BAO CHE TU SĨ KHI TỘI ÁC CỦA HỌ
BỊ ĐƯA RA TRƯỚC CÔNG LUẬN VÀ CÔNG LÝ
B.- Đối với tín đồ Da-tô người Mỹ.-
Giáo Hội cũng dùng nhiều phương cách khác nhau để
giải quyết vấn đề các ngài "mang chức thánh" sờ mó trẻ em vị thành
niên và nữ tín đồ.
1.- Phương cách thứ nhất:
Cử người có uy tín và
quyền lực trong giáo quyền đến thuyết phục với gia đình nạn nhân bằng những
lời hứa hẹn suông, rồi thuyên chuyển ông linh mục phạm tội này đi một giáo
xứ khác ở xa giáo xứ mà ông ta đã phạm tội, và giấu nhẹm, không cho
tín đồ ở giáo khu nhiệm sở mới của ông ta biết gì về những tội ác trong quá
khứ của ông ta ở nhiệm sở cũ. Làm như vậy, Giáo Hội có thể giúp cho ông linh
mục tội đồ này vừa có thể phục vụ cho Giáo Hội (đang ở trong tình trạng khan
hiếm linh mục), vừa có thể tiếp tục hưởng lạc sờ mó con nít và nữ tín đồ
thêm một thời gian nữa. Nếu ở giáo xứ mới, ông ta vẫn còn "chứng nào tật
ấy", tiếp tục trổ mòi "sờ mó nữ tín đồ và con nít" nữa, thì
Giáo Hội lại thuyên chuyển ông ta đến một giáo xứ khác nữa. Phuơng cách này
rất có hiệu quả và êm suôi cho đến đầu năm 2002. Sở dĩ người ta biết được
việc làm bất chính này của Giáo Hội là vì cái tật "ngựa quen đường cũ"
của Linh-mục John Geoghan thuộc giáo phận Boston bị "khui ra" trước
công luận và đưa ra trước công lý. Từ đó, người ta mới biết Giáo Hội đã làm
như vậy, nhưng không biết đã làm từ bao giờ và đã làm bao nhiêu trường hợp
như vậy.
Sự kiện này chứng tỏ Giáo Hội có chủ trương thi hành chính sách dung
dưỡng và bao che cho tu sĩ hủ hóa của Giáo Hội.
Chắc chắn là Giáo Hội đã thi hành chính sách này từ thời Trung Cổ cho đến
ngày nay. Chúng ta hãy theo dõi bản tin nói về trường hợp của
Linh-mục John Geoghan rồi suy ra những hành động gian manh của Giáo Hội.
Dưới đây là mấy đoạn văn trích từ trong một bản tin nói về vụ này:
"Trong nhiều vụ án dân sự, hơn 130 người phàn nàn là đã từng bị giáo sĩ
John Geoghan sờ mó bậy bạ khi họ còn là trẻ em vị thành niên trong ba thập
niên ông ta hành nghề tu sĩ trong các giáo xứ thuộc giáo phận Boston. Nằm
ngoái, ông ta bị tòa đưa ra xử về tội bạo hành, làm tình bậy bạ, sờ mó mân
mê một em bé trai 10 tuổi ở tại một hồ tắm. Giáo sĩ Geoghan thường nhắm vào
các em bé thuộc các gia đình tan vỡ (ly dị). Ông giáo sĩ này thường o bế tán
tỉnh nạn nhân bằng cách thường xuyên đến thăm hỏi đối tượng hay rủ đối tượng
đi dạo ở ngòai trời để giải trí. Một nạn nhân nói rằng Geoghan đã xâm phạm
thân thể của nạn nhẩn trên đường lái xe từ chỗ ăn kem (cà rem) về nhà. Nhiều
nạn nhân khác nói rằng ông ta thường hay đến tận phòng ngủ của họ vào giờ
ngủ đêm rồi bám chặt lấy họ, đôi khi ông ta còn thì thâm đọc kinh cầu nữa.
Vụ ô nhục lạm dụng tình dục này vang dội khắp thế giới bùng lên vào đầu
năm 2002 với những tiết lộ về việc giáo phận Boston đã thuyên chuyển giáo
sĩ Geoghan từ giáo xứ này đến giáo xứ khác để cho ông ta tiếp tục hành
nghề mặc dầu là đã được báo động về những hành động (tội ác) của ông ta..
Vụ ô nhục dâm đãng này lan tràn hết sức mau lẹ sau khi quan tòa ra lệnh
cho giáo phận Boston phải gửi hồ sơ của mấy chục giáo sĩ (phạm tội) cho
tòa. Các hồ sơ này cho thấy rằng giáo phận này đã nhiều lần thuyên
chuyển các giáo sĩ phạm tội đi một giáo xứ khác khi mà tội ác của họ bị giáo
dân phát giác. Với sự phẫn nộ của quần chúng lên đến cao độ, các ông giám
mục mới áp dụng biện pháp cứng rắn hơn đối với các giáo sĩ phạm tội lạm dụng
tình dục, và hơn 325 ông trong số 46 ngàn giáo sĩ ở Hoa Kỳ có thể bị cho
nghỉ việc hay phải tự động xin nghỉ việc (về hưu) trong năm sau vụ án
Geoghan.
