CHÍNH SÁCH TUYỂN DỤNG TU SĨ
VÀ DUNG DƯỠNG CHO HỌ HỦ HÓA
"SỐNG ĐỘC THÂN" KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ KHÔNG CÓ LIÊN HỆ TÌNH CẢM VÀ TÌNH DỤC
VỚI NHỮNG NGƯỜI KHÁC PHÁI
Là một tổ chức chính trị có kinh nghiệm lão
luyện trong việc sử dụng thuật ngữ, Giáo Hội La Mã chỉ đòi hỏi giới
tu sĩ của Giáo Hội phải "sống độc thân", chứ trong thâm tâm
không hề có chủ đích đòi hỏi họ phải "sống trinh bạch", dù
Tòa Thánh Vatican luôn luôn cao rao là giới tu sĩ phải tuân hành ba
điều:
1.- Tuyệt đối vâng lời các đấng bề trên.
2.- Phải sống nghèo khó.
3.- Phải sống đời trinh bạch.
Trước hết, chúng tôi xin trình bày rõ
ràng về định nghĩa của hai chữ "trinh bạch" và cụm từ “sống độc
thân” rồi sau đó sẽ bàn đến vấn đề Giáo Hội đòi hỏi giới tu sĩ phải
"sống độc thân".
Trinh bạch .- Theo Hán Việt Từ Điển của
ông Đào Duy Anh thì "trinh bạch là tiết tháo trong sạch" (chaste,
pur). Theo Việt Nam Tự Điển của ông Lê Văn Đức thì "trinh
bạch là trinh trắng, trong sạch, trọn tiết". Căn cứ vào hai định
nghĩa trên đây, chúng ta có thể nói là "những người sống trinh
bạch là những người không bao giờ có liên hệ tình cảm với người khác
phái một cách không chính đáng". Nói cho rõ hơn, người "sống
trinh bạch" vẫn có thể có liên hệ tình cảm và tình dục với một
người khác phái, nhưng mối liên hệ này phải chính đáng đúng với "quy
tắc đạo lý hay văn hóa" trong xã hội mà họ sinh ra, lớn lên và
trưởng thành ở trong đó.
Độc thân.- Cũng theo Hán Việt Tự Điển
của ông Đào Duy Anh thì "độc thân là đứng một mình, không kết hôn".
Cũng theo Việt Nam Tự Điển của ông Lê Văn Đức thì "độc thân là
một mình, không lấy vợ hay lấy chồng. Ở độc thân, sống độc thân".
Như vậy, người sống độc thân là người sống một mình, không chính
thức thành hôn, nghĩa là không chính thức sống chung với một người
khác phái. Nói cho rõ hơn, trên giấy tờ hộ tịch, người sống độc thân
là người không có hôn thú chứng tỏ người đó là chồng hay là vợ của
một người nào.
Đó là nói về giấy tờ hộ tịch hay pháp lý. Thế
nhưng, trong thực tế, có rất nhiều người được gọi là “độc thân”
nhưng vẫn sống chung cùng một mái nhà với một người khác phái và có
cả một đàn con. Rõ ràng nhất là các ông tu sĩ áo đen trong xã hội
con chiên. Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Người “trong chăn”
trong xã hội con chiên là Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn đã nói rõ thực
trạng này trong hai số báo Tận Thế Số Ra Mắt (phát hành ngàn
15/6/2002 – nơi trang 27) và Tận Thế Số 2 (phát hành ngày 15/7/2002
– nơi trang 31). Địa chỉ Tòa Soạn của tờ báo này là P.O Box 8394,
Fountain Valley, CA 92728 USA.
Qua việc cưỡng bách các ông tu sĩ phải bỏ vợ
con, chúng ta thấy rõ hai sự kiện:
Sự kiện Thứ nhất là cái quy luật "quyền
hành sinh lợi lộc và sinh ra tội ác, rồi tội ác lại sinh ra tội ác".
Ở vào bất kỳ thời đại nào, quy luật này cũng có giá trị và ở trong
bất kỳ phạm vi hoạt động nào trong xã hội, quy luật này cũng xẩy
ra, nhất là trong xã hội sống dưới ách thống trị của chế độ đạo
phiệt Da-tô, thì nó lại càng rõ rệt hơn cả. Chúng tôi sẽ bàn thêm
vấn đề này ở phần sau.
Sự kiện thứ hai là Giáo Hội La Mã đã để
lộ ra bộ mặt thật cực kỳ ích kỷ và vô cùng dã man, dã man đến độ
không còn một chút gì gọi là "nhân tính". Giáo Hội chỉ biết chạy
theo lợi lộc vật chất ở trên thế gian này, chứ không còn có chút gì
gọi là lương tâm và nhân ái, và cũng không biết gì đến giá trị tinh
thần của con người trong xã hội văn minh hay giá trị thiêng liêng
trong thế giới thần linh mà Giáo Hội vẫn thường cao rao.
