Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam
Nguyễn Mạnh Quang
https://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_11b.php
|
bản in |
¿ trở ra mục lục
| 21 tháng 12, 2009
PHẦN II
◎◎◎
CHƯƠNG 11
TỘI ÁC CỦA GIÁO DÂN NGƯỜI VIỆT
ĐỐI VỚI TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
(tiếp theo)
III.- BÀN TAY NHÀ THỜ VATICAN TRONG CHÍNH QUYỀN VÀ TỆ NẠN XÃ HỘI MIỀN NAM
Có lẽ không có câu nói nào trung thực về thực trạng bàn tay Nhà Thờ Vatican
trong chính quyền và trong vấn đề tệ nạn xã hội ở miền Nam Việt Nam trong những
năm 1954-1975 bằng hai câu vè
(1) “Nhất Chúa nhì Cha, thứ ba Ngô Tổng Thống” và
(2) “Nhất đĩ, nhì cha (cố đạo) , tam sư, tứ tướng".
Điểm đặc biệt là câu vè (1) tác phẩm của Nhà Thờ Vatican được sáng tác ra để
“đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo” để
cho họ theo đó mà “sống đạo theo đức tin Ki-tô” hay “sống theo
lương tâm công giáo”. Câu vè (2) là sản phẩm tự phát của người dân miền Nam
để nói lên cái thực trạng xã hội miền Nam lúc bấy giờ. Qua hai câu vè trên đây,
chúng ta thấy rõ vai trò của Nhà Thờ Vatican ở hậu trường sân khấu chính quyền
và bàn tay của các ngài lãnh chúa áo đen quấy trời chọc nước ở trong xã hội miền
Nam trong những năm này. Cũng vì thế mà những khu rừng tội ác như đã trình bày ở
trên đều là do các chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô
Nguyễn Văn Thiệu cùng với bàn tay của Giáo Hội La Mã qua các Nhà Thờ Vatican ở
hậu trường các chính quyền này gây ra. Những rặng núi tội ác này không những đã
trực tiếp gây ra hậu quả vô cùng tai hại cho miền Nam Việt Nam, mà còn để lại
những di hại vô cùng ghê gớm vào tâm hồn những người chịu ảnh hưởng của nếp sống
văn hóa Vatican. Phần trình bày dưới đây sẽ giúp cho mọi người chúng ta thấy rõ
vấn đề này.
1.- Nhà Thờ Vatican và các chính quyền miền Nam cấu kết với nhau cùng sử dụng
chính quyền để cứớp đoạt tài nguyên quốc gia (cướp gỗ rừng, chiếm đọat ruộng
đất), thâm lạm công quỹ, ăn chặn tiền viện trợ, chuyển ngân, buôn lậu nha phiến,
buôn vàng lậu và hàng hóa lậu, tổ trác tham nhũng, mua quan bán chức, v.v...
Như đã trình bày ở trên, trong những năm 1954-1975, Nhà Thờ Vatican ở hậu trường
chỉ đạo các chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô Nguyễn
Văn Thiệu thi hành các chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Hội La Mã,
Ki-tô hóa các chức vụ chỉ huy trong chính quyền cũng như trong quân đôi, mở rộng
các tổ chức mật vụ, cảnh sát, công an và an ninh quân đội,
tiến hành chính sách Ki-tô hóa nhân nhân bằng bạo lực và bằng
các phương tiện khác của chính quyền, khống chế và kiểm soát tất cả mọi phạm vi
sinh họat trong xã hội để bốc hốt và vơ vét cho đầy túi tham. Mục đích chính của
Nhà Nhà Thờ Vatican là biến miền Nam Việt Nam thành một xã hội “Nhất Chúa,
nhì cha, thứ ba Ngô Tổng Thống”.
Sách Vixars of Christ còn nói rõ Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) vừa loạn luân
với chị hay em gái vừa cho phép "mở nhà chứa" để thu thuế. Dưới đây là
bản văn này:
“Hỏi những thằng tướng tham nhũng, đào ngủ trước ngày 30/41975 có công lao gì
với đất nước và dân tộc mà đem cờ vàng phủ trên cái xác của chúng nó. Giá nó làm
đám tang như một người dân giả bình thưòng thì chẳng ai thèm mất thì giờ phỉ nhổ
chúng nó làm chi. (HCT)
Điếu Ông Tướng Tham Nhũng
Thiếu Tướng xưa ngồi Sở Động Viên
Nổi danh tham nhũng khắp hai miền
Tướng bà soái phủ đi thu hụi
Trai tráng tại gia phải đóng tiền
Chiến sự leo thang càng khốc liệt
Tướng ông hốt bạc tọa an nhiên
Sài Gòn thất thủ, ông đào tẩu
Nay thác cờ vàng phủ ván thiên!
- [2009]
[28]
"Ông Ngô Đình Thục không từ bỏ một hành động bần tiện nào trong việc làm
tiền.. Ông đã nhờ Tổng Thống Diệm ra lệnh cho Đại Tá Phùng Ngọc Trưng (hiện ở
Pháp) đang chỉ huy ngành quân Nhu ở Quân Khu I, phải mua nước mắm "thối" của các
bà sơ ở Phan Thiết, thứ nước mắm lâu ngày không bán được bị hư thối để bán lại
cho gia đình binh sĩ...”
[29]
“Chính phủ Công Giáo” ngày càng trở nên lộ liễu khi ngành công binh, từng
đoàn quân xa và vật tư của chính phủ được đưa ra sử dụng trong việc xây cất nhà
thờ, chủng viện, các nhà cho thuê thuộc tòa giám mục, khi các cán bộ nông thôn
và công chính được phái đi lo việc trồng dương liễu và dừa cho đức cha, khi các
binh sĩ được biệt phái thường trực tại văn phòng Công Giáo Tiến Hành, khi các
giám mục có chỗ danh dự đứng bên cạnh tổng thống trong các nghi lễ công cộng,
hay là trong việc duyệt binh, khi chính phủ phê nhận 90% dân không là Công Giáo
– các khoản luật gần giống như trong giáo luật. Khỏi nói tới việc dựng tượng Đức
Mẹ do tay tổng thống, có giám mục nọ kia phụ vào…”
[30]
“Nhằm biến La Vang thành một thứ Lộ Đức Việt Nam, hàng giám mục đã tổ chức xổ
số La Vang để lấy cho được cỡ 10 triệu đồng dành cho cho việc xây nhà thờ mới
với các tượng Thánh Giá và cái hồ “làm phép lạ”. Vé số được phân phối một cách
đương nhiên cho các công chức, công giáo hay không cũng mặc, bằng cách khấu trừ
tiền lương của họ. Các học sinh nghèo nhất tại các trường miền Nam cũng phải mua
vé số. Một số vé được đem giao cho các giáo xứ phân phối. Tại Sàigòn, một bữa
tiệc kiểu Mỹ được tổ chức, trong đó mỗi khách được mời phải đóng 2.500 đồng
(ngang một tháng lương của công nhân) gọi là để đóng góp cho Trung Tâm Quốc Gia
La Vang. Danh sách các ân nhân “tự nguyện” của La Vang rất dài, với những người
đứng đầu sổ là Phó Tổng Thống người Phật Giáo, các bộ trưởng, các tướng tá, mỗi
người dâng cúng từ 10.000 (mười ngàn) đến 20.000 (hai mươi ngàn) đồng.”
[31]
“Nạn mua bán các chức vụ trong chính quyền và quân đội đã biến đời sống xã hội
thành một trận địa không còn tình thương, không còn ngơi nghỉ… Dưới sự bao
che của nhứng kẻ có thế lực, cờ bạc, đĩ điếm và chợ đen đã xô cả xã hội vào một
cảnh sa đọa khiến cho nạn trộm cướp, hãm hiếp… lan tràn khắp nơi… như chưa từng
xẩy ra trong lịch sử.
“Hai chữ “chống Cộng” đã được những kẻ tham ô lợi dụng làm như cái nút thần
để trám lỗ miệng dân chúng, bất kỳ ai không được nâng đỡ về mặt chính trị, đều
có thể bị kết án là có liên lạc hoặc buôn bán với Việt Cộng.”[32].
