Ăn Cơm Quốc Gia ?
Nguyễn Mạnh Quang
https://sachhiem.net/NMQ/NMQ018.php
25 tháng 6, 2009
LTS: Câu nói "Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản" hàm ý kết tội "phản nghịch" những người miền Nam nào không ủng hộ chính phủ miền Nam. Câu nói này được xử dụng nhiều nhưng chưa từng được đem ra làm đề tài phân tích. Trong lá thư sau đây, SH xin được bỏ những chi tiết riêng tư. Chữ "anh" ngôi thứ hai trong bài áp dụng cho những người thích dùng câu nói này đối với tác giả khi viết bài nào nói "thật" về bộ mặt không đẹp của chính quyền miền Nam trước năm 1975. Giáo
sư Nguyễn Mạnh Quang do đó bị hay được có cơ hội trình bày vấn
đề này một cách đặc biệt lý thú. Xin kính mời quí bạn đọc (SH)
1 2
3 4 5 6
VỀ CỤM TỪ
"ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN"
Câu văn này là của bộ máy tuyên
truyền của Nhà Thờ Vatican qua cái loa của chính quyền miền Nam để sỉ nhục những
công nhân viên nhà nước và cả những người dân thường ở miền Nam nếu họ không tỏ
ra hết lòng cúc cung phục vụ cho chính quyền tay sai của Nhà Thờ Vatican.
Từ ngày ông Diệm được quan thày Mỹ và Vatican
đưa về Việt Nam cầm quyền, câu nói này được các cơ quan truyền thông của Nhà
Nước (các đài phát thanh, sách báo, các tài liệu của Bộ Thông Tin và Nha Chiến
Tranh Tâm Lý trong Bộ Quốc Phòng) lặp đi lặp lại cho nó thấm nhập vào tiềm thức người dân miền Nam.
Trong câu nói “Đừng nên ăn cơm quốc gia
đi thờ ma Cộng Sản” của anh dạy tôi, tôi cảm thấy có mấy điều bất ổn cần làm sáng tỏ ra đây. Đại
khái, anh muốn nói “ăn cơm quốc gia”
(nghĩa bóng là lãnh lương của “phe Quốc
Gia”) mà lại đi “làm việc hay ca tụng Cộng Sản”. Hai điều cần sáng tỏ đó là chữ "Quyốc Gia"
và chữ "Ăn Cơm".
HAI CHỮ QUỐC GIA.
Hai chữ “quốc gia” trong câu nói này không
phải là thứ “Quốc gia” thông thường theo định nghĩa trong sách vở mà mọi người
thường hiểu. Để làm sáng tỏ vấn đề này, tôi xin trình bày cái “quốc
gia Việt Nam”
mà người Việt Nam chúng tôi quan niệm, khác
với thứ “Quốc
Gia”
do Nhà Thờ Vatican tạo dựng nên.
Thứ “Quốc Gia” này,
ông Tổng Thống dân Chúa Ngô Đình Diệm và những người đồng đạo của ông ta đã dâng
hiến cho đế quốc Vatican vào tháng 2 năm 1959
qua cuộc đại lễ tổ chức ở Sàigon,
có mời Hồng Y Agagianian, đại diện của Tòa Thánh
Vatican ở Sàigòn đến làm chủ tế.
A.- QUỐC GIA VIỆT NAM CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CHÚNG TÔI
Theo tôi nghĩ, quan niệm của tuyệt đại đa số
các dân tộc theo tam giáo cổ truyền ở Đông Phương và bất kỳ dân tộc nào có văn
hiến nằm ngoài vòng khống chế của Nhà Thờ Vatican thì
“Quốc gia là một thực thể gồm có dân
số, chính quyền và lãnh thổ toàn vẹn hay bất khả chia
cắt. Quốc gia và dân tộc là hai thực thể liên kết và
đi
đôi với nhau bất khả phân ly. Tất cả mọi người trong cộng đồng dân tộc sống
trong lãnh thổ quốc gia đều phải đặt quyền lợi chung của quốc gia và dân tộc lên
trên hết. Kẻ nào vì quyền lợi riêng tư, vì phe nhóm, vì tín ngưỡng hay tôn giáo
riêng của mình mà cộng tác với thế lực ngọai xâm, thì sẽ bị coi lả phản quốc.”
Theo quan niệm này, thì Quốc Gia Việt Nam
của người Việt Nam có lãnh thổ rộng vào khỏang là 331,000 cây số vuông,
chạy dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, bắc giáp Trung Quốc, tây giáp Ai Lao,
Cao Mên và Vịnh Thái Lan, đông giáp Biển Đông, trong thời cận và hiện đại đã
trải qua những bước thăng trầm như sau:
1.- Bị Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican với sự
tiếp tay của một nhóm thiểu số dân Chúa bản địa bắt đầu tấn chiếm
lần lần từ năm 1858 cho đến năm 1885 thì toàn thể lãnh thổ hoàn toàn nằm dưới ách
thống trị của hai thế lực xâm lăng. Người Việt ta gọi những năm này là thời kỳ
mất nước và Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trở thành chủ nhân ông của Việt
Nam.
Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải chuyển dịch cụm từ Hán
- Việt “Quốc Gia Việt Nam” sang tiếng Việt thuần túy bằng từ kép “Nước Nhà” để
cho cụ dễ bề đặt thơ thác lời nhà ái quốc Nguyễn Phi Khanh dặn con là Nguyễn
Trãi (khi bị giặc Minh bắt đưa đi lưu đày ở Trung Quốc vào năm 1407) bằng một
bài trường thi “Hai Chữ Nước Nhà” dài 101 câu, gói ghém tâm sự của cụ đối với
“Quốc Gia Việt Nam”.
Cũng vì “Hai Chữ Nước Nhà” mà trong thời kỳ
này, tiền nhân ta đã nhiều lần và liên tục, người sau nối tiếp người trước,
quyết tâm tổ chức các lực lượng nghĩa quân và kêu gọi nhân dân vùng lên cùng
nhau góp sức đánh đuổi quân cướp ngoại thù để đòi lại chủ quyền cho dân tộc.
Tiếc rằng, hầu hết các tổ chức này có những nhược điểm như:
a.- Thiếu kinh nghiệm tổ chức, thiếu
khả năng huy động toàn dân cùng tham gia, không
biết phối hợp các tổ chức khác ở rải rác khắp nơi trên tòan lãnh thổ để cùng nhất trí hành động,
b.-
Chỉ được trang bị bằng những thứ vũ khí quá thô sơ,
c.-
Không đề ra mục tiêu cách mạng chính trị phế bỏ “chế độ quân chủ” (bất kể là chế
độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền hay chế độ quân chủ lập hiến) để
giải thoát cho người dân cái ách chuyên chế phong kiến lỗi thời phải làm nô lệ
cá nhân người lãnh đạo bất kể là người đó có tài hay bất tài, có đức hay là một
tên hung thần ác quỷ.
d.-
Không đề ra mục tiêu cách mạng xã hội để xóa bỏ bất công trong xã hội nhất là
những bất công tồn tại từ thời phong kiến và và thời bảo hộ Pháp – Vatican.
e.- Không biết rõ Nhà Thờ Vatican (tức Giáo
Hội La Mã) là thế lực có chủ tâm đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa rồi mới vận
động chính quyền Pháp cấu kết với Giáo Hội La Mã và xuất quân đánh chiếm và
thống trị Việt Nam. Do đó không
có một chính sách đặc biệt dứt khoát và thẳng thừng đối với Nhà Thờ Vatican và
các ông bà dân Chúa (Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ trong các Chương 2, 3
và 4 (Phần II) trong sách Tâm Thư Gửi Chính Quyền Việt Nam.
Các nhược điểm c,
d,
và e
là hậu quả nghiệm trọng do việc không thấu hiểu lịch sử thế giới gây ra. Vì thế
mà tất cả các tổ chức này đều chỉ thành nhân mà không thành công. Tình trạng này
kéo dài đến khi Đệ Nhị Thế Chiến gần chấm dứt thì thế cuộc mới đổi chiều. Sự
hiện diện của 6 ngàn quân đội Phù Tang tiến vào trú đóng miền Bắc Sông Hồng
(theo thỏa Hiệp Pháp Nhật được ký kết vào ngày 22/9/1940), đã là cơ hội bằng
vàng giúp cho Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh (đã học được những
kinh nghiệm thiếu sót trên đây) vùng lên chớp lấy thời cơ, phất cờ khởi nghĩa, kêu
gọi và huy động toàn dân cùng tích cực tham gia vào đại cuộc cứu nước. Vấn đề
này sẽ nói sau.
2.- Ngày 9/3/1945 quân xâm lược Nhật đánh bại Liên Minh Pháp –
Vatican, nắm quyền thống tri Việt Nam cho đến ngày 19/8/1945. Trong thời gian này Việt Nam cũng vẫn còn ở trong tình trạng mất nước và người
Nhật trở thành chủ nhân ông của nước Việt Nam.
̣(Ngày
16/8/1945, Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican ra lệnh cho Tướng Jean Leclerc đem
quân sang Việt Nam, lo việc tái chiếm Đông Dương.)
