn là
một cô gái hầu bàn tại quán rượu ở Bithinia (Enc. Britanica Vol. VI,
page 297). Bà Helena chỉ là một trong những cô vợ bé của Constantius
mà thôi. khi Constantine lên 7, 8 tuổi thì bà Helena bị chồng ruồng
bỏ. Bà rất đau buồn nên đã tìm an ủi trong đạo Ki-tô, chẳng bao lâu
sau bà trở thành một tín đồ rất sùng đạo. Không ai ngờ hành động
theo đạo Ki-tô của bà đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với Constantine.
Sau này, Constantine đã biến Ki-tô giáo thành một lực lượng khuynh
đảo thế giới (world shaking power) lớn nhất trong lịch sử loài
người.
Trước thời đại của Constantine, người Ki-tô
giáo dùng hình con cá làm biểu tượng. Constantine là người đầu tiên
dùng thập giá làm huy hiệu chính thức của quân đội La mã và cũng từ
đó thập giá trở thành huy hiệu cao quí nhất của Ki-tô giáo. Đế quốc
La mã và Ki-tô giáo cùng chung một biểu tượng thập giá. Dưới bàn
tay phù thủy của Constantine, thập giá là một dụng cụ giết người rất
dã man và đáng ghê tởm nhất đã biến thành “Thánh giá” thiêng liêng
cao quí của đạo Ki-tô và của cả đế quốc!
Có lẽ do ảnh hưởng của mẹ, Constantine nhận
thấy những người Ki-tô giáo rất cuồng tín. Constantine không tin đạo
nhưng chủ tâm xử dụng Ki-tô giáo làm công cụ chính trị để thống nhất
đế quốc và sau đó có thể dùng tôn giáo để chinh phục thế giới.
Constantine đã bộc lộ chủ trương này qua khẩu hiệu “In Hoc Signo
Vinces” (Dưới khẩu hiệu Thập giá ta sẽ chiến thắng!”. Chủ trương này
còn bộc lộ rõ rệt hơn nữa khi người kế nhiệm Constantine đổi tên
Ki-tô giáo thành “Công giáo” năm 340. Danh từ “Công giáo” trong
tiếng La tinh “Cattolica” có nghĩa là toàn cầu (universal) ngụ ý đế
quốc có thể bành trướng thế lực ra khắp thế giới dưới chiêu bài
Ki-tô giáo!
Những hoàn cảnh Lịch sử đã đưa
Constantine lên
ngôi Đại đế:
Đế quốc La mã bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 6
trước Công nguyên. Đến thời Deocletian, cuối thế kỷ thứ 3 sau Công
nguyên, đế quốc La mã bao trùm một vùng lãnh thổ rộng lớn lên tới
hai triệu dặm vuông, trải dài từ Armenia (sát nước Nga) đến Bắc Phi,
từ Đại Tây dương đến Biển Chết, từ Tô-cách-lan đến Ai-cập.
Năm 285, Deocletian lên ngôi hoàng đế La-mã
thấy lãnh thổ của mình quá lớn bèn chia đế quốc thành bốn vùng, mỗi
vùng do một thống đốc (Tetrach/ Governor) cai trị. Bốn thống đốc đó
là Licinius, Maxentius, Galerius và Constantius Chlorus (cha của
Constantine). Vùng lãnh thổ thuộc quyền Constantine là Anh, Pháp,
Tây-ban-nha và một phần đồng bằng sông Rhin (Đức, Bỉ).
Năm 305, nhân dịp có vụ nổi loạn ở Anh,
Constantine được cha trao trách nhiệm mang quân từ Pháp qua Anh dẹp
loạn. Đến tháng 7 năm 306, trong lúc Constantine đang ở Anh thì được
tin cha từ trần tại Ý. Các quân sĩ dưới quyền tôn Constantine lên
ngôi hoàng đế (emperor).
Bắt đầu từ đó (306) Constantine lo củng cố
quân lực để thống nhất đế quốc. Sau 6 năm tuyển mộ quân lính, phần
đông là những tín đồ Ki-tô giáo, Constantine thành lập đạo quân Thập
Tự đầu tiên với cờ hiệu là hình chữ Thập hoặc viết hai chữ tắt
Hy-lạp “XP” có nghĩa là Ki-tô.
Năm 312, Constantine kéo quân đến Rome, giết
chết đối thủ là Maxentius tại cầu Milvian. Xác của Maxentius bị vứt
xuống sông Tiber. ngay khi tiến quân vào làm chủ thủ đô Rome,
Constantine công bố chủ trương ưu đãi Ki-tô giáo. Vào tháng 2 năm
313, Constantine đến Milan gặp đối thủ (co-emperor) Lucinius và
thuyết phục ông này cùng ký tên vào văn kiện được gọi là “Đạo luật
Milan” (Edit of Milan) ban bố hủy bỏ lệnh cấm đạo trên toàn đế quốc.
Cả hai vị hoàng đế cùng công bố như sau: “Chúng tôi cho mọi người
Ki-tô giáo có quyền lựa chọn các nghi lễ thờ phượng mà họ muốn” (We
might give all Christians fredom of choice to follow the ritual
which they wished –the Rise of Chistianity, Greenhaven press 1999,
page 22).
Sau đạo luật Milan, Constantine ra lệnh hoàn
trả Ki-tô giáo tất cả tài sản đã bị các hoàng đế tiền nhiệm tịch
thu. Ngày 28-10 năm 312, Constantine công bố Thập giá là biểu
tượng chính thức của Ki-tô giáo. Trước đó, các tín đồ Ki-tô
thường dùng hình vẽ con cá làm biểu tượng vì chữ Hy-lạp ICHTBUS có
nghĩa là Cá, cụm từ EOU UIOS SOTER có nghĩa là Con của Chúa Trời
(Son of God). Ghép các chữ đầu lại với nhau sẽ thành tên của Jesus
theo tiếng Hy-lạp IESOUS (Deceptions and Myth of the Bible, Lloyd M.
Graham, page 326-327).