GIÁO HỘI LA MÃ VÀ VẤN ĐỀ TRINH BẠCH
Mặc dù hai chữ "trinh bạch" luôn luôn được
Giáo Hội cao rao, nhưng trong thực tế lại hoàn toàn không đúng như
vậy. Tìm hiểu đời sống riêng tư của các vị chức sắc cao cấp trong
hàng ngũ lãnh đạo Giáo Hội từ năm 325 cho đến ngày nay, tìm hiểu đời
sống, việc làm của giới tu sĩ Da-tô trong xã hội con chiên, quan sát
đời sống hàng ngày và cung cách cư xử của họ đối với mọi người xung
quanh, chúng ta thấy rằng:
Đối với giới tu sĩ, trong 3 điều (tuyệt
đối vấng lời các đấng bề trên, phải sống trong nghèo khó và phải
sống đời trinh bạch) trên đây, Giáo Hội chỉ đòi hỏi họ phải tuân
hành có điều 1 (tuyệt đối vâng lời các đấng bề trên) mà thôi.
Điều 2 (phải sống nghèo khó), để dành an ủi những Linh-mục
lúc về già bị Giáo Hội bỏ rơi vì không còn khả năng làm việc, không
còn làm lễ ở nhà thờ để kiếm tiền cho Giáo được nữa. Còn điều 3 (
phải sống đời trinh bạch). Đây là lời nói bịp bợm của Giáo Hội, sẽ
được bàn ở đoạn sau.
Đối với giáo dân, Giáo Hội luôn luôn đòi hỏi họ
phải tuyệt đối tuân hành điều 1 như trên. về điều 2, Giáo Hội chỉ
dùng nó như một lời khuyên với dã tâm làm cho tín đồ an tâm sống
nghèo mà đem tiền của đóng góp cho Giáo Hội. Nhưng khi muốn sử dụng
họ làm con thiêu thân đi đánh phá các nhóm dân thuộc các tôn giáo
khác, thì Giáo Hội lại dùng miếng mồi vật chất (tiền của) tức là
chiến lợi phẩm để câu nhử, dụ khị hay lôi cuốn họ đi làm bia đỡ đạn
cho Giáo Hội. Bản văn sử nói về lời kêu gọi giáo dân tham gia các
đạo quân Thập Tự vào cuối năm 1095 của Giáo Hoàng Urban II
(1088-1099) khi phát động Thập Tự Chiến (như đã nói ở trên) nói lên
sự thật này.
Trong thực tế, con chiên ở những quốc gia đã bị
áp đặt sống dưới chế độ cha cố lâu đời như Âu Châu trong thời Trung
Cổ, Phi Luật Tân và các quốc gia Châu Mỹ La-tinh thì mới sống trong
nghèo khó vì bị Giáo Hội và các đấng bề trên bóc lột bằng trăm
phương ngàn kế. Còn về phía quý vị chức sắc cao cấp và giới giáo sĩ
trong Giáo Hội, thì các ngài quả thật chẳng "sống trong nghèo
khó" bao giờ cả, ngoại trừ một vài trường hợp của một số Linh-mục
cùng đinh ở trong những xóm đạo nghèo nàn tại các quốc gia mà chính
quyền không phải là tay sai của Giáo Hội. Cứ nhìn vào Tòa Thánh
Vatican và các tòa giám mục, chúng ta sẽ thấy ở bất kỳ quốc gia nào
vào bất kỳ thời đại nào, các ngài cũng sống trong lâu đài điện ngọc,
bước đi một bước là có quân hầu đầy tớ, có giáo dân lũ lượt quỳ lạy
tung hô.
GIÁO HỘI CÓ TÔN TRỌNG SỰ TRINH BẠCH HAY KHÔNG?
Trở lại vấn đề Giáo Hội La Mã đòi hỏi giới tu
sĩ của Giáo Hội "phải sống trinh bạch". Sự thực, như đã nói ở
trên, đây chỉ là một thuật ngữ, một lối sử dụng "hoa ngôn"
hay "mỹ ngữ" để nhập nhằng và lộn sòng nhằm che đậy việc
cưỡng bách họ phải "sống độc thân", nhưng vẫn thỏa thuận ngầm
để có thể sống chung với người khác phái mà không có hôn thú. Làm
như vậy, chủ ý của Giáo Hội là ngăn ngừa, không để cho giới tu sĩ
chuyển nhượng cho vợ con những khối tài sản kếch sù của Giáo Hội mà
họ quản lý ở trong họ đạo hay giáo phận của họ.
Điều kiện đòi hỏi tu sĩ phải sống trinh bạch:
Đây chỉ là lời nói đầu môi chót lưỡi dùng để lừa bịp người đời mà
thôi.