3.- Ngày
17/8/45, chính quyền de Gaulle thỏa thuận (cấu kết) với Tòa Thánh Vatican
bổ nhậm cựu Linh-mục Thierry D’ Argenlieu nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương kiêm
nhiệm chức vụ Tổng Tư Lệnh Đoàn Quân Viễn Chinh tái chiếm Đông Dương. Sự kiện
này được sử gia Joseph Buttinger ghi nhận trong cuốn Vietnam: A Political
History như sau:
“On August 16, troops under the command of
General Leclerc, a military hero of the European war, were ordered to proceed
from France Madagascar, and Calcutta to Vietnam. On August 17, Paris appointed
Admiral Thierry d’ Argenlieu High commissioner of the new Frenh administration
for indochina.”
[4]
4.- Ngày 19/8/1945 - Nhờ rút tỉa được những kinh nghiệm thiếu sót
của tổ chức ái quốc của các bậc đàn anh trên đây, nhân việc chính quyền đế quốc
Nhật đầu hàng đồng Minh và quân đội Nhật ở Đông Dương bất động, Đảng Cộng Sản
Việt Nam phối hợp với Mặt Trận Việt Minh dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh
đã nhanh nhẹn
chớp lấy thời cơ, phất cờ kêu gọi toàn dân vùng lên cướp chính quyền, lấy lại
nước từ trong tay quân xâm lược Nhật.
(Ngày 2/9/1945,
có tới hơn 500 ngàn người đến tham dự buổi mít tinh tại Vườn Hoa Ba Đình để nghe
Cụ Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập[5]
. Đối với lịch sử, bản tuyên ngôn này được coi như là đã đáp ứng được khát vọng
của toàn thể nhân dân ta, ngoại trừ một vài nhóm thiểu số người có quyền lợi gắn
liền với Liên Minh Đế Quốc Thức Dân Xâm Lược Pháp - Vatican. Chính vì vậy mà
đồng bào khắp nơi từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu đều hân hoan sung sướng và hăng
say ủng hộ Mặt Trận Việt Minh dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh, người đã
hy sinh trọn đời cho đại cuộc đòi lại chủ quyền độc lập cho dân tộc.)
5.- Ngày
12 tháng 9/1945 – Một số đơn vị Pháp núp bóng
quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn để giải giới quân Nhật ở miền Nam vĩ tuyến
16.
Ngày
23 tháng
9, 1945 –
Với sự hỗ trợ của quân Anh, các đơn vị Pháp này tấn công chính quyền
ta ̣(lúc
đó là Việt
Minh)
ở Sài Gòn, mở nhà tù thả hơn một ngàn kiều dân Pháp, và võ trang cho
những kiều dân này đi tấn công nhân dân ta.
Tháng 10/1945, một trung đoàn quân Pháp dưới
quyền chỉ huy của Tướng Massu đổ bộ vào miền Nam tăng cường cho thế lực Liên
Minh Pháp-Vatican đã có sẵn ở đây để chuẩn bị mở những cuộc hành quân tiêu diệt
các lực lượng Kháng Chiến Việt Nam ở miền Nam. Sự kiện này được sử gia Bernard
B. Fall ghi lại trong cuốn The Two Vietnams như sau:
“Tướng Massu lúc đó đang chỉ huy quân đội ở
miền Đông nước Pháp, được lệnh chỉ huy trung đoàn đầu tiên tiến vào lãnh
thổ Việt Nam vào tháng 10 năm 1945.” Nguyên văn: “General
Massu, who now commmands French troops in eastern France, commanded the first
regimental combat team that landed in Vietnam in October , 1945.”)[6]
6.- Ngày 19/12/1946: Liên Quân Pháp-
Vatican càng ngày càng hung hăng, cố tình gây hấn để tiêu diệt chính quyền và
lực lượng kháng chiến của nhân dân ta. Vì thế mà chiều tối ngày này, Chủ Tịch Hồ
Chí Minh mới phải ban hành lệnh kêu gọi nhân dân ta trên toàn lãnh thổ cùng nhau
quyết chiến đuổi giặc bảo vệ quê hương. Giờ phút nghiêm trọng này được sách sử
ghi nhận như sau:
“Ngay trong đêm 19/12/1946, Chủ Tịch Hồ Chí
Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến. Sáng ngày 20/12, lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Chủ Tịch Hồ Chí Minh được truyền đi khắp đất nước:
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.”
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ Tịch
Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước, là mệnh lệnh cách mạng tiến
công, giục giã và soi đường, chỉ lối cho mọi người Việt Nam đứng dậy cứu nước.”[7]
Kể từ ngày này, cả nước cùng đáp lời kêu gọi
trên đây cùng hăng say lên đường đi cứu nước. Nước này là quốc gia của toàn dân,
trong đó có tôi. Cho nên chỉ mấy tháng sau, chính bản thân tôi cũng theo gót
các bậc đàn anh lên đường đi làm “em bé liên lạc viên” để góp bàn tay chống giặc
bảo vệ quốc gia.
