BAO CHE TU SĨ KHI TỘI ÁC CỦA HỌ
BỊ ĐƯA RA TRƯỚC CÔNG LUẬN VÀ CÔNG LÝ
Như đã nói ở trên, tín
đồ Gia-tô dấn thân vào học nghề linh mục không phải vì lý tưởng vị tha cao
cả, mà hoàn toàn vì những tham vọng hay lòng thèm khát quyền lực, danh vọng
và lợi lộc. Cái tâm lý này rất bình thường đối với hầu hết những thanh
thiếu niên bình thường khác mới lớn lên. Tất cả những người bình thường này
thường thường đều có dự tính là lo học hành cho đến một mức nào đó, rồi
chuyển vào trường chuyên nghiệp học lấy một nghề chuyên môn với hy vọng sau
khi tốt nghiệp sẽ kiếm được môt việc làm ngon lành để tháng tháng có đồng
lương khá sộp, tiền bạc rung rinh chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày và
hưởng thụ cho bõ những ngày còn phải
miệt mài, lận đận với sách đèn và thi cử.
Nói đến hưởng thụ là phải
nói tới những khát vọng mà người đời thường ước ao, khao khát chạy theo đeo
đuổi. Những khát vọng đó là "tình ái, tiền của, quyền thế, và danh vọng".
Trong bốn thứ này, tình ái phát sinh trong con người mạnh nhất và sớm nhất,
nhưng đối với các đấng mày râu thì nó (tình ái) lại là một thứ “ngọn”, nghĩa
là phải có sau khi có một trong ba thứ kia (tiền của, quyền thế và danh
vọng). Lý do rõ ràng là ai cũng biết rằng Nếu có một trong ba thứ "tiến
bạc, quyền thế và danh vọng", THÌ thì con đường đi đến lâu đài "tình ái"
sẽ được mở rộng thênh thang. Một thanh niên bình thường, chỉ cần có một
trong ba thứ này cũng có thể dễ dàng kiếm được người yêu, ngọai trừ một vài
truờng hợp ngoại lệ. Một khi đã có một trong ba thứ này, có khi không cần
phải mất công tìm kiếm cũng có nhiều cô gái trẻ đẹp xinh như mộng tìm đến
làm quen để xin đuợc làm người tình hay trọn đời nâng khăn sửa túi.
Một thanh niên bình
thường mà còn như vậy, huống chi một ông linh mục có đủ cả ba thứ này và lại
là một ông lãnh chúa với "những tuyệt đối nhất của bất kỳ phương diện
nào. Giáo dân tùng phục, giáo dân khiếp sợ, giáo dân cầu lụy và muôn ngàn
hình ảnh khác" ở trong một họ đạo! Ở vào địa vị như vậy, thì làm sao các
ngài mang chức thánh thoát khỏi cái cảnh gái non mơn mởn xinh đẹp như thiên
thần ríu ra ríu rít quấn quít bên mình? Làm sao các ngài "mang chức thánh"
lại không sa vào lưới tình để rồi hủ hóa và sa đọa? Làm sao thanh thiêu niên
trong xã hội con chiên không thèm khát lao thân vào hạoc cái nghề đi tu làm
linh mục?
Quản nhiệm một họ đạo, một
vị linh mục đương nhiên trở thành một lãnh chúa trong lãnh địa trách nhiệm
của ông ta. Bước đi một bước là có kẻ hầu người hạ bước theo, hô lên một
tiếng là có hàng ngàn tiếng đáp lời, ra lệnh gì là giáo dân tuân theo răm
rắp, ăn toàn những cao lương mỹ vị, uống toàn những thứ ruợu ngon thượng hảo
hạng nhập cảng từ bên Pháp, bên Ý. Được ăn uống đầy đủ như vậy, thân hình
các ngài trở nên tráng kiện với tất cả nam tính và dục tình toát ra qua ánh
mắt, qua ngôn ngữ và qua từng tác động. Ấy thế mà các ngài lại ở vào cái
cảnh bị "dồn nén" về sinh lý vì không được phép lập gia đình. Vì bị "tù hãm"
lâu ngày, "tình dục" chứa chất trong người của các Ngài lúc nào cũng sôi
sục như muốn trào ra qua tât cả ngũ giác quan mỗi khi gần bên nữ giới. Theo
các nhà tâm lý học, những thanh niên sống trong quyền lực vương giả có thân
hình tráng kiện mà độc thân đều là những hỏa diệm sơn lúc nào cũng bừng bừng
phừng phực trong cơ thể. Trong khi đó thì gái non phơi phới nõn nà lúc nào
cũng sấn sổ đến nói năng những lời dịu ngọt, âu yếm, mến thương, mắt liếc
đưa tình, như mời như gọi, sáp tới, quấn quyện, bịn rịn không muốn xa các
Ngài. Trong hòan cảnh như vậy, làm sao lửa tình không bốc cháy mà phun trào
tung tóe như hỏa diệm sơn? Làm sao các ngài cầm giữ được con heo lòng?