Ông David Clohessy, Giám Đốc tổ chức Những Người Bị Các Giáo Sĩ Lạm Dụng
Tình Dục Còn Sống Sót Trong Toàn Quốc có căn cứ ở Chicago, nói rằng "Vụ án
Geoghan không phải chỉ là một vụ án đơn thuần về một người đơn thuần phạm
tội", mà nó còn tiết lộ cho ta thấy sự bê bối thối tha và tham nhũng
trong Giáo Hội La Mã."
Nguyên văn: “In civil
lawsuits, more than 130 people have claimed Geoghan sexually abused them as
children during his threedecades as a priest at Boston-area
parishes. He was convicted last year of indecent assault and battery for
fondling a 10 year old boy at a swimming pool. Geoghan often targeted boys
from broken homes, ingratiating himself during frequent visits or fun
outings. One victim said Geoghan molested him as the two were driving home
getting an ice cream cone. Others said Geoghan molested them after visiting
their rooms at bedtime to tuck them in, sometimes while whispering prayers.
The church sex abuse
scandal, which has repercussions worldwide, broke in early 2002 with
revelations that the Boston Archdiocese had shuttled Geoghan from parish to
parish despite warnings about his behavior.
The scandal mushroomed
after a judge ordered the release of archdioces files involving dozens of
priests, showing repeated examples of archdiocese shipping priests to
different parishes when allegations arose. With the public outcry reaching a
new crescendo, the bishops adopted a toughened policy against sex abuse and
more than 325 priest of roughly 46,000 American clergy were either dismissed
or resigned from duties in the year after Geoghan case. David Clohessy,
national director of the Chicago base Survivors Network of the Abused by
Priest said what made Geoghan's case more "than just a single case about a
single predator" was that it revealed the corruption in the church.")
[7]
Nói về những thành tích
dung dưỡng và bao che cho giới tu sĩ loạn dâm với nữ tín đồ và các trẻ em,
bản tin đăng trong tờ nhật báo The News Tribune số ra ngày Thứ Năm 22/9/2005
cho chúng ta thấy rõ một phần nào của sự thật này:
“Cuộc điều tra lâu nhất của đại bồi thẩm đoàn về vụ các ông tu sĩ Da-tô
can tội loạn dâm với các trẻ em và nũ tín đồ thuộc Tổng Giáo Phận
Philadelphia đã kéo dài tới ba năm và đã kết thúc vào ngày Thứ Tư
(22/9/2005) bằng những kết luận rằng các hồng y và nhiều chức sắc của Tổng
Giáo Phận Philadelphia đã âm mưu với nhau để che chở cho những tội đồ.
Tuy nhiên,đại bồi thẩm đoàn nói rằng họ không thể kết tội những tội đồ
vì rằng đã quá thời hạn để tiến hành những vụ này và vì Tổng Giáo Phận
(Philadelphia) không nằm trong phạm vi luật pháp của tiểu bang
(Pennsylvania). Chỉ có một tu sĩ đã bị kết án mà thôi.
Tổng Giáo Phận Philadelphia đã đáp lại bằng một bản tường thuật với
những lời lẽ cay độc và giận dữ”, gọi những kết luận của đại bồi thầm đoàn
là “kỳ thị” và “bị kích động”.
Bản tường trình dài 418 trang của đại bồi thẩm đoàn kể ra tên họ của 63
tu sĩ Da-tô đã phạm tội lạm dụng tình dục và đã được ghi rõ trong hồ sơ của
Tổng Giáo Phận Philadelphia trong đó có nói rõ là có những nhân chứng khai
trước tòa án.
Bản tường trình cũng nói là tất cả có nhiều nạn nhân và chắc
chắn cũng có nhiều tộii nhân nữa.”
Nguyên văn: “A three-year
grand jury investigation of the Philadelphia Archidiocese the longest known
inquiry in the national clergy sex abuse crisis, ended Wednesday (21/9/2005)
with scathing allegations that cardinals and others churchmen had conspired
to protect offenders.
However, the grand jury
said it could bring no indictments because of time limits on prosecuting the
claims and because the Roman Catholic archdiocese is not a corporation under
state law. Only one priest in the archdiocese has been indicted.
The archdiocese responded
with its own sharp-worded report, calling the grand jury’s conclusions
“discriminatory” and “sensationalized”.
The 418 page grand jury
report names 63 priests “whose abusive behavior was well documented in
archdiocese files and by witnesses who testified” before the panel. All had
multiple victims, and many more abusers certainly exist, it said.”