2.- Tệ nạn ăn cắp, ăn trộm, cướp giật, cướp đường.- Sống ở Sàigon ít nhất là
tới 15 năm và cũng là nạn nhân nữa, người viết có một số kinh nghiệm vế tệ nạn
này. Nhờ vậy mà tác giả được biết một trong những phương cách cướp giật đồ của
người đi đường là chúng sử dụng loại xe Honda hai bánh có khả năng gia tốc mạnh
(giọt mạnh khi rú ga) với một người lái và một người ngồi sau. Khi nhìn thấy có
một người nào di chuyển mang va li hoặc là cầm túi xách tay hay mang đồng hồ,
đứa lái xe sẽ luợn xe sắp ngang và kè sát bên nạn nhân để cho đứa ngồi sau chộp
thật lẹ lấy món đồ, xong rồi đứa lái xe sẽ rú ga chạy tẩu thoát. Chuyện rằng, có
một người Mỹ đã bị giựt mất chiếc đồng hồ theo kiểu như vậy. Sau đó, ông Mỹ này
tìm cách trả thù bằng cách đeo một chiếc đồng hồ giả trông thật lộng lẫy, có gài
theo một lưỡi dao bào để cho phần lưỡi dao nhô ra, rồi ngồi trên xe xích lô đạp
và cố tình để tay đeo đồng hồ lộ ra cho người qua đường nhìn thấy. Thế rồi, hai
tên cướp cạn đi trên một chiếc xe Honda hai bánh lượn tới chộp được chiếc đồng
hồ giả này. Dĩ nhiên là bàn tay hành sự của tên cướp cạn này cũng bị trừng phạt,
máu chẩy khá nhiều.
Về chuyện những xé gắn máy bị ăn cắp, thường thường những xe bị đánh cắp được
đem về tập trung tại sào huyệt của chúng ở một chỗ tương đối hẻo lánh. Người
viết được biết trại định cư Dốc Mơ nằm trên đường đi Đà Lạt và cách Sàigòn
khoảng 82 km là một thí dụ điển hình. Khi đã đem được chiếc xe chộp được về tới
ổ (sào huyệt), chúng liền tháo ra làm nhiều mảnh, đem những mảnh này ráp vào môt
cái khung (sườn) của một cái xe khác (cũng là xe ăn cắp đã cạo số và sơn lại),
rồi bán rẻ cho khách hàng. Công việc làm ăn này của chúng luôn luôn được bàn tay
ngầm của Nhà Thờ bao che bằng cách sẵn sàng can thiệp để giải thóat cho chúng vì
nhờ có ăn chịu hay có những người đồng đạo trong phe đảng do Nhà Thờ đưa vào
làm
việc trong ngành cảnh sát. Sự kiện Nhà Thờ đưa người vào làm việc trong
các cơ quan như vậy được Linh-mục Trần Tam Tỉnh nói rõ trong cuốn Thập Giá và
Lưỡi Gươm như sau:
“Giáo Hội không từ một việc nào để có được những
giấy tờ hệ lụy bí mật và nhờ đó dọa dẫm các quan chức, bắt họ phải theo ý mình
muốn. Giáo Hội cũng liên minh với những tay tài phiệt khác để khai thác các vùng
đất nhượng cho không và những thử ruộng cướp được của
nông dân. Giáo Hội có người của mình nắm những vai trò thế giá trong chính quyền
thuộc địa…”
“Nhà Chung đã biết tổ chức một hệ thống tình báo hoàn bị, cung cấp tin tức cho
biết tất cả những gì lỉên hệ tới những con người, những công ty, những công
cuộc, những hành động và phương án chính trị tại Đông
Dương. Nhà Chung đã đặt được người thân tín của mình vào tất cả các cơ quan, vào
hầu hết các xí nghiệp, tại các trung tâm lớn cũng như tại các tỉnh xa xôi…”[35]
Cũng nên biết là trong thời hai chế độ đạo phiệt Da-tô
Ngô Đình Diệm và
quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu, hầu hết các nhân viên trong ngành cảnh
sát, công an, mật vụ và an ninh quân đội đều do các ông linh mục Bắc Kỳ di cư
tuyển chọn đưa vào làm việc trong các ngành này. Một trong các ông linh mục đặc
trách việc làm này là Linh-mục Mai Ngọc Khuê, gốc Bùi Chu, quản nhiệm họ đạo Tân
Sa Châu (Tân Sơn Hòa, Tân Bình, Gia Định).
Dù là chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm bị lật đồ
vào chiều ngày 1/11/1963, nhưng
những giáo dân được đưa vào làm việc tại các nha, sở, phòng, ban và tiểu
ban trong các ngành cảnh sát, công an, mật vụ, an ninh quân đội, và các chức vụ
chỉ huy vẫn còn nằm trong tay của họ cả. Chính vì tình
trạng này mà dù là chế độ cha cố Ngô Đình Diệm đã bị sụp đổ, nhưng các ngành
cảnh sát, công an, mật vụ và an ninh quân đội vẫn nằm trong tay giáo dân dưới
quyền chỉ huy gián tiếp của các ông linh-mục đã giới thiệu họ vào làm việc trong
các ngành này.
Cũng vì tình trạng này mà trong những năm 1954-1975, mỗi trại định cư của giáo
dân Bắc Kỳ di cư (họ đạo) ở miền Nam là một quốc gia trong quốc gia. Nhờ thế mà
cái băng đảng ăn cướp xe Honda có sào huyệt ở trại định cư Dốc Mơ (dưới quyền
qủan nhiệm của Linh-mục Trần Đình Vận) như đã nói ở trên vẫn
hoạt động an toàn cho đến ngày 30/4/1975. Không biết họ đạo ở gần Bình Thủy (Cần
Thơ) dưới quyền quản nhiệm của Linh-mục Vũ Thạch Nghị có ở trong tình trạng
giống như Trại Định Cư Dốc Mơ dưới quyền quản nhiệm của Linh-mục Trần Đình Vận
hay không. Có một điều rõ ràng nhất là Linh-mục Vũ Thạch Nghị được coi là cấu
kết với ông Tá Không Quân họ Ôn (nắm giữ một chức vụ chỉ huy tại Căn Cứ Không
Quân Bình Thủy) và là chủ mưu trong vụ ăn cắp xác một chiếc máy bay (không rõ là
C 47 hay là một loại máy bay trực thăng) đem bán cho một công ty người ngọai
quốc vào đầu thập niên 1970. Vụ này đã làm cho dư luận đã xôn xao rùm beng trong
nhiều ngày khiến cho ông Tá họ Ôn bị kỷ luật, không
được nắm giữ chức vụ chỉ huy, còn Linh-mục Vũ Thạch Nghị vẫn không hề hấn hấn gì
vì Ngài mang chức Thánh, đại diện Chúa, ai mà dám rớ
tới!
Muốn biết các trại định cư khác của giáo dân Bắc Kỳ di cư ở miền Nam Việt Nam
trong thời kỳ này có những hoạt động bất chính (dù là dưới một hình thức khác)
giống như trại định cư Dốc Mơ và Bình Thủy trên đây hay không, xin độc giả tìm
đọc sách Cõi Phúc và Giây Oan - Tập 1 (đặc biệt từ Chương 5 (trang 113 đến hết
Chương 16 (trang 165) của nhà văn Da-tô J. Ngọc (Houston, TX: Văn Hóa 1995). Đọc
qua cuốn sách này, độc giả sẽ nhìn thấy rõ Linh-mục Y có
những phương cách móc túi (ăn cắp và ăn cướp) của dân hết sức là siêu
việt.
Ngoài việc tuyển chọn giáo dân đưa vào làm việc trong các ngành bắt nạt dân trên
đây, Linh mục Mai Ngọc Khuê còn có nhiệm vụ đặc trách tuyển mộ giáo dân tới tuổi
thành niên đưa vào các lực lượng đặc biệt và các đội biệt kích do CIA huấn luyện
rồi đưa ra thi hành các điệp vụ tình báo và phá hoại ở phía bắc vĩ tuyến 17.
Vì có sự toa rập với những người có thế lực trong chính quyền và được bao che
như trên, cho nên hồi đó, ở Sàigòn và các vùng phụ cận, tệ nạn trộm cắp và cướp
giật hoành hành thật là kinh khủng. Các gia đình khá giả đều phải làm cửa sắt để
đề phòng trộm cắp. Các chủ nhân xe hai bánh, dù là xe đạp hay xe gắn máy, cũng
đều phải sắm một cái khóa ngoại nhập để mỗi khi để xe ở chỗ nào là phải khóa lại
cho kỹ. Có người cho biết là một nhà biên khảo người Tây Đức nói rằng, trong
những năm này, miền Nam Việt Nam tiêu thụ nhiều khóa nhất trên thế giới.
