GIÁO HỘI LA MÃ:
LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC
- Nguyễn Mạnh Quang -
http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CHdannhap.php
đăng ngày 10 Sep, 2007
« ● »
CHƯƠNG DẪN NHẬP
MỘT SỐ NHỮNG SỰ THẬT VỀ GIÁO HỘI LA MÃ
Lịch sử và kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng,
Giáo Hội La Mã không phải là một tổ chức thuần túy tôn giáo mà là một thế lực
chính trị với chủ trương dùng những mánh mung lừa bịp (người đời) và bạo lực để
thống trị toàn cầu và nô lệ hoá nhân loại. Chính vì thế mà trong gần hai ngàn
năm qua, Giáo Hội đã có hàng rừng những chủ trương, chính sách và hành động
tội ác trời không dung đất không tha, trong đó có những sự kiện mà các nhà
viết sử đều phải công nhận rằng Giáo Hội La Mã:
1.- Là một quốc gia với danh xưng chính thức
là the State of Vatican City. Quốc gia này có lãnh thổ với diện
tịch là 0.4 km2 hay 0.2mi2, vào năm 1995 có dân số là 900, theo chế
đô tăng lữ quân chủ toàn trị (monarchical-sacerdotal) và có chính quyền
mà hội đồng chính phủ là giáo triều Vatican (curia).
2.- Là một đế quốc thực dân xâm lược
mà chính quyền trung ương là giáo triều Vatican và các thuộc địa
là các giáo phận tại khắp mọi nơi trên thế giới. Các thuộc địa này nằm
dưới quyền cai trị của các "prelate nullius" (phó vương) mà
thông thường được gọi là "bishop" (giám mục).
3.- Theo đuổi chủ nghĩa bá quyền nhằm thống
trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân lọai bằng lý thuyết bịp bợm "Đô Thị Thiên Chúa"
(City of God), và hệ thống tín lý Kitô. (Sẽ được nói rõ ỏ 2 Chương 3 & 4)
4.- Dùng danh xưng tôn giáo là Đạo Thiên Chúa
La Mã và Giáo Hội La Mã làm bức bình phong để che đậy dã tâm đã nêu lên trong
sự kiện số 2 vả 3 trên đây.
5.- Có dã tâm sử dụng những chuyện hoang
đường, huyễn hoặc, phi nhân bản phản khoa học, thiếu logic do bọn lưu manh buôn
thần bán thánh người Do Thái bịa đặt ra vào thời kỳ con người còn ở trong tình
trạng bán khai của các thời ông Moses và ông Jesus cách đây hơn hai ngàn năm về
trước để lừa bịp và lường gạt người đời
6.- Tiếp tục bịa đặt ra hàng rừng chuyện hoang
đường khác như Chúa Ba Ngôi, Chúa Sống Lại rồi bay lên thiên đàng, Đức Mẹ Đồng
Trinh, Nơi Luyện Ngục, bảy phép bí tích, Đức Mẹ hiện ra, v.v... để khuếch trương
kỹ nghệ buôn thần bánh thánh.
7.- Chủ trương thi hành chính sách ngu dân và
giáo dục nhồi sọ để kìm hãm tín đồ và người dân dưới quyền mãi mãi ở trong tình
trạng ngu dốt giống như con người ở vào thời bán khai như thời ông Moses và thời
ông Je sus cách đây hơn 2 ngàn năm trở lên để biến con người thành một đàn cừu
mà Giáo Hội gọi là "đàn con chiên".
8.- Đặt ra hệ thống giáo luật hết sức phi nhân
bản, phản khoa học, nặng tính cách võ đóan, chuyên chế nhằm giúp cho giới giáo
sĩ và giai cấp thống trị tay sai dễ dàng áp bức, bóc lột tín đồ và nhân dân dưới
quyền.
9.- Theo đuổi chủ thuyết "thần quyền chỉ
đạo thế quyền" với dã tâm tiếm đọat quyền lực chính trị, thiết lập chế độ
đạo phiệt Da-tô (còn được gọi là chế độ giáo hoàng hay chế độ cha cố) để có thể
sử dụng chính quyển làm phương tiện thi hành "chính sách bất khoan dung"
cưỡng bách người dân dưới quyền phải khuất phục, phải tin vào những tín điều
Kitô quái đản và phải tuân hành những giáo lý phi nhân của Giáo Hội.
10.- Chủ trương dùng bạo lực để tiêu diệt tất
cả các tôn giáo khác và cưỡng bách nhân dân dưới quyền phải theo đạo Da-tô.
11.- Bóp nghẹt hết tất cả cac quyền tự do căn
bản của con người đã được Liên Hiệp Quốc và các nước theo chế độ tự do dân chủ
như ở Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Ấn Độ, v.v.., công nhận. Những quyền đó là tự do
tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do kết hôn và giải
hôn, v.v...
12.- Chủ trương hủy diệt tất cả các nền văn
minh nào không phải là văn minh Do Thái hay Da-tô.
13.- Chủ trương hủy diệt tình yêu tổ quốc và
quê hương trong lòng tín đồ Da-tô.
14.- Không cho phép tín đồ có một thứ tình cảm
thiêng liêng cao cả nào có thể sánh ngang hàng với tình yêu hay lòng tuyệt đối
trung thành với Tòa Thánh Vatican hay Giáo Hội La Mã. Tất cả mọi thứ tình yêu
thiêng liêng giữa con người với con người như tình yêu lứa đôi trai gái, tình
yêu vợ chồng, tình yêu gia đình giữa cha mẹ với con cái, giữa con cái với cha
mẹ, giữa anh em với nhau, tình thày trò, tình bạn bè, tình yêu làng xóm, tình
yêu đối với tổ quốc, đối với quê hương và đối với dân tộc đều phải nhường bước
cho tình yêu đối với Giáo Hôi hay Tòa Thánh Vatican (được ngụy tạo là tình yêu
Chúa).
15.- Trong thời Giáo Hoàng Gregory VII
(1073-1085), Giáo Hội đưa ra nguyên tắc "chỉ có một mình giáo hoàng mới được
đưa bàn chân ra cho các ông vua chúa hôn hít." (The Pope alone offers his
foot to be kissed by princes)
[1]. Nguyên tắc quái đản này làm nẩy sinh ra tục lệ
quái đản "giáo sĩ bản địa phải đến quỳ mọp xuông hôn hít giầy dép của giáo
sĩ Âu Châu" tại địa phương
[2] và tục lệ quái đản "tín đồ đến trước ghế ngồi
của một vị giám mục quỳ mọp xuống để được ông ta đưa bàn tay có ngón đeo nhẫn
giám mục ra để hít hà hôn hít."
16.- Cuối năm 1095, Giáo Hoàng Urban II
(1088-1099) phát động cuộc chiến Thập Tự Lần Thứ Nhất đem quân đí đánh chiếm
tàn sát nhân dân vùng Trung Đông, khởi đầu cho gần chục cuộc chiến thập tự khác
tiếp theo khiến cho cả mấy chục triệu sinh linh bị sát hại.
17.- Năm 1215, trong thời Giáo Hoàng Innocent
III (1198-1216), Giáo Hội chính thức ban hành giáo luật cưỡng bách tín đồ phải
đến một nơi vắng vẻ trong nhà thờ địa phương để "xưng tội" (kể lể
những việc làm sai trái (theo quan niệm của Giáo Hội) với vị linh-mục quản nhiệm)
mà thâm ý của Giáo Hội là vừa để dò xét xem trong gia đình có ai là người
không tuyệt đối trung thành với Giáo Hội, vừa để cho các ông linh mục quản
nhiệm tại địa phương có cơ hội "gạ gãm" nữ tín đồ hầu "giải tỏa tình
trạng bế tắc về sinh lý và tâm lý" vốn đã bị tù hãm đã từ lâu.
18.- Năm 1232, trong thời Giáo Hoàng Gregory
IX (1227-1241), Giáo Hội cho thiết lập các Tòa Án Di Giáo (Inquisitions) với
nhiệm vụ điều tra, truy lùng, tóm cổ, tra tấn và xử thiêu (xử tử bằng cách
trói nạn nhân vào một cái cọc, rồi chụm củi khô và châm lửa thiêu sống) những
tín đồ bị tình nghi là "có thái độ không tuyệt đối trung thành với Tòa Thánh
Vatican". Các Tòa Án quái đản này hoành hành ở Âu Châu cho đến khi Cách Mạng
Pháp bùng nổ vào ngày 14/7/1789. Riêng ởTây Ban Nha và ở các thuộc địa của đế
quốc này, các tòa án này vẫn còn tiếp tục tác oai tác quái cho đến năm 1821.
Tính ra con số nạn nhân của các Tòa Án khốn nạn này lên tới gần 100 triệu. Riêng
ở Tây Ban Nha và các thuộc địa của đế quốc này cũng đã tới 68 triệu
[3].
19.- Trong thời Giáo Hoàng Nicholas V
(1447-1455), ngày 8 tháng Giêng năm 1454, Giáo Hội ban hành sắc chỉ
"Romanus Pontifex" ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn quyền tự do xâm
lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins
(tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo Hội, gặp bất cứ
nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu,
đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm
của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn"
[4] (Sẽ
được trình bày đầy đủ ở Chương 4).
20.- Giáo Hoàng Paul IV (1555-1559) tuyên bố :
"Nếu bố tôi bị phát hiện là giáo gian (dị giáo), tôi sẽ chụm củi đốt ông ta
luôn". Sự kiện này đưa đến việc phá vỡ nền tảng gia đình, phá vỡ tình bằng
hữu, phá vỡ tình xóm làng và quê hương bằng những hành động cổ võ và khích lệ
tín đồ làm những chuyện vô luân như "cha con tố cáo nhau, vợ chồng tố
cáo nhau, anh em tố cáo nhau, bạn bè tố cáo nhau, hàng xóm láng giềng tố cáo
nhau, v.v.. trước tòa án của Giáo Hội."
[5]
21.- Đặt ra giáo luật cưỡng bách những người
thuộc các tôn giáo khác muốn lập gia đình với tín đồ của Giáo Hội thì phải từ bỏ
tôn giáo cổ truyền của gia đình họ, phải học giáo lý Da-tô và phải rửa tội
theo đạo Gia-tô rồi mới được làm lễ thành hôn ở nhà thờ.
22.- Trong thập niên 1860, thời Giáo Hoàng
Pius IX (1846-1878), Giáo Hội bịa đặt ra tín lý bịp bợm "Giáo Hoàng
Không Lầm Lẫn" (Papal Infallibility) để lừa dối và lường gạt tín đồ, đặc
biệt là những tín đồ đã bị điều kiện hóa thành những "con cừu" được quản
lý bởi các ngài mang chức thánh ở trong tình trạng bất bình thường vì sinh lý và
tâm lý bị tù hãm.