Đó là Quốc Gia Việt Nam của dân tộc Việt Nam và cũng là của tôi đó anh à.
B.- QUỐC GIA CỦA NHÀ THỜ VATICAN VÀ DÂN CHÚA
Trong khi toàn thể nhân dân Việt Nam liều chết
lao vào cuộc chiến đánh đuổi liên minh thánh xâm lược Pháp - Vatican để bảo
vệ đất nước và sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ tiên để lại, thì Nhà Thờ Vatican cấu
kết với bọn thực dân phản động Pháp thi hành chính sách chia để trị cực kỳ thâm
độc, dùng người Việt đánh người Việt, dùng dân Chúa khống chế và cai trị tuyệt
đại khối nhân dân theo tam giáo cổ truyền. Chính sách này được tiến hành từng
bước một như sau:
1.- Ngày 28/12/1945,
viên khâm sứ đại diện Tòa Thánh Vatican tại Hà Nội là Tổng Giám Mục Antoni
Drapier công khai tuyên
bố dùng Bảo Đại thành lập chính phủ bù nhìn làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược
Pháp Vatican tái chiếm Việt Nam trong giai đoạn quá
độ (transitional period)
để thi hành chính sách chia để trị nói trên. Sự kiện lịch sử này đều được sách
sử (Sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 -Tập
A: 1939-1946) ghi lại rõ ràng
[8]
2.- Tháng 1/1946:
Lời tuyên bố của
viên khâm sứ Tòa Thánh trên đây vừa mới được công bố thì chỉ ít ngày sau, bọn
phản động Việt gian tay sai của Nhà Thờ Vatican nhân danh là một đảng phái Quốc
Gia tổ chức biểu tình ở trước tòa nhà của ông Vĩnh Thụy để thỉnh cầu ông vua gỗ
đã thóai vị này đứng ra thành lập chính phủ đúng như Nhà Thờ Vatican đã sắp xếp
như trên. Cuộc biểu tình của bọn Việt gian này được sách Việt Sử Khảo Luận (cuốn
4) ghi nhận như sau:
"Nhóm Quốc Dân Đảng (của Vũ Hồng Khanh,
Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam, v.v...) đòi thành lập ngay một Chính Phủ Liên
Hiệp Kháng Chiến với Vĩnh Thụy làm chủ tịch. Nhiều cuộc biểu tình được tổ chức
trước nhà Vĩnh Thụy ở Đường Gambetta cũ, hoan hô cố vấn và đòi ông ra cầm
quyền."[9]
Cũng nên biết là từ đầu tháng 9/1945, nhóm
Quốc Dân Đảng này đã từng từ Trung Quốc đi theo 180 ngàn quân Quốc Quân Trung Hoa về
Việt Nam để dựa thế các đạo quân thổ phỉ này đánh phá chính quyền Việt Nam và hà
hiếp dân ta.
3.- Ngày 1/6/1946,
Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican thành lập chính phủ Cộng Hòa Nam Kỳ với chủ
trương tách rời miền Nam từ ranh giới phía
nam tỉnh Bình Thuận (Phan Thiết) ra khỏi nước Việt Nam đúng theo chính sách chia
để trị Nhà Thờ Vatican đã vạch ra. Việc làm phản tiến hóa này giống y hệt như
hồi đầu thập niên 1860 Vatican đã xúi giục một số chính khách các tiểu bang miền
Nam Hoa Kỳ ly khai khỏi Liên Bang Hoa Kỳ để thành lập quốc gia Liên Bang miền
Nam,
gọi là Confederate States of America hay “The Confederacy” hoặc “Southern
Confederacy” (gồm 11 tiểu bang miền Nam).
Ngoài
việc xé miền Nam ra khỏi nước Việt Nam như trên, Liên Minh Xâm Lược Pháp –
Vatican còn tách rời vùng cao nguyên Nam Trung Bộ thành lập nước Tây Kỳ, tách
rời tỉnh Lai Châu và Lào Cai thành lập Liên
Bang
Thái Tự Trị, mưu đồ tách rời mấy vùng Móng Cái, Tân Yên (Quảng Ninh ngày nay) ra
làm nước Nùng, và tách rời hai giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu, chuẩn bị biến hai
giáo phận này thành 2 vương quốc Ki-tô. Sách
Những Ngày Tháng Không Thể Nào Quên của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp có ghi:
“Không lâu trước đó Đác-giăng-li-ơ (d’
Argenlieu) đã để lộ ý muốn lập ngay tại miền Bắc một “nước cộng hòa Nùng Thái”,
cùng một kiểu với “ nước cộng hòa Tây Kỳ” ở Tây Nguyên. Những hoạt động của địch
cùng lúc xẩy ra chạy dài theo biên giới, từ vùng biển đế vùng núi, từ Đông sang
Tây, nói lên âm mưu này đang bắt đầu.”[10]
4.- Ngày 2/6/1948
(có sách ghi là ngày 5/6/1948) lời tuyên bố của Tổng Giám-mục Antoni Drapier
được cụ thể hóa thành chính quyền Bảo Đại, sách sử gọi là Giải Pháp Bảo Đại (the
Bao Dai Solution). Kể từ đó, bộ máy tuyền truyền của Nhà Thờ Vatican liên tục
dùng những thuật ngữ để đánh bóng chính quyền bù nhìn này bằng những danh xưng
“Chính Quyền Quốc Gia”, “Chính Nghĩa Quốc Gia” với lá cờ vàng ba sọc đỏ làm biểu
tượng đấu tranh hầu lừa gạt nhân dân khiến cho họ lầm tưởng rằng ông Bảo Đại là
người nắm được chính nghĩa tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của tổ quốc và dân
tộc.