Tuy là đã sử dụng khóa an toàn cho chắc ăn như vậy mà cũng vẫn bị mất xe như
thường. Cuối năm 1963, bản thân người viết lái chiếc xe Solex đến Lăng Ông ở Bà
Chiểu. Đến nơi, sau khi đậu xe và khóa lại cẩn thận, rồi mới đi vào trong đền
thờ để gặp và nói chuyện với một người bạn khoảng 20 phút. Khi trở ra, chiếc xe
đã biến mất. Năm 1971, nhà văn Doãn Quốc Sĩ lái chiếc xe bốn bánh hiệu Daihatsu
loại pick-up từ nhà ở Đường Thành Thái đến Hội Việt Mỹ ở Đường Mạc Đĩnh Chi,
khóa lại rồi vào trong văn phòng của hội này để thăm một người bạn. Hơn nửa giờ
sau trở ra, chiếc xe đã biến mất. Đi trình cảnh sát, nhưng chẳng có hiệu quả gì.
Tình trạng ăn cắp, ăn trộm, móc túi, cướp giật, cướp đường ở miền Nam Việt Nam
trong những năm 1954-1975 rõ ràng là như vậy. Có nhiều nguời cho rằng tình trạng
này là một nét đặc thù trong các xã hội bị áp đặt phải sống dưới một chế độ đạo
phiệt Da-tô: Xã hội nào càng bị ảnh hưởng sâu nặng của nếp sống văn hóa Vatican
hay Giáo Hội La Mã (chế độ cha cố) và càng lâu, thì tình trạng ăn cắp, ăn trộm,
móc túi, cướp giật, cướp đường, cướp chợ càng trở nên trầm trọng. Lý do là vì
người dân trong các quốc gia này đuợc nhồi sọ phải sống theo những tín lý Ki-tô
nặng tính cách bịp bợm và phải tuân hành những giáo luật nặng tính cách chuyên
chính, áp chế và bóc lột. Mà bịp bợm, chuyên chính, áp chế và bóc lột là một
hình thức của ăn cắp, ăn trộm, móc túi, cướp giật và cướp đường mà thủ phạm đầu
nậu ăn cướp, ăn cắp, đĩ điếm, loạn luân, lọan dâm và phi luân lại là giáo hoàng,
và giới giáo sĩ từ những người nắm giữ các vị chức vị cao cấp trong giáo triều
Vatican cho đến các giáo sĩ các cấp tại các địa phương rồi mới lan sang các nhân
viên chính quyền và nhân dân. Cũng vì thế mà tại Tây Ban Nha, tại Phi Luật Tân
cũng như tại các quốc gia châu Mỹ La-tinh, và ở nước Ý, đặc biệt là tại kinh
thành Rome, (những nơi bị áp đặt phải sống dưới các chế độ cha cố lâu đời nhât)
là những nơi mà các tệ trạng ăn cắp, ăn trộm, móc túi, cướp giật, cướp đường ở
vào tình trạng kinh khủng nhất. Độc giả có thể kiểm chứng sự kiện này bằng cách
thử làm một chuyến du hành đến kinh thành Rome hay các quốc gia này thì sẽ thấy
thực hư như thế nào.
Tương tự như tệ nạn ăn cắp, ăn trộm, móc túi, cướp giật, cướp đường như đã nói ở
trên, tệ nạn đĩ điếm cũng vậy. Tệ trạng này đã có từ thời Trung Cổ và bắt nguồn
từ trong Tòa Thánh Vatican như đã trình bày ở trên (cũng trong Mục III này). Tệ
trạng này vẫn tồn tại cho đến ngày nay và càng ngày càng trở nên tinh vi hơn,
siêu việt hơn. Bằng chứng là cho đến ngày nay:
a.- Chúng ta vẫn chưa thấy có một lời tuyên bố công khai nào của Giáo Hội xác
nhận sự sai lầm và tuyên bố thú nhận để sửa sai về cái quyết định cấp giấy cho
phép mở nhà chứa (nhà thổ) của Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) để lấy tiền gia
tăng cho ngân quỹ nhà Chúa của Tòa Thánh Vatican.
b.- Giáo Hội vẫn tiếp tục bưng bít các vụ lạm dụng tình dục của các ông tu sĩ
Da-tô, và ngay cả khi bị chính nạn nhân đem nội vụ phơi bày ra công luận, Giáo
Hội cũng vẫn còn tìm đủ mọi cách để bưng bít.
c.- Ngay cả những trường hợp đã bị phơi bày ra trước công luận rồi, Giáo Hội
cũng vẫn còn tiếp tục bao che và dung dưỡng cho những tên tội đồ khốn nạn này.
Tình trạng này tất nhiên là có ảnh hưởng sâu nặng trực tiếp đến xã hội miền Nam
Việt Nam trong những năm 1954-1975. Lý do là miền Nam bị cưỡng bách phải sống
dưới ách thống trị của Liên Minh Pháp - Vatican từ năm 1862 cho đến năm 1954,
rồi từ năm 1954 cho đến năm 1975 lại bị áp đặt phải sống dưới ách thống trị của
chế độ đạo phiệt Da-tô, cho nên không thể nào thoát khỏi những tệ trạng tham
nhũng, buôn lậu, đĩ điếm, trộm cắp và cướp giật của chế độ
cha cô tạo nên từ thế kỷ 4..
3.- Tệ nạn mãi dâm: Trong thời gian 1954-1975, những ai đã từng sống ở
Sàigòn hay ở các thành phố lớn như Cần Thơ, Vũng Tầu, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang
hoặc là những thành phố trung trung như Long Xuyên, Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mâu,
Bình Định, v.v...và đã từng lặn lội “thăm dân cho biết
sự tình” đều thấy rõ các ổ mãi dâm này của thời đó. Là một người đã sống ở
Sàigòn trong nhiều năm, lại là người tiếp cận với những người bạn lính thuộc
loại “chịu chơi”, và chịu khó đi quan sát để chuẩn bị cho việc biên khảo trong
nghề nghiệp dạy môn sử, người viết được biết ở thủ đô Sàigòn và các vùng phụ
cận, đi đến đâu cũng thấy có nhà chứa (ổ mãi dâm). Xin nêu ra đây những địa điểm
nổi danh ở Sàigòn và các vùng phụ cận như khu Bàn Cờ, Cư Xá Lữ Gia, Đường Võ
Tánh (Gia Định) chạy ngang qua Bộ Tổng Tham Mưu, Ngã Ba Chú Ía, Lăng Cha Cả, Xóm
Mới, Gò Vấp, Hành Thông Tây, khu chung quanh Nhà Thương Cộng Hòa, Ngã Ba Chuồng
Chó, Hành Thông Tây, Xóm Chiếu, Khu nhà gần Nhà Thương Nguyễn Văn Học (Gia
Định), ngay cả làng Đại Học Thủ Đức, v. v..., đặc biệt
là tại Chợ Lớn, còn có những nơi gọi là “Nhất Dạ Đế Vương” dành cho những nhân
viên cao cấp trong chính quyền, những sĩ quan nắm giữ những chức vụ chỉ huy
trong quân đội, trong các ngành cảnh sát, công an, mật vụ và những nhà tư bản
nội địa thuộc loại làm giầu vì chiến tranh đến đó hưởng thụ.
Theo sự tìm hiểu của người viết, trong những năm 1954-1975, Hoa Kỳ đã bỏ ra tới
trên hai trăm tỉ Mỹ kim để chi viện cho miền Nam. Ngoài ra,
lại còn có gần 600 ngàn quân lính Mỹ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Thái
Lan và Phi Luật Tân hiện diện ở miền Nam. Hơn nữa, lại còn có hàng chục ngàn
nhân viên dân sự ngoại kiều làm việc trong các cơ quan chính quyền và các công
ty tư nhân của Hoa Kỳ ở miền Nam nữa. Ấy là chưa kể những người ngọai quốc đến
miền Nam Việt Nam để mua vui rẻ tiền, chưa kể bọn buôn lậu nha phiến đến miền
Nam Việt để làm ăn. Cộng chung lại, có tới gần một triệu quân lính nước ngoài
đồn trú, và hàng chục ngàn ngọai kiều làm ăn (thương khách) và du hí (dân du
lịch) ở miền Nam Việt Nam. Những người này thả tiền ra tiêu sài rộng rãi, đặc
biệt là họ rất rộng rãi trong chuyện tìm thú vui du hí. Tình trạng này đã trở
thành cơ hội tốt đẹp cho những bọn ma cô dụ dỗ phụ nữ đưa vào các động mãi dâm
để cung ứng cho nhu cầu giải quyết sinh lý của khối lượng khách hàng khổng lồ
trên đây vào thời bấy giờ. Người ta ước lượng, trong những năm 1960-1975, ở miền
Nam có ít nhất là hơn 500 ngàn gái điếm và không biết bao nhiêu ngàn gái bán
bar, bao nhiều ngàn chủ bar, bao nhiêu ngàn phụ nữ lấy chồng Mỹ.