23.- Dùng "sách lược nội công" bằng
những đạo quân thứ 5 gồm những tín đồ Da-tô bản địa và dùng "sách luợc ngọai
kích" bằng ngoại giao cho người đi thuyết phục một hay nhiều đế quốc Âu Châu
hoặc siêu cường Hoa Kỷ liên kết với Giáo Hội và xuất quân tấn chiếm các vùng mục
tiêu làm thuộc địa để cùng quản lý, cùng thu vơ lợi nhuận cũng như bành trướng
thế lực qua chính sách Ki-tô hóa bằng bạo lực.
24.- Dùng chính sách chia để trị: Chía các
quốc gia bị chiếm ra làm nhiều tiểu quốc theo lằn ranh địa lý thiên nhiên, theo
từng nhóm sắc tộc, và dùng tín đồ Da-tô bản địa làm tay sai cai trị các thành
phần thuộc các tôn giáo khác, điển hình là ở Đông Dương trong những năm
1862-1954 và ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975.
25.- Cấu kết với Đế Quốc Tây Ban Nha trong
việc tấn chiếm và thống trị Châu Mỹ La-tinh, Phi Luật Tân trong thế kỷ 16 và
nhiều nơi khác vào những thời điểm khác nhau.
26.- Cấu kết với Đế Quốc Bồ Đào Nha trong
việc tấn chiếm và thống trị xứ Ba Tây ở Nam Mỹ và nhiều nơi khác vào nhiều thời
điểm khác nhau.
27.- Cấu kết với Đế Quốc Pháp và Bỉ trong việc
tấn chiếm và thống trị Đông Dương, Algeria, Marocco, Tunisia (ở Bắc Phi) và
nhiều nơi khác ở Châu Phi vào những thời điểm khác nhau.
28.- Trong thập niên 1930 và trong thời Đệ Nhị
Thế Chiến, Giáo Hội cấu kết với Đức Quốc Xã và Phất Xít Ý đàn áp phong trào Cách
Mạng Cộng Hòa tại Tây Ban Nha để củng cố chính quyền đạo phiệt Da-tô Francisco
Franco và thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô Ante Pavelich tại Croatia. Chế độ đạo
phiệt Da-tô Ante Pavelich chỉ tồn tại có hơn 4 năm (1941-1945) mà đã tàn sát
tới trên 700 ngàn tín đồ Do Thái Giáo và Chính Thống Giáo ở Croatia. Lúc
đó Croatia chỉ có vỏn vẹn gần 3 triệu dân.
29.- Tích cực thuyết phục đế quốc Pháp tới ba
lần trong việc xuất quân đánh chiếm và cùng thống trị Việt Nam từ năm 1858 đến
năm 1954 để chia phần.
30.- Dạy dỗ tín đồ bản địa những lời dạy bất
chính, bất nhân và bịp bợm như "Đừng thừa nhận quyền lực Nhà Vua và luật pháp
của họ", và "Đức Giáo Hòang ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy
nhất của họ, họ chỉ tuân phục quyền lực Tòa Thánh Vatican"
[6]. Đồng thời Giáo Hội lại dạy đỗ tín đồ "phải
tuyệt đối vâng lời Giáo Hội và các đấng bề trên trong hệ thống quyền lực của
Giáo Hội", "Vâng lời qúy hơn của lễ" và "phải tuyệt đối trung
thành với Giáo Hội La Mã hay Tòa Thánh Vatican", “phúc cho ai không thấy
mà tin”, “Niềm tin tôn giáo không cần phải đến sự can thiệp của lý trí hay của
khoa học” (không thể dùng lý trí hay khoa học để giải thích niềm tin tôn giáo)
, v.v… Đây là những lời dạy lưu manh nhất và thâm độc nhất của Giáo Hội La Mã
vì rằng chính những lời dạy này đã nhào nặn tín đồ bản địa thành những phường
vong bản phản quốc, phản quê hương, phản dân tộc. Điển hình là suốt trong chiều
dài lịch sử kể từ khi đạo Da-tô đuợc truyền vào Việt Nam vào năm 1533 cho đến
ngày nay, tín đồ Da-tô người Việt đã có thái độ và hành động như thế nào, dân
Việt Nam ta đều đã nhìn thấy rõ. Sự kiện này cũng được thể hiện ra trong cộng
đồng giáo dân Việt Nam bằng khẩu hiệu “Nhất Chúa, nhì cha, thư ba Ngô Tổng
Thống”, bằng hành động của Linh-mục Hoàng Quỳnh khi ông ta lớn tiếng hô hào
tín đồ Da-tô người Việt rằng "Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa" (vào
năm 1964). Sự thật này đã khiến cho học giả Da-tô Charlie Nguyễn viết bài báo có
tựa đề là "Truyền Thống Phản Quốc của Công Giáo Việt Nam" đăng trên tờ
Đông Dương Thời Báo sô 88 tháng 5/6 2004 nơi các trang 1, 3, 4, 5 6 & 7. (Đông
Dương Thời Báo, P. O Box 671091, Houston, Texas 77207-1091)
31.- Cấu kết với siêu cường Hoa Kỳ trong sự
dụng sức mạnh của Hoa Kỳ để duy trì tình trạng chia đôi Việt Nam thành hai miền
Nam và Bắc cho tới ngày 30/4/1975..
32.- Trong thời 1862- 1945, Liên Minh Đế Quốc
Pháp - Thập Ác Vatican đã chia Việt Nam ra làm ba miền Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc
Kỳ giống như ba tiểu quốc với ba thể chế chính trị và hệ thống pháp luật khác
nhau, và ngay từ giữa thập niên 1860, Gíám-mục Puginer, đại diện của Tòa Thánh
Vatican ở Đường Ngoài (miền Bắc), đã đưa ra Kế Hoạch Puginier, theo đó thì chính
quyền liên minh giặc Pháp - Vatican phải "diệt tận gốc, tốc tận rế" Nho
giáo và tất cả các nho sĩ Việt Nam
[7]. Cũng may là kế họach ác ôn này bị người Pháp bác
bỏ.
33.- Trong Thời Kháng Chiến 1945- 1954, ngay
khi vừa mới được chính quyền Charles de Gaulle thỏa thuận với Tòa Thánh Vatican
đề cử cựu Linh-mục Thierry G. d' Argenlieu nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương vào
ngày 17/8/1945 với dã tấm xúi giục và khích lệ gần hai triệu tín đồ Da-tô người
Việt hăng say nổi lên tiếp tay Liên Quân Xâm Lăng Pháp- Vatican chống lại tổ
quốc và chính quyền Kháng Chiến dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh. Sự
kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi nhận trong sách Thập Giá và Lưỡi Gươm
với nguyên văn như sau:
“Đờ Gôn (De Gaulle) gặp đô đốc Thierry d’
Argenlieu, một tu sĩ Dòng Camêlô, làm cho Cao Ủy Đông Dương, nghĩa là làm Toàn
Quyền. Có lẽ ông hy vọng rằng vị linh mục này sẽ thành công trong việc quy tụ
dân công giáo lại đi theo ủng hộ mình, như hồi chinh phục lần đầu, cách đó một
thế kỷ.”
[8]
Ngay sau khi tới Sàigòn, Thierry G. d'
Argenlieu liền tiến hành kế họach xé nước Việt Nam ra làm nhiều mảnh, rồi
thành lập nước Công Hòa Nam Kỳ và cho ra đời chính phủ lâm thời Nam Kỳ
do Bác-sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ Tướng. Sau đó, ông cựu linh mục Cao Ủy Đông
Dương này lại cho thành lập nước Cộng Hòa Tây Kỳ ở miền Nam Trung Bộ,
nước Cộng Hòa Thái ở miền Tây Bắc Bắc Bộ và mưu đồ thành lập nước Cộng
Hòa Nùng ở miền Đông Bắc Bắc Bộ. Sự kiện này được sách Những Năm Tháng Không
Thể Nào Quên của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp ghi lại rõ ràng như sau:
“Mồng 1 tháng 6, chỉ một ngày sau hôm Bác
(cụ Hồ) lên đường, cái gọi là “chính phủ lâm thời nước Cộng Hòa Nam Kỳ” ra mắt
tại Sàigòn, đứng đầu là đôc tờ Thinh. Để tạo nên sự lẫn lộn trắng đen, cũng có
một hiệp định ký giữa người thay mặt nước Pháp với người thay mặt Cộng Hòa Nam
Kỳ. Trong bản hiệp định này, viên cao uỷ đã cho sao lại gần như nguyên văn điều
khoản I của Hiệp Định Sơ Bộ 6/3: “Chính phủ Pháp công nhận nước Cộng Hòa Nam Kỳ
là một quốc gia tự do có chính phủ của mình, nghị viện của mình, quân đội của
mình, tài chính của mình và là một bộ phận quan trọng trong khối Liên Hiệp Pháp.”
Võ Nguyên Giáp, Những Ngày Tháng Không Thể Nào Quên - Hữu Mai thể hiện
(Hà Nội, 2001), tr. 250-251.
"Vài ngày sau, những vụ khiêu khích mới lại
nổ ra ở dọc biên giới Việt Hoa. Mồng 10 tháng Tám (1946), quân Pháp vô cớ tiến
công bộ đội ta ở Tiên Yên, Đầm Hà. Ngày 13, chúng đưa bọn thổ phỉ về đóng tại
Lạng Sơn. Chúng khiêu khích đồng bào ta ở Vịnh Hạ Long và vùng ven biển Hồng
Gai. Cùng thời gian này, lại có tin quân Pháp từ Sơn La tiến xuống phía nam.
Không lâu trước đó, d' Argenlieu đã để lộ ý muốn lập ngay tại miền Bắc một nước
cộng hòa Nùng Thái, cùng một kiểu với "nước cộng hòa Tây Kỳ" ở Tây Nguyên.
Những hoạt động của địch cùng lúc xẩy ra chạy dài theo biên giới, từ vùng biển
đến miền núi, từ Đống sang Tây, nói lên âm mưu này đang bắt đầu."
[9]
Sách Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 cũng viết:
“a.- Công bố Nam Kỳ quốc (27/5 – 1/6/1946: Sau khi ở Ha Nội về, D’ Argenlieu liền cho trình
diễn tấn tuồng đã định trước và lại cho trình báo từ tháng 4 về Paris. (Dev.
1988 tr. 183-188)..
Ngày 25/5/1946: Luật sư Béziat, chủ tịch Hội
Đồng Tư Vấn Nam Kỳ, biên thư lên Cao Ủy Đông Dương, xin cho phép thành lập một
“Cộng Hòa Nam Kỳ” ngang với “nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Bắc Kỳ, nghĩa là
có “chính phủ riêng, quốc hội riêng, quân đội riêng, tài chánh riêng, nằm trong
Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp”.
…..