Năm 323, một đối thủ của Constantine là
Galerius (co-emperor) bất thần bị bệnh chết và không có thừa kế. Sân
khấu chính trị của đế quốc La-mã chỉ còn lại hai đấu thủ là
Constantine và Licinius. Năm 324, Constantine kéo đại quân tấn công
Licinius tại Milan, truy kích và tiêu diệt đối thủ tại hải cảng
Bosporus (Hy-lạp). Từ năm 324, Constantine tự xưng là Đại đế
(Constantine the Great) nắm trọn quyền kiểm soát toàn thể lãnh thổ
của Đế quốc La-mã rộng lớn.
Với chủ trương xử dụng Ki-tô giáo làm dụng cụ
toàn cầu, ngay sau khi nắm trọn quyền cai trị đế quốc, Constantine
đã lo thực hiện việc đầu tiên là triệu tập hội nghị các giám mục
trong toàn thể đế quốc họp tại Nicea (Hy-lạp) năm 325 để thống nhất
các giáo phái Ki-tô. Sau Công đồng Nicea năm 325, Ki-tô giáo mới
thành hình là một tôn giáo thống nhất về giáo lý. Trước đó thật
sự chưa có đạo Ki-tô theo đúng nghĩa như ta hiểu hiện nay. Để đánh
giá đúng mức công trình kiến tạo Ki-tô giáo của Constantine, chúng
ta cần tìm hiểu cái gọi là “Ki-tô giáo nguyên thủy” (The Early
Christianity) tức Ki-tô giáo trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên, hoặc
còn gọi là “Ki-tô giáo trước Thời đại Constantine” (The
Pre-Constantine Christianity) như thế nào?
Ki-tô giáo trước Thời đại
Constantine
Trong thời gian Constantine tiến quân vào Rome
năm 312 thì thành phố này có khoảng một triệu dân, nhưng không có
một giáo hội Ki-tô nào có thể hoạt động công khai tại đây. Từ thời
Néron (54-68) nhiều ngàn tín đồ Ki-tô bị ném vào giáo đấu trường cho
thú dữ ăn thịt. Bạo Chúa Trajan (98-117) cấm đạo ác liệt trong 19
năm. Tiếp theo là vụ quân La-mã tàn phá Jerusalem giết hại 850.000
dân Do-thái trong các năm 132-135 khiến cho giáo hội Ki-tô Do-thái
do James (em ruột của Jesus) lập nên bị hoàn toàn tiêu diệt.
Năm 160 xảy ra biền cố quân Hung-nô chống lại
La-mã. Do đó, các hoàng đế La-mã đã áp dụng chính sách cấm đạo gay
gắt kéo dài trên một thế kỷ. Tín đồ Ki-tô bị sát hại hàng loạt, các
nhà thờ bị đốt phá, các sách kinh bị hủy diệt.
Khởi đầu là hoàng đế Marcus Aurelius
(161-180), hoàng đế Didius Julianus (193) Valerian (253-260) và
hoàng đế Diocletan (284-305).
Các tín đồ sùng đạo phải đọc kinh hoặc hành lễ
trong các hang hầm bí mật. Giáo hội Ki-tô bị phân tán và rút vào
bóng tối như những hội kín (secret society). Ngày nay, Vatican
thường liệt kê danh sách các giáo hoàng liên tục hoạt động ở Rome từ
thời Phêrô cho đến thời Constantine là một điều hoàn toàn ngụy tạo.
Trước hết, trong vòng 3 thế kỷ đầu Công nguyên, Ki-tô giáo chưa
thành hình là một tôn giáo thống nhất nên không thể có giáo hoàng
đứng đầu toàn giáo hội. Sau nữa, trải qua nhiều đợt cấm đạo gay gắt
liên miên trong gần 3 thế kỷ, mọi hoạt động công khai của giáo hội
cũng như mọi cơ cấu tổ chức rộng lớn đều không thể thực hiện và
không thể tồn tại ở Rome.
Trong tác phẩm “A History of Christianity” do
St. martin press, N.Y. xuất bản, tác giả Owen Chadwick đã viết:
“Trong 3 thế kỷ đầu Công gnuyên, Ki-tô giáo luôn luôn bị coi là bất
hợp pháp trong toàn đế quốc La-mã. Do đó, Ki-tô giáo không có giáo
hội công khai mà chỉ có “Hội kín của những tín đồ Ki-tô” mà thôi
(... Secret society of the Christians, sách đd., trang 34). Trong
thế kỷ đầu Công nguyên, tên gọi Ki-tô giáo cũng chưa có, mọi người
trong đế quốc La-mã gọi đạo của Jesus là “Phong trào Jesus” (The
Jesus’s movement).
Tác phẩm “Eermans Hanbook of Christianity” là
công trình nghiên cứ Ki-tô giáo của trên một trăm giáo sư Sử học và
tôn-giáo-học thuộc các trường Đại học Bắc Mỹ, Âu châu, Úc châu và
Nhật Bản. sách dày trên 700 trang khổ lớn, xuất bản lần đầu 1977,
tái bản 1987 với 750.000 cuốn. Mười trang sách (96-105) của tác phẩm
giá trị này cho chúng ta thấy Ki-tô giáo trong 3 thế kỷ đầu Công
nguyên chưa thành hình là một tôn giáo thuần nhất. Có ít nhất 4 nhóm
Ki-tô giáo đưa ra những “giáo lý” khác nhau. Nhóm này viết sách đã
kích nhóm kia và kết án lẫn nhau là dị giáo hoặc rối đạo (heretic).
1. Nhóm Ki-tô giáo Do-thái
(Jewish Christianity):
Nhóm này thoát thai từ giáo hội Ki-tô đầu tiên
do em ruột của Jesus là James thành lập tại Jerusalem. Nhóm này tôn
vinh Jesus là đấng Messiah (Ki-tô) và nhấn mạnh đến sự sống lại của
Jesus vì theo truyền thuyết của Cựu ước Do-thái thì đấng Messiah
không bao giờ chết. Nếu không đề cao “sự sống lại” của Jesus thì ông
ta không thể được coi là Chúa Cứu thế!