[8]
2.- Phương cách thứ hai: Giàn xếp bằng cách lấy tiền bạc ra mua chuộc để
bưng bít và ém nhẹm. Chúng ta không biết rõ Giáo Hội đã sử dụng biện pháp này từ bao gờ.
Nhưng căn cứ và những vụ ô nhục sờ mó bậy bạ của các Ngài dại diện Chúa của
Giáo Hội được phơi bày ra trước công luận ở Hoa Kỳ vào đầu năm 2002, thì
chúng ta cứ coi như là Giáo Hội đã sử dụng biện pháp này ừ đầu năm 2002 cho
đến nay. Điển hình là cách giải quyết vụ loạn dâm của các ông linh mục
thuộc Giáo Phận Boston được tờ News Tribune (Tacoma) phát hành ngày Thứ Ba
21 tháng 10 năm 2003 loan tin về việc này như sau:
"Giáo Phận Boston đã
phá kỷ lục trong việc giải quyết hàng trăm trẻ em nạn nhân bị các ngài
"mang chức thánh" của Giáo Hội hủy họai cuộc đời trong trằng của nạn nhân
bằng cách sử dung tới 85 triệu Mỹ kim để giàn xếp và đã được trên 80 phẩn
trăm (nạn nhân) chấp thuận cần thiết để có hiệu lực, vị luật sư của giáo
phận nói như vậy vào ngày Thứ Hai vừa qua. Luật sư của giáo phận là
ôngThomas Hannigan Jr. nói rằng, ông đã nhận được bản thỏa hiệp trong đó có
chữ ký của trên 442 trong số 552 nguyên cáo nạn nhân.Tỷ lệ 80% này đã đạt
được vào ba ngày trước hạn chót vào ngày Thứ Năm. Hạn chót này được ấn định
hồi tháng 9, lúc đó giáo phận đồng ý việc giàn xếp này. Bây giờ, mỗi nạn
nhân có thể kể đầu đuôi câu chuyện của minh cho một người trung gian để
người đó sẽ quyết định số tiền cho một người có thể nhận từ 80 ngàn đến 300
ngàn như đã qui định trong bản thỏa hiệp." Nguyên văn: “The Boston
Archdiocese's record breaking $85 million settlement with hundreds of
alleged victims of child molesting priests has won more than the 80 percent
approval needed to take effect, a church lawyer said Monday. The
archdiocese's lawyer, Thomas Hannigan Jr., said he received signed agreement
from more than 442 of 552 plaintiffs. The 80 percent threshold was reached
three days before Thurday's deadline, set in September when the archdiocese
agreed to the settlement. Now, each victim will tell his or her story to a
mediator, who will decide the amount with the range of $80,000 to $300,000
by agreement."
[9]
Nhiều giáo phận khác cũng
xẩy ra tình trạng các ngài "mang chức thánh" của Giáo Hội phá họai
cuộc đời trong trắng của các em vị thành niên giúp rước lễ ở nhà thờ, cũng
bị các nạn nhân đưa ra trước ánh sáng công luận, và cũng được giải quyết
theo biện pháp giàn xếp bằng tiền bạc giống như Giáo Phận Boston đã giải
quyết. Giáo Phận Seattle là một thí dụ điển hình. Tờ News Tribune (Tacoma)
phát hành ngày Thứ Sáu 4 tháng 4 năm 2003 loan tin về việc Giáo Phận Seattle
giàn xếp với nạn nhân bị các ngài "mang chức thánh" sờ mó một cách
bất bình thường, trong đó có mấy câu nói về khoản tiền sử dụng để giàn
xếp. Nguyên văn bản tin này như sau:
"Giáo Phận: Tổng số lệ phí cố vấn giàn xếp lên đên 4.1 triệu Mỹ Kim.- Giáo
Phân Seattle tường trình rằng giáo phận đã tốn tới 4.1 triệu Mỹ kim chi phí
cho phi tổn cố vấn vấn đề giàn xếp trong vụ các nạn nhân kiên giáo phận
về việc các ngài "mang chức thánh" hủy họai cuộc đời trong trăng của các em
nạn nhân. Vào khoảng 2.8 triệu Mỹ kim trả cho 65 nạn nhân bị các ngai "mang
chức thánh" hủy họai cuộc đời trong trắng của họ. Giáo phận nói rằng giáo
phận phải chi ra một khoản tiền 500 ngàn Mỹ kim trả cho các mục vụ và
tham khảo cố vấn của các nạn nhân, và 800 ngàn Mỹ kim tiền phí tổn trả cho
luật sư. Đây là lần đầu tiên giáo phận tiết lộ các khoản tiền này. Tất cả
các khoản tiền tốn phí này đều được hàng bào hiểm trả cho hết." nguyên
văn: “Archdiocese: Settlement fees counseling total $4.1 million.-
Clergy sex abuse complaints against the Catholic Archdiocese of Seattle have
cost $4.1 million since 1987, the archdiocese reports. About $2.8 million
had been paid to 65 victims of sex abuse by priests in the archdiocese.