Ngày 5/6 (1946), Tổng Trưởng Moutet gửi điện
tín cho D’ Argenlieu hay rằng (Dev. 1988 tr. 189): “Hội Đồng Liên Bộ họp ngày
4/6 (1946) chấp thuân của ông về chính sách ở Nam Kỳ. Đồng ý rằng phải có một
chính phủ Nam Kỳ tự trị để bảo vệ quyền lợi của dân tộc Nam Kỳ… Chỉ cần rằng
chính phủ ấy không có vẻ là sáng tạo bởi chính quyền Pháp để làm bình phong cho
nước Pháp…”
b.- Thành lập “Tây Kỳ Quốc” (27/5 – 27/6/1946): Ngay trước khi bế mạc Hội Nghị Đà Lạt, D’
Argenlieu đã biên thư ngày mồng 8/5/1946 cho Lerclerc, yêu cầu tiến chiếm nốt
vùng cao nguyên Trung Kỳ; Lerclerc chú thích vào lá thư “Lúc nào ta muốn cũng có
thể, song hiện nay có nên gây thêm khó khăn với Viet Nam không?” (Pouvons quand
nous le voulons, mais s’ agit de savoir si interêt actuellement à augmenter nos
difficultés avec Vietnam – Dev 1986 tr. 183).
Ngày 27/5/1946, tức là cùng ngày cho thành lập
Nam Kỳ Quốc, D’ Argenlieu ký một sắc dụ thành lập “Phủ Uỷ Nhiệm các Dân Tộc Miền
Núi ở Nam Đông Dương” (Le Commissariat des Populations Montagnardes du
Sud-Indochinois,tắt là P.M.S.I.).
Rồi ngày 21/6/1946, ông ra lệnh cho Tướng
Lerclerc phải cho hai đoàn thiết giáp đi chiếm hai tỉnh Pleiku và Kontum, tiến
đến quá Đèo An Khê mới ngưng. Thế là toàn thể vùng cao nguyên ở Nam Trung Bộ
biến thànhmột “nước mọi thuộc Pháp” mà người Việt gọi là “Tây Kỳ Quốc”.[10]
34.- Trong những 1948-1954, Giáo Hội La Mã
cấu kết với chính quyền Pháp tách rời hai giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu ra khỏi lãnh thổ Việt Nam rồi biến thành hai giáo khu tự trị với
dã tâm là sẽ biến hai giáo khu này thành hai vương quốc Kitô và đưa đạo
Kitô La Mã lên làm quốc giáo.
35.- Năm 1954, Giáo Hòang Pius XII (1939-1958)
đề nghị và vận động chính quyền Hoa Kỳ sử dụng bom nguyên tử để giải vây cho cứ
điểm Điện Biên Phủ của liên quân giăc Pháp - Thập Ác Vatican, nhưng không được
Tổng Thống Dwight D Eiseinhower chấp thuận.
36.- Năm 1950, Giáo Hội cho người dấn ông Ngô
Đình Diệm sang Mỹ giao cho Hồng Y Francis Spellman lo chạy chọt với những nhân
vật có thế lực trên sân khấu chính trị Hoa Kỳ để đưa ông Diệm về Vịêt Nam cầm
quyền. Từ việc làm này, Giáo Hội La Mã phải hòan toàn chịu trách nhiệm về những
việc làm bất chính, đại gian, đại ác của hai chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình
Diệm và quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thịệu ở miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975, trong đó có việc tàn sát hơn 300 ngàn người ở Liên Khu V và ở nhiều
nơi khác trong khắp lãnh thổ miền Nam và việc cướp đọat tài nguyên quốc gia,
kinh tài bất chính, bóc lột nhân dân, ăn chặn tiền ngọai viện đem về là giầu cho
Giáo Hội.
37.- Liên tục cố gắng dùng những thủ đọan gian
manh, bạo lực, lợi dụng tình yêu lứa đôi trai gái và hôn nhân với dã tâm thay
thế nền đạo lý tam giáo cổ truyền của dân tộc Việt Nam bằng nếp sống đạo Kitô.
38.- Đang triệt để sử dụng khối tín đồ Gia-tô
người Việt ở cả trong nước và ở hải ngoại theo "sách lược nội công" để
làm cho tình hình Việt Nam trở thành bất ổn bằng sách lược cố hữu của Giáo Hội
là "quậy cho nước đục để thả câu". Việc tín đồ Da-tô người Việt ở trong
nước và ở hải ngoại đang la lối đòi tự do tôn giáo hiện nay là một trong những
thí dụ điển hình.
39.- Là thủ phạm chính trong việc chế độ đạo
phiệt Da-tô của Giám-mục Augustin Misago tàn sát hơn 800,000 (800 ngàn) dân
Tutsis Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994.
40.- Đã tàn sát hơn 250 triệu người từ thế kỷ
4 cho đến đầu thập niên 1990. Sự kiện này được sử gia Lloyd M. Graham ghi nhận
trong cuốn Deceptions Myths of the Bible với nguyên văn như sau:
"Chúng ta đã biết được những gì trong 7
trăm năm này? Ba triệu người thiệt mạng trong vụ cố gắng chiếm lại một
ngôi mồ nằm trong vùng kiểm soát của người Hồi giáo. Mười triệu người bị
giết hại do bàn tay của các Tòa Án Dị Giáo Gia-tô Mười bốn triệu người
chết trong các cuộc chiến Gia-tô trong thế kỷ thứ 19. Ba mươi triệu người
thiệt mạng trong các cuộc chiến giữa các quốc gia theo đạo Kitô với nhau trong
hai thập niên đầu của thế kỷ thứ 20. Từ thời Constantine đến nay, chiến tranh và
chính sách áp bức của các chế độ đạo phiệt Gia-tô đã gây cho hơn 200 triệu
nạn nhân bị thiệt mạng. Và chúng ta phải kể thêm 23 triệu quân nhân
của 53 quốc gia và các thuộc địa đã hy sinh trong các cuộc chiến (do Giáo Hội
phát động – NMQ ) và ít nhất 28 triệu nạn nhân chết vì bom, đạn, đói và
bệnh tật hay ở trong các trại tập trung.” [What have we learned in those
seven hundred years? “Three million lost their lives in a futile attempt
to rescue a tomb from Mussulmans. Ten million were slain during the
Inquisition. Fourteen million were slain in Christian wars of the
Nineteenth Century. Thirty million lost there lives in wars between
Christian nations during the first two decades of the Twentieth Century. Wars,
tyranny and oppression of Christian nations since the days of Constantine have
caused the death of more than 200,000,000 people” And now we must add to
this “Some 23,000,000 men in uniform from 53 nations, countries and
dominions were killed or died; at least 28,000,000 died from bombs or guns,
hunger or disease or in the concentration camps.)
[11]
Sách Deceptions and Myths of the Bible được
phát hành vào năm 1999, sách dầy gần 500 trang. Rất có thể tác giả đã mất nhiều
năm sưu tầm và tham khảo tài liệu để biên soan tập sách trên đây. Công việc biên
sọan, đọc lại bản thảo, sửa chữa những sai lầm và bổ túc những thiếu sót mất rất
nhiều thì giờ. Cũng vì thế mà rất có thể những biến cố xẩy ra từ đầu thập niên
1990 chưa được cho vào trong sách này. Nếu như vậy thì con số khoảng
800.000 (800 ngàn) người ở Rwanda bị chế độ đạo phiệt Da-tô của
Giám-mục Augustin Misago tàn sát vào giữa năm 1994 và con số khoảng hơn
7.000 (bẩy ngàn) người (đa số là tín đồ Hồi giáo) bi chế độ đạo phiệt
Serbia ở Bosnia tàn sát vào năm 1995 không được kể vào trong sách này.
Trên đây chỉ là một vài con số trong những khu
rừng chủ trương, chính sách và hành động tội ác chống lại nhân loại của Giáo Hội
La Mã.
PHẢN ỨNG CỦA NHÂN DÂN THẾ GIỚI
Vì giới hạn của mục này, những sự kiện lich
sử ở đây được thu gọn lại. Những chi tiết về những biến cố lịch sử trong mục này
sẽ được trình bày đầy đủ trong phần chót của bộ sách Lịch Sử Và Tội Ác Giáo Hội
La Mã.
Cũng vì những khu rừng tội ác này mà nhân dân
Âu Châu "khiếp sợ Giáo Hội và tránh xa như tránh hủi"
[12], văn hào Voltaire gọi Đạo Thiên Chúa La Mã là "cái
tôn giáo ác ôn"
[13], học giả Gia-tô Henri Guillemin gọi Giáo Hội La Mã
là "Cái Giáo Hội Khốn Nạn" (Malheureuse Église)
[14], học giả Gia-tô Charlie Nguyễn gọi đạo Gia-tô là "đạo
dối", "đạo bịp", "đạo máu"
[15] , và hầu như toàn thể nhân dân thế giới đều đã và
phải quyết tâm chống lại Giáo Hội đến cùng. Dưới đây là một số trong
những bằng chứng cho sự thật này:
1.- Giáo Hội Chính Thống (Orthodox) khời đầu cũng bắt nguồn từ đạo Kitô Do
Thái. Vào năm 325, khi triệu Hội Nghi Nicaea để thông qua tín lý Chúa Ba Ngôi,
thì Hòang Đế Constantine cũng chia Đế Quốc La Mã ra làm hai: Đế Quốc Phương
Tây (về tôn giáo là Giáo Hội La Mã) gồm các nước trong vùng phía Tây và Tây Nam
Âu Châu với thủ đô là La Mã, và Đế Quốc Phương Đông (về tôn giáo là Giáo Hội
Đông Phương hay Chính Thống Giáo) gồm các nước Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga và nhiều
nước khác trong vùng phía Đông Địa Trung Hải với thủ đô là Constantinople. Khi
bàn về tín lý Chúa Ba Ngôi, phe Giáo Chủ Silvester (tức Giáo Hội La Mã) cho rằng
Chúa Con Jesus có cùng một linh thể với Chúa Cha Jehovah và Ba Ngôi Chúa Cha
Jehovah, Chúa Con Jesus và Ngôi Chúa Thánh Thần đều có cùng một ngôi vị ngang
nhau, không ai kém ai. Trái lại, phe Giám mục Arius thì cho rằng Chúa Cha
Jehovah và cho Con Jesus là hai linh thể khác nhau. (Phe này bị chụp mũ là "tà
giáo", bị trục xuất ra khỏi Hội Nghị Nicaea, và sau đó bị tàn sát và bị tận
diệt, sẽ được nói rõ ở Chương 4), còn Giáo Hội Đông Phương thì lại cho rằng:
"Chúa Cha lớn nhất, Chúa Thánh Thần thứ nhì, và Jesus thứ ba".[16] Chỉ khác nhau có thế thôi mà hai phe Giáo Hội La Mã
và Chính Thống Giáo không nhìn mặt nhau. Cuối cùng, vì không chịu nổi cái thái
độ vừa trịch thượng vừa xấc xược và ngược ngạo của Tòa Thánh Vatican, Giáo Hội
Đông Phương (Chính Thống Giáo) cương quyết cắt đứt quan hệ với Giáo Hội La Mã
vào năm 1054. Sự kiện này được Linh-mục Bùi Đức Sinh, một cán bộ truyền giáo của
Giáo Hội La Mã, viết trong bộ sách Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo với nguyên văn như
sau:
Thêm vào đó, sự lỗi lầm và thiếu không ngoan
của La Mã. Tháng 3 năm 1054, Đức Hồng Y Humbert, một nhà thần học và là người
thân tín của Đức Leo IX (1049-1054), dẫn đầu Sứ Thêm vào đó, sự lỗi lầm và thiếu
không ngoan của La Mã. Tháng 3 năm 1054, Đức Hồng Y Humbert, một nhà thần học và
là người thân tín của Đức Leo IX (1049-1054), dẫn đầu Sứ Đoàn Tòa Thánh sang
Constantinopoli. Trong 4 tháng lưu lại kinh đô, sứ đòan mất nhiều thời giờ vào
các cuộc tranh luận, chỉ trích luật hôn nhân và ít nhiều điểm khác của Giáo Hội
Hy Lạp: "Vậy thì chỉ có các ông là thánh thiện hơn mọi người sao?" Sứ đoàn làm
bộ chỉ biết có hoàng đế, dùng những danh từ chua cay nhất mỗi khi nói đến Thượng
Phụ Giáo Chủ, trong khi vị này phủ nhận quyền của sứ đoàn. Giữa lúc đó, Đức
Thánh Cha Leo IX qua đời ngày 19 tháng 4 (1054). Sứ đoàn tiếp tục công việc và
kết thúc bằng một hành động bất ngờ : Hôm ấy là một ngày thứ bảy 16/7/1054,
chính lúc một Thánh Lễ bắt đầu cử hành tại Thánh Đường Đấng Khôn Ngoan, sứ đoàn
đặt trên bàn thờ một bản án đã viết sẵn phạt vạ tuyệt thông Micae Cerula, phủi
bụi giầy và đi khỏi.