Nhóm Ki-tô Do-thái cố gắng tìm mọi cách để
chứng minh Jesus là đấng Messiah đã được Cựu Ước tiên tri. Họ dùng
những hình ảnh quen thuộc của Cựu Ước Do-thái để gọi Jesus. Chẳng
hạn như Jesus là “Con chiên hy sinh trong ngày Lễ Vượt Qua” (The
Passover Lamb), Jesus là “Adam thứ hai” (The Second Adam) ...
Điều này cũng dễ hiểu vì Ki-tô giáo xuất thân
từ Do-thái giáo và các tín đồ Ki-tô đầu tiên cũng đều là những người
Do-thái. Chính vì thế mà dân Do-thái đã gọi những tín đồ Ki-tô giáo
đầu tiên là “những tín đồ Do-thái biến thể’ (The Judaisers). Nhóm
Ki-tô Do-thái đòi hỏi mọi người ngoại giáo muốn theo đạo Ki-tô phải
chịu phép cắt bì (cắt da đầu dương vật) và phải tuân hành mọi luật
lệ của đạo Do-thái (nghỉ việc ngày Sabbath).
Trong lúc đó, Phao-lồ đang giảng dạy đạo Ki-tô
cho các ‘dân ngoại’ tại Hy-lạp và Rome với chủ trương “theo đạo qua
đức tin mà thôi” (Conversion through faith only). Nghe tin Phê-rô và
James thực hiện việc truyền đạo Ki-tô với những điều kiện ràng buộc
vào đạo Do-thái, Phao-lồ lo sợ họ sẽ phá hỏng cuộc truyền đạo nên
vội đến Jerusalem can gián Phê-rô và James, James biết phục thiện và
nghe lời Phao-lồ. Phê-rô bướng bỉnh cãi lại nên hai người đã trải
qua một cuộc đấu khẩu kịch liệt. James bị chính quyền Do-thái xử tử
tại Jerusalem năm 62, sau đó nhóm Ki-tô Do-thái phải hoạt động trong
bóng tối hoặc phải chạy phân tán ra nước ngoài.
2. Nhóm Ki-tô Ngộ Đạo
(Gnosticism):
Đây là giáo phái Ki-tô xuất hiện tại Tiểu Á và
Bắc Phi vào cuối thế kỷ 1, phát triển mạnh trong thế kỷ 2 sau Công
nguyên. Năm 1947, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều tài liệu cổ ở
vùng Biến Chết (The Dead Sea Scrolls), trong đó có nhiều cuộn sách
bằng da lừa nói về giáo phái Ngộ Đạo. Giáo phái này chủ trương mọi
người được cứu rỗi do sự hiểu biết những bí mật của đạo. Danh xưng
của giáo phái do tiếng Hy-lạp Gnosis, có nghĩa là ‘hiểu biết sự bí
mật” (Gnosis = a secret knowledge). Họ giải thích trái cấm trong
vườn Địa đàng chính là Trái của cây Hiểu Biết (The Tree of
Knowledge). Con rắn quyến rũ Eva ăn trái cấm không phải là quỉ
Sa-tăng mà là một đại ân nhân của loài người vì Con rắn là biểu
tượng cho sự khôn ngoan. Con rắn muốn giúp loài người trở nên sáng
suốt để tự giải thoát mọi đau khổ trầm luân trên cõi đời này bằng
cách ăn trái của cây Hiểu Biết. Chính Thiên Chúa Jehovah trong Cựu
Ước mới là ác quỉ vì nó ra lệnh cấm tổ tiên loài người không được ăn
trái của Cây Hiểu Biết. Nó muốn dìm con cháu Adam – Evà phải chìm
đắm trong sự u mê tăm tối để luôn luôn phải tôn thờ và tuân phục nó.
Loài người phải đau khổ triền miên vì chưa thoát ra khỏi sự ức chế
của Ác Chúa Jehovah! Đưa ra lý luận trên, giáo phái Ki-tô Ngộ Đạo
chủ trương Ki-tô giáo phải tách rời khỏi Do-thái giáo bằng cách hoàn
toàn phủ nhận các Kinh Thánh Cựu Ước Do-thái. Họ thẳng thắn phê bình
“Thiên Chúa” (Jehovah) của đạo Do-thái là quá thấp kém, thậm chí họ
còn gọi Jehovah là thằng quỉ, chính vì thế những người Ki-tô giáo
không thể tôn thờ nó.
3. Giáo phái Ki-tô
Marcionism:
Vào năm 160, Marcion là một tín đồ Ki-tô rất
trí thức và hùng biện thuyết giảng tại Rome ca ngợi Jesus là đấng
Ki-tô (Chúa Cứu thế) nhưng đồng thời kịch liệt mạt sát Thiên Chúa
của đạo Do-thái. Ông nói: “Thiên Chúa của Cựu Ước Do-thái thường gây
những cuộc chiến tranh hoặc những cuộc tàn sát do sự tức giận nên
không thể phù hợp với Đức Chúa Cha nhân lành của Jesus trong Tân Ước
được” (The old testament God who ordered battles and slaughter
and was driven by anger, was incompatible with the merciful Father
of Jesus Christ – Eerdmans Handbook of Christianity, page 101).
Marcion ca ngợi Thiên Chúa trong Phúc âm Kitô giáo là Thiên Chúa của
tình yêu. Tuy nhiên, Marcion cho rằng Jesus đã không được sinh ra
bởi một người đàn bà nhưng đã bất thần xuất hiện tại Capermaum năm
29 sau Công nguyên với hình vóc của một người lớn, Marcion bác bỏ lý
thuyết cho rằng xác của mọi người chết sẽ sống lại, bác bỏ hoàn toàn
Cựu Ước Do-thái và phần lớn các sách Tân Ước, chỉ ngoại trừ Phúc âm
của Luke và những bức thư của Phao-lồ mà thôi.
Giáo phái Ki-tô Marcionism truyền đạo khắp
nước Ý trong thế kỷ 2. Tới thế kỷ 4, giáo phái này trở nên thịnh
hành tại Trung Đông, Armenia và Ai-cập. Họ có nhà thờ riêng, có hệ
thống tu sĩ riêng và có các nghi thức hành lễ riêng. Đến cuối thế kỷ
4, giáo phái này bị đế quốc La-mã tiêu diệt.