Đối với các ngài tu sĩ: Sự thật như thế
nào, lịch sử đã nói rất nhiều về đời sống bê bối, thối tha của những
vị chức sắc cao cấp nhất trong Giáo Hội mà chúng tôi đã trình bầy
tương đối đầy đủ trong Chương 13 (Mục IV) ở trên. Độc giả cũng có
thể theo dõi tin tức do các cơ quan truyền thông Hoa Kỳ và các nước
khác loan truyền từ đầu năm 2002, nói về các ông tu sĩ Da-tô ở Hoa
Kỳ liên hệ và can tội loạn dâm, sờ mó trẻ em nam nữ một cách bất
bình thường. Nếu cần, độc giả cũng có thể làm một chuyến đi "thăm
dân cho biết sự tình", đến cộng đồng con chiên nguời Việt ở
thành phố Portland (Oregon), một thành phố lớn đứng hàng thứ nhì ở
miền Tây Bắc Hoa Kỳ, hỏi thăm về đời sống "trinh bạch" của
ngài mang chức thánh Cao Đăng Minh và hỏi tại sao Ngài lại bỏ Chúa,
bỏ nhà thờ, âm thầm lặng lẽ ra đi không một lời từ giã con chiên của
Ngài. Sau đó, quý vị quá bộ xuống đến thăm cộng đồng con chiên người
Việt ở Houston, Texas hỏi thăm họ về đời sống "trinh bạch"
của hai ngài mang chức thánh là Đào Quang Chvà Nguyễn Hũu
Dụ. Tiếp theo, xin mời quý vị nên đến thăm cộng đồng con chiên trong
thành phố Chicago (Illinois) để tìm hiểu về nếp sống "trinh bạch"
của ngài mang chức thánh Trịnh Thế H. xem ra sao. Nếu có rộng thì
giờ, xin quý vị làm một chuyến viễn du tới Orange County,
California, mời bà Bích Ngọc cùng đến thăm Linh-mục Trần Công Nghịđể nhờ ngài giảng về hai chữ "trinh bạch" và "sống
nghèo khổ". Sau những chuyến viếng thăm này, nếu còn thì giờ,
quý vị cứ tiếp xúc với bất kỳ Linh-mục nào trong số các ngài mà
Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn đã nêu đích danh trong hai tờ Tận Thế
Số Ra Mắt, ngày 15/6/2002 và Tận Thế Số 2, ngày 15/7/2002
để biết rõ "đời sống trinh bạch" của các ngài "mang chức
thánh" người Việt của Giáo Hội La Mã.
Đối với giáo dân: Trong thực tế, Giáo
Hội và các chính quyền đạo phiệt tay sai của Giáo Hội chẳng bao giờ
tôn trọng "trinh tiết" hay sự "trinh bạch" của nữ
giới. Các tài liệu lịch sử nói về đời sống bê bối thối tha trong
giáo triều Vatican, cũng như những vụ tai tiếng về loạn dâm bùng nổ
ở Hoa Kỳ từ tháng 1/2002 cho đến nay (2009) là bằng chứng rõ rệt cho
sự kiện này.
Tiện lợi nhất là chúng ta hãy chọn chính quyền
đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm làm tiêu biểu cho việc kiểm nghiệm
này. Trước hết, chúng ta hãy giả thử hoặc tưởng tượng trong một nước
dân chủ tự do như ở Hoa Kỳ này, nếu có một sĩ quan an ninh mặc quân
phục và dùng xe chính phủ đi bắt vợ của một nghi can (bất kể tội gì)
đem về sở thẩm vấn, rồi chính vị sĩ quan đó, hay một nhân viên khác
trong chính quyền cưỡng dâm nạn nhân và sống công khai với nạn nhân
như vợ chồng để phá nát hạnh phúc gia đình của nghi can đó, thì :
1.- Viên sĩ quan an ninh đó sẽ bị pháp luật
trừng trị như thế nào?
2.- Các cơ quan truyền thông và dư luận quần
chúng sẽ phản ảnh như thế nào?
3.- Nhà lãnh đạo chính quyền (thí dụ như Tổng
Thống Bush hiện nay), hay cấp trên của viên sĩ quan này sẽ phải nhận
lãnh trách nhiệm như thế nào đối với tội ác trời không dung đất
không tha này?
Ấy thế mà trong chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô
Đình Diệm, mấy vị sĩ quan an ninh là thủ phạm những tội ác dã man
như vậy đối vời bà vợ của Đại Tá Nguyền Chánh Thi và bà vợ Đại Úy
Phan Lạc Tuyên không hề bị trừng trị.[13]
Ngược lại, những tên ác ôn côn đồ này rất có thể còn được thăng chức
nữa. Từ đó, quý vị có thể suy ra mà nhận thức được mức độ dã man của
Giáo Hội La Mã trong việc chà đạp lên đời sống "tiết hạnh và trinh
tiết" của phụ nữ và hạnh phúc của nhân dân. Hành động dã man này là
nếp sống trong nền văn hóa Da-tô, vì rằng ở đâu có sự can thiệp của
Giáo Hội La Mã, hay có chính quyền đạo phiệt Da-tô là ở đó có những
hành động dã man như vậy.