Với thái độ quá thẳng thắn này, sứ đoàn trưởng
sẽ gây cho giáo dân Hy Lạp một cảm kích sâu xa. Nhưng Humbert đã quên rằng không
nên đối xử với vị thương phụ của giáo hội lớn như vậy, cho dầu vị này có lỗi đi
nữa. Sứ đòan không ngờ sự thiếu khôn ngoan đó sẽ làm cho người Byzantine bực tức
và giận bỏ luôn. Từ đấy, Cerular tha hồ khai thác sự giận dữ của giáo dân và
giáo sĩ, làm tiêu tan mọi cố gắng của Hoàng Đế Constantin IX trong công cuộc hòa
giải, sau cùng ông lôi cuốn được một số giáo chủ khác. Đó là hậu quả của một
hành động cộc cằn của người Đức do Đức Leo IX cử đi! Người ta có thể phàn nàn
Đức Thánh Cha đã không không dùng một người Ý, tức người La Mã "chính cống"
thường mềm giẻo và khéo léo hơn, và như vậy chắc chắn đã không phạm một lỗi lầm
như thế, để tạo cho Micae Cerular có cơ hội đứng lên làm "kẻ trả thù" cho Giáo
Hội Đông Phương[17]
2.- TẠI ĐỨC.- Phong Trào Tin Lành Martin
Luther ở Đức bùng lên chống lại
Giáo Hội La Mã vào năm 1519 và lan tràn khắp Âu Châu kẻ từ đó
3.- TẠI ANH.-
Quốc gia này cũng chính thức chống lại Tòa
Thánh Vatican và cắt đứt quan hệ với Giáo Hội La Mã từ đầu thập niên 1530. Sự
kiện này được học giả Charlie Nguyễn ghi nhận như sau:
"Sự can thiệp mạnh mẽ của chính quyền, bao
gồm cả hòang đế và Nghị Viện Anh quốc, đã biến đổi Công Giáo là một tôn giáo lệ
thuộc La Mã trở thành Kitô giáo của dân tộc Anh" nên đuợc gọi là Anh Giáo
(Anglicanism). Bằng Đạo Luật về Chủ Quyền Tối Thượng (The Act of Supremacy) ban
hành ngày 1 tháng 2 năm 1535, Nghị Viện Anh quốc xác nhận hoàng đế Anh đứng đầu
Giáo Hội Công Giáo Anh, có toàn quyền quản trị tài sản của Giáo Hội Anh và có
quyền bổ nhậm các giám mục. Hòang dế Anh có quyền ra lệnh giải tán hội đồng giám
mục do Vatican đã bổ nhiệm trước đó và giải tán tất cả các dòng tu trực thuộc
quyền lãnh đạo của La Mã.
Trường hợp Công Giáo Anh quốc tách rời khỏi
ách thống trị của Vatican vào năm 1535 là một thí dụ điển hình về sự can thiệp
cần thiết của chính quyền để đưa đến một biến chuyển quan trọng trong Giáo Hội
Công Giáo. Người Anh đã sớm nhận ra bản chất đế quốc của Vatican, và chính quyền
Anh đã đi hàng đàu trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia bằng cách dứt
khoát đoạn tuyệt với Vatican."
[18].
Năm 1691, Quốc Hội Anh lại ban hành một đạo
luật, cấm, không cho người Anh là tín đồ Da-tô của Giáo Hội La Mã lên cầm quyền
bằng việc ban hành Đạo Luật Ổn Định vào năm 1691 (the Act of Settlement
of 1691). Đạo luật này quy định rằng không có một tín đồ Ki-tô La Mã có thể
trở thành nhà lãnh đạo nước Anh. Như vậy là luật này loại hẳn tất cả những người
con và cháu của vua James Đệ Nhị với người vợ thứ hai của nhà vua. Nguyên
văn: “A third measure, the Act of Settlement of 1691, provided
that no Roman Catholic could be ruler of England, automatically excluding the
descendants of James II by his second wife.”[19]
Kể từ đó, không một người Anh nào theo đạo
Ki-tô La Mã được quyền lên cầm quyền ở nước Anh và ảnh hưởng Giáo HộiLa Mã bị
coi như là bị tiêu diệt hoàn toàn ở Anh quốc, mặc dầu quốc gia này là một nước
dân chủ tự do và tôn trọng quyền tự do tôn giáo của tất cả mọi người dân.
4.-TẠI NHẬT BẢN.- Cuối Thế kỷ 17, dân tộc Nhật
phát động cuộc chiến chống đạo Da-tô, hàng triệu tín đồ Da-tô người Nhật bị sát hại vì
tội phản quốc. Cuộc khởi loạn có quân đội Bồ Đào Nha tràn vào liên kết với đạo
quân thập ác Nhật nội gián tiếp ứng đã đánh chiêm được một vài địa điểm nhưng
rút cuộc bị chính quyền và nhân dân Nhật đánh bại và tiêu diệt hoàn toàn. Biến
cố lịch sử này được các nhà viết sử ghi lại như sau:
"Vào năm 1638, tại Nagazaki (Nhật Bản) có
khoảng 100,000 (100 ngàn) giáo dân Công Giáo làm nội ứng cho quân Bồ Đào Nha
tấn công xâm chiếm Nhật Bản. Triều đình Nhật cử Tướng Iemitsu mang đại
quân tới Nagazaki để "Bình Tây Sát Tả". Kết quả là bọn xâm lược Bồ Đào Nha bị
đánh bật ra khỏi lãnh thổ Nhật Bản, Tất cả các cha cố thừa sai bị bắt và đều bị
đóng đinh vào thập giá với những chiếc áo dòng của loài quạ, chứ chúng không bị
lột truồng nhục nhã như Chúa của họ ở trên đồi Golgotha. Còn đạo quân thư 5 cúa
địch là tập đoàn giáo dân Công Giáo ở Nagazaki bị diệt gọn 37,000 (37 ngàn)
người. Một số giáo dân sống sót nhẩy lên tầu Bồ Đào Nha trốn sang Hội An, Việt
Nam. Sau biến cố quyết liệt này, nước Nhât sạch bóng thù trong giặc ngoài và
tiến lên địa vị siêu cường kinh tế và văn hóa như ngày nay khiến cho cả thế giới
phải kính phục."
[20]
Học giả Trần Quý cho biết con số các cha cố bị
hành hình lên tới 26 tên và nói rõ bọn cha cố truyền giáo còn đánh phá ở nhiều
nơi khác nữa::
"Tại Nagazaki, 26 giáo sĩ bị hành hình. Đã
hiểu thâm ý của Vatican, các tướng quân (Nhật) về sau tiếp tục diệt đạo Ca-tô
(Da-tô) có khi gắt gao hơn cả Hideyosohi. Tướng-quân Yeyasu cấm giáo dân đi
theo giáo sĩ trốn ra nước ngoài.
Năm 1637, dân đạo Ca-tô ở đảo Amakusa và vùng
lân cận là Shimbara ép Phật tử đổi sang đạo Ca-tô, lại võ trang chống chính phủ.
Các giáo sĩ Tây Phương Dòng Tên cầm đầu 30,000 (30 ngàn) quân dương cờ lâm trận;
có cờ mang tên Jesus, tên Maria. Họ giết vị quan cai trị Shimbara, chiếm thành
trì làm nơi cố thủ. Quân chính phủ không phá được thành vì không có đại bác đủ
mạnh, phải điều đình mượn thương thuyền có võ trang của Hòa Lan. Người Hòa Lan
theo đạo Tin Lành, cũng thờ Jesus, nhưng không biết ý Chúa Cứu Thế này ra sao mà
họ không chịu đội trời chung với Tây Ban Nha. Đại bác của Hòa Lan mạnh, thành bị
phá, quân chính phủ Nhật tiêu diệt được quân Ca-tô (Gia-tô) ở trong. Từ đó trở
đi, đạo Ca-tô không ngóc đầu lên nổi ở Nhật. Một số người Nhật trốn ra khỏi nước
đã làm nghề phụ giáo sĩ ở Hội An để độ thân."
[21]
Qua bài học xương máu này, nhân dân Nhật hết
sức đề cao cảnh giác khiến cho Giáo Hội La Mã không còn cách gì để có thể tổ
chức những tín đồ Da-tô ngu dốt bản địa thành những đạo quân thư 5 làm nội ứng
để chuẩn cho mưu đồ "làm sáng danh Chúa" bằng bạo lực ở trên lãnh thổ
quốc gia anh hùng này.Nhờ vậy mà nước Nhật tránh được cái đại họa Da-tô như ở
Việt Nam.
5.- TẠI TRUNG HOA.- Thê kỷ 18, nước Trung Hoa, vua Khang Hy (1662-1722), mặc dù lúc đầu có thiện
cảm với các nhà truyền giáo Da-tô, những rồi cũng phải "ban hành một sắc
lệnh đuổi tất cả những tu sĩ Kitô giáo" ra khỏi lãnh thổ Trung Hoa. Nhờ vậy
mà Trung Hoa thoát khỏi cái đại họa Da-tô.
6.- TẠI PHÁP.- Ngay sau khi Cách Mạng Pháp
bùng nổ vào ngày 14/7/1789, chính
quyền Cách Mạng tiến hành sử dụng biện pháp mạnh để đối phó với Giáo Hội:
Tịch thu toàn bộ tài sản của Giáo Hội trên
tòan thể lãnh thổ Pháp,
Tước bỏ mọi đặc quyền đặc lợi mà các chế độ
đạo phiệt Gia-tô từ vua Louis 16 (1754-1793) trở về trước đã biệt đãi cho Giáo
Hội và giai cấp giáo sĩ cùng giới quý tộc, trong đó có đặc quyền của Giáo Hội
được thu thuế thập phân
Ban hành "Hiến Chế Dân Sự Dành cho Giáo Sĩ"
(Civil Constitution of the Clergy) đòi hỏi họ phải tuyên thệ tuân hành những
điều luật ghi trong hiến chế.