4. Giáo phái Ki-tô Hy-lạp:
Giáo phái này có rất nhiều “học giả” nổi
tiếng, thông thạo triết học Hy-lạp và chịu ảnh hưởng sâu đậm triết
học duy tâm của Plato và Socrates. Họ tin rằng Thiên Chúa của Plato
chính là Thiên Chúa của Kinh Thánh và họ gọi Socrates là “tín đồ
Ki-tô giáo trước Jesus” (sách đd, trang 110).
Các “học giả” này viết rất nhiều sách để hoàn
thành một hệ thống giáo lý cho đạo Ki-tô. Họ chủ trương vẫn tôn
trọng các sách Kinh Thánh Cựu Ước của đạo Do-thái, đồng thời dùng
triết học và thần thoại Hy-lạp để biến Jesus thành Thiên Chúa.
Họ đã thành công vì lý thuyết của họ về một “Thiên Chúa Ba ngôi” đã
được Công đồng Nicea năm 325 chấp nhận và trở thành Kinh Tin Kính
của Ki-tô giáo. Những học giả nổi tiếng nhất của giáo phái Ki-tô
Hy-lạp gồn có bốn người sau đây:
a. Justin Martyr (100-165): Thiên Chúa
là Đấng Tạo hóa (Creator-God) theo đúng quan điểm của đạo Do-thái,
nhưng Thiên Chúa cũng hóa thân thành người sống giữa trần gian
(incarnation) bởi vì Thiên Chúa là Ngôi Lời (Logos-Word).
Theo thần thuyết Hy-lạp thì Ngôi Lời là con của Thượng đế có thể
biến thành xương thịt như con người (Word
became flesh).
Các sách của Justin Martyr đều được viết bằng
tiếng Hy-lạp vào khoảng giữa thế kỷ 2. Điều đặc biệt đáng nhớ là
Justin đã sáng tác ra nghi lễ “Misa”. Khi các tu sĩ làm lễ này
phải có bánh và rượu để tượng trưng cho thịt và máu của Jesus.
b. Giám mục Irenaeus: Giám mục Irenaeus
là tác giả chống lại phe Ki-tô Ngộ Đạo (Gnostic) mạnh mẽ nhất và
cũng là người tuyên truyền mạnh nhất cho thần thuyết Ngôi Lời
(theory of the Logos) của Hy-lạp. Danh từ Logos được xử dụng đầu
tiên bời một số triết gia theo chủ nghĩa Platonism (thuộc thế kỷ 3
trước CN.) để chỉ “Thượng đế hóa thân”. Các “học giả” Ki-tô theo học
thuyết Plato (Christian Platonists) cố gắng gán ghép Jesus là Logos
để tôn thờ, đồng thời dựa vào đó để lập ra thuyết “Thiên Chúa Ba
ngôi”.
Irenaeus sinh trưởng tại Bắc Phi, lớn lên trở
thành tu sĩ tại Pháp và được bầu chọn làm giám mục tại địa phận Lyon
vào giữa thế kỷ 2. Năm 185, Iraneus xuất bản cuốn sách “Chống dị
giáo” (Against the Heretics) kết tội hai giáo phái Ki-tô Gnosticism
và Marcionism. Ông đưa ra một bản dự thảo “Đức tin của các Thánh
Tông đồ” (The Apostle’s creed). Bản dự thảo này đã được Công đồng
Nicea biểu quyết chấp thuận năm 325 và trở thành kinh “Tin Kính” của
Ki-tô giáo.
c. Origen (185-254): Origen là người
Hy-lạp sinh trưởng tại Ai-cập, du lịch rất nhiều nơi và viết nhiều
sách để quảng bá tư tưởng của Plato (Platonic philosophical ideas).
Ông viết sách “First principles” để nêu ra thuyết Thiên Chúa Ba
ngôi, gồm có God (Thiên Chúa của Cựu Ước Do-thái). Christ/ Logos
(tức Jesus, ngôi thứ hai) và Holy Spririt (Chúa Thánh thần). Origen
là người đầu tiên hoàn thành “thần học Ki-tô theo triết học và thần
học Hy-lạp” (Greek Christian Theology). Trong cuộc cấm đạo dưới
triều hoàng đế La-mã Dicius, Origen bị chém đầu năm 254.
d. Tertullian: Ông sinh trưởng tại Bắc
Phi, chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy-lạp nhưng lại là tác giả đầu tiên
viết sách truyền đạo Ki-tô bằng tiếng La-tinh. Người ta không rõ ông
đã sinh và mất năm nào, chỉ biết các sách của ông đã được viết trong
thời gian từ 196 đến 212 sau Công nguyên. Ông viết nhiều sách nhằm
đả phá các giáo phái Ki-tô đương thời (Against marcion, Against
Praxie, Exclusion of Heretics...) và rất nhiều sách giảng thuyết về
linh hồn, và phép rửa tội, nhất là về thần quyền “Ngôi Lời”. Ngôi
lời là một danh từ khó hiểu, thực ra nó đơn giản chỉ là lời nói
(word). Tất cả phát xuất từ thần thoại Hy-lạp cho rằng “Thượng đế đã
tạo dựng vũ trụ bằng lời nói của Ngài” (God made this universe by
His word). Tertullian tán thêm: “Lời nói phát sinh từ Thiên Chúa
nên được gọi là Con của Thiên Chúa và cùng bản chất với Thiên Chúa.
Cho nên Con của Thiên Chúa đã từ Thiên Chúa mà ra như tinh thần bởi
tinh thần, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng” (This
word was produced from God and therefore is called the Son of God
from the unity of substance with God. For God is spririt, so from
spirit comes spirit, God from God, as light is from light – Eermands
Hanbook of Christianity, page 111-113).
Lời bàn “Mao Tôn Cương” nói trên của
Tertullian không ngờ đã trở thành nòng cốt cho “thần học Ngôi Lời”
của Ki-tô giáo trong 17 thế kỷ qua. Tại các nhà thờ Công giáo ngày
nay các giáo dân luôn luôn đọc câu kinh trong các lễ Mi-sa để ca
ngợi Jesus: “....Chúa được sinh ra mà không phải tạo thành, Chúa là
Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng...”