Another $500,000 covered pastoral case and counseling for victims, and
$800,000 went for attorneys' fees the archdiocese said Wednesday, disclosing
the amounts for the first time. All costs have been covered by
archdiocese's insurance. There have been no reports of clergy sexually
abusing children in the archdiocese since 1987, the year before it added
safeguards to protect minors, the archdiocese said..."
[10]
Trong bài báo "Since
1950, 49 priests accused of sex abuse in Seattle diocese" đăng trên tờ
The New Tribune (Tacoma, Washington) số ra ngày Saturday, February 28,
2004, ký giả Steve Maynard cho biết, cho đến năm 2002, số tiền trang trải
cho các vụ loạn dâm đã lên tới 572 triệu Mỹ kim, tức là chưa kể những
khoản tiền không lồ trang trải cho nạn nhân của các ngài linh mục trong
các vụ lọan dâm từ đầu năm 2003 cho đến nay
[11],
trong đó có hai khoản tiền 85 triệu Mỹ kim của giáo phận Boston bồi thường
cho nạn nhân và 4.1 triệu Mỹ kim chi phí cho phi tổn cố vấn vấn đề giàn
xếp trong vụ các nạn nhân kiên giáo phận về việc các ngài "mang chức
thánh" hủy họai cuộc đời trong trắng của họ." ]Ngòai ra, còn không biết
bao nhiêu khỏan tiền do các giao phận khác bỏ ra trang trải cho những vụ sờ
mó bậy bạ làm hủy họai cuộc đời trong trắng của tín đồ.
Trong bài báo “Abuse
costs exceed $ 1 billion – The Catholic Church likely will pay tens millions
in settlements”, đăng trên tờ The New Tribune (Tacoma, Washington) số
ra ngày Friday, June 10, 2005, ký giả Rachel Zoll của hãng Thông Tấn
Associated Press ghi nhận số tiền chi phí cho vấn đề các tu sĩ Da-tô lạm
dụng tình dục lên tới trên một tỉ Mỹ kim. Dưới đây là đọan văn nói về sự
kiện này:
“Theo nguồn tin thống
kê đã được kiểm tra của các ông giám mục Hoa Kỳ và Hãng Liên Hiệp Thông Tấn
Xã thì số tiền mà Giáo Hội Da-tô Hoa Kỳ phải chi ra đã lên đến hơn một tỉ Mỹ
kim để giải quyết những vụ đã được biết do các ông tu sĩ của Giáo Hội sờ
sọang con nít và nữ tín đồ trong thời gian khoác áo tu hành mang chức thánh
của Giáo Hội. Bảo đảm là số tiền này có thể sẽ còn tăng lên hàng chục triệu
Mỹ kim nữa vì rằng còn có hàng trăm vụ khác đang được cứu xét. Tính từ năm
1950, hãng Liện Hiệp Thông Tấn Xã ghi nhận là các giáo phận ở trong toàn
lãnh thổ Hoa Kỳ đã chira tới một tỉ và sáu mươi triệu Mỹ kim
để giải quyết với nạn nhân của các ngài mang chức thánh của Giáo Hội, trong
đó có những khoản tiền tốn phí cho tòa án phân xử, tôn phí trả cho luật sư,
tốn phí tham vấn pháp luật và các khoản tốn phí khác. Tuần rồi, Giáo Phận
Covington thuộc tiểu bang Kentucky đã dành ra một ngân khỏan là 120 triệu Mỹ
kim để làm quỹ bồi thường cho nạn nhân bị các ngài mang chức thánh của Giáo
Hội sờ mó bậy bạ. Khoản tiền này đã đưa con số tốn phí của Giáo Hội Da-tô
Hoa Kỳ lên tới hơn một tỉ Mỹ kim để chi phí cho những việc làm ô nhục này
của các ngài tu sĩ Da-tô. Cho đến nay, ngân khoản dành cho việc giải quyết
các vụ các ngài tu sĩ Da-tô lạm dụng tình dục thuộc của Giáo Phận Covington
là lớn nhất. Tháng 12 vừa qua (2004), Giáo Phận Orange, California thỏa
thuận trả một trăm triệu Mỹ kim cho 87 nạn nhân của các ngài mang chức thánh
của Giáo Hội. Năm 2003, Giáo Phận Boston đã sử dụng tới 85 triệu Mỹ kim để
trang trải cho 552 nạn nhân tương tự như vậy.”