Thẳng tay trừng trị những giáo sĩ và tín đồ
Da-tô có những hành động phản quốc và chống lại Cách Mạng. Con số giáo sĩ, nữ tu
và tín đồ Da tô bị đưa ra pháp trường đền tội phản quốc được cựu giáo sĩ Malachi
Martin ghi nhận trong sách The Decline And Fall Of The Roman Church như sau:
"Trước hết, nước Pháp mà Giáo Hòang Pius VI
(1775-1799) thường gọi là "người trưởng nữ của Giáo Hội" xóa bỏ toàn bộ tôn
giáo, đưa nhà vua lên đọan đầu đài, chính thức tôn vinh thần Lý Trí lên ngôi chí
tôn, tàn sát 17 ngàn linh mục, 30 ngàn nữ tu và 47 giám mục, tất cả các tu
viện, các dòng tu và các trường học của Giáo Hội đều bị giải thể, tất cả các thư
viện của Giáo Hôi đều bị thiêu rụi, chính quyền Paris còn ban hành quyết định
ra lệnh cho Tướng Bonaparte (Sau này là Hòang Đế Napoléon I) "đem quân đi "giải
phóng nước Ý", "có toàn quyền hành động" "hủy diệt Rome và chế độ Giáo Hòang".
Tháng 5 năm 1796, trước khi tiến vào kinh thành Rome, Tướng Bonaparte tuyên bố,
"Chúng tôi là những người bạn của con cháu Brutus (một anh hung củ dân tộc La
Mã) và dân Scipios.... Chủ định của chúng tôi là phục hồi điện Capitol và giải
phong nhân dân La Mã thóat khỏi thân phận nô lệ tôi đòi."
Quân Cách Mạng Pháp tiến chiếm kinh thành Rome
và nước Ý. Hòa Ước Tolentino được ký kết giữa Tướng Bonaparte và Giáo Triều
Vatican. Đây là một sự sỉ nhục cho Tòa Thánh Vatican. Giáo Hội phải nộp cho nước
Pháp một khoản tiền là 46 ngàn đồng scudi (tiền Vatican) trả làm ba hạn kỳ (Giáo
Hòang Pius VI phải đem các đồ trang trí bằng vàng và bằng bạc ra đúc tiền để
trả cho Pháp), 100 món đồ nghệ thuật và 500 tác phẩm hiếm bị tịch thu mang về
Pháp; tất cả các hải cảng nằm trong lãnh thổ của Tòa Thánh Vatican phải mở cửa
cho hậm đội Pháp làm căn cứ trú quân, phải từ bỏ tất cả tài sản của Giáo Hội ở
trong lãnh thổ các nước Ý, Pháp, Naples, và Sicily ... tất cả mọi nơi. Giáo
Hoàng Pius VI ((1775-1799) than thở, "Hòa Ước! Tệ quá đi! Quân đội Pháp chiếm
đóng Vatican và Quirinal, truất phế Giáo Hoàng Pius VI và thiết lập nước Cọng
Hòa La Mã...."
Nguyên văn: "First, France, "eldest daughter of the church "he
used to call it, abolished all religion, beheaded its king, enthroned Reason
officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and over 30,000 nuns
as well as forty-seven bishops, abolished all seminaries, schools, religious
orders, burned all churches and libraries, then sent the Corsian Bonaparte to
liberate Italy and Rome" "Just as you please," wrote the Paris government to the
Corsian. "Destroy Rome and the papacy utterly " "We are the friends of the
descandants of Brutus and the Scipios... Our intention is to restore the Capitol
to free the Roman people from their long slavery," The Corsian declared in May
1796, just before taking Rome.
Then the capture, and the humiliation of the
Peace of Tolentino between the papacy and the Corsian: a ransom of 46,000 scudi
in three installement (Pius melted down all available siver and gold ornaments);
100 objects d'art and 500 rare manuscripts from Vatican; the opening of all
papal harbors to the French fleet; renunciation of all property in Italy and
France and Naples and Sicily - everywhere. "They made us their prisoner Spina,"
mutters Pius. "Peace treaty! Bah!" The Vatican and Quirinal were occupied by
French troops. They deposed Pius, and created the republic of Rome....")
[22]
7.- TẠI Ý ĐẠI LỢI.- Theo gương nước Pháp, năm
1870 nhân dân Ý Đại Lợi cũng vùng lên làm cách mạng đạp đổ bạo quyền Da-tô của
Tòa Thánh Vatican. Ngày 20/
9/1870, quân đội Cách Mạng Ý đem đại bác nã vào Tòa Thánh Vatican khiến cho Giáo
Hòang Pius IX (1846-1878) phải kéo cờ trắng đầu hàng, toàn thể lãnh thổ của các
tiểu quốc gọi là "Papal States" dưới quyền trực trị của Tòa Thánh Vatican bị
quốc hữu hóa và sáp nhập vào lãnh thổ quốc gia Ý, lãnh thổ của Tòa Thánh Vatican
chỉ còn thu gọn lại một vùng đất nhỏ hẹp vào khỏang 480 ngàn thước vuông. Sự
kiện này đước sách Rich Churh Poor Church viết:
"Ngày 19 tháng 8 năm 1970, quân đội Pháp lo
bảo Vệ Tòa Thánh Vatican thực sự rút lui vĩnh viễn. Trận đánh Sedan vào ngày 2
tháng 9 năm đó đã làm cho đế quốc của Hoàng Đế Nã Phá Luân Đệ Tam hoàn toàn sụp
đổ. Tòa Thánh Vatican mất đi một thế lực bảo vệ cuối cùng, và nước Pháp, "người
trưởng nữ của Giáo Hội La Mã" kể từ năm 1871 đến năm 1940 đã phải thay đổi đến
99 nội các. Quân Pháp vừa mới rút lui, tức thì, ngày 19 tháng 9, quân đội quốc
gia Ý Đại Lợi tiến vào kinh thành La Mã và đóng quân ở ngay chung quanh cổ thành
Leonine. Ngày hôm sau (20/9), sau khoảng ba tiếng đồng hồ nã đại pháo vào trong
Tòa Thánh và cận chiến lẻ tẻ, vào lúc 9:30 sáng, Giáo Hoàng ra lệnh kéo cờ trắng
ở trên nóc nhà thờ St. Peter. Mười phút sau đó, không còn nghe thấy tiếng súng
nữa. Quân đội Cách Mạng Ý Đại Lợi tiến vào trong kinh thành và chiếm đoạt hết
tất cả của cải trong đó, chỉ có Ngọn Đồi Vatican là họ không rớ tới. Quốc Gia
của Giáo Hòang không còn tồn tại nữa. Diện tích của quốc gia này từ 16 ngàn dặm
vuông bị cắt xén, còn lại chỉ có 480 ngàn mét vuông kể cả ngọn Đồi Vatican và
xung quanh ngọn đồi này trong đó có nhà thờ St. Peter, các tòa nhà phụ cận và
các khu vườn Vatican ở gần đó. Hôm sau, ngày 21 tháng 9, Giáo Hoàng Pius IX
(1846-1878) viết một lá thư ngắn ngủi cho người cháu:
Cháu yêu quý:
Tất cả đã hết rồi. Không có tự do, không thể
nào quản lý được Giáo Hội. Hãy cầu nguyện cho ta và cho tất cả các con. Ta chúc
phúc cho các con."
Nguyên văn: "On August 19, 1870, the protecting French
troops withrew definitely. With the battle of Sedan on September 2, the empire
of Napoléon III came to an end. The papacy had lost its last defender, and
France, the "eldest duaghter of the Church" was to have an astounding 99
goverments between 1871 and 1940. Immediately the Italian nationalist troops
march on Rome. They encamped around the old Leonine walls of Rome on September
19. The following day, after some three hours of artillery barrage and sporadic
hand-to-hand fighting, the pope ordered the white flag to be raised above the
dome of St. Peter at 9:30 A.M. Ten minutes later, all firing had ceased. The
Italian troops entered the city and took possession of it all, leaving Vatican
Hill untouched. The papal State had ceased to exist. Its 16,000 square miles
were now reduced to 480,000 square meters on and around Vatican Hill where St.
Peter's it adjoining buildings, and the Vatican gardens were clustered. The next
day, September 21, Pius IX (1846-1878) wrote a short note to his nephew:
Dear Nephew, all is over. Without liberty, it
is impossible to govern the Church. Pray for me, all of you. I bless you. Pius
P. IX."
[23]
Trong thập niên 1970, quốc hội Ý lại quyết
định cho vào hiến pháp điều khoản công nhận quyền tự do tôn giáo của nhân dân.
Cũng vì thế mà ngày nay, khi Giáo Hoàng đưa ra những lời lẽ trịch thượng nói về
cái thế thượng đẳng của Ki-tô giáo là bị người dân Ý thuộc các tôn giáo khác lên
tiếng phản đối và đưa đến pháp đình xử lý. Bản tin dưới đây nói lên sự kiện này:
"LA MÃ: Giáo Hòang, các hồng y bi một người
Hồi giáo kiện trước tòa án..- Hôm Thứ Bảy (27/2/2004), một tín đồ Hồi giáo
người Ý nộp đơn kiện giáo hoàng, một hồng y chóp bu và nhiều viên chức khác của
Giáo Hội vì các ông này đã đưa ra những lời nhận xét trịch thượng nói về cái thế
thượng đẳng của đạo Da-tô, nhận xét như vậy là vi phạm hiến pháp của nước Ý đã
công nhận mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Ông Adel Smith nói rằng
ông chỉ mong được tòa lên án những lời nhận xét trịch thượng trên đây, chứ không
đòi tiền bồi thường hay trừng phạt những thiệt hại khác. Ông Smith là hội trưởng
Liên Hội Tín Đồ Hồi Giáo ở Ý.Trước đó, ông đã làm sôi nổi dư luận do việc nộp
đơn yêu cầu tòa án ra lệnh tháo gỡ cây thánh giá ở trong lớp học của người con
trai của ông." ("ROME: Pope,
cardinals sued by Muslim activist.-: A Muslim activist sued the pope, a top
cardinal and other church officials Saturday, claiming their comments about the
superiority of Christianity violated the Italian constitution, which proclaims
that all religions are equal under the law. Activist Adel Smith said he was
seeking a court condemnation of the comments but no monetary or other pinitive
damages. Smith, president of the Muslim Union of Italy, has previously made
headlines for his court battle to have a crucifix taken down from his son's
classroom."