Theo sự tìm hiểu của người viết, nhân loại đã
trải qua không biết bao nhiêu là chế độ chính trị trong đó có rất
nhiều chế độ độc tài chuyên chính, mà gần đây nhất là Đế Quốc Thực
Dân Xâm Lược Pháp, Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Nhật, Đức Quốc Xã, Phát
Xít Ý, Cộng Sản, nhưng không có chế độ độc tài chuyên chính nào lại
bạo ngược và dã man như Giáo Hội La Mã và các chế độ đạo phiệt Da-tô
tay sai của “cái tôn giáo ác ôn" này.
GIÁO HỘI LA MÃ LÀ TỔ QUỐC CỦA CÁC TU SĨ DA TÔ
Việc tuyển dụng tu sĩ của Giáo Hội La Mã gặp
phải khó khăn là do việc đặt ra hai điều kiện đòi hỏi
con chiên khi dấn thân vào học nghề làm Linh-mục. Hai điều kiện đó
là:
A.- Phải cam kết sống độc thân trọn đời.
Đây là điều kiện khắt khe nhất và làm mất nhân tính khi phải dấn
thân vào làm nghề Linh-mục. Ai cũng biết rằng, tình cảm thiêng liêng
cao qúy thiên bẩm của con người là tình yêu lứa đôi trai gái (khi
thăng hoa thành tình yêu vợ chồng, nguồn gốc của tình yêu gia đình).
Đòi hỏi các ứng viên học nghề làm Linh-mục "phải cam kết sống
trọn đời độc thân" tức là đòi hỏi họ phải dứt bỏ cái nguồn gốc
của tình yêu gia đình. Đây là điều kiện rất khó cho một người bình
thường có thể tuân hành được, vì nó đi ngược với quy luật "âm
dương kết hợp" bẩm sinh của con người và một số loại sinh vật ở
trên cõi đời này. Điều kiện này lại càng khó thực hiện hơn đối với
những người đã được thụ phong Linh-mục, hay đã được gọi là "mang
chức thánh" trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã, vì
rằng họ là những người do lòng thèm khát quyền lực, háo danh và hám
lợi mà dấn thân vào học nghề làm Linh-mục, và sau khi được thụ phong
Linh-mục rồi thì quyền lực bao trùm lên cả thế quyền tại địa phương.
Từ đó trở về sau, họ bước vào cuộc đời quyền uy, danh vọng, tiền
bạc, giầu sang, oai phong lẫm liệt, hét ra lửa, mửa ra khói, không
khác gì một ông lãnh chúa trong thời chế độ phong kiến còn cực
thịnh. Bằng chứng là:
1.- Những hình ảnh của các ông Linh-mục Việt
Nam trong thời 1862-1945 như Trần Lục (Phát Diệm), Cố Ân (Hà Nội),
Cố Antôn, cố Giăng, cố Anvarê Cao, v.v... Sự kiện này được Linh-mục
Trần Tam Tỉnh ghi lại qua câu chuyện nói về Cố Antôn và Cố Giăng
dưới đây là bằng chứng bất khả phản bác.
"Phải nói rằng các cố thừa sai, do mầu da
và chiếc áo chùng thâm của họ, họ đứng ở một vị trí rất cao trên
chiếc thang xã hội. Người ta phải cung kính họ ngang với các quan
đầu tỉnh (gọi là công sứ tại hai miền Trung và miền Bắc). Và nhiều
ông đã lợi dụng vị trí của họ như thế để cai quản theo kiểu bạo
chúa. Một vài thí dụ, Cố Antôn đi qua một làng lương, trên người
mang áo chùng thâm và các áo phép. Một số thiếu niên người lương
thấy cố ăn mặc kỳ cục thì cười diễu, có vài trẻ dám chửi rủa Cố. Trở
về nhà, Cố tức giận tập hợp giáo dân lại, ra lệnh cho họ đi ruồng
qua làng lương kia, trừng phạt đích đáng mấy đứa có tội, nghĩa là
đánh đập tất cả những người họ bắt gặp ngoài đường. Họ tung hoành
trong làng ấy như đối với quân thù vậy. Các cụ bô lão trong làng
lương bèn gửi đơn khiếu nại lên huyện. Và thật là ngỡ ngàng khi thấy
quan huyện bắt họ phải mua lễ vật, theo phong tục Việt Nam mà đến
sắp mình lạy trước mặt Cố, xin tha thứ cho những gì đã xúc phạm Cố.