Lại có người cho rằng con số gái mãi dâm ở miền Nam lúc đó lên đến tới một triệu
hay nhiều hơn. Một triệu gái mãi dâm trên tổng số 20 triệu dân ở miền Nam thì
quả thật là kinh khủng. Tình trạng này cùng với những tệ trạng tham nhũng, buôn
lậu, cướp giật, trộm cắp đã làm cho xã hội miền Nam Việt Nam đã trở thành tan
hoang, giống như cái giẻ rách nát, nát hơn cả tương Bần. Riêng về tệ nạn đĩ
điếm, một nhân chứng có tên là Thuân Nguyên kể lại bằng một điện thư nói về
những tổ chức bán dâm được tổ chức quy mô có bàn tay của chính quyền lúc bấy giờ
ở trong đó. Bản điện thư này được phổ biến vào ngày 30/7/2007. Dưới đây là
nguyên văn bản điện thư này:
From: Thuan Nguyen
(Chuyển) From Golden Pen
Sent: Sun, 30 Jul 2006,
To
DienDanCongLuan@yahoo.com, NhanQuyenChoVietNam@yahoo.com
Chị Linh và các chú thím ăn mày tỵ nạn 54/75 chống cộng dạo để kiếm sống ở trong
chợ Tàu thương mến,
Thấy các chị Linh và chú thím quốc gia chống cộng say sưa ở trên mạng y như là
đấu tranh thật có trí có dũng vậy đó làm kích thích nẫu, nẫu ngứa nghề, nẫu tìm
vui hén! Nẫu sẽ nói chuyện lịch sử, chuyện người quốc gia VNCH và đĩ điếm bị
bệnh lậu hén. Tình anh, tình em, tình của những thằng ma cô, của những con điếm
đòi tự do tôn giáo và lính Mỹ hén.
Chào tất cả,
CHÍNH QUYỀN VNCH TỔ CHỨC ĐỈ CHUYÊN NGHIỆP VÀ SEX TOURS CHO LÍNH MỸ VÀ ĐỒNG MINH
ĐỂ LẤY.. ĐÔ LA.
1.- Những năm 1967 cho tới 1973, quân đội tác chiến Mỹ đã lên tới 540,000 quân.
Đó là drafted soldiers. Còn nondraftees là 160,000. Đó là chưa kể lính Đồng
Minh.
2.- Con số này là con số khổng lồ.
3.- Sự đòi hỏi về tình dục tại VN bởi lính Mỹ là khổng lồ...
4.- Mỹ lại bỏ đô la ra để cho quân đội họ giải trí.. CHO NÊN SÀI GÒN, ĐÀ NẴNG,
CẦN THƠ, HUẾ, BIÊN HOÀ, LONG BÌNH, NHA TRANG, VŨNG TÀU.. biến thành những động
điếm khổng lồ.. HÀO NHOÁNG GIẢ TẠO BÊN NGOÀI ĐỂ CHO LÍNH MỸ HƯỞNG THỤ những lần
về thành phố..
5.- Con số hơn nữa triệu quân là một sự đòi hỏi về GIẢI TRÍ VÀ TÌNH DỤC KHÔNG
LỒ..hén!
6.- Cộng thêm vào đó, dân ở các vùng bị bắn phá, bom B-52, và chất độc hoá học
đã TẠO THÀNH MỘT LÀN SÓNG TỊ NẠN tản cư về thành phố kiếm sống và trú bom đạn…
7.- Bởi vậy VNCH có hai loại gái điếm tự do tôn giáo là:
Gái chuyên nghiệp (professional prostitutes) là được CHÍNH PHỦ ĐÀO TẠO, HUẤN
LUYỆN, KHÁM SỨC KHOẺ, CHO CẤP GIẤY PHÉP NGỦ (chơi bậy, chửa hoang) với MỸ ĐỂ LẤY
PHẦN TRĂM…
Loại gái chuyên nghiệp (professional) này thời VNCH có khoảng 200,000 khắp 4
vùng chiến thuật.
Gái thường không chuyên nghiệp thì không được chính phủ VNCH cấp giấy phép...
tức là không được tự do dân chủ tự do tôn giáo như loại điếm chuyên nghiệp của
quốc gia hén!!!.
Loại gái điếm thường này thì khoảng trên 1.5 triệu.. Đó là chưa kể hàng chục
ngàn ME MỸ SỐNG VỚI MỸ VÀ CÓ CON VỚI MỸ... Và thêm vào đó là me Đại Hàn, me Úc,
Me Phi, Me Mễ, Me Thái, v.v....Hiện tượng đỉ điếm này tạo ra một xã hội rất phức
tạp tại miền Nam VN thời đó.
8.- VNCH tổ chức gái điếm ĐỔI LẤY ĐÔ LA THẾ NÀO:
Có hai hình thức:
a.- Thứ nhất là sponsoring private brothels. Chính phủ VNCH đã bảo vệ, tiếp tay
với các động hạng sang tại các thành phố lớn để ĐƯA GÁI CHO LÍNH MỸ VÀ CỐ VẤN
MỸ.
KHI CÁC CỐ VẤN MỸ VÀ LÍNH MỸ SANG (VIỆT NAM), thì có những ĐƯỜNG DÂY ORGANIZED
SEX TOURS.. phục vụ lính Mỹ và cố vấn Mỹ.
Các Ty Cảnh Sát VNCH sẽ trực tiếp bảo vệ, và bao cấp cho các động này.
b.- Hình thức thứ hai: chính phủ VNCH đứng ra tổ chức đường giây đỉ điếm chuyên
nghiệp phục vụ cho lính Mỹ và cố vấn Mỹ.
Các gái điếm trên có số danh bộ, đăng ký, khám sức khoẻ tránh bệnh hoa liễu, và
được dạy nghề đấm bóp, chút ít Anh Văn do TỔNG CỤC DU LỊCH VNCH trá hình tổ
chức...
Hai hình thức tổ chức organized đỉ điếm trên VNCH đã thu về cả chục triệu đô la
mỗi năm...
Đó, VNCH là thế: xã hội rất băng hoại, đỉ điếm tràn lan. Tới nỗi đỉ công khai ra
đường chào đón khách, ban ngày ban mặt.
Tại các snack bars thì đỉ điếm ra vô nhởn nhợ chào mời lính Mỹ.. NÓ tạo ra một
tệ nạn xã hội trầm trọng trong thời VNCH...Làm cho CẢ MIỀN NAM KHÔNG CÓ TINH
THẦN CHIẾN ĐẤU, XÂY DỰNG, VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ...
Miền Nam VNCH là thế??
Vậy CSVN có cần lường gạt người dân để họ hy sinh đời mình để đứng lên lật đổ
chế độ khốn nạn, đốn mạt, vô lương tâm, cuồng tín mọi rợ VNCH không???
Câu trả lời quá rõ ràng... Mỹ nói hầu hết ghệ phụ nữ VNCH đều bị bệnh lậu đó chị
Linh. Chị nghĩ đó là kiêu sang là tự do hôn chị ???
Em nói có bằng mách có chứng, bên dưới là ảnh tà áo dài văn hóa hiện đại cúa
quốc gia tự do công giáo VNCH đấy nhé:
Chồng hỡi chồng ơi ! Con hỡi con!
Mình giờ bệnh lậu biết làm sao đây?”
[36]
Ngày nay, những việc làm kinh tài bất chính như trên không còn nữa. Bọn quạ
đen và bọn tay sai của Nhà Thờ Vatican đã từng nắm giữ những chức vụ lớn trong
chính quyền cũng như trong quân đồi miền Nam Việt Nam trước kia cảm thấy vô cùng
nuối tiếc cái thời vàng son của ngày nào. Vì thế, họ mới quyết tâm bơi ngược
dòng lịch sử mưu đồ rước con voi Vatican về giầy mả tổ Việt Nam một lần nữa với
hy vọng họ sẽ được sống lại cái thuở huy hoàng làm cha thiên hạ giống như ở miền
Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Đây là lý do tại sao họ khư khư bám lấy
chiêu bài chống Cộng và cùng nhau hò hết lật đổ chính quyền Việt Nam hiện nay mà
không cần biết đến quyền lợi tối thượng của tổ quốc và dân tộc.