[24]
8.- TẠI TÂY BAN NHA- Trong các quốc gia nạn nhân của Giáo Hội La Mã,
Tây Ban Nha là quốc gia nằm dưới ách thống trị của các chế độ đạo phiệt Da-tô
tay sai của Giáo Hội trong thời gian lâu dài nhất, dài hơn nước Pháp tới 186
năm. Cách Mạng Pháp bùng nở vào ngày 14/7/1789 là nước Pháp coi như thoát khỏi
các ách thống trị bạo tàn của Giáo Hội kể từ ngày này. Trong khi đó thì nhân
dân Tây Ban Nha vẫn còn phải tiếp tục kéo lê kiếp sống đọa đày "mang nợ tổ tông"
làm tôi đòi cho Giáo Hội cho đến khi tên bạo chúa Da-tô Francisco Franco qua
đời vào năm 1975 thì họ mới thoát khỏi cái ách bạo tàn của Tòa Thánh Vatican.
Bởi thế cho nên, nhân dân Tây Ban Nha căm thù Giáo Hội La Mã và giai cấp tu sĩ
Da-tô còn sâu đậm hơn tất cả các dân tộc nạn nhân của Giáo Hội. Cũng vì thế mà
mỗi khi có hoàn cảnh là nhân dân Tây Ban Nha nổi lên tàn sát giới giáo sĩ Da-tô
không một chút xót thương. Mấy bản văn dưới đây là bằng chứng:
a.- Bản văn (thư nhất) có tựa đề là "Hold
on to your faith, Pope tells Spaniards" của ký giả David Sharrock trong
bản tin World News được công bố ngày May 05, 2003 mà chúng tôi ghi nhận được
dưới đây là bằng chứng cho sự kiện nay. Nguyên văn bản tin này như sau:
"World News May 05, 03: Hold on you faith,
Pope tells Spaniards" by David Sharrock:
"Hôm qua, khi tuyên bố phong thánh cho 5 người
Tây Ban Nha, Giáo Hòang (John Paul II) kêu gọi người Tây Ban Nha hãy duy trì
truyền thống văn hóa Da-tô (Kitô La Mã). Hàng triệu người xếp thành hàng chữ
thập ở trung tâm kinh thành Madrid. Phần lớn những người này là người Tây Ban
Nha và có cả những người Nam Mỹ và Ba Lan, trải dài ra bốn ngã tư đường tại
Quảng Trương Columbus, nơi đó một cái bàn thờ mầu trằng vĩ đại được dựng nên để
làm lễ phong thánh.
Giáo Hòang tuyên bố phong thánh cho 2 nam tu
sĩ và 3 nữ tu, cả 5 người này đều là người Tây Ban Nha nổi tiếng là làm việc cho
dân nghèo và đã qua đời trong thế kỷ vừa qua. Những bức hình vĩ đại của 5 người
này treo ở tòa nhà văn phòng trông ra quảng trường.
Giáo Hoàng tuyên bố bằng tiếng Tây Ban Nha
rằng, "Chúng ta ghi danh họ vào trong sách thánh và quyết định rằng tất cả đều
được vinh danh là thánh ở trong Giáo Hội"
Trong 5 năm qua, Giáo Hòang (John Paul II) đã
phong thánh cho 20 người Tây Ban Nha, trong đó, có 11 người tử đạo bị Phong Trào
Cộng Hòa sát hại trong thời Thời Nội Chiến Tây Ban Nha 1936-1939
"Trong số 5 người được phong thánh (hôm này)
có Cha Pedro Poveda là một trong số 4,184 tu sĩ bị Phong Trào Cộng Hòa sát hại
trong những năm nội chiến. Các ông thánh khác là Angela de la Cruz (người thành
lập đạo nữ binh "The Sisters" of the Company of the Cross"); Genoveva Torres
(người thành lập đạo nữ binh "The Sisters of the Sacred Heart and the Holy
Angels") ; Maravillas de Jesus (thành lập nhiều tu viện cho Dòng "Bare foot
Camelites"); và Jose Maria Rubio, một tu sĩ Dòng Tên.
Tính đến nay, Giáo Hòang (John Paul II đã
phong thánh cho 470 người và phong chân phước cho 1,314 người, nhiều hơn tổng số
thánh và chân phước do tất cả giáo hoàng tiền nhiệm đã tuyên phong trước đó.
Nguyên văn: "The Pope urged Spain yesterday to remain to
its Roman Catholic culture and faith when he proclaimed five new Spanish saints
One million people formed a giant cross at the
heart of Madrid as a congregation of mostly Spaniards, but also South Americans
and Poles, spread out along four boulevards intersecting at Columbus Square,
where a huge white altar was built for canonisation Mass.
"We inscribe them in the book of the saints
and establish that in all the Church they be devoutly honoured among the
saints," the Pope said in confident Spanish.
In the five years he has canonised 20
Spaniards, 11 of them "martyrs" who were killed by republicans during the
Spanish Civil War of 1936-1939.
Among the five who were proclaimed saints was
Father Pedro Poveda, one of 4,184 priests killed by republicans
during the war. The other saints are Angela de la Cruz, who founded the
Sisters of the Comppany of the Cross; Genoveva Torres, who founded the Sisters
of the Sacred Heart and of the Holy Angels; Maravillas de Jesus, who founded
couvents for the Order of Barefoot Carmelittes; and Jose Rubio, a Jesuit
priest...
The Pope has now canonised some 470 peiple and
beattified 1,314, more than all his predecessors combined..”[25].
b.- Bản văn (thứ hai) này do tờ nhật báo
"Seattle-Post Intelligencer [Seattle] ra ngày February 6, 2003" nơi trang A3
với nguyên văn như sau:
"Ở Tây Ban Nha, nói đến đạo Công Giáo La Mã là
gợi lại hình ảnh nhà độc tài phát xít Francisco Franco mà đồng tiền Tây Ban Nha
nào cũng đều có in hình của ông ta và quyền lực của ông ta được hỗ trợ "bởi Ân
Sủng của Thượng Đế"... Ngọai Trưởng Tây Ban Nha Ana Palaciao tuyên bố, "Điểm
giống nhau của chúng ta là chiến đấu cho dân chủ, chiến đấu cho nhân quyền và
chiến đấu để "tách rời tôn giáo ra khỏi chính quyền"
Một vi dân biểu quốc hội Tiệp Khắc, (quốc gia
này sẽ gia nhập Khối Âu Châu Hợp Nhất vào năm tới), là ông Jan Zahadil tuyên
bố, "Đề cập đến Thượng Đế trong bất kỳ hiến chương nào của Khối Âu Châu Hợp Nhất
là môt ý kiến ngu xuẩn, nó chỉ tạo nên những mối bất hòa mà thôi. Không được có
một tí gì liên hệ trực tiếp với tôn giáo cả."
Nguyên văn: "In Spain, a reference to Catholicism evokes
memories of the facist dictator Francisco Franco, who stamped every Spanish coin
with his profile and backed his grip on power "by the Grace of God."... Our
identity is the fight for democracy, for huuman rights, for the separation
between church and state," said Spanish Foreign Minister Ana Palacio.
"Jan Zahradil, a Czech parlimentarian whose
country will join the EU next year, said mentioning God in any EU charter was "a
stupid idea (that) will only provokes disagreements. There should be no direct
link to religion at all."]
[26]
9.- TẠI BA LAN
.- Nước Ba Lan với tỉ lệ tín đồ Gia-tô của
Giáo Hội chiếm tới 95% và đã có kinh nghiệm hơn 40 năm sống trong chế độ Cộng
Sản. Ấy thế mà khi có cuộc bầu cử tự do được tổ chức vào ngày 19/11/1995 thì họ
thà chọn một ứng cử viện cựu đảng viên Cộng Sản là ông Aleksander Kwasniewski
còn hơn là chọn ông Gia-tô Lech Walesa, một tín đồ ngoan đạo tay sai đắc lực của
Giáo Hội La Mã.
10. TẠI MEXICO (Mễ Tây Cơ).- Nhân dân quốc gia này cũng theo gương
nước Pháp vùng dậy đòi lại quyền làm người. Dù rằng hơn 90% là tín đồ của Giáo
Hội, năm 1857, nhân dân Mễ Tây Cơ cũng đứng lên làm Cách Mạng và cũng dùng
những biện pháp mạnh đối với Giáo Hội. Sự kiên này được học giả Charlie Nguyễn
ghi lại như sau:
"Mexico cũng như cấc quốc gia khác ở Trung
và Nam Mỹ Châu đều có đại đa số dân theo đạo Công Giáo. Dân số Mexico hiện nay
lên tới trên 100 triệu người. Mặc dầu đa số dân là những tín đồ Công Giáo ngoan
đạo, những đã hơn một thế kỷ qua chính quyền Mexico đến nay vẫn tuyệt giao với
Vatican. Năm 1857, quốc hội và chính phủ Mexico đã đưa ra bản hiến pháp mang
tính chất cách mạng quyết liệt chống lại Giáo Hội La Mã:
a.- Giải tán tất cả các tu viện Nam cũng
như nữ.
b.- Các nam tu sĩ bị cấm mặc áo dòng khi xuất
hiện ở nơi công cộng.
c.- Tịch thu toàn bộ tài sản của Giáo Hội Công
Giáo.
Tinh thần bản Hiến Pháp 1857 của Mexico được
nhiều nước Mỹ Châu La Tinh noi theo. Năm 1917, Mexico sửa lại hiến pháp nhưng
các biện pháp đối với Giáo Hội không thay đổi."
[27]
11.- TẠI CUBA.- Nước Cuba với tỉ lệ tín đồ Da-tô của Giáo Hội chiếm
tới gần 100%, ấy thế mà họ thà cương quyết sống với chế độ độc tài của ông Fidel
Castro còn hơn là phục hội chế độ đạo phiệt Da-tô Fulgencio Batista của thời
1952-1959.
12.- TẠI NICARAGUA.- Nước Nicaragua (Trung Mỹ) với dân số 4.267.000
(vào năm 1995) và tỉ lệ tín đồ Gia-tô của Giáo Hội chiếm tới 95% cũng đã cố gắng
giẫy dụa cả thập niên 1980 để thoát khỏi ách thống trị tham tàn bạo ngược của
băng đảng "quạ đen" tay sai của Giáo Hội, cắt đứt mọi liên hệ với Giáo Hội để
lập một giáo hội riêng gọi là Giáo Hội Nhân Dân (People's Church). Lòng
căm thù của dân Nicaragua đối với Giáo hội La Mã được thể hiện bằng hành động
hạ nhục Giáo Hòang John Paul II khi Ngài “thánh du” đến quốc gia này vào
tháng 3 năm 1983. Cựu giáo sĩ Malachi Martin ghi lại sự kiện này trong Chương 4
với một tựa đề."Papal Humiliation"dài 15 trang giấy khổ lớn, in trong trong ấn
phẩm The Jesuites. Người viết xin lược ghi một vài đọan chính nói về sự kiện
này để độc giả thấy rõ mực độ kinh tởm của nhân dân Nicaragua nói riêng và nhân
dân thế giới nói chung đối với Giáo hội La Mã như thế nào!