Quan huyện còn nói thêm: Đó là bản án còn nhẹ đấy, bởi đây là lần
đầu tiên dân tụi bay đã phạm lỗi như thế. Chớ quên rằng, nếu còn tái
phạm, thì bô lão sẽ vào tù, còn phạm nhân thì sẽ bị tử hình".
"Cố Giăng, nằm trong một cái cáng do 2
giáo dân khiêng đi tới một thành phố cách nhà 18 kilomet. Vừa ra
khỏi xứ đạo, một trong hai người khiêng cáng thưa rằng mình bị bệnh,
xin cố kiếm ai thay thế. Cố bảo: Cứ bắt được ai thì bắt! Có một
người đi qua, Cố kêu: “Bớ anh kia, đến khiêng ta đi tỉnh!”. Người
kia lắc đầu: "Không, tôi không thể và tôi không muốn". – “Thằng xấc
láo, mày không muốn hả? Thằng giặc!”. Người kia vẫn không chịu
khiêng: "Tôi là lý trưởng, tôi không thể khiêng được". Đứng trước sự
khước từ dứt khoát như thế, ông Cố xuống khỏi cáng, cầm gậy nhẩy bổ
tới đánh đập viên lý trưởng, miệng nguyền rủa "…Lý với không lý,
liệu mà khiêng cáng cho tao. À thằng giặc Cộng Sản! Mày sẽ biết tay
tao!"
Hôm đó, Cố Giăng đến nhà quan đầu tỉnh và
tố cáo rằng làng bên lương cạnh xứ đạo của ông đang nổi loạn mà
chính tên lý trưởng cầm đầu. Qua ngày hôm sau, viên lý trưởng bị
cách chức và bị tống vào ngục. Không hiểu Cố Giăng có tạ ơn Chúa cho
mình chiến thắng tên ngoại đạo kia chăng, nhưng chắc Cố phải rất
thích thú thấy rằng, phong trào chống giáo sĩ bên chính quốc Pháp
chưa được du nhập sang các vùng thuộc địa."
[14].
2.- Trong thời Kháng Chiến 1945-1954, tình
trạng này còn ghế gớm hơn nữa. Xin xem lại Mục II trong bộ sách này
và Chương 5 trong cuốn Nói Chuyện Với Tổ Chức Viêt Nam Cộng Hòa
Foundation (Houston: TX: 2004).
3.- Trong thời chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô
Đình Diệm (1954-1963) và quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu
(1967-1975), tình trạng này lại càng trầm trọng hơn trước nữa. Những
hình ảnh của Giám-mục Ngô Đình Thục (Vĩnh Long và Huế), GM Phạm Ngọc
Chi (Quy Nhơn), và các Linh-mục Hoàng Quỳnh (Chợ Lớn), Mai Ngọc Khuê
(Tân Sa Châu, Tân Bình, Gia Định), Đinh Xuân Hải (Phú Thọ Hòa, Tân
Bình, Gia Định), Tô Đình Sơn (Phú Yên), Trần Đình Vận (Dốc Mơ, Long
Khánh), Cha Triệu (Bến Dinh, Châu Đốc), Cha Tông (Chương Thiện), Cha
Nguyễn Lạc Hóa (Biệt Khu Hải Yến, Cà Mâu), v.v..là bằng chứng rõ
ràng không ai có thể phủ bác được. Những hành động tác oai tác quái
của các ngài lãnh chúa áo đen và áo tím này, đã để lại dấu ấn trong
xã hội miền Nam Việt Nam trong thời kỳ này bằng một câu vè: "Nhất
đĩ, nhì cha, tam sư, tứ tướng". Thiết nghĩ rằng bất kỳ người
dân miền Nam nào từ tuổi lên 10 đã sống ở miền Nam vào thời đó cũng
đều biết cả.[15]
4.- Ngay cả ở hải ngoại từ tháng 4 năm 1975
cho đến ngày nay (2004), sống trong chế độ tự do dân chủ như ở Bắc
Mỹ này, mà các ngài lãnh chúa áo đen vẫn còn lộng hành chẳng khác gì
như khi các ngài còn ở miền Nam Việt Nam trước ngày 30/4/1975.
Những hành động ghê tởm của của các ngài như Nguyễn Hữu Việt Ch,
(Louisiana), Cao Đăng M., (Oregon), Trần Công Ngh., (California)
Trịnh Thế H. (Chicago, Illinois), Nguyễn Hữu Dụ, (Texas), Đào Quang
Ch. (Texas), Nguyễn Đức T. (California) và tất cả các ngài được
Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn nêu đích danh nơi các trang 27-28 trong tờ
Tận Thế Số Ra Mắt, ngày 15/6/2002, và nơi các trang 31-32 trong tờ
Tận Thế Số 2, ngày 15/7/2002 là bằng chứng bất khả phản bác cho sự
kiện này. (Địa chỉ Tòa Soạn của tờ báo này là : P. O. Box 8394,
Fountain Valley, CA 92728 USA).