4.- Một nét tổng quát về xã hội Miền Nam vào đầu thập niên 1970 qua cái nhìn của
một nhà sử học ngọai quốc: Nói về xã hội miền Nam Việt Nam trong những năm
này, nhà viết sử Stanley I. Kutler viết trong Encyclopedia of The Vietnam War
(New York: Simon & Schuster McMillan: 1996) như sau:
Không ai chối cái được là xã hội miền Nam lúc bấy giờ trở thành một xã hội
gái điếm. Tình trạng này là do chính sách cai trị cực kỳ tham tàn của hai chế độ
đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu với Nhà Thờ
Vatican ở hậu trường Vatican gây ra. Chủ tâm của Nhà Thờ Vatican là làm cho xã
hội băng hoại, tẩy xóa hết nếp sống văn hóa tam giáo cổ truyền của dân tộc để
chuẩn bị cho việc gieo vào đầu dân ta những hạt giống của những tín lý Ki-tô
hoang đường nặng tính cách lừa bip, bạo ngược, loạn luân, loạn dâm, phản nhân
luân, phản dân chủ, phản nhân quyền và đĩ điếm giống như “cái ổ điếm Vatican”.
Vấn đề Tòa Thánh Vatican là một ổ điếm được sách sử đã ghi lại rõ ràng như đã
trích dẫn ở trên.
Phần trình bày trên đây cho chúng thấy rõ ràng là quyền lực của Giáo Hội La Mã
vươn tới đâu, thì ở đó đĩ điểm khởi phát từ ở trong nhà thờ rồi mới lan truyền
ra ngoài xã hội. Một phần hậu quả của tệ trạng đĩ điếm phát khởi từ trong các
nhà thờ là tệ nạn con hoang do các ngài tu sĩ Da-tô để lại cho xã hội. Tệ trạng
này cũng được sách Vicars of Christ ghi nhận rõ ràng và đã được trích dẫ ở trên.
Xin ghi lại ở đây một lần nữa để độc dễ dàng nhận ra:
"Một bản thống kê cho biết: một xứ có 900 ngàn dân mà có tới 3 ngàn tu sĩ; và
cứ 2 trong 5 (40%) đứa con hoang là con của các ông tu sĩ." Nguyên văn:
"One amazing statistic emerges: in a country of 900,000 people, there were 3,000
clergy; and yet two out of five bastards were born to the clergy.")
[38]
Trong bài điểm sách “AMAN” của tác giả Jesme Raphael đăng trên sachhiem.net ngày
11/4/2009, Giáo-sư Trần Chung Ngọc có nói rất nhiều về tệ trạng các ngài giám
mục và linh mục tán tỉnh, làm tình và hiếp dâm các bà phước đến mang thai và
sinh con; những đứa con này hoặc là bị giết hại hoặc là nếu may mắn không bi
giết thì trở thành những đứa con hoang và được đưa và các viện mồ côi của Giáo
Hội. Dưới đây là một vài đọan văn trong bài điểm sách trên đây nói về tình trạng
này:
“Cuốn “The Awful Disclosures” của Maria Monk, xuất bản lần đầu tiên vào năm
1836, đã gây nên một làn sóng công phẫn về những chuyện động trời trong nữ tu
viện Công giáo Hotel Dieu, thí dụ như: Các linh mục ở gần đó có lối riêng và kín
đáo để vào tu viện bất cứ lúc nào và tự do làm tình với các nữ tu. Những đứa
bé sinh ra liền được mang đi rửa tội để bảo đảm chúng sẽ được lên thiên đường
rồi bóp mũi cho chết [All babies born of these illicit encounters, Monk
claimed, were baptized before being killed and dumped in the basement].
Maria Monk cũng kể rằng, Sơ được các Sơ bề trên dạy là một trong những nhiệm vụ
lớn lao của các nữ tu là phải tuân phục các linh mục trong mọi vấn đề, kể cả vấn
đề phục vụ tình dục cho các linh mục [I must be informed that one of my great
duties was to obey the priests in all things; and this I soon learnt, to my
utter astonishment and horror, was to live in practice of criminal intercourse
with them]. Tại sao? Maria Monk được bề trên giải thích: “Vì không có các linh
mục làm phép, chúng ta không thể được tha tội và phải xuống hỏa ngục.”
[They, the priests, might be considered our saviors, as without their service we
could not obtain pardon of sin, and must go to hell] Chúng ta thấy, chính sách
tẩy não nhồi sọ của Công giáo thật là đáng sợ.….”
“Trong cuốn The Awful Disclosures của Maria Monk có nói đến dòng tu của các
“Grey Nuns”, các Sơ mặc áo xám, được gọi là các “Sơ của Bác Ái” (Sisters of
Charity). Cách đây ít năm, chương trình Prime Time của đài ABC cũng như chương
trình Date Line của đài NBC đều đưa lên vụ kiện 1.2 tỷ đô-la [1.2 billion suit]
của những trẻ mồ côi, nay đã trưởng thành, thường được biết là những “Trẻ mồ côi
của Duplessis” (Duplessis Orphans). Những đứa trẻ này trước sống trong những
viện mồ côi ở Québec, Canada, quản trị bởi các “Sơ của Bác Ái”, dưới triều Thủ
Tướng Maurice Le Noblet Duplessis, một tín đồ Công giáo bảo thủ cực đoan. Một số
những đứa trẻ mồ côi trong số khoảng 3000 còn sống sót này, nay đã trưởng thành,
đã lập nên một tổ chức để kiện chính quyền Québec và viện mồ côi St. Julian ở
Québec, do các “Grey nuns” (Sisters of Charity) quản trị, về những hành động
hành hạ độc ác, ngược đãi, lừa gạt của các Sơ đối với các em khi còn ở trong các
viện mồ côi, với sự toa rập của chính quyền Công giáo Québec trước đây và bác sĩ
Công giáo.
Đọc nội dung vụ kiện này và những bằng chứng mà các nạn nhân đưa ra, chúng ta
không thể tưởng tượng được là trong “hội thánh, thiên khải, tông truyền, duy
nhất”, alias Công giáo, lại có thể xảy ra những chuyện tàn bạo vô lương tâm của
tập đoàn Công giáo gồm từ Thủ tướng Công giáo ở Québec đến các linh mục, bác sĩ
Công giáo, nữ tu Công giáo toa rập với nhau để làm thương tổn nặng nề đến tinh
thần cũng như vật chất của nhiều ngàn trẻ mồ côi sống trong các viện mồ côi và
các nhà thương Công giáo trị bệnh tâm thần.
Độc giả có thể đọc chi tiết đầy đủ về vụ “Duplessis Orphans” trong bài “Bác Ái
Của Công Giáo Trong Hành Động” (Catholic Charity in Action) [https://www.lazyboysreststop.com/history-3.htm]
và bài “Những Nữ Tu Công Giáo Ác Độc, Lừa Gạt Ở Mỹ Và Trên Khắp Thế Giới”
(Abusive Nuns In The USA And Worldwide) trên trang nhà:
https://www.ianpaisley.org/new_details.asp?ID=353. Ở đây tôi chỉ tóm tắt
những nét chính và đưa ra một số sự kiện điển hình.”[39]
Mấy đọan văn trích dẫn trên đây cho chúng ta thấy rõ Giáo Hội La Mã và các
ông tu sĩ của cái tôn giáo này quả thật là một nhân tố vô cùng quan trọng gây
nên tệ nạn đĩ điếm và tệ nạn con hoang trong các xã hội mà quyền lực của Nhà Thờ
Vatican vươn tới.
Tóm lại, miền Nam Việt Nam vừa nằm dưới ách thống trị của Nhà Thờ Vatican qua
hai chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu,
với những người lãnh đạo chính quyền bất tài và bất xứng, vừa có nạn tham nhũng
hoành hành, vừa nằm dưới ách thống trị của Liên Minh Mỹ - Vatican, vừa có nếp
sống dựa trên một nền đạo lý giả nhấn giả nghĩa của đạo Ki-tô La Mã, vừa có sự
hiện diện của gần sáu trăm ngàn quân lính Hoa Kỳ và đồng minh cùng với hàng chục
ngàn ngoại kiều làm việc trong các công ty ngoại quốc phục vụ cho bộ máy chiến
tranh của Hoa kỳ, với tình trạng như vậy, làm sao miền Nam có thể thoát khỏi
được những tệ nạn đĩ điếm, ăn cắp và cướp đường.