Tòa thánh thấy câu văn của Tertullian viết hay
quá nên đã thưởng câu văn này biến nó thành câu kinh để giáo dân tin
rằng Jesus cũng là Thiên Chúa như “ánh sáng bởi ánh sáng”, ngài là
Ngôi Lời đã cùng với Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ này!
Đệ tử ruột của vua tán nhảm Tertullian là Đức
ông Philippe Lê xuân Thượng, chánh xứ của họ đạo Việt Nam mang tên
“Giáo xứ Đức Ki Tô Ngôi Lời Nhập Thể” (Christ the Incarnate Word
Parish) – 8503 S.Kirwood Rd. Houston. Số phôn: (282) 495-8133. Còn
có website có tên: gx-ngoiloi.tripod.com. Đức ông Thượng đặt tên cho
giáo xứ của ngài là “Đức Ki tô Ngôi Lời Nhập Thể”, vậy chắc ngài rất
thông suốt về thần học Ngôi Lời. Tôi ghi địa chỉ của Đức ông như
trên để quí độc giả có điều gì thắc mắc về thần thoại Ngôi Lời xin
cứ việc liên lạc trực tiếp để được giải đáp thỏa đáng.
Những khuôn vàng thước ngọc do
Constantine đặt ra
cho Ki-tô giáo:
Với đạo luật Milan năm 313, Constantine đã
chính thức chấm dứt 3 thế kỷ cấm đạo Ki-tô của đế quốc La-mã.
Constantine luôn luôn tự coi mình là một đại ân nhân của tôn giáo
này. Hơn thế nữa, Constantine chỉ coi Ki-tô giáo là một công cụ phục
vụ cho mưu đồ củng cố và bành trướng đế quốc của hắn nên hắn đã tạo
ra những “khuôn vàng thước ngọc” để buộc Ki-tô giáo phải tuân theo.
Chính vì vậy Constantine tự coi mình là ông thầy dạy cho Ki-tô giáo
phải làm những việc gì. Trong tác phẩm “Christian Spiritual”,
Classics xuất bản năm 1996, trang 97, tác giả Richard Woods đã viết
rất chí lý: “trong lãnh vực ý thức chính trị cao, Constantine không
phải là học trò mà là bậc thầy của giáo hội” (In the realm of
high politics, Constantine was not the pupil of the church but its
instructor). Quả thật “ông thầy” Constantine đã để lại cho đứa
học trò của mình là Ki-tô giáo, đặc biệt là Công giáo La-mã, nhiều
khuôn vàng thước ngọc để tuân hành suốt trong 17 thế kỷ qua.
1. Khuôn vàng thước ngọc
đầu tiên là Công Đồng (Council)
Giáo sư sử học Garry Wills thuộc đại học
Western University đã viết: “Constantine điều hành các công đồng của
giáo hội như một thẩm quyền chính trị của ông ta nhằm mục đích đập
tan các phe dị giáo và để sắp đặt các giám mục” (Constantine
who ran church coucils as his political right broke heresies and
installed bishops – Papal Sin, Doubleday 2000, page 153).
Năm 324, Constantine thống nhất toàn đế quốc
La-mã. Qua năm 325, ông ta triệu tập Công đồng Nicea bằng cách gửi
giấy mời đến 1800 giám mục trong toàn lãnh thổ đế quốc, nhưng chỉ có
250 giám mục đến họp tại Nicea (nay là thành phố Izmir của
Thổ-nhĩ-kỳ). Phòng họp là một lâu đài sang trọng của nhà vua tại
thành phố này. Constantine chủ tọa cuộc họp với tư cách là sứ giả
của chúa (Messenger of God). Constantine chẳng biết gì về
giáo lý đạo Ki-tô nhưng ông ta nhận thấy Ki-tô giáo có quá nhiều phe
phái chống báng nhau. Ông ra lệnh cho các giám mục phải thống nhất
giáo lý - bất kể là giáo lý nào - miễn sao đại đa số giám mục biểu
quyết chấp thuận thì giáo lý đó thành chân lý cho toàn giáo hội. Đó
là nguyên tắc chính yếu của các Công đồng thuộc giáo hội Ki-tô.
Kết quả của Công đồng Nicea năm 325 là: Ngoài
việc chấp thuận Kinh Tin Kính bao gồm những tín điều căn bản của đạo
Ki-tô, Công đồng còn biểu quyết một đoạn đặc biệt để chống lại giáo
phái Arius. Đoạn này như sau: “Chúa Jesus có cùng bản chất với Chúa
Cha, Người là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Jesus
was of one substance with Father, He is true God of true God).
Sau khi Công đồng biểu quyết, Arius là giám
mục tại thành phố Alexandria (Ai-cập) không chịu ký vào biên bản.
Ông ta vẫn giữ vững lập trường cho rằng: “Thiên Chúa tạo ra Jesus –
Ki-tô từ không. Như vậy có lúc chúa Ki-tô không có. Do đó Ki-tô
không phải là Thiên Chúa” (God created Christ from nothing. there
was time Christ was not, so he is not God). Arius bị Constantine
tống giam 9 năm (325-334). Khi được thả ra thì Arius đã 78 tuổi. Ông
sống lang thang trên hè phố Constantinople được hai năm rồi nằm chết
bên đường như gã ăn mày. Arius đã chết vì không hiểu chủ đích của
Constantine. Tên bạo chúa La-mã
chỉ cần thống nhất Ki-tô giáo để biến nó thành một công cụ chính
trị. Y không cần đếm xỉa gì đến cái giáo lý của nó ra sao.
Trong cuộc đời của Constantine cho đế khi chết
năm 337, y đã trực tiếp triệu tập và điều khiển 4 Công dồng để thống
nhất giáo lý Ki-tô. Các hoàng đế La-mã kế nghiệp triệu tập Công đồng
Ephesus năm 431 để tôn vinh bà Maria là Mẹ Thiên Chúa (Mother of
God). Công đồng Chalcedon năm 451 để xác nhận Jesus có hai bản tính
con người và Thiên Chúa....
Triệu tập Công đồng để giải quyết mọi vấn đề
khó khăn của giáo hội là sáng kiến của Constantine. Giáo hội Công
giáo La-mã thực hiện rất nhiều Công đồng trong gần 2000 năm qua.