"Vào lúc bắt đầu lên bục giảng bài thuyết
giáo được chuẩn bị để công kích Giáo Hội Nhân Dân của nước Nicaragua. -Giáo
Hòang John Paul II ngạc nhiên khi thấy hệ thống âm thanh mà Ngài đang sử dụng
không lấn át được tiếng hô những khẩu hiệu cách mạng có nhịp điệu vang lên từ
đám đông quần chúng ở dưới khán đài. Ngài ráng hết sức để trấn áp những tiếng hô
này, nhưng sức Ngài có hạn, tiếng hô những khẩu hiệu "Quyền lực phải thuộc về
nhân dân!" "Hãy nói với chúng tôi tiếng nói của dân nghèo!" "Chúng tôi mong muốn
một Giáo Hội Thống Nhất cho dân nghèo!" "Không có gì mâu thuẫn giữa Thiên Chúa
Giáo và Cách Mạng! cứ liên tục vang lên như sấm gầm làm rung động cả không gian.
Sự kiện này làm cho Giáo Hòang giận tái mặt và
Ngài đã nhìn ra sự thật đang xẩy trước mặt. Ngài đã bị sa vào cái bẫy: tiếng nói
của Ngài chìm lỉm trong vực thẳm của những tiếng động (tiếng hô những khẩu hiệu
cách mạng) Trong cơn giận dữ và tuyệt vọng, Ngài lớn tiếng la "Im lặng!" Nhưng
tiếng hô những khẩu hiệu cách mạng vẫn cứ vang lên lấn át cả tiếng la ra lệnh
của Ngài. Lần thứ hai Ngài lại la lớn "Im lặng", nhưng lệnh truyền của
Ngài vẫn bị tiếng hô những khẩu hiệu cách mạng của nhân dân lấn át. Lần thứ ba, Ngài lại la lớn "im lặng!".
Nhưng Ngài đã đuối sữc, tiếng ra lệnh của Ngài không còn thành tiếng nữa mà chỉ
còn là dấu hiệu bằng tay mà thôi Tiếng hô những khẩu hiểu cánh mạng "Quyền lực
của Nhân Dân!" và "Chúa sống với Giáo Hội của nhân dân" đã đè bẹp hết mọi cố
gắng của Ngài. Quả thật là nhân dân ở đây vượt ra ngoài tầm tay của Ngài.
Tức giận, Ngài văng ra những lời mắng nhiếc
vào Microphone và ném những cái nhìn nẩy lửa vào các nhân viên viên cao cấp
trong chính quyền Niicaragua đang ngồi trên khán đài trong buổi lễ. Nhân dân hô
lớn hơn nữa khiến cho bài thuyết giáo của Ngài phải bị bỏ dở.Thế cũng chưa đủ.
Quần chúng ở bên dưới vẫn tiếp tục hô lớn "Quyền lực thuộc về nhân dân!" "Tín đồ
Gia-tô có thể là người theo chủ nghĩa Marx!" và "Hãy nói với chúng tôi về sự bất
công của chủ nghĩa tư bản!"
Cũng vẫn chưa hết bị làm nhục. Khi Ngài và
đoàn tùy tùng lên máy bay ra về, và khi mọi người đã ngồi vào ghế ngồi trong
chiếc máy bay DC 10 của hãng Alitalia tại phi trường Managua vào đếm hôm đó,
viên phi công báo cho đài kiểm sóat là máy bay đã sẵn sàng cất cánh thì chính
quyền Nicaragua ra lệnh cho chiếc phi cơ chở Ngài phải ở lại thêm 10 phút nữa.
Đây là cử chỉ cuối cùng để nói cho Ngài biết ai là người thực sự làm chủ ở đây
(Nicaragua). Còn nữa, chính quyền Nicaragua còn chơi Ngài cho đến chót. Đài phát
thanh Nicaragua lên tiếng đòi Ngài phải xin lỗi về thái độ của Ngài
Nguyên văn: "When the moment came for him to deliver his
prepared homily - a vigorously onslaught on the People's Church. - he appeared
surprised that even the microphone that had been set up for him could not
overcome the well-rehearsed and beautifully timed cacophony that now rose from
the crowds....When John Paul strained to make his deep voice resound over
competition, the litany of the crowd became thunderously loud as regular
heartbeats: "Power to the People!" "Speak to us of the poor!"... We want a
united Church on the side of the poor!" "There is no contradiction between
Christianity and revolution!"...
John Paul's face became livid with indignation
as he realized what was happening: He was being trapped and nullified in a well
of noise. In anger and desperation, he finally shouted, "Silencio!" In the
well-orchestrated symphony of the claques, the Pope's command was but a signal
to increase the tempo of slogans. "Silencio!" John Paul shouted a second time. A
new crescendo of slogans engulfed him. A third time: :”Silencio!" the word
accompanied now by staying gesture of his hand. An unmaginably loud chorus of
"Power to the People! Christ lives in the People' s Church!" overwhelmed his
efforts. The crowd was beyond his control Angered, John Paul shouted a taunt
into his microphone, his fury-filled glance shooting over at the Junta in
their reviewing stand: "Miskito Power!" Finally the thumping cascade of
amplified shouts defeated John Paul. He did not finish his homily. But even that
was not enough... The slogans continued ... "Power of the People!" and "It is
possible to be Marxist and Christian!" and "Speak to us about the injustice of
capitalism!".
Yet the humiliation was not complete. When
John Paul and his entourage took their seats in the Alitalia DC-10 at Managua's
airport that night and the pilot notified the control tower that he was ready to
take off, the Junta ordered the papal plane to be kept waiting an extra ten
minutes on the ground. It was their gesture to underline who was really in
control here. When at last the humiliation had been played to its last note, the
government radio insisted to the Nicaraguan people that the Pope should
apologize for his behavior.
[28]
13.- TẠI NGA.-
Nước Nga còn tiến manh hơn các quốc gia trên
đây bằng đạo luật cấm không cho đạo Kitô La Mã và đạo Tin Làn họat động ở trong
lãnh thổ nước Nga, trong khi đó thì lại công nhận các tôn giáo khác như Do
Thái Giáo, Hồi Giáo và Phật Giáo. Sự kiện này được cụ Trần Văn Kha nói rõ trong
cuốn Đức Tin Và Lý Trí - Thông Điệp Thứ 13 của Giáo Hoàng John Paul II và
đã được sách Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation ghi lại như
sau:
" Tin của "The Register" số ra ngày Thứ Bảy
20/ 9/1997 cho biết: "Đạo luật đã chấp nhận "Chính Thống Giáo" là tôn giáo
chính, kính trọng các tôn giáo khác, như Hồi Giáo, Phật Giáo và Do Thái Giáo.
Đạo luật tạo ra một hàng rào ngăn cản đối với những giáo phái toàn trị (Gia-tô,
Tin Lành) và hạn chế sự hoạt động của những nhà truyền giáo ngoại quốc. Các nhà
phản đối cho rằng Chính Thống Giáo cũng ủng hộ đạo luật này như là một cách để
ngăn cấm những người Kitô khác như Gia-tô và Tin Lành, không cho họ được tự do
họat động ở Nga." Vào ngày Thứ Sáu 19/9/1997, các nhà làm luật ở Hạ Viện đã bỏ
phiếu chấp thuận (đạo luật trên đây) với 358 phiếu thuận và 6 phiếu chống." ("The bill enshrines Russia's Orthodox Church as
the country's preeminent religion, but also pledges repect for religions such as
Islam, Buddhism and Judaism. It creates a barrier for totalitarian sects and
limits the activity of foreign missionaries. But critics say the Orthodox Church
also is backing the measure as a way to prevent other Christians, such as
Catholics and Protestants, from operating freely in Russia. On Friday, September
19, 1997, lawmakers in the lower house, or Duma, voted 356-6 in favor of the
bill."
[29]
14.- TẠI HOA KỲ đã cương quyết ghi vào hiến
pháp điều khỏan tách rời tôn giáo
ra khỏi, tống cổ bọn giáo sĩ về với bàn thờ hành nghề thày cúng để sống trên
lưng tín đồ và cắt đứt quan hệ ngọai giao với Tòa Thánh Vatican từ năm
1867. Sự kiện này được nhà viết sử Lương Minh Sơn ghi lại trong bài viết "Bài
Học Chiến Tranh Việt Nam Nhìn Từ Hậu Trường Chính Trị Hoa Kỳ" với nguyên Văn
như sau:
"Đối với Hoa Kỳ, mặc dù là một đất
nước được gây dựng trên nền tảng luân lý và đạo đức của niềm tin nơi Thiên Chúa
(Judeo- Christian), tổ tiên của người Mỹ là những người Âu Châu đã từng bỏ chạy
qua đây để tránh sự ruồng bắt của Tòa Thánh La Mã trong thời kỳ "Inquisition".
Thành thử, Hiến Pháp Hoa Kỳ nghiêm cấm và tách rời mọi sự liên hệ về quyền lực
chính trị giữa chính quyền và tôn giáo, không phải chỉ vì trình độ ý thức chính
trị cao, mà còn là vì những kinh nghiệm đau đớn có thật lúc trước. Nếu Hoa Kỳ
đã cấm bang giao với Cộng Sản Trung Quốc trong 23 năm (1949-1972), với Cộng Sản
Việt Nam 19 năm (1975-1994) vì không tương quan trên chính kiến và quyền lợi thì
Hoa Kỳ cũng đã từng cấm bang giai với Vatican trong 117 năm (1867-1984)"
[30]
15.- Tất cả các nước theo chế độ dân chủ tự đó ở
Tây Âu và Bắc Mỹ đều ghi vào hiến pháp của họ điều khỏan tách rời tôn giáo
ra khỏi chính quyền và cấm ngặt các ông giáo sĩ không được làm chính trị.
16.- Tất cả các nước theo Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Chính Thống Giáo và
Tin Lành bất cộng đái thiên với Giáo Hội La Mã.
17.- Tất cả các nước theo Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, Khổng Giáo và Thần
Đạo (Nhật Bản) đều khinh rẻ Giáo Hội La Mã như là một tổ chức chính trị giảo
hoạt mượn danh nghĩa những tín lý bịp bợm để mê hoặc và lừa bp người đời trong
mưu đồ bành trướng chủ nghĩa bá quyền.
¨
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ
là quyền lực của Giáo Hội La Mã vươn tới nơi nào thì nhân dân nơi đó:
1.- Bị áp đặt phải sống dưới chế độ đạo phiệt
Da-tô theo đúng truyền thống về trật tự trên dưới của Giáo Hội La Mã là “Nhất
Chúa, nhì cha, thứ ba chính quyền”. Do đó, trong thời chế độ đạo phiệt Da-tô
Ngô Đình Diệm (1954-1963) mới có khầu hiệu “Nhất Chúa, nhi cha, thứ ba Ngô
Tổng Thống.”[31]
2.- Bị phỉnh gạt và lứa bịp bằng những chuyện
cực kỳ phi lý, hết sức hoàng đường cùng những phép mầu, phép lạ, và các phép bí
tích được ngụy tạo bằng những cái gọi là hệ thống tín lý thần học Ki-tô.
3.- Bị khủng bố tinh thần và hù dọa bằng tín
lý “không tin Chúa thì sẽ bị đầy xuống hỏa ngục đời đời”.