IV.- NẾP SỐNG VĂN HÓA VATICAN DI HẠI VÀO TÂM HỒN TÍN ĐỒ CA-TÔ NGUỜI VIỆT
Chính sách ngu dân và giáo dục nhồi ở miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975 đã để lại rất nhiều di hại vào tâm hồn những người tiếp nhận sở học
qua chính sách này trong một thời gian khá dài nếu họ không cố gắng tự mình tìm
cách thoát ra khỏi cái ngục tù ngu dốt này. Những di hại này nằm sâu trong tâm
tư và thường thể hiện ra trong cung cách hành xử của họ. Chúng tôi xin ghi lại
những cung cách hành xử này của họ ở trong nước và ở hải ngoại.
A.- Ở TRONG NƯỚC
Như đã trình bày ở trong Chương 8 ở trên, chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ
của Nhà Thờ Vatican đã gây ra không biết nhiều hậu quả vô cùng tại hại cho những
người tiếp nhận sở học của nó. Nó không những đã làm cho nạn nhân trở thành ngu
dốt, không biết sử dụng lý trí để phân biệt cái ĐÚNG và SAI,giữa
sự kiện và ý kiến, giữa thuận lý và nghịch lý, giữa yêu nước và phản quốc, giữa
độc lập và mất nước,
v.v... mà còn cấy vào đầu óc nạn nhân những tư
tưởng độc hại phản tiến hóa, phản khoa học, phản nhân luân, phản dân tộc và phản
quốc. Tư tưởng biến thành hành động. Sự ngu dốt và những tư tưởng độc hại này
của họ cũng được thể hiện ra thành hành động mà chúng ta đã từng chứng kiến như:
1.- Linh-mục Hoàng Quỳnh đã dám ngang nhiên hô khẩu hiệu “Thà mất nuớc, chứ
không thà mất Chúa”[40]
khi chỉ huy đám giáo dân biểu tình ở ngoài hàng rào Bộ Tổng Tham Mưu vào ngày
27/8/1954 để làm áp lực với chính quyền của Tướng Nguyễn Khánh phải phục hồi
quyền lực và quyền lợi của Đảng Cần Lao Công Giáo và phục hồi chế độ đạo phiệt
Ca-tô Ngô Đình Diệm.
2.- Một nhóm giáo dân Hà Nội tập trung bất hợp pháp, dùng kìm, búa và xà beng
đập tường, phá công của một công sở tại số 42 Phố Nhà Chung rồi xâm nhập vào đây
dựng tượng Đức Bà, cắm thập giá bừa bài ở trong sân, gây bạo lọan từ ngày
18/12/2007 cho đến ngày 30/1/2008.
3.- Cũng nhóm giáo dân đó ở Hà Nội tái diễn trò hề tập trung bất hợp pháp dùng
kìm, búa và xà beng đập, tường phá cồng của Công Ty May Chiến Thắng tại số 178
Đường Nguyễn Lương Bằng Hà Nội, rồi xâm nhập vào bên trong dựng tượng Đức Bà,
cắm thập giá bừa bài ở giữa sân với mục đích gây rối trong suốt thời gian từ
ngày 15/82008 đến ngày 22/9/2008.
4.- Việc tỉnh Dòng Cứu Thế dùng lời lẽ ngang ngược (coi giáo luật đứng trên luật
pháp Việt Nam) viết trong lá thư phúc đáp của Tỉnh Dòng Cứu Thế Việt Nam đề ngày
19/12/2008 gửi ông Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội.
5.- Việc Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Nhơn (chủ tịch Hồi Đồng Giám Mục Việt Nam) sử
dụng những lời lẽ ngang ngược, coi giáo luật đứng trên luật pháp Việt Nam viết
trong văn thư số 10/GHVN đề ngày 25/9/2008 để trả lời bản văn thư số
1437/UBND-NC ngày 23/9/2008 của ông Nguyễn Thế Thảo (chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân
Thành Phố Hà Nội của với ông Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội vào ngày
20/9/2008.
6.- Việc Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt ếng nói rằng “Chúng tôi đi nước ngoài rất
nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam”.
7.- Việc giáo dân ở xã An Bằng, Huế, dựng tượng Bà Maria bừa bãi kéo dài từ đầu
năm 2008 cho đến ngày nay (Tháng 1/2009).
8.- Thái độ hồ hởi vui mừng của giáo dân và những người đồng minh chống Cộng của
họ ở hải ngọai khi hay tin Trung Cộng xua quân tràn vào lãnh thổ và tấn công
Việt Nam và tháng 2 năm 1979.
Tất cả cho chúng ta thấy giới tu sĩ và dân Chúa người Việt đã mất hết tình yêu
đối với tổ quốc và dân tộc Việt Nam. Họ cho rằng đất nước Việt Nam này là của
riêng của Nhà Thờ Vatican và họ là người của Vatican thì phải chiến đấu cho
quyền lợi của Vatican.
B.- TẠI HẢI NGOẠI
Cũng vì chính sách ngu dân và nhồi sọ của Nhà Thờ Vatican và các chính quyền đạo
phiệt Ca-tô triệt để thi hành ở miền Nam trong những năm 1954-1975, cho nên mới
có những trường hợp như sau:
1.- Cuối thập niên 1980, như đã nói ở trên, con chiên Nguyễn Văn chức viết
rằng:
“Cuốn VNMLQHT không phải là một cuốn hồi Ký. Đúng hơn, nó là một tạp ghi cóp
nhặt của nhiều người và nhiều tác giả. 93 cuốn sách và 52 tạp chí được trích
dẫn. Bản thân ông Đỗ Mậu chỉ xuất hiện đó đây như một loại giây leo còm cõi sống
bán vào những chất liệu cóp nhặt.”
[41]
Đây là cái hậu quả của việc nhà trường ở bậc trung học cũng như ở đại học không
dạy cho học sinh biết phương cách viết “điểm sách” (Book Report) và cũng không
dạy phương cách viết bài khảo luận hay viết sách theo phương pháp khảo luận.
Chúng ta thấy tình trạng ngu dốt như thế này xẩy ra rất thường
ở hải ngọai, thường hơn cả là trong lãnh vực viết “điểm sách”. Thật là tội
nghiệp cho họ. Là những người dốt nát về vấn đề này mà lại không biết là dốt nát
và lại mang cái bệnh “dốt hay nói chữ”. Vì thế, họ cũng ti toe viết điểm sách và
viết theo cảm tính. Thích ai thì viết những lời tấng bốc đến tận mây xanh, và
không ưa ai, nhất là những người dám viết lên sự thật về những việc làm tội ác
của Giáo Hội La Mã hay các chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Dệm và quân phiệt
Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu, thì họ viết “điểm mặt” trong đó họ moi móc đời tư và bịa
đặt ra nhiều điều xấu xa để bêu riếu, hạ nhục, rủa xả và gán cho tác giả là
“chống Chúa",
là ”Cộng Sản”. Đây là trường hợp các ông Ca-tô Trương
Phú Thứ viết bài “Đọc Sách: A Poem For My Children” của tác giả Nguyễn Mạnh
Quang đăng nơi cảctang 26-27, 86-87. trong tờ Văn Nghệ Tiền Phong số 559, phát
hành vào tháng 5/1999, và các ông Ca-tô Vũ Đình Họat, Nguyễn Văn Chức, Đinh Từ
Thức viết về cuốn Việt Nam Máu Lử Quê Hương Tôi của tác giả Đỗ Mậu.‘
2.- Ngày 19/8/1985: Một nhóm con chiên (người Việt) cố gắng phá thối buổi ra
mắt cuốn sách Đối Thoại Với Giáo Hoàng John Paul II do anh em trong nhóm Giao
Điểm tổ chức ở Wesminster, California.
3.-Và thượng tuần Tháng 6/1996: Một nhóm tín đồ Da-tô do các ông Bùi Bỉnh
Bân, Đòan Thế Cường và Vạn Võ Hành Khuyên dẫn đầu đến chùa Việt Nam để hạch sách
thày Pháp Châu về điều mà họ cho rằng nhà sư này có “thái độ thân Cộng”.
4.- Ngày 20/12/1997: Một nhóm con chiên (người Việt) mưu đồ biểu tình và phá
thối buổi hội thảo văn hóa của anh em văn nghệ sị Bắc Mỹ do Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu
và người viết tổ chức tại Seattle, Washington.
5.- Ngày 18/5/1998: Một nhóm con chiên (người Việt) tổ chức và tham dự vụ
biểu tình và bao vây ngôi chùa Đức Viên ở San Jose, khi Đại Lão Hòa Thượng Thích
Trí Dũng từ Việt Nam qua Hoa Kỳ tham quan và lưu trú tại đây. Hành động này kéo
dài trong nhiều ngày.