Nguyên văn:“The
cost to the U.S. Roman Catholic Church of sexual predators in the priesthood
has climbed past $ 1 billion, according to tallies by American bishops and
an Associate Press review of known settlements. And the figures is
guaranteed to rise, probably by tens of millions of dollars, because of
hundreds more are pending. Dioceses around the country have spent at least $
1.06 on settlements with victims, verdicts, legal fees, counseling and other
expenses since 1950, the AP found. A $120 million compensation fund
announced last week by Diocese of Covington, Ky., pushed the figure past the
billion mark. The Covington fund is the biggest settlement so far. Last
December, the Diocese of Orange, California, agreed to pay $100 million to
87 victims. In 2003, the Boston Archdiocese settled with 552 victims for $85
million.”[12]
Trong bài viết “Group:
Church Abuse Scandal May Cost $3B”, ký giả Ken Kusmer của hãng Liên Hiệp
Thông Tấn Xã (Asociated Press) ghi nhận Giáo Hội Da-tô Hoa Kỳ có thể chi tới
khoảng từ 2 đến 3 tỉ Mỹ kim để trang trải cho những vụ các ông tu sĩ của
Giáo Hội sờ mó và làm tình bậy bạ với nữ tín đồ và các em thiếu nhi phụ lễ ở
trong các nhà thờ. Dưới đây là một số những đoạn văn căn bản trong bài viết
này được người viết chuyển dịch sang Việt ngữ như sau:
“Tin từ
Indianappolis: Chủ tịch của tổ chức “Tiếng Nói của Nhóm Cải Cách
của Tín Hữu Da-tô “ tiên đoán rằng những vụ ô nhục gây ra bởi các ông tu sĩ
Da-tô sờ mó nữ tín đồ và các em thiếu nhi trong các họ đạo có thể gây tôn
phí cho các giáo phận Hoa Kỳ một khoản tiền lên tới từ 2 đến 3 tỉ Mỹ kim.
Nói chuyện tại cuộc họp toàn quốc của tổ chức này trong 3 năm, ông David
Castaldi đã thuyết phục các vị lãnh đạo các chi nhánh của tổ chức tại các
địa phương phải gây áp lực với các ông giám mục địa phương của họ đòi họ
phải đưa ra bản báo cáo tài chánh (của giáo phận) về những khoản tiền trả
cho các nạn nhân, luật sư cùng các chi phí khác, rồi phổ biến rộng rãi cho
mọi người cùng biết.
Hãng Liên Hiệp Thông Tấn Xã tháng rồi tường trình rằng cho đến lúc này,
nhà thờ đã chi ra tới hơn một tỉ Mỹ-kim cho các vụ làm tình bậy bạ của các
ông tu sĩ Da-tô trong mấy chục năm vừa qua. Ông Castaldi tiên liệu số tiền
tốn phi này có thể tăng lên gấp hai lần.
Tại thành phố Boston, nơi mà các vụ làm tình bậy bạ này được phát hiện
và công bố trước nhất cách đây ba năm trước khi lan truyền ra toàn quốc, đã
lên tới 85 triệu Mỹ-kim vào năm 2003 để trang trải chi 552 nạn nhân. Tháng
12 năm rồi (2004), Giáo Phận Orange thuộc tiểu bang California cũng đã chi
phí tới 100 triệu Mỹ-kim để trang trải cho 90 vụ. Tiếp theo là tháng rồi
(June/2005), Giáo Phận Covington thuộc tiểu bang Kentucky cũng đã phải chi
ra 120 triệu để trang trải cho những vụ làm tình bậy bạ của các ông tu sĩ
của giáo phận.”
Nguyên văn: “INDIANAPOLIS
- The chairman of the Catholic lay reform group Voice of the Faithful
predicted Saturday that the clergy sexual abuse scandal will eventually
cost U.S.dioceses $2 billion to $3 billion.
“Speaking at the first
national meeting of the group in three years, David Castaldi urged leaders
of local affiliates to press their bishops for better financial reporting as
individual dioceses post large payouts to abuse victims, lawyers and others.
The Associated Press reported last month that the costs to
the church so far totaled slightly more than $1 billion for abuse cases that
date back decades. The projection by Castaldi indicates that direct costs
could rise twice as high.
Boston, where the scandal first erupted more than
three years ago before spreading nationwide, reached an $85 million
settlement with 552 people in 2003. The Diocese of Orange, Calif., settled
90 abuse claims for $100 million last December, followed by last month's
settlement of $120 million by the Diocese of Covington, Ky.” dominic.hoang@eds.com
Ngày 9 tháng 7 năm 2005)
Trên đây chỉ là một vài
khỏan trong số hàng trăm khoản tiền kếch sù để mua chuộc làm cái nắp đậy cho
cái hũ mắm Giáo Hội La Mã. Không ai chối cãi được những khoản tiền vĩ đại
này là tiền bóc lột từ mồ hôi, nước mắt và xương máu của tín đồ.
