 |
13 tháng 11, 2010 |
Lời đầu:
Bài viết này nhân dịp nước Nhật kỷ niệm 65 năm hai quả bom nguyên
tử nổ ở Hiroshima và Nagasaki năm 1945, khiến nhắc tới một biến cố
quan trọng và kinh hãi cách đây 56 năm: bom nguyên tử đã “suýt”dội
xuống Việt Nam năm 1954. Tuy còn rất mới, biến cố này dường như đã
rơi vào lỗ đen (black hole), khoảng không gian đen ngòm trong sách
sử và trong trí nhớ người cùng thời. Vì đã có nhiều triệu người Việt
nằm xuống, vì còn liên quan đến vận mệnh cuả đất nước hàng trăm năm
nữa, vì không phải chuyện cổ tích hay khoa học giả tưởng, cần mở lại
vài đoạn sử còn rất khuất. Biết đâu một biến cố khác tương tự như
bom nguyên tử đang dập dình trên bầu trời Việt?
Những chi tiết dưới đây, do những tác giả nước ngoài về một miền
đất xa lạ bên kia bờ biển Thái Bình Dương đã ảnh hưởng đến số phận
chính họ, gia đình và đất nuớc họ. Những điều cực kỳ “nhậy cảm” này
có thể lần đầu tiên tiếp cận với độc giả người Việt. Dẫu sự xúc động
tùy theo vị trí - người Việt trong nước/ngoài nước, người Việt không
cộng sản/cộng sản, người trí thức/trí ngủ, tín đồ Phật giáo/Ki-tô
giáo/không tôn giáo/thờ cúng ông bà, quả phụ tử sĩ/tiểu thơ thành
phố, em bé đánh giày/sinh viên du học… người viết tin rằng sự thật
cần được chia sẻ, bởi vì đã cùng nhân loại có với nhau một mẫu số
chung: bấp bênh giữa sinh tồn/huỷ diệt, khi một bàn tay sẵn sàng bấm
nút cho bom nguyên tử trút xuống một miền đất rực trời bom đạn. Miền
đất ấy có tên Việt Nam. Là một Ki-tô hữu, người viết dùng “Ki-tô
giáo” thay cho công giáo vốn không chính danh về số lượng/ý nghĩa.
Việt Nam chưa bao giờ nhận Ki-tô giáo là “quốc giáo”, chỉ có dưới
10% tín đồ; “công giáo” là danh từ chung, lạc lõng trong hệ thống
“Christian/Cristiano/Christianus/Cristão…”.
◄ ● ►
1/ “Can thiệp quân sự” đầu tiên của người Mỹ năm 1845
…“tình cảm quảng đại”của người Mỹ dành cho người Pháp…

Biến cố bom nguyên
tử 1954 không phải một ngày mà có. Đó là bản sao một vở kịch hàng
trăm năm trước: biến cố 1845. Cả hai biến cố đều có bóng dáng đại
diện Chúa.
Quân
sử Hoa Kỳ (1a) ghi năm: 1845, chiến hạm Hoa Kỳ đầu tiên U.S.S
Constitution trong chuyến hải hành nổi tiếng “Vòng Quanh Thế Giới
1844-1846” do thuyền trưởng “Mad” Jack Percival tức Jack Điên chỉ
huy, ghé Đà Nẵng xin một chỗ chôn cất cho một nhạc sĩ tên Paul Cook
với giá hai đô la. Họ được tiếp đón tử tế, mọi việc tốt đẹp cho đến
khi Jack Điên nhận được thư cầu cứu (do một dân làng đưa lén) của
giám mục Pháp Dominique Lefevre bị triều đình Huế giam giữ vì
cùng với nhà truyền giáo khác âm mưu lật đổ vua Thiệu Trị (1b).