6.- Tháng 1/1999: Một nhóm con chiên tổ chức biểu tình thị uy và khủng bố
tinh thần ông Trần Trường chủ tiệm cho muớn băng Video tại thành phố Wesminster,
Califiornia khi ông này trưng hình Cụ Hồ Chí Minh và lá cờ đỏ sao vàng ở trong
cửa tiệm của ông ta. Hành động này kéo dài trong nhiều tuần lễ (như đã nói ở
trên). Trong khi đó, hàng năm, cứ đến ngày 1/11, tín đồ Da-tô người Việt tại các
địa phương ở Bắc Mỹ tổ chức lễ giỗ thằng Da-tô phản thần bạo chúa tam đại Việt
gian Ngô Đình Diệm vô cùng rầm rộ thì chẳng có ai nói gì cả.
7.- Ngày 20 và 21 tháng 7 năm 2001: Một nhóm con chiên khoảng 20 người biểu
tình trước Sở Học Chánh Tacoma (Washington) để chống Bà Minh Anh Hodge Giám đốc
Chương Trình ESL, Ngoại Ngữ và Tiểu Học tại Nha Học Chánh Tacoma, Washington),
và gửi đại diện đến văn phòng ông Chánh Sở Học Chánh Tacoma thỉnh cầu cho bà
nghỉ việc với lý do là khi thuyết trình về đề tài Người Việt Tị Nạn ở Washington
vào cuối tháng 4/2000 tại Tacoma Community College (kỷ niệm 25 năm của nguời
Việt tị nạn), Bà đã cho trình chiếu nhiều tấm hình về cuộc chiến Việt Nam, trong
đó, có tấm hình Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, hình Đại Tá Nguyễn Ngọc
Loan đang nhắm bắn một tù nhân hai tay bị trói ké quặt lại sau lưng và hình em
bé Kim Phúc bị cháy phỏng bởi bom lửa (Napalm) với thân hình trần truồng vừa
chạy vừa khóc trong kinh hoàng. Ông Chánh sở Học Chánh Tacoma trả lời rằng dù
cho bà Minh Anh Hodge có là Cộng Sản cũng không phài là vấn đề thuộc thẩm quyền
của ông, và ông đề nghị với họ rằng nếu thấy rằng Bà ấy vi phạm pháp luật thì họ
nên đem vấn đề này ra cơ quan tư pháp (Tòa an) xét xử. Bọn người này bị cụt
hứng, thủi thủi kéo nhau ra về.
8.- 27/10/2002: Con Chiên Nguyễn Xuân Tùng chỉ huy đoàn người đồng đạo mà họ
gọi là Diễn Đàn Ki-tô Hữu đến bao vây ngôi Chùa Việt Nam ở Garden Grove để khủng
bố tinh thần nhà sư Thích Pháp Châu vì rằng nhà sư này vừa là chủ bút tạp chí
Hoa Sen, vừa là trường ban điều hành Đài Phát Thanh Quê Hương Việt Nam. Đây là
lần thứ nhất họ biểu tìinh và bao vây ngôi chùa này.
9.- Ngày 24/4/2004: Cũng lại con cừu non Nguyễn Xuân Tùng chỉ huy đoàn người
đồng đạo trong nhóm Diễn Đàn Đạo Hữu Ki-tô đến bao vây ngôi Chúa Việt Nam ở
Garden Grove để khủng bố tinh thần nhà sư thích Pháp Châu một lần nữa. Lần này
kéo dài tới ngày 31/5/2004 (tất cả là 55 ngày), trong đó có ngày đại lễ Phật Đản
vào ngày 30 5/2004.
10.- Tháng 7 năm 2003: Một nhóm con cừu non người Việt tổ chức biểu tình với
chủ tâm phản đối và phá thối buổi ra mắt cuốn sách Trả Ta Sông Núi của
Cựu Đại Tá Phạm liễu được tổ chức ở San Jose, California.
11.- Chỉ là văn nghệ sĩ, chúng cũng chẳng tha.
Chúng thù ghét cả những người ái mộ các nghế sĩ mà họ không ưa thích. Cũng vì
thế mà từ khi cuốn băng Thúy Nga Paris 40 được phát hành vào năm 1996, những
người có liên hệ đến cuốn băng nhạc này như nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, MC Nguyễn
Cao Kỳ Duyên, các ca sĩ như Hương Lan, Ái Vân, Băng Kiều, Thanh Tuyền, Thanh
Lan, Ngọc Huyền, Hồng Nhung, Trần Thu Hà, Thu Phương, Lam Trường, Phương Thanh,
v.v... đều trở thành những nạn nhân của bọn người cuồng nô vô tổ quốc này. Tệ
hại hơn nữa, cả những người ái mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng bị chúng ghét cay
ghét đắng và bị chụp mũ là thân Cộng hay Cộng Sản nằm vùng.
12.- Họ chửi bới và hạ nhục những người Việt hải ngoại về thăm quê hương.
Điển hình là vụ tổ chức một buổi lễ tẩy chay ông Nguyễn Cao Kỳ chỉ vì ông Kỳ về
thăm Việt Nam trong dịp Tết Giáp Thân 2004. Những hành động vừa trẻ con, vừa độc
tài này còn tệ hơn chế độ Phát xít Ý và Đức Quốc Xã.
13.- Ở thành phố Garden Grove, California, có một nhóm tổ chức buổi văn nghệ kỷ
niệm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời (1/4/2001).
Thế là những người nhân danh là người Việt Quốc Gia hô hảo rủ nhau đến tụ tập ở
trước của rạp hát cỏ tổ chức buổi văn nghệ này trương cao cờ vàng ba sọc đỏ để
biểu tình chống đối và viết bài chứi bới nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và những người
ngưỡng mộ nhạc sĩ họ Trịnh và yêu thích nhạc của ông bằng những thứ ngôn ngữ cực
kỳ mất dạy. Thấy rằng chuyện tụ tập với nhau trương cờ vàng ba sọc đỏ biểu tình
chống đối buổi văn nghệ này quả thật là quá ư kệch cỡm, Giáo-sư Trần Chung Ngọc
viết trong bài viết “Phiếm luận về Cộng Sản Hải Ngoại” trong đó có một đoạn như
sau:
“Thật vậy, trên
tinparis.net chúng ta có thể đọc câu sau đây về cuộc biểu tình chống nhạc
Trịnh Công Sơn, nguyên văn: “Biểu tình quy tụ 150 người so với 350 kẻ (thân Cộng
và nằm vùng) đi nghe nhạc Trịnh Công Sơn” Hay thật, đi nghe nhạc Trịnh Công Sơn
nhất định là phải thuộc lớp người “thân Cộng và nằm vùng”? Chống Cộng kiểu
này thì
Tây ở Paris cũng phải phì cười vì nó ngu ơi là ngu.”
[2]
14.- Từ tháng 7/2007 cho đến nay (12/4/2008), ở Nam California, họ tổ chức
biểu tình chống phá và viết báo hạ nhục và chửi bới tờ báo Viet-Weekly bằng
những ngôn từ cực kỳ mất văn hóa chỉ vì tờ báo này có quan điểm chính trị khác
với họ, muốn phổ biến bài viết có quan điểm khác và tin tức một cách trung thực.
15.- Từ tháng 1 năm 2008,
ở Wesmninster, California, họ tổ chức biểu tính chống phá và viết báo hạ nhục và
chửi bới tờ báo Người Việt bằng những ngôn từ giống y như họ đã sử dụng đối với
tờ báo Viet-Weekly chỉ vì tờ bào này in hình lá cờ vàng ba sọc đỏ trong một cái
bồn rửa chân của một người làm nghề Nail (sửa móng tay).
16.- Tháng 1 nam 2009, cũng ở Nam California, có cuộc triển lãm nghệ thuật
của anh em văn nghệ sĩ của tổ chức danh xưng là VAALA (Vietnamese American Art &
Letter) trong đó có trừng bày một số tác phẩm nghệ thuật không hợp ý với quan
niệm về nghệ thuật của các ông hoặc là đã tiếp nhận sở học qua chính sách ngu
dân và giáo dục nhồi sọ ở Việt Nam trước năm 1975, hoặc là bị ảnh hưởng của Nhà
Thờ Vatican. Vì thế mà họ quay ra tổ chức biểu tình chống đối. Nhân dịp này,
giáo-sư Trần Chung Ngọc mới viết bài VAALA: From Prologue to Epilogue, Or
“NghệThuật Lên Tiếng” đăng trên sachhiem.net ngày 4/ 2/2009 với lời của tòa soạn
như sau:
“Gần đây có cuộc triễn lãm tranh ảnh nghệ thuật làm sôi nổi dư luận ở
California. Thật ra đối với những người ít chú ý đến nghệ thuật không ai biết
đến hội này. Nhóm người thường xuyên chống cộng đã có cơ hội dương cờ vàng xuống
đường.