5.- Tháng 2 năm 1959,
chính quyền Ngô Đình Diệm đem cái Quốc
Gia
do Nhà Thờ Vatican dựng nên này dâng cho đế quốc Vatican trong một buổi lễ vô
cùng trọng thể được tổ chức tại Sàigòn có
Hồng Y Agagianian (sứ thần của Vatican tại Sàigòn) đến làm chủ tế. Sự kiện này
được chính
Linh-mục Trần Tam Tỉnh mô tả
trong quyển “Thập Giá Và Lưỡi Gươm“ ”[11]
Song song với những việc làm
theo từng bước một như trên,
Nhà Thờ Vatican cho thi hành sách lược tuyên truyền bằng những thủ đọan cực kỳ
tinh vi với những thuật ngữ nặng tính cách cưỡng từ đoạt lý để tô hồng chuốt lục
cho cái “Quốc
Gia ma nớp”
trên đây.
Đồng thời họ miệt thị
và sỉ vả những người chiến đấu cho “Quốc
Gia Việt Nam”
chúng tôi, và
những người chống lại cái Quốc Gia ma nớp do Vatican tạo ra như trên.
Cái “quốc gia” trong câu nói “đừng
ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” của anh dành cho tôi là cái quốc gia ma nớp này đó, anh ạ. Anh
không học môn sử, cho nên anh không biết sự thật lịch sử này,
và sử dụng câu nói trên
đây để lên giọng răn đe hai giáo viên dạy sử. Câu nói rẻ tiền nhưng hết sức thâm độc này là nằm trong sách lược
tuyên truyền của Nhà Thờ Vatican đó, anh có biết không?
VỀ “MIẾNG CƠM” QUỐC GIA
Nếu hiểu “miếng cơm” theo nghĩa
đen, thì miếng cơm chúng ta ăn ngày xưa là của các nông dân tay lấm chân
bùn. Họ không phải là những người Quốc Gia hay Cộng Sản gì
cả.. Họ là
những dân quê chân chấ́t, hết lòng bảo vệ đồng ruộng của họ để cấy
cày, không cho Liên Minh giặc đến đốt nhà, đổ gạo. Nhiều khi họ lại
là kẻ mà Chính Quyền Quốc Gia thường nghi ngờ theo Cộng Sản nhiều
nhất. Xin xem DVD “Chiến Tranh Việt Nam, Những Điều Chưa Biết” của Daniel
Costel biên soạn và tường thuật do VietNam Films
(Tel 714-555-2515)
sản xuất để biết người lính “Quốc Gia” đốt nhà, đổ gạo của người nông
dân như thế nào.̣ Cả miếng cơm mà chúng ta ăn ngày nay cũng thế. Tôi
luôn mang ơn các bác nông dân, kể cả nông dân Thái Lan, chẳng phải ơn của
chính quyền nào cả.
Vậy ý nghĩa thực sự của từ “ăn cơm quốc gia” mà
anh sử dụng là lãnh lương hàng tháng hay được hưởng những ân sủng của chính
quyền Sàigòn trong những năm 1954-1975.
Đây là chính quyền bù nhìn hại nước
hại dân (tôi đã viết rất
nhiều bài chứng minh cho những phê
phán này, chắc
anh không cần tôi chép lại chứ?).
Tôi sẽ trở lại chỗ “cơm quốc gia” sau.
Nói đến
“đồng lương hàng tháng hay hàng năm” của các ông bà sống bằng cái nghề làm quan,
tôi liên tưởng đến những
giai thoại các “miếng cơm” từ lúc
chủ quyền nước ta sắp
lọt vào tay người ngoại bang là Liên
Minh Xâm Lược Pháp – Vatican, tức là thời Vua Tự Đức (1848-1883)
cho đến nay.