Giáo Hội La Mã và đám con
chiên cuồng tín cho rằng các ông linh-mục "mang chức thánh" và các
ngài đã trở thành "thánh" rồi, tất nhiên là các ngài "thánh thiện",
không thể xẩy ra như vậy được!
Xin thưa, điều này cho
phép người viết nói thật, dù rằng nói thật sẽ làm mất lòng nhiều người. Giáo
Hội nói như vậy là Giáo Hội nói láo để lừa bịp tín đồ và người đời. "Nhất
tín bất tín, vạn sự bất khả tín" và "dực vào những gì đã xẩu ra trong
quá khư mà suy đoán ra những chuyện sẽ xẩy trong tương lai.” Những việc
làm bịp bợm của Giáo Hội trong quá khứ mà chúng tôi đã trình bày trong các
chương trong Mục IV (đặc biệt là Chương 11) ở trên và nhiều chương khác
trong bộ sách này là những bằng chứng hùng hồn cho chúng ta thấy rằng những
gì Giáo Hội nói đều là nói láo, quanh co, quay quắt, lắt léo và lươn lẹo.
Giáo Hội quả thật là vua bịp và vua nói láo, chú cuội còn phải ngả nón chào
thua Giáo Hội. Tín đồ Da-tô nói như vậy là vì nhẹ dạ cả tin vào Giáo Hội,
rồi nói theo phản ứng Pavlov mà thôi.
Trong lịch sử nhân loại,
kể từ khi có chữ viết (có sử) cho đến ngày nay (năm 2009), hầu hết những
người có cả ba thứ "tiền bạc, quyền thế và danh vọng" là những người
dễ dàng bị cám dỗ lao vào hố sâu tội ác. Ấy thế mà các Ngài "mang chức
thánh" của Giáo Hội La Mã có đầy đủ cả ba thứ trên đây mà lại cao rao
rằng họ là những bậc thánh "sống đời độc thân và trình bạch, không dây
dưa đến ái tình" thì tự nó đã là gian dối và lừa gạt người đời rồi.
Kinh nghiệm cho thấy rằng
những hạng người thèm khát quyền lực, háo danh và hám lợi" mà có đủ
ba thứ "tiền bạc, quyền hành và danh vọng" không thể nào sống đời
trinh bạch được, nhất là những người còn đang thời kỳ tráng niên, tuổi đời
chưa tới 75. Đây là những sự thật đã từng xẩy ra và xẩy ra liên tục trong
gần hai ngàn năm qua ở trong giới tu sĩ của Giáo Hội La Mã. Bằng chứng là
Giám Mục Emmanuel Milingo ở xứ Zambia (Phi Châu) đã 71 tuổi còn cưới bà Sung
Myung Moon mới 41 tuổi (xin xem lại Mục III) và sự kiện Linh-mục Nguyễn
Hữu Dụ đã 75 tuổi (ở Houston, Texas) rồi mà còn làm tình với nữ tín đồ Vui
Nguyễn ở ngoài công viên giữa thanh thiên bạch nhật bị cảnh sát thộp cổ đưa
ra tòa về tội "làm tình không đúng chỗ" (Xin xem lại Chương 13, Mục V
ở trên). Những vụ loạn dâm được các cơ quan truyền thông ở Hoa Kỳ và khắp
nơi trên thế giới loan tải từ đầu năm 2002 cho đến nay, và phần trình bày
dưới đây trong tập sách này là những bằng chứng nói lên sự thật này. Tất cả
đã cho thiên hạ thấy rõ những người được Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô
thường kính trọng gọi là "Cha", "Đức Cha", "Đức Thánh Cha" và rất nhiều
người "mang chức thánh" khác trong Giáo Hội La Mã không những chẳng có gì là
"thánh thiện" như họ thường nói, mà còn là những bạo chúa, những hung thần
và những con quỷ dâm dục.