Tình trạng này cũng xẩy ra
ở trong các cộng đồng con chiên người Việt ở Bắc Mỹ. Nhưng vì đám con chiên
người Việt đã được Giáo Hội nhồi sọ quá kỹ, họ vẫn còn ở trong tình trạng mà
Linh-mục Trần Tam Tỉnh gọi là "đã từng bị giam nhốt xưa nay trong sự ngu
dốt và trong một kiểu tin đạo nói được là thời Trung Cổ"
[13].
Cũng vì thế mà Giáo Hội có thể sử dụng biện pháp thứ nhất (nhồi sọ)
như đã nói ở trên, và Giáo Hội đã không mất một đồng xu nào để giải quyết
những vụ động trời tùm lum của các ngài "mang chức thánh" người Việt
(như các linh mục Cao Đăng . M. (Portland, Oregon) Đào Quang Ch. và Nguyễn
Hữu Dụ (Houston, Texas), Trịnh Thế H. (Chicago, Illinois) và rất nhiều tội
đồ "mang chức thánh" khác mà chúng tôi trình bày đầy đủ trong
các chương 13, 14 và 15 ở trên.)
Tất cả các chính sách trên
đây là do chủ trương của Giáo Hội La Mã và được thực thi từ cơ quan đầu não
của Giáo Hội là Tòa Thánh Vatican cho đến các giáo phận hay giáo khu và giáo
xứ hay các xóm đạo tại các địa phương. Bằng chứng là các linh mục trong một
giáo xứ phạm phải những tội ác sờ mó bậy bạ nữ tín đồ và con nít, đã bị giáo
dân tố cáo thì được thuyên chuyển đến một giáo xứ xa xôi khác và những hồ sơ
tội ác của họ thì được giấu kín như bưng khiến cho giáo dân trong giáo xứ
mới tiếp nhận họ cứ tưởng như là cái ngài thánh thiện tuyệt vời. Hồng Y
Bernard Law cai quản địa phận Boston can tội bao che rất nhiều linh mục phạm
tội sờ mó nữ tín đồ và con nít lại được Tòa Thánh Vatican điều động về giữ
một chức vụ quan trọng trong giáo triều Vatican thay vì phải được
đưa ra trước tòa án trong chính quyền Hoa Kỳ để xử lý và trừng phạt.
Chúng ta không biết TẠI
SAO lời phán “No American was above the law” của Tối Cao Pháp Viện
Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 1974 (trong vụ Tổng Thống Nixon viện cớ “hành
pháp, nếu cần, có đặc quyền giữ lại các tin tức không phổ biến cho quần
chúng” để từ chối, không đưa ra những cuộn băng ghi âm có liên hệ đến vụ
Watergate) lại không được áp dụng vào trường hợp của Hồng Y Bernard Law?
Giả thử như một thường dân
hay một nhân viên chính quyền can tội tương tự như ông Hồng Y Bernard Law
thì số phận của họ sẽ như thế nào?
Nói về những trường hợp
những người có thế lực phạm pháp đã bị phát hiện và công bố trước công luận
mà vẫn thoát khỏi màng lưới pháp luật, người Việt Nam ta có mấy câu ngạn ngữ
như sau:
- Đồng bạc đâm toạc tờ
giấy.
- Con kiến đi kiện củ khoai.
Và người Nga cũng có một
câu ngạn ngữ tương tự: “Luật pháp như con quay, kẻ nào có tiền mua dầu
nhớt cho vào thì có thể cho nó quay theo theo chiều mà họ muốn.”
SỬ DỤNG PHỤ NỮ NHƯ MÓN ĐỒ CHƠI
CHO GIỚI TU SĨ "GẠ GẪM" ĐỂ
XẢ XÚ BẮP
Trên pháp lý hay trên giấy
tờ, không có giáo luật nào nói rõ, hay quy định rõ ràng hoặc tuyên bố thẳng
thừng rằng Giáo Hội La Mã kỳ thị và khinh rẻ phu nữ và sử dụng họ như một
món đồ chơi. Tuy nhiên, trong thực tế, rút kinh nghiệm trong cuộc sống hàng
ngày theo châm ngôn "Hãy nhìn những gì Giáo Hội đã và đang làm, đừng nghe
những gì Giáo Hội nói" và tìm đọc những bài viết hay tác phẩm của những
tín đồ Da-tô thuộc loại trí thức, người viết xin ghi lại những sự kiện dưới
đây làm bằng chứng cho sự kiện Giáo Hội coi phụ nữ như một món đồ chơi cho
giai cấp giáo sĩ hay tu sĩ Da-tô.