Công đồng cuối cùng là Vatican II do Giáo hoàng XXIII triệu tập năm
1962.
2. Khuôn vàng thước
ngọc thứ hai của
Constantine
là hình thành cơ cấu tổ chức căn bản của giáo hội Ki-tô.
Trước hết, Constantine biến Rome thành thủ đô
Ki-tô giáo (a Christian City) bằng cách xuất quĩ xây nhiều nhà thờ
vĩ đại như Đền thánh Phê-rô, biến các đền thờ của Đa Thần giáo La-mã
thành nhà thờ Ki-tô giáo.
Constantine ban hành qui chế giám mục.
Các giám mục được coi như tương đương với nghị sĩ (senator) được
hưởng quyền lợi của viên chức cao cấp của triều đình (state
officiers).
Riêng giám mục ở Rome được Constantine cho ở
trong Cung điện Lateran. Cung điện này nguyên là dinh thự của hoàng
hậu Fausta bị Constantine giết chết. Lateran trở thành dinh của các
giáo hoàng từ đó cho đến thế kỷ 14 mới chuyển sang một lâu đài khác.
Một điều quan trọng khác là Constantine chia
lãnh thổ toàn đế quốc La-mã thành các giáo phận (dioceses) đứng đầu
bởi một giám mục. Nhà thờ ở nơi có giám mục được gọi là “Cathedral”,
do chữ Hy-lạp “Cathedra” có nghĩa là cái ghế, ám chỉ giám mục có
quyền cai trị của một viên chức nhà nước (bureaucratic power). Các
tu sĩ (clergy men) được miễn mọi thứ tạp dịch công cộng (public
duties). Từ năm 323, Constantine trao cho các giám mục có quyền xét
xử mọi người trong giáo phận quản hạt.
3. Những khuôn vàng
thước ngọc của
Constantine về các nghi lễ tôn giáo.
a. Ngày 28.10.312, Constantine công nhận
thập giá là huy hiệu chính thức của quân đội La-mã. Trong
ngày khai mạc Công đồng Nicea năm 325, Constantine chỉ thị cho các
giám mục phải dùng Thập giá làm biểu tượng chính thức của Ki-tô giáo
và thập giá phải là trung tâm thờ phượng của đạo Ki-tô (center of
Christian cult). Từ đó, thập giá xuất hiện trên các nóc nhà thờ và
luôn luôn ở vị trí chính giữa của bàn thờ Ki-tô giáo.
b.Constantine tự ý ấn định mỗi tuần dành
ra một ngày lo việc thờ phượng cho các tín đồ Ki-tô. Ngày đó gọi là
“ngày của Thần Mặt trời” (Sunday). Ngày chủ nhật đầu tiên cho các
tín đồ đi lễ là ngày 7.3.321.
c. Constantine không cần biết Jesus sinh
ra ngày nào, năm nào. Tuy nhiên, ông ta tự ý quyết định chọn ngày
sinh nhật của Thần Mặt trời Vạn thắng (The Invincible Sun God) theo
Đa Thần giáo La-mã làm ngày sinh nhật của Jesus. “Đêm Thánh Vô Cùng”
đầu tiên toàn giáo hội Ki-tô long trọng tổ chức để mừng Chúa “giáng
sinh” là ngày 25 tháng 12 năm 336.
Khi ban bố các lệnh trên, Constantine là tín
đồ kiêm giáo chủ tối cao của Đa Thần giáo La-mã. Y muốn những tín đồ
Ki-tô bề ngoài thực hiện nghi lễ của tôn giáo mình nhưng thực ra là
để tôn kính Thần Mặt trời của Đa Thần giáo. Ngày chủ nhật là ngày
của Thần Mặt trời (Sunday), chứ không phải là “Chúa Nhật” (God day/
Christ Day! Vì vậy chúng tôi tha thiết mong những người Việt không
nên gọi ngày Chủ nhật là “Chúa nhật”).
d. Constantine tự ý quyết định các buổi
lễ (Mass) của Ki-tô giáo phải có bánh và rượu để tượng trưng thịt và
máu của Jesus. Nghi lễ này không phải do Constantine sáng chế mà do
sáng kiến của Justus Martyr. Constantine chỉ muốn giáo hội Ki-tô
phải hành lễ theo một nghi thức thống nhất mà thôi. Nghi thức tế lễ
có bánh và rượu được gọi là “Phép Mình Thánh Chúa” (Eucharist – A
Concise History of the Catholic Church, Thomas Bokken-Kotten,
Doubleday 1990).
Đấng Bề Trên Của Ki-tô Giáo.
Sử gia lừng danh thế giới Will Duran đã bỏ ra
25 năm nghiên cứu Ki-tô giáo và hoàn thành tác phẩm “Cesar and
Christ” (750 trang) trong 5 năm. Nơi trang 656 ông nhận xét thái độ
của Constantine đối với Ki-tô giáo như sau: “Trong suốt thời gian
trị vì, Constantine đối xử với các giám mục như những phụ tá chính
trị: Ông ta triệu tập và chủ tọa các Công đồng. Đối với một tín đồ
chân chính thì phải là một Ki-tô hữu trước đã rồi mới là chính khách
sau, nhưng với Constantine thì ngược lại. Ki-tô giáo đối với ông ta
chỉ là một phương tiện chứ không phải là cứu cánh”. (Throughout
his reign, Constantine treated the bishops as his political aids: He
summoned them, presided over their councils. A real believer would
have been a Christian first and a stateman afterward. With
Constantine it was the reverse, Christianity was to him a means, not
an end).
Tác phẩm “Eerdmans Handbook of Christianity”
là công trình nghiên cứu tập thể của trên 100 giáo sư Sử học và Tôn
giáo học của các trường Đại học Âu, Mỹ, Úc. Nơi trang 109, họ đã
viết: “Trước Công đồng Nicea do Constantine triệu tập năm 325 thì
những tiêu chuẩn phổ quát của đức tin chính thống Ki-tô giáo chưa hề
có” (Prior to the Council of
nicea summoned by Constantine in 325, no universal touchstone of
Orthodox faith existed).