4.- Bị phỉnh gạt là sẽ được cho lên thiên
đường hưởng nhan Chúa với điều kiện là phải tin Chúa tức là phải triệt để tin
tưởng vào Giáo Hội La Mã và tuyệt đối trung thành với Tòa Thánh Vatican.
5.- Lòng ích kỷ tham lợi, háo danh và thèm
khát quyền lực sẽ được khơi động và nuôi dưỡng rồi bị lợi dụng và khai thác để
làm tay sai hay làm nô lệ cho Giáo Hội.
6.- Bị điều kiện hóa bằng chính sách ngu dân
và giáo dục nhồi sọ khiến cho họ không cón khả năng lý trí để tìm hiểu sự vật
(cách vật trí tri).
7.- Bị rèn luyện và uốn nắn
thành hạng người vong bản, phản dân tộc, phản tổ quốc (chỉ biết tuyệt đối trung
thành với Tòa Thánh Vatican và triệt để tuân hành lệnh truyền của các đăng bề
trên trong Giáo Hội La Mã, và trở thành thứ người phản nhân luân, giống như các
giáo hoàng và các ông chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican trong thời Trung
Cổ, vì phải sống đúng theo tinh thần của lời Chúa Jesus đã dạy:
“Ta đến đây không phải
mang lại sự bình an, mà là mang gươm dáo. Ta đến để con trai chống lại cha, con
gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng và làm cho người trong nhà trở
thành thù địch chống lại nhau. Kẻ nào yêu kính cha mẹ hơn ta thì không đáng gì
đối với Ta, và kẻ nào yêu thương con cái hơn Ta cũng không đáng gì đối với Ta.
” Nguyên văn: “Do not think that I came to bring peace on earth. I did
not come to bring peace but a sword.” “For I have com to set a man against his
father, a daughter against her mother, and a daugher-in-law against her
mother-in–law.” “And a man’ s foe will be be of his own household.” “He who
loves father or mother more than Me is not worthy of Me. And he who loves son or
daughter more than Me is not worthy of Me.” Matthew (10: 34-37).
8.- Bị bưng bít, không cho học toàn bộ quốc sử
và lịch sử thế giới và quốc sử khiến cho họ trở thành những đứa con hoang trong
cộng đồng dân tộc và cũng là đứa con hoang trong cộng đồng nhân loại.
9.- Bị bóc lột đế tận xương tận tủy bằng hàng
ngàn thứ đóng góp cho cả chính quyền đạo phiệt Da-tô và cho nhà Thờ. Vì thế mà
Giáo Hội La Mã đã trở nên thế lực giầu có nhất trên thế giới trong khi nhân dân
dưới quyền thống trị của Giáo Hội thì sống trong cảnh đói khổ, ngu dốt, lạc
hậu, chậm tiến. Bằng chứng là các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý Đại Lợi từ
thời Cách Mạng Pháp 1789 cho đến hai thập niên sau Đệ Nhị Thế Chiến [nếu so với
các nước khác ở Bắc Âu (Na Uy, Thụy Đển, Đan Mạch), Tây Âu (Anh, Pháp, Hòa Lan
và Bỉ) và Trung Âu (Đức, Áo, Thụy Sĩ)], các nước Mỹ Châu La-tinh [nếu so với các
nước ở Bắc Mỹ như Hoa Kỳ cà Canada], Phi Luật Tân [nếu so với các nưỡc khác ở Á
Châu như Nhật Bản , Trung Hoa, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Ấn Độ, v.v…] , các
cựu thuộc địa của Bỉ và Pháp ở Phi Châu [nếu so với Liên Bang Nam Phi, Ai Cập,
v.v…]
10.- Tài nguyên quốc gia và ruộng đất của nhân
dân bị cướp đoạt tập trung vào trong tay Giáo Hội gọi là của Nhà Chung, đúng như
lời Mục-sư Desmond Tutu, người đoạt giải thưởng Nobel về Hoà Bình vào năm 1984,
đã tuyên bố:
“Chúng tôi có đất đai và họ tới với cuốn
Thánh Kinh của họ. Chúng tôi tin học, cầm cuốn Thánh Kinh trên tay, nhắm mắt cầu
nguyện. Khi chúng tôi mở mắt ra, thì chúng tôi có cuốn Thánh Kinh và họ có đất
đai của chúng tôi.” Nguyên văn: We have our lands and they came with
their Bible. We believed in them and we pray with the Bible in our hands and our
eyes closed. When we open our eyes, we have ther Bible and they they have our
lands.”[32]
11.- Bị dụ khị hay cưỡng bách phải theo đạo
Da-tô bằng những phương tiện của Nhà Nước, hoặc là bằng miếng mồi chức vụ và
quyền lợi trong chính quyền, hoặc là bằng bạo lực trong những chiến dịch làm
sáng danh Chúa do chính quyền phát động , hoặc là bằng chính sách hôn nhân
(cưỡng bách những người muốn thành hôn với người yêu là tín đồ Da-tô).
12.- Bị sát hại nếu cương quyết không chịu
theo đạo Da-tô một khi đã bị chiếu cố.
13.- Bị gán cho là “tà giáo”, chống Chúa, báng
bổ Thiên Chúa hay tôn giáo. (Chế độ đạo phiệt Da-tô của Vua Louis XVIII
(1814-1824) và Vua Charles X (1824-1830) ở Pháp đã từng ban hành “luật trừng
phạt những người bị kết tội là phạm thượng hay xúc phạm đến thần thánh…”[33] V.v…
Vì những lẽ trên đây mới có phong trào nhân
dân thế giới mới chống lại Giáo Hội như đã trình bày ở trên và sẽ được trình bày
đầy đủ trong Phần VII của bộ sách này.
(xem tiếp phần sau)
© sachhiem.net
CHÚ THÍCH
[1] Malachi Martin, The Decline And Fall Of
The Roman Church (NY: G.P.Putnam's Sons, 1981), tr 140
[2] Trần Tam Tỉnh,
Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978), tr 53
[3]
J.T.C.Smokescreens
(Chino, VA: Jack T. Chick, 1983), tr 35.
[4] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr 14-15
[5]
Phan Đinh Diệm, "Học Hội
Giê-su Kitô Phục Sinh, Tuyên Cáo 6 Ngày 15/6/1999. tanvien@kitohoc.com
[6]
Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Củaa Sự Thiết Lập
Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam 1858-1897 (Saint Raphael , Pháp: TXB 1994),
tr. 17.
[7] Cao Huy Thuần,
Đạo Thien Chúa Và Chủ Nghia Thực Dân Tại Việt Nam (L.A., CA: Hương Quê, 1988), tr 395-414
[8]
Trần Tam Tình, Sđd., tr. 61.
[9]
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, Nh?ng Năm Tháng Không Thể Nào Quên (Hà Nội: Quân Ðội Nhân Dân, ô2001), tr
286
[10]
Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4
(Paris: Nam Á, 2002), tr. 2100-2103
[11] Lloyd Graham,
Deceptions and Myths of the Bible (Secaucus, N.J: Carol Publishing Group,
1999), p. 463
[12] Nhiều tác giả,
Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA., Giao Di?m, 2000), tr 245..
Đây là lời ghi nhận của nhà
trí thức
Da-tô
Phan Đình Diệm, Hội Trưởng Học Hội Đức Giê-su Phũ Sinh, ghi trong bản Tuyên Ngôn 1
được công bố vào
ngày 15/9/1999 và được tác giả Hòang Nguyên Nhuận
ghi lại vớii nguyên văn như sau: "Giáo Hội công giáo Roma
La-tinh trong thời cực thịnh kinh bang tế thế, đội vương miện
cho các hoàng đế, tung hoanh dọc ngang, làm mưa làm gió, thâu
tóm cả thiên hạ trong tay, tiền rừng bạc biển,
đã không biết tự chế, không học bài học khiêm hạ rửa chân, tự cao tự
đại, coi bàn dân thiên hạ nhu cỏ rác... hôm nay hối bất cập, lịch sử còn nằm trơ ra
đó, Ngườii Âu Châu khiếp sợ Giáo Hội và tránh xa nhu
tránh hủi Người Á Châu có thành
kiến ghép Giáo Hộii vào ông Tây thực dân và chống tực dân! Ngườii Mỹ Châu La-tinh
đồng hóa Giáo Hội vào đại họa
diệt chủng..."
[13]
Bùi Ðức Sinh, Lịch Sử Giáo
Hội Công Giáo - Phần Nhì (Sàigòn: Chân Lý, 1972), tr 165. Nguyên văn câu nói
này như sau: "Năm 1701, Voltaire nói: Phá được Dòng Tên, tức là
phá được cái tôn giáo ác ôn nay.".
[14]
Nhiều tác giả, Sđd., tr 92.
[15] Chartlie Nguyễn,
Công Giáo Trên
Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr 226,
228 và 272.
[16]
Đặng Thái Việt, Bàn Về
Thiên Chúa Giáo Và Tam Giáo (Garden Grove, CA: Giáo Đi?m, 2004), tr 115.
[17]
Bùi Ðức Sinh, (Phần I) Sđd., tr 310-311
[18]
Charlie Nguy?n. "Truyền
Thống Phản Quốc Của Công Giáo Việt Nam." Đông Duong Thời Báo số 88.
Tháng 5 & 6 năm 2004, tr 1, 8,9 &10.
[19]
Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living World History (Glenview,
Illinois: Scott Foresman Company, 1974),,p.
398.
[20]
Charlie Nguyễn, Công Giáo Huyền Thoại Và Tội
Ác (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), trang 25-28.
[21] Nhiều tác giả, A. De
Rhodes Và Chữ Quốc Ngữ (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1998), tr 198-199.
[22]
Malachi Martin, Ibid,
pp. 232-233.
[23]
Malachi Martin, Rich
Church Poor Church (New York: G.P.Putnam's Sons, 1984) tr 170
[24]
"Pope, Cardinals sued by
Muslim Activist;" The News Tribune (Tacoma, WA), Feb. 29, 2004: A3
[25]
World News May 05, 2003.
[26]
Constant Brand (Associated
Press). ""Seattle-Post Intelligencer" [Seattle] February 6, 2003" Page A3
[27]
Charlie Nguyễn, Thực Chất
Đạo Công Giáo Và Các Ðạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2003), tr
159
[28]
Malachi Martin, The
Jesuits (New York: The Linden Press, 1987), tr 119-120.
[29]
Nguyễn Mạnh Quang, Nói
Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên,
2004), tr 50-51.
[30]
Lê Hữu Dản,Sự Thật (Đặc
San Xuân Đinh Sửu 1997) ( Fremont, CA:TXB, 1997), tra28.
[31]
Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh,
Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr. 18.
[32]
Nhiều tác giả, Đối Thoại Với Giáo Hoàng
Gioan Phao-Lồ II (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1995), tr. 280.
[33]
Pierre Goubert, The Course of French
History, Trans. By Maarten Ultee (New York: Franklin Watts, 1988), tr.370.
© sachhiem.net