Thực ra, ngoại trừ các ông
giáo hoàng mà chúng tôi đã nêu đích danh trong bộ sách này, những người
"mang chức thánh" khác mà bị vướng mắc vào những tội ác liên hệ đến đàn
bà, con gái hay sờ mó con nít chỉ là nạn nhân của chính sách
vừa đòi hỏi giới tu sĩ phải sống độc thân vừa đặt họ vào địa vị
của một ông lãnh chúa với đầy đủ cả quyền hành, danh vọng và tiền bạc tại
địa phương họ quản nhiệm. Ở trong tình trạng này, các ngài "mang chức
thánh" của Giáo Hội đứng nhìn đàn con chiên nữ trẻ đẹp lượn quanh ríu
rít bên mình chẳng khác gì những con cọp đói đứng nhìn đàn nai tơ nõn nà
mơn mởn, nhởn nhơ lượn quanh nơi trước mặt. Đây là một sự thật, chẳng cần
phải là các bậc trí giả, mà bất kỳ một người nào có trình độ thông minh
trung bình cũng có thể nhận thức được điều này. Chẳng lẽ Giáo Hội lại
không biế điều này hay sao?
Chẳng lẽ Giáo Hội lại
không biết rằng "quyền hành, danh vọng và tiền bạc" là những phương
tiện giúp cho họ lao vào hố sâu vực thẳm của tội ác? Điển hình nhất là những
tội ác như sa đọa, sống đời phóng đãng, bất chấp cả luân thường đạo lý,
thậm chí làm đến cả những chuyện lọan luân dâm loạn giống như các ông giáo
hoàng trong thời Trung Cổ mà chúng tôi đã nêu đĩch danh trong 2 Chương 13
và 14 ở trên.
NGUYÊN NHÂN GIÁO HỘI PHẢI THI HÀNH
CHÍNH SÁCH DUNG DƯỠNG CHO TU SĨ
SỐNG ĐỜI PHÓNG ĐÃNG, LỌAN LUÂN DÂM LỌAN
Giáo
Hội La Mã theo đuổi chủ nghĩa bá quyền với dã tâm thống trị toàn cầu và nô
lệ hóa nhân loại về cả thể xác lẫn tâm linh bằng chủ thuyết "thần
quyền chỉ đạo thế quyền" và chính sách "bất khoan dung đối với các
tôn giáo và văn hóa khác" để thỏa mãn tham vọng đê hèn về "tiền bạc,
quyền thế, danh vọng và tình dục.. Để đạt được mục đích này, Giáo Hội
phải sử dụng sách lược tiếm đọat chính quyền ở các vùng mục tiêu bằng bất cứ
giá nào hầu thiết lập chế độ đao phiệt Ca-tô rồi sử dụng quyền lực nhà nước
để:
1.- Tiến hành kế hoach
Ki-tô hóa nhân dân bằng tất cả những phương tiện của nhà nước trong đó có cả
danh lợi và bạo lực.
2.- Thi hành chính sách
ngu dân và giáo dục nhồi sọ để kìm hãm nhân dân dưới quyền trong tình trạng
ngu dốt, không còn khả năng lý trí nhìn ra tính cách bịp bợm trong những tín
lý của đạo Kitô,
3.- Triệt để thi hành
chính sách bóc lột nhân dân đến tận xương tận tủy và vơ vét cho đầy túi
tham.
4.- Thi hành chính sách
tuyên truyền để bóp méo sự thật và xuyên tạc lịch sử để tung hỏa mù nhằn bứt
bít sự thật về những hành tội ác của Giáo Hội do việc thi hành chủ trương và
các chính sách trên đây gây ra.