Các sử gia chân chính trên thế giới cho chúng
ta thấy sự thật lịch sử là đạo Ki-tô chỉ thật sự thành hình từ sau
Công đồng Nicea năm 325 mà thôi. Trong 3 thế kỷ đầu Công gnuyên
không có Ki-tô giáo mà chỉ có “Phong trào Jesus” với rất nhiều phe
nhóm chủ trương đối nghịch nhau.
Đọc lại cuốn Việt Nam Giáo Sử của linh mục
Phan Phát Huồn (trang 20) tôi phải ... ‘phát buồn’ vì thấy ông linh
mục sử gia dỏm này viết sách bất chấp việc kiểm chứng sự thật lịch
sử. Linh mục Huồn viết: “Lấy võ lực đàn áp Công giáo để tiêu diệt
người Công giáo thì chẳng những Công giáo không bị tiêu diệt mà còn
sinh sản đông đúc thêm.... Các hoàng đế La-mã muốn tiêu diệt đạo
Công giáo thì ngày nay trên thủ đô Rô-ma phất phới trước gió một
cách oai hùng quốc kỳ Vatican tượng trưng cho quyền bính của giáo
hội.”
Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên chưa có đạo
Ki-tô hẳn hòi mà chỉ có những nhóm thờ Jesus với những giáo lý hổ
lốn. Ta có thể tạm gọi họ là những tín đồ Ki-tô giáo Nguyên thủy
(The Early Christianity). Sau 325 mới có Ki-tô giáo thống nhất và
phải đợi tới đời con của Constantine là hoàng đế Constantine I,
Ki-tô giáo được ông vua sùng đạo này đổi tên thành Công giáo
(Cattolica) vào năm 340.
Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên, dù cho các
hoàng đế La-mã có muốn diệt Công giáo đến đâu cũng không thể diệt
được vì lúc đó Công giáo chưa được đẻ ra !
Từ sau năm 325, Công giáo là con đẻ của đế
quốc La-mã được đế quốc vỗ béo cho mau lớn để trở thành tôn giáo
chính thức của cả đế quốc La-mã rộng lớn. Các hoàng đế La-mã chẳng
bao giờ muốn tiêu diệt Công giáo mà chỉ lo việc bành trướng nó khắp
nơi bằng bạo lực mà thôi.
- Năm 356, hoàng đế Constantius I ra lệnh cấm
Đa Thần giáo La-mã, biến các đền thờ Đa Thần giáo thành các giáo
đường Ki-tô giáo.
- Hoàng đế Thedeosius (379-395) công bố Ki-tô
giáo là quốc giáo, mọi người theo các đạo khác đều bị tử hình.
- Vào năm 500, một người ở xứ Gaul tên Cloris
dấy binh thống nhất tất cả các bộ lạc Frank (Frankish tribes) lập
nên nước Pháp. Cloris trở thành vua Pháp liên kết chặt chẽ với giáo
hoàng La-mã và ra lệnh cho toàn dân Pháp phải theo đạo Công giáo. Ai
bất tuân lệnh phải chịu hình phạt tử hình.
- Cuối thế kỷ 7, Hồi giáo tiêu diệt Ki-tô giáo
tại Ai-cập, Palestine, Trung Đông và Bắc Phi. Ki-tô giáo lo bành
trướng thế lực ở Tây Âu. Người thực hiện kế hoạch này là vua Pháp
Chrlemagne (lên ngôi năm 768). Charlemagne đem quân đánh đuổi quân
Ả-rập Hồi giáo khỏi lãnh thổ Tây-ban-nha. Sau đó Charlemagne chiếm
thêm vùng đồng bằng sông Rhin (Đức, Bỉ, Hòa Lan). Đúng ngày lễ Noel
năm 800, Charlemagne đến Rome quì gối dưới chân giáo hoàng Leo III
để được giáo hoàng đội vương miện và phong tước hiệu “Hoàng đế của
đế quốc La-mã Thánh thiện” (Emperor of the Holy Roman Empire).
Đây chính là Đế quốc Công giáo La-mã đầu tiên. Charlemagne và giáo
hoàng cùng chủ trương dùng đạo Công giáo làm lực lượng thống nhất đế
quốc (a unifying force). Sau đó, Charlemagne đã ban bố một mệnh lệnh
ghê gớm: “Phải theo đạo tập thể hoặc chống đối sẽ bị tàn sát tập
thể” (mass conversion or mass slaughter in case of resistance –
The Story of Christianity by Michael Collins and Mathew Price DK
Publishing 1999, page 91).
Sử sách Âu châu gọi Đế quốc La-mã trong thời
gian từ năm 313 đến năm 590 (277 năm) là “Đế quốc Ki-tô giáo” (The
Christianity Empire – Sách dẫn chiếu trang 57-59). Ki-tô giáo
nói chung và Công giáo La-mã nói riêng hiển nhiên là một sản phẩm
của đế quốc La-mã.
Constantine là người biết rõ điều đó hơn ai
hết nên ông ta luôn luôn có ý coi rẻ tôn giáo này. Một bằng chứng cụ
thể nhất chứng tỏ Constantine tự coi mình là “Đấng bề trên của Ki-tô
giáo”, đó là việc Constantine thiết kế khu nhà mồ của mình ở
Constantinople (nay là thủ đô Istambul của Thổ-nhĩ-kỳ). Trong tác
phẩm “The faith – A History of Christianity” nơi trang 96, sử gia
Brian Monahan viết: “Mộ của Constantine được đặt ở trung tâm khu nhà
mồ hình tròn mà ông ta đã xây cho chính mình tại Constantinople, với
12 ngôi mộ trống ở chung quanh tượng trưng cho các tông đồ (của
Jesus) nằm ở dưới chân hắn” (His
tomb was placed in the carter of the circular mauseleum he built for
himself in Constantinople with twelve sepulchures place around it as
though the apostles lay at his feet).