Không buồn tìm hiểu tại sao ngườì Pháp không lo cho giám mục của họ,
Percival bắn chìm ba thuyền buồm VN rồi lên bờ bắn tưới vào dân làng
khiến 17 đàn ông đàn bà trẻ con tử thương (có tài liệu ghi 36); còng
tay bắt giữ quan quân VN làm con tin, “đe doạ hành quyết nếu vị
LM công giáo không được giao cho ông ta”. Điều lạ lùng,
trong khi cuộc giết chóc, cầm tù diễn ra, nước ngọt vẫn được cung
cấp đầy đủ và đón tiếp thân tình. Lạ hơn nữa, sau 12 ngày dằng dai
Percival vô tư bỏ đi cũng không màng cứu Lefevre. Percival báo cáo
lên bộ trưởng hải quân Hoa Kỳ, lý do tấn công vì “sự trợ giúp của
nước Pháp dành cho Hoa Kỳ trong buổi lập quốc” và vì
“tình cảm quảng
đại đã là một đặc tính nổi bật của Chính Phủ (Hoa Kỳ) chúng ta…một
tín hữu Thiên Chúa Giáo có tính mạng bị lâm nguy là đủ rồi” (2)
Sau
đó tổng thống Mỹ Zachary Taylor đã gửi thư xin lỗi vua Thiệu Trị có
kèm theo lời…đe doạ, “nếu các thiện chí của Tổng Thống không được
chấp nhận…Hoa Kỳ sẽ bị bắt buộc phái các chiến thuyền đến để đòi
hỏi các sự giải thích thỏa đáng.” Không rõ TT Taylor đòi vua Thiệu
Trị giải thích điều gì? Nhà báo Peter Kneisel cách đây vài năm có
đến làng Thọ Quang, bãi biển Tiên Sa tìm lại ngôi mộ Cook, người
đồng hương lạc loài, ngạc nhiên thấy cũng được nhang khói như những
ngôi mộ gần đó (3). Hiện nay khu vực ngôi mộ đã bị san bằng cho nhu
cầu du lịch, thay vì lập bia ghi chép biến cố/tên tuổi cho đời sau
tỏ tường.
U.S.S Constitution đã về hưu, hiện neo tại cảng Boston. Bia mộ của
Percival ở Massachusetts/Hoa Kỳ, khắc cẩn thận “52.279 miles Vòng
Quanh Thế Giới”. Không thấy khắc tên những nạn nhân cuả Percival.
Việt Nam Sử Luợc của Trần
Trọng Kim ghi chép biến cố quan trọng này trong 65 chữ khác hẳn ghi
chép của Hoa Kỳ:
“Qua năm Ất Tị (1845) là
năm Thiệu Trị thứ năm có một giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử.
Bấy giờ có người quản tàu Mỹ Lợi Kiên ở Đà Nẵng xin mãi không được,
mới báo tin cho hải quân thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết. Thiếu
tướng sai quân đem chiếc tàu Alemène vào Đà Nẵng lĩnh giám mục ra.”
Còn bao nhiêu ghi chép
“khác biệt” như vậy trong dòng chính sử Việt Nam? Ai sẽ mang sự thật
ra ánh sáng? Sử gia? Học giả? Nhà “Huế học”? Tại sao các sử gia VN
nhất loạt lên án các vua triều Nguyễn tàn ác “cấm đạo”, tuyệt đối
không hề nói tới việc tu sĩ ngoại quốc muốn lật đổ nhà vua? Chắc
phải chờ giải đáp của các nhà “Huế học”, sử gia, học giả và Nguyễn
Phước tộc.
Qua
biến cố này, nổi bật khía cạnh tâm linh rất Việt: một trong mười
điều răn Ki-tô “chôn xác kẻ chết”, đã ở trong tâm thức người Việt,
hơn thế nữa, “ghi nhớ người đã khuất” dù đó là ai. Khi Ki-tô giáo
vào VN, cấm tín đồ không được thờ phụng ông bà tổ tiên, mà họ cho là
ma quỉ.
2/
Một Nơi Cho Lính Chiến
… tấm can trường bạn bỏ rụng bên đường

Người Mỹ tốn không biết bao nhiêu giấy mực về chiến
tranh Việt Nam. Đó là cuộc chiến dai dẳng nhất trong lịch sử chiến
tranh Mỹ, một trận ác chiến của thế kỷ 20, và là một tổn thất chưa
từng có trong lịch sử 200 năm nước Mỹ: 58.135 tử trận, 2.500 mất
tích, 303.616 bị thương, 33.000 tê liệt, 60.000 tự tử, 35.000 dân sự chết, 15.500.000 tấn bom/đạn duợc, 18.000.000 gallons chất độc hóa
học, tổng cộng chiến phí 168 tỷ đô la… Cuộc chiến đầu độc cả một thế
hệ, để lại những vết sẹo không lành, và vô phương giải thích với mai
sau về sự tan biến hào quang của quân sử Hoa Kỳ
Cuộc chiến nhiều khuất lấp đến nỗi giải thích nào
cũng là ảo, chỉ mỗi cái chết là thật. Ngay khi đang chiến đấu, họ
đã biết có điều gì đó rất sai lầm. Ngày 1-1-1970, thiếu tá phi công
Michael D O'Donnell, đóng quân ở Dak
To, cao nguyên VN, làm thơ "Save Them a Place/Một Nơi Cho Lính
Chiến". Xin tạm dịch: “…xin trân quí bài học vì sao họ chết.
Khi bạn tỉnh ra và dám nói cuộc chiến này là chuyện điên rồ, hãy nhớ
tới những tấm can trường bạn bỏ rụng bên đường” (4). Như một lời
trối, ba tháng sau, máy bay O'Donnell gẫy cánh ở chiến trường
Campuchia.