Không ai chối cãi được cái
bản chất đế quốc thực dân xâm lược trên đây của Giáo Hội La Mã. Bất kỳ đế
quốc thực dân xâm lược nào cũng cần phải có một khối nhân sự có những khả
năng chuyên môn về hành chánh, quân sự, tình báo, ngọai giao, tuyên truyền,
tài chánh, kinh tế, kinh tài, quản thủ tài sản, v.v.. để điều hành các cơ
quan trong bộ máy cai trị của đế quốc. Những thành phần làm việc cho bộ máy
cai trị của bất kỳ đế quốc thực dân xâm lược nào cũng đều được gọi là các
ông quan đế quốc thực dân và mang nặng tính cách phong kiến. Là một đế quốc
thực dân xâm lược, Giáo Hội La Mã cũng cần có bộ máy cai trị giống như tất
cả các đế quốc thực dân xâm lược khác. Điểm đặc biệt là các ông quan cai
trị trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã còn mang nặng tính cách đế
quốc thực dân phong kiến hơn tất cả các ông quan thực dân phong kiến của
bất kỳ đế quốc nào khác. Một điểm đặc biệt khác nữa là các ông quan cai trị
của Giáo Hội La Mã lại mang danh xưng là "tu sĩ" và được
trao phó cho nắm giữ nhiều vai trò khác nhau để phục vụ đắc lực tối
đa cho Giáo Hội trong mục đích duy trì và bành trướng quyền lực cho Giáo
Hội. (Xin xem lại Chương 7). Đây là lý do TẠI SAO cùng mang danh nghĩa là
"tu sĩ", mà các ông tu sĩ cúa đạo Gia-tô (xin hiểu là đạo Kitô La Mã) có
những chủ đích hay động lực thúc đẩy đi tu hoàn toàn trái ngược với chủ đích
hay động lực thúc đẩy đi tu của các nhà tu hành Phật Giáo. Chủ đích đi tu đã
khác nhau thi tất nhiên là những việc làm, cung cách hành sử và đời sống đạo
đức của họ cũng khác nhau. Vì giới hạn của chương sách này, người viết chi
trình bày cái hậu quả tai hại (bad consequence) của chủ đích đi tu
của các ông tu sĩ Gia-tô khác với thành quả của chủ đích đi tu của
các nhà tu hành Phật Giáo như thế nào mà thôi. Những phần khác xin miễn bàn
ở đây.
Thực ra, Giáo Hội cũng
biết rằng hầu hết những tín đồ dấn thân đi tu là để mưu cầu những thứ "quyền
hành, danh vọng và tiền bạc" để hưởng lạc và sống đời phong lưu phóng
đãng giống như các các đấng bề trên mà họ đã được biết rõ qua sách sử và qua
kinh nghiệm bản thân trong cuộc sống hàng ngày. Biết rõ chủ tâm của những
người muốn trở thành tu sĩ là như vậy, cho nên Giáo Hội đã dùng những thứ
này (quyền hành, danh vọng và tiền bạc) như là những miếng mồi vô cùng hấp
dẫn để lôi cuốn họ chạy theo để làm linh mục phục vụ cho Giáo Hội suốt cả
cuộc đời, rồi chính những thứ này tự nó đã trở thành xiềng xĩch cột buộc họ
vào cái cảnh "bị dồn ép" để phục vụ cho Giáo Hội và phải tuyệt đối trung
thành với Giáo Hội.
Xã hội loài người từ khi
đã trở thành văn minh, ngoại trừ những người ở trong tình trạng bất lực,
chúng ta có ba loại người ở trong hoàn cảnh có thể được gọi là sinh lý bị
dồn ép. Tình trạng này đã khiến họ luôn luôn bị dục tình thôi thúc và khẩu
súng dục tình của họ lúc nào cũng muốn tìm đối phương (đối tượng) để nhả
đạn.
Thứ nhất là
những quân lính đồn trú ở các vùng hỏa tuyến, không thể sống gần vợ con
khiến cho vấn đề sinh lý của họ bị tù hãm.
Thứ hai là
những tù nhân bị giam cầm lâu ngày trong ngục thất. Vì bị giam quá lâu,
không được giải quyết sinh lý và cũng không có một hồng nhan tri kỷ (một
người bạn khác phái) để tâm tình hầu giải tỏa tình cảnh bí bích về sinh lý
và tâm lý.
Tình trạng bí bích này
khiến cho hai giới người này (quân linh và tù nhân) trở thành những những
người có một đặc tính được diễn tả bằng thành ngữ "B tù C lính". Sở
dĩ có thành ngữ này là vì hai giới người này bị bắt buộc ở vào tình trạng "thèm
khát phụ nữ, sinh lý bị dồn ép", giống như những con cọp đói lâu ngày
chưa kiếm được con mồi. Tuy nhiên, về phương diện tâm lý, rất có thể họ vẫn
ở trong trạng thái bình thường, ngoài trừ việc họ phải sống trong tình cảnh
thương nhớ vợ con. Tất cả sẽ chấm dứt ngay khi họ trở về sống với gia đình
Thứ ba là
giới người khoác áo tu hành "mượn danh đạo tạo danh đời" tức là những
người không phải là các bậc chân tu.
Kinh nghiêm lịch sử cũng
như kinh nghiệm sống trong xã hội con chiên o ngày nay và trong thực tế,
phải thành thực mà nói rằng không có một ông linh mục hay tu sĩ Da-tô
nào đáng được gọi là "chân tu" theo quan niệm của người dân theo tam giáo cổ
truyền của dân tộc ta.
Trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã, đi
tu làm linh mục là ra làm quan với những quyền hành của một ông quan phong
kiến không những bao trùm lên toàn thể giáo dân trong vùng quản nhiệm, mà
còn bao trùm lên cả chính quyền thế tục tại địa phương. Ngòai ra, họ còn
được Giáo Hội giao phó cho nắm giữ rất nhiều vai trò khác nữa như đã được
trình bày đầy đủ ở Chương 7 ở trên. Kinh nghiêm lịch sử cho thấy rằng, họ
chỉ là những người mượn danh xưng tôn giáo để theo đuổi tham vọng quyền lực
hầu nhẩy lên bàn độc để ăn trên ngồi trước, đè đầu cỡi cổ nhân dân. Cũng vì
thế mà nhân dân các quốc gia nạn nhân của Giáo Hội La Mã mới gọi họ là "bọn
lưu manh buôn thần bán thánh đội lốt thầy tu" và nhân dân Âu Châu mới
gọi họ là bọn "lãnh chúa áo đen" và bọn "qụạ đen".
Vì không phải là những "bậc
chân tu", cho nên từ khi Giáo Hội chính thức ban hành quyết định vào
năm 1123 và thánh lệnh vào năm 1215cưỡng bách giới tu sĩ của Giáo
Hội phải sống độc thân, giới người này cũng rơi vào tình trạng "dồn ép" như
hai giới người lính tráng và tù nhân, và khẩu súng dục tình của họ cũng
luôn luôn ở trong tình trạng sẵn sàng nhả đạn vung vít và bừa bãi. Như vậy,
thành ngữ "B. tù, C. lính" cũng có thể sửa lại thành "B. tù C
linh mục".
Lính tráng, tù nhân và tu
sĩ Da-tô cùng ở trong tình trạng "bị dồn ép" về sinh lý như
nhau. Trong khi hai giới người lính tráng và tù nhân không có cơ hội đối
diện với nữ giới, thì giới tu sĩ Da-tô hàng ngày lại được đối diện, tiếp
xúc, chuyện trò với không biết bao nhiều đàn bà con gái với đủ mọi lớp tuổi,
vừa công khai ở nơi công cộng giữa đám đông người (trong giờ làm lễ, trong
những buổi họp mặt), vừa ở một nơi kín đáo trong một căn buồng "xưng tội".
Hòan cảnh này quả thật là vô cùng thuận lợi cho con cọp đói muốn chồm lên vồ
lấy con mồi. Trong tình trạng như vậy, cái gì có thể xẩy ra, tất nhiên là
phải xẩy ra.
Giáo Hội cũng biết rõ như
vậy. Hơn nữa, Giáo Hội còn biết rằng các tu sĩ các cấp đều biết rõ Giáo Hội
đã từng làm cả hàng rừng những việc làm bất nhân, bất nghĩa, đại gian, đại
ác, biết rõ có rất nhiều ông giáo hoàng và các vị chức sắc cao cấp trong
giáo triều Vatican cả đời ăn chơi phóng đãng, loạn luân, dâm loạn, phè phỡn
trên mồ hôi nước mắt của tín đồ và nhân dân bị trị, và còn biết rõ cả việc
Giáo Hội đã từng cho mở nhà chứa (nhà thổ) để lấy tiền chi tiêu cho cuộc
sống sa đọa trụy lạc của các nhà lãnh đạo cao cấp trong Giáo Hội. (Xin xem
lại các Chương 12, 13, 14 và 15 ở trên). Thượng bất chính, hạ tắc lọan.
Ở vào tình trạng như vậy, làm sao Giáo Hội có thể ngăn cấm, không cho giới
tu sĩ hủ hóa, sa đọa, sống đời phong đãng, hưởng lạc giống như các giáo
hoàng và các vị chức sắc trong giáo triều Vatican được? Vì thế, Giáo Hội
phải tìm ra một biện pháp giải quyết sao cho ổn thỏa để vừa làm hài lòng các
Ngài mang chức thánh trong hàng ngũ lãnh đạo vừa làm thỏa mãn nhu cầu sinh
lý của các ngài mang chức thánh trong hàng ngũ cán bộ thừa hành. Biện pháp
đó là một mặt cứ ngầm để cho họ được tự do trổ tài, tận dụng những mánh
mung riêng của họ để bốc hốt và hưởng lạc cho đã cuộc đời của họ, mặt khác,
phải tìm phương cách bưng bít và bao che cho họ.