Từ ngàn xưa, trong những kẻ có quá nhiều
quyền lực trong tay, nhất là những hạng người thèm khát quyền lực,
háo danh tham lợi như giới tu sĩ Da-tô (đã chứng minh ở trên), rất
hiếm người lại biết tôn trọng nhân quyền và sự trinh bạch của nữ
giới. Tất cả sự kiện này đã được trình bày khá đầy đủ và rõ ràng ở
các Chương 9, 10 và 11 (Mục IV) ở trên.
B.- Phải tuyệt đối tỏ lòng tin tưởng và
trung thành với Giáo Hội La Mã.
Đây chỉ là một lối sử dụng thuật
ngữ để tránh né khỏi phải nói thẳng ra rằng "linh-mục bản địa
phải tuyệt đối tuân hành lệnh của Giáo Hội để chiến đấu ở ngay trong
đất nước họ chống lại bất kỳ chính quyền nào không phải là tay sai
của Giáo Hội, và chống lại những nhóm dân không phải là tín đồ của
Giáo Hội." Như vậy, rõ ràng là cụm từ "Phải tuyệt đối trung
thành với Giáo Hội La Mã" tức là "phải dứt khoát từ bỏ tình
yêu đối với quê hương và dân tộc để hướng trọn tâm linh vào việc tôn
thờ và phục vụ cho Giáo Hội La Mã". Sự kiện này được thể hiện ra
qua lời tâm sự của Linh-mục Trịnh Văn Phát trong bài viết "Cảm
Nghĩ Một Chuyến Đi " đăng trong tờ Liên Lạc Số 2 với nguyên văn
như sau:
"Trong suốt thời gian tôi ở Việt Nam, tôi đã
suy nghĩ và tự hỏi mình phải làm gì cho quê hương và Giáo Hội. Giúp
quê hương không phải là bổn phận của tôi, nhưng tôi có bổn phận với
Giáo Hội vì tôi là người của Giáo Hội và được đào tạo để sau này
phục vụ cho Giáo Hội. Có nhiều anh em yêu cầu tôi về giúp cho địa
phận, tôi thẳng thắn trả lời là tôi không có tự do chọn lựa, tôi
được huấn luyện để phục vụ theo nhu cầu của Giáo Hội."
[16]
Ai cũng biết rằng, trong thực tế, Giáo Hội La
Mã chỉ là một danh xưng bề ngoài của Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược
Vatican. Như vậy là điều kiện "Phải tuyệt đối trung thành với Đế
Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican" là một lệnh đòi hỏi con chiên và
những con chiên theo học nghề làm Linh-mục, phải trở thành một phần
tử trong lực lượng xung kích trong đạo quân thứ 5 nằm vùng tại địa
phương, sẵn sàng tuân lệnh Giáo Hội vùng lên chống lại chính quyền
quốc gia bản địa, nếu chính quyền này không chịu khuất phục hay thỏa
mãn những điều kiện của Tòa Thánh Vatican đưa ra.
Đã tuyệt đối trung thành với một đế quốc thực
dân xâm lược, thì khi đế quốc này phát động cuộc chiến xâm chiếm
quốc gia của đương sự thì đương sự phải đứng về phía đế quốc đó để
chống lại đất nước của mình. Sự kiện này cho chúng ta thấy rõ những
người dấn thân vào học nghề làm Linh-mục cho Giáo Hội La Mã, Nếu
tuân hành đúng điều kiện này, thì họ đương nhiên thành hạng người
VONG BẢN, PHẢN QUỐC. Sự kiện này đã thể hiện ra bằng những hành động
của họ trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam từ năm 1533 cho đến
ngày nay(2004). Cái bản chất vong bản, phản quê hương, phản dân tộc
của họ vẫn còn nguyên vẹn như vậy khi mà họ vẫn còn "tin tưởng và
tuyệt đối vâng lời Giáo Hội La Mã", và còn "triệt để tuân hành
những lệnh truyền của các đấng bề trên của họ". Lời nói "giang
sơn dị cải, bản chất nan di" của người Trung Hoa quả thật không
sai chút nào cả.
Như vậy là, trên lý thuyết hay trong tư
tưởng và suy tư, cũng như trong thực tế hay trong hành động và cung
cách hành xử, họ phải từ bỏ tình yêu và nghĩa vụ đối với Tổ quốc, từ
bỏ tình yêu và nghĩa vụ đối với dân tộc để hết lòng trung thành và
phục vụ cho Giáo Hội. Nhưng thực chất Giáo Hội La Mã là Đế Quốc Thực
Dân Xâm Lược Vatican, với chủ trương bất di bất dịch là sử dụng bạo
lực, đem quân đi đánh chiếm đất đai của các dân tộc thuộc tôn giáo
khác làm thuộc địa (hay dùng bọn tín đồ cuồng tín tại địa phương để
cướp chính quyền) rồi cưỡng bách dân tộc nạn nhân này phải theo đạo
và làm nô lệ cho Giáo Hội. Việc ban hành thánh chỉ Romanus Pontifex
vào ngày 8 tháng 1 năm 1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V
(1447-1455) và các thánh chỉ kế tiếp sau đó trong thời các Giáo
Hoàng Callistus III (1455-1458), Sixtus IV (1471-1484) và Alexander
VI (1492-1503) là bằng chứng cho sự kiện này. Xin xem Chương 3,
sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương sách này có thể đọc
online trên sachhiem.net.