1.- Trong
mục "Sử Dụng Miếng Mồi Quyền Lực..." ở trên, chúng tôi có ghi lại một đọan
văn trong bài viết "Một Số Tình Hình Đặc Biệt Của Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam" của Giáo-sư con chiên Nguyễn Văn Trung. Trong bài viết này, có một đọan
với nguyên văn như sau:
"Trong Giáo Hội, giáo dân ở địa vị thấp nhất, nữ giáo dân luôn luôn nằm dưới. Thật là nghịch lý trong khi Đức Mẹ lại được các cha, nhất là các cha
dòng Chúa Cứu Thế "ga lăng" hết cỡ. [14]"
2.- Theo sự
hiểu biết của người viết, cho đến nay, Giáo Hoàng John Paul II, Giáo triều
Vatcian và rất nhiều vị chức sắc cao cấp trong hệ thống quyền lực của Giáo
Hội La Mã vẫn khăng khăng chống lại phong trào đòi cho phụ nữ làm linh mục
với những lý do "không thuyết phục" nếu không muốn nói là kỳ thị hay
khinh rẻ phụ nữ.
3.- Gần đây
hơn nữa, như đã nói ở trên, sự kiện Giáo Hoàng John Paul II lấy danh vị và
quyền lực của Đức Thánh Cha cưỡng bách, Tổng Giám Mục Emmanuel Milingo
phải từ bỏ người vợ thân thương là bà Maria Sung đã chính thức làm lễ
thành hôn trước mặt Chúa cho chúng ta thấy rõ cái đặc tính "khinh rẻ"
phụ nữ của Giáo Hội La Mã.
4.- Phần
trình bày trong các Chương 15, 16 và chương này cho chúng ta thấy từ các ông
giáo hoàng, hồng y và tu sĩ các cấp trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La
Mã đều có những hành động khinh rẻ phụ nữ và coi họ như những món đồ chơi.
5.- Cựu
giáo sĩ Peter de Rosa đưa ra nhận xét trong cuốn Vicars of Christ với nguyên
văn như sau:
"Cuối cùng, vào năm
1095, vấn đề này được Giáo Hoàng Urban II (1088-1099) giải quyết tại
Piacenza. Vào năm này, tại một hội nghị thứ hai, 400 tu sĩ và 30 ngàn giáo
dân dứt khoát kết tội việc tu sĩ chính thức có gia đình (đã thành hôn chính
thức). Để chứng tỏ biện pháp này là động lực từ phúc âm,
họ bán các bà vợ chính thức của các tu sĩ
cho người ta làm nô lê." Nguyên văn: “The matter was
finally settled by Urban II (1088-1099) at Piacenza in the year 1095. A
second council of 400 clerics and 30,000 laity condemned clerical marriages
once and for all. To prove the
evangelical impulse of this measure, they sold priests' wives into salvery.") [15]
Cưỡng bách giới giáo sĩ
hay tu sĩ phải sống độc thân, rồi đem bán vợ con của họ cho người ta làm nô
lệ là một hành động táng tận lương tâm, vô cùng độc ác, hết sức dã man, và
chỉ những người "mất hết nhân tính", những "hạng súc sinh" mới
có thể làm được như vậy. Trong lịch sử nhân loại, ngoài Giáo Hội La Mã ra,
chắc chắn là không có một thế lực chính trị hay tôn giáo nào lại dám làm
những việc dã man như vậy! Chính vì thế mà ta có thể nói Giáo Hôi La Mã đã
chiếm giải "đệ nhất dã man trong lịch sử nhân lọai". Đây cũng
là bằng cớ hùng hồn nói lên cái bản chất "khinh rẻ" phụ nữ và coi phụ nữ như
một món đồ chơi cho giới tăng lữ Gia-tô của Giáo Hội La Mã.
TÓM LƯỢC
Giới giáo sĩ hay tu sĩ bị
cưỡng bách phải dứt bỏ cái tình cảm và lòng yêu thương cao đẹp quý báu nhất
của con người là tình yêu lứa đôi trai gái và tình thương yêu vợ con. Mất
đi hay không còn thứ tình yêu cao quý này, họ trở thành những người "bất
bình thường" vì thiếu sự quân bình về tình cảm và sinh lý. Kinh
nghiệm lịch sử cho thấy rằng, phần lớn những hạng người bất bình thường vì
thiếu sự quân bình về tình cảm và sinh lý thường trở nên những người ác độc
và dã man, luôn luôn muốn phá đổ hết tất cả những hạnh phúc gia đình của
những người khác, nhất là khi họ có quyền hành trong tay. Toàn bộ giai cấp
giáo sĩ của Giáo Hội La Mã đều là những hạng người bất bình thường do sự
thiếu quân bình về sinh lý và tình cảm gây ra, tất nhiên họ cũng không thoát
ra ngoài quy luật này.