Thời đó,
những người hành nghề làm quan gọi là “phụ mẫu chi dân” (cha mẹ dân), và đồng
lương hàng tháng hay hàng năm của họ còn được gọi là bổng kim (tiền lương trơn),
và bổng lộc thì gồm có bổng kim và các
thư phụ cấp khác) của triều đình được trả bằng thóc và tính bằng đấu (một đơn vị
do lường của ngũ cốc) và thăng (nhỏ bằng 1/10 của đấu). Vì được trả bằng thóc
và tính bằng đẩu và thăng, cho nên trong bài thơ Khóc Dương Khuê, cụ Nguyễn
Khuyến mới viết câu “Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời” (Đẩu thăng phi
tham thiên – Có bản ghi là “Miếng đẩu thăng há dám tham trời”).
Giai thoại của câu thơ này cũng
rất thú vị. Xin thật thà chịu sự chỉ giáo của quí vị ban văn chương
nếu có điều gì không đúng trong những đoạn văn liên hệ đến lãnh vực
chuyên môn của quí vị.
Cụ Nguyễn Khuyến (1835-1909) thường gọi là cụ
Tam Nguyên Yên Đổ hay Yên Đổ và cụ Dương Khuê (cũng gọi là cụ Vân Đình) là hai
người bạn đồng khoa trong kỳ thi Hương (cử nhân).
Tuy không đồng
khoa trong kỳ thi Hội và thi Đình, nhưng vì quê quán ở gần nhau (Vân Đình, Hà
Đông, khá gần với và Yên Đổ thuộc Hà Nam), vì cùng là nhà
Nho khoa bảng đậu đến tiến sĩ và cùng ở trong “nghề làm quan” trong cùng một
triều đình trong lúc giang sơn
nghiêng ngửa, cái thời buổi có nhiều
chuyện thế sự bàn luận với nhau, cho nên hai cụ rất thân nhau.
Những câu trong bài thơ Khóc Bạn
(nguyên tác bằng chữ Hán là có tên là Vãn Đồng Niên Vân Đình Tiến Sĩ Dương
Thượng Thư) đủ chứng minh
sự thân thiết
của hai người:
[12]
Lúc
Hiệp Ước Giáp Thân 1884 (còn gọi là Hiệp Ước Patenôtre) ra đời, giang sơn thực
sự đổi chủ, cũng như các nhà Nho tiết tháo khác, cụ Yên Đổ cảm thấy, nếu còn ở
lại làm quan với tân triều thì quả thật là một
sự nhục
nhã. Đến như vua còn không còn là vua nữa, mà chỉ là thứ vua phường chèo (Vua
chèo còn chẳng ra gì, Quan chèo,
vai nhọ khác chi thằng hề), thì một
nhà Nho khoa bảng mà chỉ vì đồng lương (miếng
đẩu thăng) hay kế sinh nhai mà ở lại tiếp tục “cái nghề làm quan” làm đầy tớ cho
kẻ thù xâm lược sai bảo trong bộ máy đàn áp dân mình thì quả là một lũ hề:
Vì thế cụ mới quyết định
cáo quan lui về ở ẩn, làm nghề dạy học kiếm kế sinh nhai theo đúng truyền thống
của nhà Nho “Tiến vi quan đạt vi sư”. Có lẽ
cụ Yên Đổ thế nào cũng rủ cụ Vân Đình cùng về ở ẩn để cùng nhau tiếp tục bàn
luận thế sự thăng trầm:
...Miếng
đẩu
thăng há dám tham trời (Đẩu thăng phi tham thiên),...
...Bác
già, tôi cũng già
rồi (Dư lão, công diệc lão),
Nhưng vì còn ham “cái nghề làm quan”, cụ Vân
Đình quyết định ở lại chốn quan trường để tiếp tục hưởng dụng “miếng đẩu thăng”, tức là được tiếp tục “lãnh
đồng lương hàng tháng” của tân trào (Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican) mà sau
này bộ máy tuyền truyền của Nhà Thờ Vatican gọi là “ăn cơm quốc gia”.
Rốt cuộc, của trời không phải muốn là được. Cụ
Vân Đình tuy là trẻ hơn lại được sống trong phong lưu sung sướng mà vẫn chết
trước cụ Yên Đổ (tới 7 năm) dù là cụ Yên Đổ già hơn tới 4 tuổi, sống trong cảnh
thiếu thốn và đau yếu vì không được “ăn cơm Quốc Gia” của Nhà Nước Bảo Hộ.
Trong thời 1885-1945, cụ Á Nam Trần Tuấn Khải
gọi cái nghề làm quan là cái nghề “bán tổ tiền kiếm kế sinh nhai”.