Trong lịch sử, Giáo Hội thực sự đã từng là
một trong hai thành phần đem quân xâm lăng, đánh chiếm Việt Nam từ
cuối thập niên 1850 và đã thiết lập được hệ thống quyền lực ở Việt
Nam cả hơn một thế kỷ. Mãi cho đến ngày 30/4/1975, hệ thống quyền
lực của Giáo Hội mới bị phá vỡ, nhưng vẫn còn cố gắng giẫy dụa tác
hại cho dân tộc Việt Nam ta bằng cách này hay cách khác. Những tàn
dư của thế lực này vẫn còn ở lại Việt Nam tuy đã co lại thành những
đạo quân thứ 5 nằm trong các giáo xứ, các làng đạo hoặc xóm đạo. Như
vậy, dân tộc Việt Nam rõ ràng là nạn nhân của quân xâm lăng Vatican
tức Giáo Hội La Mã. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, Giáo Hội La
Mã là quân cướp ngoại thù nguy hiểm nhất, thâm độc nhất, dã man và
tàn ác nhất nếu so với các đế quốc xâm lăng Tầu, Pháp và Nhật mà dân
tộc ta đã kinh qua. Thực tế lịch sử đã cho thấy rõ sự thật là như
vậy.
Ấy thế mà họ (những người hành nghề Linh-mục
và tất cả các con chiên được Giáo Hội coi là ngoan đạo mà chúng ta
gọi là cuồng tín) vẫn coi Giáo Hội như là Tổ quốc đích thực của họ,
phải tuyệt đối trung thành với Giáo Hội và phải làm tất cả những
việc làm chống lại quê hương, chống lại truyền thống của gia đình
và truyền thống dân tộc. Sự kiện này đã được thể hiện ra bằng những
suy tư, thái độ và hành động của hầu hết những tu sĩ Da-tô và con
chiên ngoan đạo người Việt trong suốt chiều dài lịch sử, từ khi đạo
Da-tô được truyền vào Việt Nam từ giữa thế kỷ thứ 16 cho đến nay.
Như vậy, rõ ràng là họ đã trở thành những quân vong bản, phản quê
hương, phản dân tộc.
MỘT THỨ GIAO KÈO THUÊ NHÂN CÔNG
Bất kỳ công ty kỹ nghệ sản xuất hàng hóa nào
cũng cần phải có những chuyên viên điều hành các công việc chuyên
môn trong công ty. Những chuyên viên này, được tuyển dụng theo một
giao kèo trong đó có những điều khoản mà cả công ty (ông chủ) và
chuyên viên được thuê mướn đều có thể chấp nhận được. Tùy theo khả
năng chuyên môn của mỗi người, công ty phải trả tiền lương hàng
tháng hay hàng năm cho họ và một số quyền lợi vật chất khác. Ngược
lại, chuyên viên được thuê mướn phải đem hết sức lao động và kinh
nghiệm chuyên môn của mình để phục vụ cho công ty.
Một đế quốc thực dân xâm lược với một bộ máy
cai trị bao gồm cả chính quốc và các thuộc địa cũng cần có những ông
quan cai trị giỏi, vừa phải tuyệt đối trung thành với chính quyền
trung ương vừa phải triệt để chấp hành mệnh lệnh từ trên ban xuống,
vừa phải biết trị an và bóc lột nhân dân tối đa để có thể thu vơ
được thật nhiều lợi nhuận đem về làm giầu cho chính quốc. Những ông
quan cai trị này cũng được tuyển dụng theo một giao kèo trong đó nhà
nước đế quốc vừa phải trả lương cho họ một cách hậu hĩ, vừa phải ban
cấp cho họ những quyền hành giống như một ông vua con hay một ông
lãnh chúa trong địa hạt trấn nhậm.