Việc chống đối đã đưa đến xây xát và phá hoại các bức tranh. Tòa soạn
sachhiem.net đăng chi tiết sau đây để bạn đọc thử tìm hiểu chủ trương lẫn hoạt
động của hội VAALA. Vấn đề còn lại xin để đọc giả nhận xét (SH.)”
[42]
17.- Thái độ hồ hởi vui mừng của giáo dân và những người đồng minh chống Cộng
của họ ở Hoa Kỳ khi hay tin Tòa Án Hoa Kỳ bác bỏ đơn kiện vụ án chất độc Da
Cam trong mấy năm gần đây của chính quyền Vỉệt Nam.
18.- Hành động trong những ngày gần đây (đầu năm 2009) của giáo dân và những
người đồng minh chống Cộng của họ ở Hoa Kỳ cố gắng vận động với Quốc Hội Hoa Kỳ
để đưa Việt Nam vào danh sách CPC (Countries particular concerned), nhưng
thất bại.
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ ràng là những hành động tội ác của
người Việt tại hải ngọai là một trong những di lụy của chính sách ngu dân và
giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã đã được triệt để thi hành ở miền Nam Việt
Nam trong những năm trong những năm 1954-1975. Nói chung, tất cả những tội ác
của người Việt ở trong nước cũng như ở hải ngoại đều có nguyên nhân phát xuất từ
Nhà Thờ Vatican mà ra cả và tất cả những việc làm ngu xuẩn này (vi phạm nhân
quyền, vi phạm quyền tự do tư tưởng, vi phạm quyền tự do ngôn luận và tự do báo
chí) đều phù hợp với chủ trương của Giáo Hội La Mã. Cái chủ trương chuyên chính,
phản tiến hóa và phản dân chủ này đã được Giáo Hòang Hoàng Gregory XVI
(1831-1846) công khai tuyên bố rõ ràng cho mọi người được biết. Sự kiện này đều
được sách sử ghi lại đầy đủ. Sách Tôn Giáo và Dân Tộc viết:
“Đức Giáo Hoàng Grégoire XVI đã gọi tự do báo chí là ”thứ tự do tai hại nhất,
đáng ghét nhất, kinh tởm nhất mà một số người dám đòi hỏi một cách ồn ào cuồng
nhiệt và quảng bá khắp nơi...”[43].
Vì vốn là
những người thuộc thành phần ăn trên ngồi trốc, hét ra lửa mửa ra khói và sống
nhờ vào những đồng tiền kiếm được từ những tệ nạn xã hội trên đây
ở miền Nam Việt Nam trước kia, cho nên ngày nay ở hải ngoại, họ cảm thấy
xót xa đau đớn vì đã mất hết tất cả những thứ béo bở trên đây và trở thành những
kẻ trắng tay. Họ nuối tiếc cái thời vàng son của ngày nào. Vì thế mà họ mới
quyết tâm bơi ngược dòng lịch sử mưu đồ rước con voi Vatican về giầy mả tổ Việt
Nam một lần nữa với hy vọng họ sẽ được sống lại cái thuở huy hoàng làm cha thiên
hạ giống như ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Đây là lý do tại sao
họ khư khư bám lấy chiêu bài chống Cộng để cùng nhau hò hết lật đổ chính quyền
Việt Nam hiện nay mà không cần biết đế quyền lợi tối
thượng của tổ quốc và dân tộc. Cái tâm lý này của họ được ông Mục Đồng ghi nhận
như sau:
“Do bối cảnh lịch sử đặc biêt của nước Việt Nam, sau 30/04/1975 có nhiều người
Vệt định cư ở nhiều nơi trên thế giới, qui tụ đông nhất là ở Mỹ. Đại đa số người
Việt nầy lo làm ăn hòa nhập vào xã hội xứ người, nhưng vẫn còn một số tiếc nuối
những đặc quyền, đặc lợi mà họ được hưởng trong các chế độ Pháp thuộc, Ngô Đình
Diệm và Nguyễn Văn Thiệu ở Miền Nam Việt Nam trước 30/04/1975, cho nên tới nay
vẫn còn nuôi lòng thù ghét nhà nước Việt Nam và đang sống trong hoang tưởng!
Nếu có dịp xem qua các tờ báo phát không của người Việt ở Mỹ như tờ Saigon Nhỏ,
Niềm Tin,…, và xem các bài viết của các cơ sở truyền thông như Tinparis,
vietcatolic, tiengnoigiaodan,…, thì sẽ thấy những người vẫn đang nuôi căm thù và
hoang tưởng gồm một số cựu sĩ quan của chế độ VNCH, một số đảng phái đã tùng có
thành tích hợp tác với Pháp và Mỹ trong chiến tranh ở nước ta, và đa số Con
Chiên của chúa Jesus.
Họ tạo thành những nhóm chống Cộng cực đoan với những hoạt đông trong cái “hoang
tưởng trở về thống trị dân Việt Nam”. Họ thường xuyên cố ý bôi nhọ nhà nước Việt
Nam bằng cách chọn những sự kiện xấu nhất xảy ra ở Việt Nam rồi biên tập bình
luận xuyên tạc đổ tội cho nhà cầm quyền Việt Nam là ngu dốt, tham tàn, bóc lột
dân,..,.Họ đã làm những hành động mang tính chất hoang tưởng. Chẳng hạn, họ vận
động xin chữ ký của Giáo dân gởi cho Giáo Hoàng ở Vatican để Giáo Hoàng thay mặt
Chúa Jesus toàn năng, muốn làm gì cũng được “làm phép” buộc nhà nước Việt Nam
đổi tên Tp Hồ Chí Minh thành Saigòn! (nhưng bao năm qua mà chúa vẫn chưa làm
được!). Họ theo dõi vụ các cha đạo xúi Giáo dân cầu nguyện đòi dành đất cho
Vatican ở Hà nội, rồi xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ nhà nước Việt Nam để khích
động khí thế chống Cộng cho phe nhóm của họ. Điều buồn cười là theo luận điệu
của họ thì nhà nước Việt Nam nay suy yếu lắm rồi, sẽ sập nay mai. Và chúng lăm
le trở về ngự trị, sẽ tiêu diệt hết 3 triệu đảng viên,…
Điều khôi hài nhất là họ tự tỏ ra là những người tài như thánh, mặc dầu vào ngày
30/04/1975 họ bỏ chạy trối chết đôi khi trên người chỉ còn chiếc quần đùi…, và
ngày nay chỉ là những người già sống nhờ tiền trợ cấp xã hội của Mỹ ! Vài năm
trở lai đây, họ công khai
tổ chức tưởng niệm, viết bài cổ xúy tinh thần tượng Ngô Đình Diệm của họ,
(như Tôn Thất Thiện,..), đồng thời moi móc cố ý nói xấu Hồ Chí Minh (như Trần
Gia Phung), và phỉ báng những người mà họ cho là "làm cho miền Nam sụp đổ" trong
đó có Nhạc sĩ Trinh Công Sơn…”
[44]
CHÚ THÍCH
[29]
Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Westminster, CA: Văn
Nghệ, 1993), tr. 412.
[30]
Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 126.
[31]
Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr, 127-128.
[32]
Trần Tam Tỉnh, Sđd, tr. 175-176.
[33]
Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 178-179.
[35]
Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr 77.
[38] Peter
de Rosa, Sđd., tr 416.
[39]
Trần Chung Ngọc, “Điểm sách “AMAN” của tác giả
Jesme Raphael” sachhiem.net Ngày
11/4/2009.
[40]
Chu Văn Trình, Văn Sử Địa (Tavares, Florida: Ban Tu Thư Tự Lực,
1989), tr. 80.
[41]
Xem chú thích 2 ở trên.
[42]
Trần Chung Ngọc. “VAALA: From Prologue to Epilogue, Or “NghệThuật Lên
Tiếng.” sachhiem.net. ngày 4/2/2009.
[43]
Lý Chánh Trung, Tôn Giáo Và Dân Tộc
(Sàigon: Lửa Thiêng, 1973), tr 76
[44]
Mục Đồng. “Xin Tha
Tội Cho Con Chiên Trịnh Cung – Amen.” Sachhiem.net Ngày 25/4/2009.