[13]
Trong thời Kháng Chiến 1945-1954, kể từ tháng
6/1948, những người làm cái nghề “bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai” này được
bộ máy tuyên truyền Nhà Thờ Vatican khóac cho các danh nghĩa là “Người Việt Quốc
Gia” và cái triều đình bù nhìn Huế ngày xưa được khoác cho cái danh xưng là “chính
quyền Quốc Gia,”
nhưng
thực chất vẫn là làm bung xung và làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp –
Vatican
Vào thời điểm đó (đầu tháng 6/1948) Mỹ chưa
thực sự can thiệp vào Việt Nam, mục đích lập nên cái quốc gia quái đản này là để
làm công cụ cho đế quốc xâm lược Vatican cấu kết với Pháp (và Mỹ
sau này Vatican quay ra cấu kết với Mỹ) sử dụng làm bức bình phong để
tiến hành cuộc chiến tái chiếm Việt Nam trong sách lược chống lại khối Cộng Sản.
Cả hai thời kỳ này, tất cả các công nhân viên
làm việc trong chính quyền bù nhìn này cũng như tất cả các quân nhân các cấp
trong Quân Đội Quốc Gia (sau đó đổi danh xưng là Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa hay
Quân Đội Miền Nam) được gom lại, gọi chung là “quân, cán, chính” và đều do Mỹ
trả lương thuê mướn tính theo căn bản từng tháng một.
Dù là phục
vụ trong ngành giáo dục với chức năng
giáo viên dạy lớp (classroom teachers), cả anh và tôi cũng như tất cả các giáo
viên hay giáo sư đều lãnh lương của Mỹ cả, tức là những người ăn miếng cơm Quốc Gia của Mỹ (vì
rằng Mỹ chủ trương duy trì miền Nam như một quốc gia riêng biệt để làm tiền đồn
chống Cộng cho Mỹ) Cái
quốc gia do Nhà Thờ Vatican tạo
ra đâu có phát lương cho chúng ta hồi nào? Sự thật rõ ràng là như vậy.
Anh
có thể trực tiếp kiểm chứng bằng cách:
1.- Vào văn khố hoặc là trong Bộ Ngoại Giao
Hoa Kỳ, hoặc là trong Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ để tìm xem sổ lương của Mỹ trả tiền
cho tất cả các công nhân viên chính quyền và tất cả các quân nhân trong Quân Đội
Miền Nam.
2.- Đọc lại tiêu mục “Điểm thứ hai….” Trong lá
thư của tôi đề ngày 31/5/2009 gửi cho DĐ KMTĐ trong đó có
câu:
“Trong khúc phim ở trên người ta thấy rõ tinh
thần chiến đấu của VNCH nằm ở túi tiền (chứ không phải vũ khí) của Mỹ để trả
lương cho nhân viên chính quyền và quân nhân các cấp trong quân đội miền Nam.
Hoàn toàn không thấy thế nào là chính nghĩa khi mà VNCH thấy “hết tiền” thì “hết
vía” luôn.”
Chúng
ta thấy rõ (a) cả chính quyền quốc gia hay chính quyền VNCH và quân Đội Quốc Gia
hay Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa là đạo quân đánh thuê cho Mỹ qua bàn tay bao thầu
của Nhà Thờ Vatican, và (b) toàn bộ “cái miếng cơm Quốc Gia” từ tháng
7/7/1954 cho đến ngày nay chỉ là “miếng cơm của Mỹ” mà thôi.
Do đó, câu nói của anh
phải được sửa lại là “Đừng lĩnh lương của Mỹ
ngày xưa, đi thờ thần Cộng Sản
ngày nay”. Nhưng mà nói thế thì hóa ra
tréo ngoe về không gian và thời gian hết phải không anh?
Xin được tiếp theo ở kỳ sau:
- Về chuyện tôi sử dụng cụm từ “Thưa Quí Ngài”
- Về chuyện ông Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam
1 2
3 4 5 6
CHÚ THÍCH
[1]
Nguyễn Gia Kiểng, Tổ Quốc Ăn Năn (Paris: TXB, 2001), tr. XI.
[2]
Trần Chung Ngọc. “Tôi đọc bài Vụ Chùa và Tháp Bảo Thiên của Lữ Giang.”
Sachhiem.net. Ngày 28/12/2008.
(Sans les
missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais
seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La
comparaison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force.
En effet, sans les missionnnaires et les chrétiens, les Francais se
verraient entourés d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils
ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour
compromettre leur situation; ils se trouveraient donc réduits à
l'impossibilité d'agir et seraient rapidement exposés à des vrais
désastres. Leur position ici ne serait plus tenable, et ils ne verraient
forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence même
serait compromis.)
[3]
Nhiều tác giả, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa - Tuyển Tập 2 (Spring, TX:
Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo, 1998), tr. 115.
[4]
Joseph Buttinger. Ibid, 214.
[5]
Joseph Buttinger, Vietnam: A Political History (New York: Frederick A.