Giáo Hội La Mã vừa là đế quốc thực dân xâm lược
có quyền lực bao trùm từ giáo triều Vatican (curia) cho tới các
thuộc địa (giáo phận) ở khắp mọi nơi trên toàn cầu, vừa là công ty
kinh doanh khai thác kỹ nghệ “buôn thần bán thánh”, nắm độc quyền
sản xuất những chuyện hoang đường, tín lý nhảm nhí, chế tạo thánh,
sản xuất thánh tích, v.v..., tất nhiên là Giáo Hội cũng phải cần có
khối nhân sự vừa là ông quan cai trị với những đức tính và chức vụ
giống như một ông quan phong kiến của một đế quốc thực dân xâm
lược, vừa là nhân viên có khả năng chuyên môn có tài nói láo để tô
vẽ và quảng bá những sản phẩm (những chuyện hoang đường, láo khoét)
của Giáo Hội đã tung ra thị trường tiêu thụ. Những ông quan phong
kiến trong bộ máy cai trị của Giáo Hội La Mã cũng được tuyển dụng
theo một giao kèo giống như ông quan trong bộ máy cai trị của bất kỳ
một đế quốc thực dân xâm lược nào khác, nhưng ông quan phong kiến
trong Giáo Hội La Mã có nhiều quyền lực hơn (vì rằng Giáo Hội theo
đuổi chủ trương "thần quyền chi đạo thế quyền"), được tôn
vinh là "giáo sĩ" và "tu sĩ" (một giới người được xếp vào hàng
thượng đẳng của xã hội trong thời ông Moses) để chỉ đạo nhà cầm
quyền thế tục. Chính vì các ông giáo sĩ hay tu sĩ Da-tô có nhiều
quyền lực hơn một ông quan trong một đế quốc xâm lược hay trong một
nước theo quân chủ phong kiến chuyên chế, cho nên có rất nhiều con
chiên mong muốn trở thành tu sĩ của Giáo Hội.
Thói đời, "có đi, có lại thì mới tọai lòng
nhau", hay "ông mất cái giò, bà thò nậm rượu". Quyền lực
và danh lợi mà giới tu sĩ Da-tô chạy theo đeo đuổi và có được là do
Giáo Hội La Mã ban cho và được phỉnh nịnh bằng mỹ từ "Chúa
chọn" hay "ơn Chúa" (nặng tính cách bịp bợm). Ngược lại,
họ phải hy sinh cả cuộc đời cho Giáo Hội trong đó có cả (a)
việc phải hy sinh tình yêu lứa đôi trai gái, phải sống độc thân trọn
đời, ghê gớm hơn nữa là (b) việc phải từ bỏ tình yêu và nghĩa
vụ đối với Tổ quốc và đối với dân tộc, (c) phải tỏ lòng tuyệt
đối trung thành đối với Giáo Hội (được ngụy trang bằng mỹ từ "trung
thành với Chúa" ).
Trên đây là ba đặc tính nổi bật nhất của người
tu sĩ Da-tô. Không có ba đặc tính này hay thiếu một trong ba đặc
tính này thì họ không còn là "tu sĩ Da-tô" đúng như
Giáo Hội La Mã mong muốn, và sẽ bị Giáo Hội cho là "rối đạo". Đây là
trường hợp Linh-mục Trần Tam Tỉnh, tác giả cuốn Thập Giá Và Lưỡi
Gươm (Paris, Sudestasie, 1978).
Riêng về phía bầy con chiên, Giáo Hội chỉ đòi
hỏi họ phải tuyệt đối tin tưởng vào tất cả tín lý thần học Kitô,
phải triệt để tuân hành tất cả giáo luật, và tuyệt đối vâng lời dạy
dỗ của Giáo Hội, vâng lời các đấng bề trên. Làm đúng như vậy thì mới
được gọi là tín đồ "ngoan đạo". Nhưng nếu làm đúng như vậy, thì họ
lại trở thành người vong bản, phản quê hương, phản dân tộc. Nếu
không tin tưởng vào tín lý thần học Ki-tô, hay không vâng lời dạy dỗ
của các đấng bề trên, thì họ sẽ bị Giáo Hội và con chiên "ngoan
đạo" coi như là "phản đạo" hay "Chống Chúa" và có thể
bị vạ "tuyệt thông" (excommunicated). Đây là trường hợp các
ông Charlie Nguyễn (tác giả cuốn sách Công Giáo Huyền Thoại Và Tội
Ác, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, Thực Chất Đạo Công Giáo Và Các Đạo
Chúa), ông Phạm Hữu Tạo (chủ bút tờ Đông Dương Thời Báo ở Houston,
Texas), và tất cả những con chiên đã phản tỉnh và đã nhìn ra bộ mặt
thật cực kỳ ghê tởm của Giáo Hội La Mã.
Cũng xin nhắc lại rằng, đối với Giáo Hội La Mã,
sống độc thân phải được hiểu ngầm là không được chính thức lập gia
đình, nhưng không có nghĩa là "sống đời trinh bạch", dù rằng
Giáo Hội vẫn luôn luôn cao rao và nêu lên hai chữ "trinh bạch"
đối với tu sĩ. Những người hiểu rõ lịch sử Giáo Hội đều đồng ý với
câu nói, "Đừng tin những gì Giáo Hội nói, hãy nhìn những gì Giáo
Hội đã và đang làm."