Thái Độ của Vatican
Đối Với Constantine:
Trong Giáo hội Chính Thống giáo, Constantine
được tôn vinh là Hoàng đế-Thánh (Emperor-Saint) có ảnh tượng
thờ tại các giáo đường. Constantine đội vương miện cao 3 tầng, tay
phải cầm cây thập giá rất dài để nhắc mọi người biết Constantine là
người đầu tiên tôn vinh dấu hiệu chữ Thập (In Hoc Signo). Trong Giáo
hội Công giáo, chỉ một mình mẹ của Constantine được tôn vinh mà
thôi. Mặc dầu tiểu sử của bà chẳng có gì đặc biệt: xuất thanh từ một
cô gái hầu bàn (a barmaid) lấy một sĩ quan La-mã, có con rồi bị
chồng bỏ. Tuy nhiên, nhờ có bà mới có Ki-tô giáo như ngày nay nên
bà được Vatican phong “hiền thánh”. Cả giáo hội Công giáo dành riêng
ngày 18 tháng 8 hàng năm để “dâng thánh lễ” tôn vinh ‘bà Thánh’
Helena. Ngoài ra, bà còn được tôn vinh là thánh quan thầy của kẻ tân
tòng. So sánh với bà Helena thì công lao của Constantine đối với
Ki-tô giáo lớn gấp ngàn vạn lần. Nhưng Constantine đã không được
Vatican phong thánh. Chẳng những thế, Vatican còn cố ý lờ đi không
nhắc tới để cho tên tuổi sự nghiệp của Constantine bị chìm trong
quên lãng. Công giáo La-mã là kẻ chịu ơn của Constantine nhiều nhất
nhưng lại muốn phủ nhận hoàn toàn ‘công ơn trời biển’ của vị hoàng
đế La-mã này. Tất cả chỉ vì Constantine đã lôi Ki-tô giáo từ vũng
bùn lên, đánh rửa sạch sẽ và tô son điểm phấn cho nó để làm công cụ
phục vụ những mục tiêu chính trị của đế quốc.
Bề ngoài Constantine củng cố Ki-tô giáo để đạt
mục tiêu chính trị, về mặt tâm linh ông ta vẫn là một tín đồ của đạo
thờ thần Mặt Trời (a Sun-god worshiper). Cho đến khi về già ông ta
vẫn tự xưng là Giáo chủ Tối cao của Đa Thần giáo La-mã (Pontifex
Maximus).
Vì chỉ coi Ki-tô giáo như một sản phẩm của
mình nên thật sự Constantine không coi trọng Jesus, do đó ông ta
không thèm xử dụng tước hiệu Đại diện Chúa Ki-tô (Vicar of Christ)
mà xử dụng tước hiệu “Đại diện Thượng đế Trên Trái Đất” (God’s Vicar
on earth). Trong tác phẩm “The Oxford Illustrated History of
Christianity” của John Mac Mannus, Oxford Uni, Press 1990, trang 71
có in hình huy hiệu của Constantine, trên đó có in chữ Hy-lạp có ý
nghĩa như trên ‘God’s vicar on earth’.
Constantine tạo mọi điều kiện làm cho Ki-tô
giáo lớn mạnh nhưng không cho phép nó thành một quyền lực độc lập,
mà chỉ cho nó làm một bộ phận của đế quốc mà thôi. Do đó, sau này
Vatican đã phải làm giả văn kiện mang tên “Sự dâng cúng của
Constantine” (The donation of Constantine) để tạo quyền lực
cho giáo hội Công giáo La-mã. Văn kiện này được Vatican giả mạo dưới
triều giáo hoàng Stephen III (752-757) bằng cách ngụy tạo văn kiện,
ngụy tạo chữ ký của Constantine và bịa đặt ngày ký là 30 tháng 3 năm
315.
Trong văn kiện này có điều khoản quan trọng
sau đây : “Đức Thánh Cha là đấng thừa kế Thánh Phê-rô sẽ được tôn
vinh lên bậc cao cả trong đế quốc chúng ta và còn cao cả hơn ngôi
báu thế gian. Đức Thánh Cha cai quản các giám mục ở Antioch,
Alexandria, Constantinople và Jerusalem” (The Faith, a history of
christianity, Brian Monahan, pages 217, 362). Văn kiện giả mạo “The
Donation of Constantine” đã bị lôi ra ánh sáng bởi Lorenzo Valla,
một giới chức cao cấp tại Vatican, vào năm 1440. Một trong những
bằng cớ rõ rệt nhất là văn kiện giả mạo ghi ngày ký là 30.3.315. Lúc
này, Constantinople chưa có. Thành phố Constantinople bắt đầu được
thành lập từ năm 324!
Với văn kiện giả mạo này, Vatican đã chiếm
được quyền lực cai quản toàn bộ các giám mục trong giáo hội và lấn
lướt quyền lực của các vua chúa về phương diện thế quyền. Văn
kiện “The Donation of Constantine” chỉ là một trong vô vàn các hình
thức bịp bợm đã tạo nên quyền lực của Vatican trong 16 thế kỷ qua.
Để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn lời của
sử gia Gibbon trong tác phẩm ‘The Decline and Fall of the Roman
Empire’ : “Giáo hội La-mã dùng bạo lực để bảo vệ cái đế quốc mà nó
đã chiếm được bằng sự lừa bịp”! (The Church of Rome
defended by violence the empire she acquired by fraud).
Charlie Nguyễn
(re-edited on March, 2002)
Các chương khác trong sách:
- Bảy Cuộc Chiến Tranh Chống Hồi Giáo ...
- Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo Công Giáo
- Hỏa Giáo Ba Tư là Tiền Thân ...
- JESUS dưới cái nhìn của Do Thái Giáo và Hồi Giáo
- Những tước hiệu bịp bợm của Giáo Hoàng
- Thiên Chúa Đang Được Động Viên ...
- Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế Constantine
- Truyền Thống Abraham Dưới Ánh Sáng ..
- Vai trò của chính quyền (Charlie Nguyễn)
- Việt Nam Cần Thưc Hiện Những Biện Pháp Mạnh.. (Charlie Nguyễn)
- Đạo Hồi là Đức Tin của Chiến Tranh và Bạo Lực
- Đạo Thiên Chúa chỉ là Đạo Thờ Bò Cải Biến
- Ảnh Hưởng Thần Học Do Thái Giáo và Kitô Giáo ...
Trang Charlie Nguyễn
Trang Tôn Giáo