Praeger, 1968, p. 210.
[6]
Bernard B. Fall, The Two Vietnams (New York: Frederick A. Praeger,
1967), p 69-70.
[7]
Đinh Xuân Lãm Nguyễn Xuân Minh & Trần Bá Đệ, Lịch Sử Lớp 12 - Tập 2
(Thành Phố Hồ Chí Minh: Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, 2005), tr. 81.
[8]
Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 -Tập A: 1939-1946 (Houston, TX:
Văn Hóa, 1996), tr.295.
"Ngày 28/12/1945: HUẾ: Tổng Giám Mục
Antoni Drapier, đại diện Roma, tuyên bố:
"Gia đình Bảo Đại là gia đình thân Pháp
bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophile de tois les
annmites) và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3
(À mon avis, il serait avantageux pour le calm de rétablir le Roi comme
chef régulier avant le 9 mars; DOM [aix], CP 125). DRAPIER cũng đưa ra
giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long kế vị, và Nam Phương làm Giám
Quốc [Phụ Chính].
[9]
Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 (Paris: Nam Á, 2002), tr.
2076.
[10]
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, Những Ngày Tháng Không Thể Nào Quên (Hà Nội:
Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 2001), tr. 286.
[11]
Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978),
trang 126-127.
“Quả thế, Đức Mẹ cũng bị đưa vào môi
trường của chủ nghĩa hiếu thắng huênh hoang, nhất là nhân dịp Đại Hội
Thánh Mẫu tháng 2 năm 1959, có Hồng Y Agagianian, sứ thần của Đức Giáo
Hoàng qua chủ sự. "Ba trăm ngàn giáo hữu đã đi theo cuộc rước khổng lồ
trong ngày kết thúc, sau đó hồng y đã long trọng dâng nước Việt Nam cho
Đức Mẹ Vô Nhiễm" theo tin tức báo chí thời ấy. Để cuộc rước đó được
thành công, ngoài sự tưởng tượng của Roma và Paris, người ta đã huy động
hàng ngàn tên công binh để xây cất một bệ lớn trước nhà thờ chính tòa
Sàigòn, để dựng lên những cổng chào, đồng thời đưa ra hàng trăm xe cam
nhông để vận chuyển hàng chục ngàn giáo dân từ các tỉnh về.
Đức Mẹ cũng được cung kính đặc biệt tại
La Vang ở quãng 30 km (cây số) mạn nam vĩ tuyến 17. Vì những lý do chính
trị, ngôi nhà nguyện nhỏ mất hút trong rừng núi, bỗng trở nên một nơi
hành hương cho toàn thể người Công Giáo Việt Nam, thậm chí là của toàn
nhân dân Việt Nam! Được mệnh danh là "thành lũy thế giới tự do chống
Cộng Sản", ngôi nhà nguyện khiêm tốn này vừa được nâng lên hàng vương
cung thánh đường từ sau Đại Hội Thánh Mẫu, đã tiếp nhận vào tháng 8/1961
một cuộc hành hương khổng lồ nhất trong lịch sử chế độ Diệm. Ngày 16/8
(1961), tổng thống đích thân phú thác tương lai nước Việt Nam cho Đức Mẹ
La Vang. Trước mặt 200.000 người hành hương, đầy đủ các giám chức của
Giáo Hội, các bộ trưởng và công chức cao cấp, phần lớn không phải là
công giáo, Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đã đọc lời kính dâng nước Việt
Nam cho Đức Mẹ, sau cuộc rước kiệu khổng lồ.”
[12] ....Cũng
có lúc chơi nơi dặm khách (Hữu thời xuất kinh lộ)
Tiếng suối reo róc rách lưng đèo (Không
sơn văn lạc tuyền),
Có khi từng gác cheo leo (Hữu thời
thượng cao các)
Thú vui con hát lực chiều cầm xoang (Ca
nhi minh tố tuyền)
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp (Hữu
thờiđối quân ẩm)
Chén quỳnh tương ôm ấp bầu xuân (Dại
bạc phù bát diên)
Có khi bàn soạn câu văn (Hữu thời dữ
luận văn)
Biết bao đông bích điển phần trước sau
(Đông bích la giản biên)
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn (Ác
vận phùng dương cửu)….
[13]
Hai Chữ nước Nhà của cụ
Á Nam Trần Tuấn Khải:
Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục,
Thân tự do, chen chúc mà vinh.
Con ơi! Nhớ đức sinh thành
Sao cho khỏi để ô danh với đời.
Chớ lần lữa theo loài nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai,
Đem thân đày đọa tôi đòi,
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sống như thế sống đe sống mạt
Sống làm chi thêm chật non sông:
Thà rằng chết quách cho xong,
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình. (Trần
Tuấn Khải)
Trang Lịch Sử