Như đã trình bày ở trên,
tình yêu lứa đôi trai gái và tình thương yêu vợ con là thiên bẩm, tự nhiên
phát sinh. Vì thế, ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt, hầu như tất cả mọi
người, khi đến tuổi dậy thì hay tuổi yêu đuơng, tất cả những tình cảm thất
tình lục dục tự nhiên trở thành sinh động, dồn hết nỗ lực vào việc đi tìm "người
bạn lòng" (tìm đôi) để cho con tim được hòa nhịp theo quy luật
"âm dương kết hợp". Đây là tiến trình của tình yêu lứa đôi và tình yêu
gia đình. Vì tính cách quan trọng và cần thiết như vậy, cho nên khi bị phá
vỡ hay bị cưỡng bách phải từ bỏ, tất nhiên là nạn nhân phải bất mãn và căm
thù thủ phạm đã gây ra tai kiếp này. Giáo sĩ Da-tô cũng không đi ra ngoài
cái tâm lý tự nhiên và thường tình này.
Giai cấp giáo sĩ là giai
cấp cán bộ nòng cốt và là rường cột trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La
Mã. Nếu cứ để họ tiếp tục bất mãn vì nguyên nhân trên đây thì sớm muộn rồi
họ cũng sẽ liên kết với nhau thành một lực lượng chống lại Giáo Hội. Do đó,
Giáo Hội phải tìm ra biện pháp xoa dịu lòng bất mãn này của họ bằng một
sách lược vừa phỉnh nịnh cho họ thoả mãn lòng tự ái và lòng háo thắng,vừa làm cho họ hủ hóa.
Về phương cách phỉnh
nịnh: Giáo Hội phong cho họ cái tước hiệu "mang chức thánh" và
"đại diện Chúa" với "những uy quyền và quyền năng hay quyền phép"
giống như "những uy quyền và quyền năng" mà ngày xưa Giáo Hội đã bịa
đặt ra rồi gán cho ông Jesus.
Về phương cách làm cho họ hủ hóa: Giáo Hội tìm cách tạo ra một môi trường thuận lợi
để cho họ có cơ hội "gạ gẫm" và "tán tỉnh" nữ tín đồ bằng cách
ban hành giáo luật "xưng tội" vào năm 1215. Phần này đã được trình
bày ở trên trong tiểu mục "Tạo cơ hội cho giáo sĩ hay tu sĩ hủ hóa"...
Trên đây chỉ là một vài
tội ác trong những răng núi tội ác trùng trùng như hàng chục rặng Hy Mã Lạp
Sơn của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua. Chỉ nói riêng về tội ác
của Giáo Hội đối với phụ nữ, Giáo Hội La Mã có dã tâm coi phụ nữ như là một
món đồ chơi cho các ông làm nghề linh mục trong kiếp sống độc thân đề tìm
thấy sinh thú hầu có thể phục vụ hữu hiệu cho Giáo Hội. Việc các dòng nữ tu
trở thành những ổ điếm cho giới tu sĩ giải quyết sinh lý như trong sách
Vicars of Christ đã nói rõ trong đề mục The Farce Of Celibacy (trang
403-408), việc bố trí cho nữ tín đồ Eugénie de Marie de Montijo de Guman
(1826-1920) thành hôn với Hoàng Đế Napoléon III (1808-1873) để "ăn có"
trong chính quyền Đệ Nhị Đế Chính (Napoléon III) và để vận động chính quyền
Pháp đem quân sang đánh chiếm Đông Dương trong thời kỳ này, v. v..., tất cả
là bằng chứng rõ rệt nói lên dã tâm thâm độc và đê tiện của Giáo Hội chuyên
môn lợi dụng phụ nữ để thực hiện những mưu đồ bất chính về chính trị nhưng
lại có thái độ khinh rẻ họ và coi họ như một món đồ chơi cho giới tu sĩ.
CHÚ THÍCH
[7]
Robert O'Neil. "Ex-priest dies after inmate attacks him. (Sex abuse: John Geoghan was central figure in scandal.)" The News Tribune [Tacoma, Washington] August 24, 2003: A3
[8] “Report says church conspired to protect sexual offenders.” The News Tribune [Tacoma, WA] Sept .22, 2005: A3.
[9] The Associate Press "Boston Archdiocese's settlement gets the 80% OK to take effects." The News Tribune [Tacoma, WA] Tuesday, October 21, 10, 2003" A3
[10] Steve Maynard (The News Tribune) "Church lists sex abuse costs" The News Tribune [Tacoma, WA] Friday, April 4, 2003: B1 & B8
[11] Steve Maynard
"Since 1950, 49 priests accused of sex abuse in Seattle diocese" The New Tribune [Tacoma, WA], Saturday, Feb. 28. 2004: A1& A8
[12] Rachell Zoll. “Abuse costs exceed $ 1 billion The Catholic Church likely will pay tens millions in settlements.”The News Tribune [Tacoma, Washington] June 10, 2005: A9
[13]
Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978), tr 104.
[14] Nhiều tác giả, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa - Tuyển Tập 2 (Spring, TX: 1998), tr 115.