Trong chiến tranh vĩnh viễn không có thắng/thua,
chỉ có người mất/người còn. Điểm chung của quân nhân Nam Việt
Nam/Hoa Kỳ giống nhau: lãnh đạo đẩy họ ra chiến trường với hai tay
bị trói quặt ra sau, cuối cùng lãnh đaọ phán “họ đã thua trận”. Bộ
đội miền Bắc chết cũng không đếm được. Có làng trắng xóa chỉ thấy
tuyền một màu tang.
Nhân mùa Vu Lan, người
viết xin gửi vào thinh không lòng tưởng nhớ đến những tấm can
trường, “người đi bộ đội/người đi quân đội/người da trắng mắt
xanh”…đã một lần “đi vào chốn tử sinh, chiến trường quên thân mình”,
cả những mảnh bị “bỏ rụng bên đường”.
3/
Cuộc Chiến Tranh dối trá "Spellman's War"
….VN
thuần Ki-tô giáo? …
Hiến pháp Hoa Kỳ không cho
lãnh đạo nói dối. Chính phủ Hoa Kỳ riêng thời Hồng y Spellman (linh
mục dòng Tên) đã dối cử tri những gì để dựng nên chiến tranh VN?
1. 1954: Thuyết Domino ở Á
Châu: giáo hoàng Pius XII/hồng y Spellman/tổng thống Eisenhower cho
rằng phải ngăn chặn cộng sản ở VN, nếu không các nước khác sẽ đổ. Lý
do thật sự là
* Vị trí địa lý của VN
* Tài nguyên thiên nhiên
ở Đông Nam Á (nhất là cao su, thiếc và các kim loại hiếm quí)
* Quyền lợi cuả Vatican.
2. Dân Hoa Kỳ không hề biết
chỉ 5-10% dân VN là Ki-tô giáo. Họ tưởng VN đã là thuộc địa của
Vatican. Đây là một trong những điều dối trá nhất của Spellman: ngài
hoá phép thương xót khiến từ chính trị gia đến dân chúng đều tin
rằng phải cứu Việt Nam, một nước thuần Ki-tô giáo như Phi Luật Tân
hay mấy nước Trung Mỹ. Theo website chuacuuthe (5) điều tra dân số
01/04/2009, có gần 6 triệu là Ki-tô giáo trong tổng số 86.024.600
người, chiếm 7,06% dân số. Năm 1950-1960 số tín đồ khó vượt hơn 5%.
Chính sách "Holy
Wars for the Preservation of the Church/Thánh Chiến Gìữ Gìn Giáo
Hội” không chỉ được Vatican và Hoa Kỳ áp dụng ở VN, mà lần lượt El
Salvador, Grenada, và Lebanon đều hân hạnh sắm vai “Lính Của
Chúa/Soldiers of Christ”.
3. 1964: biến cố Gulf of
Tonkin/Vịnh Bắc Việt: in hệt vụ “Võ Khí Tàn Sát Hàng Loạt” khi tổng
thống Bush kiếm cớ xâm chiếm Irak năm 2001. Ngày 4/8/1964 TT Johnson
dựng lên việc chiến hạm Maddox của Mỹ bị hải quân Bắc Việt tấn công
trong một trận đánh ma. Quốc hội Mỹ tưởng thật, trong vòng 2 ngày,
nhất loạt thông qua The Tonkin Gulf Resolution, tỷ số 88-2, cho
phép TT Johnson khởi động chiến tranh không cần tuyên chiến. Nghị Sĩ
Wayne Morse /tiểu bang Oregon và Nghị Sĩ Ernest Gruening/tiểu bang
Alaska phản đối cho rằng "Ðây là một bản tuyên chiến được ký sẵn”.
Johnson gửi ngay 200.000 lính Mỹ qua VN, dù ông có nói… đùa với báo
chí “Tôi biết Hải Quân của chúng ta chỉ bắn mấy con cá mập/For all I
know, our Navy was shooting at whales out there” (6).
Sinh mạng vua-quan-dân
người Việt không bằng mạng một linh mục Pháp. Định mệnh của cả một
quốc gia rẻ hơn một câu nói đùa của tổng thống Hoa Kỳ
Tham vọng của vài người
đã dẫn đến những hậu quả như sau: Vũ khí hoá học phun lên 3.500.000
mẫu đất, có tác dụng trong 100 năm. Toàn Đông Dương: người chết
2.221.000 (Việt: 1.921.000, Campuchia: 200.000; Lào: 100.000). Tổng
số bị thương 3.2 triệu. Dân phải rời bỏ nhà cửa: 14.305.000.
Ngay sau khi kế vị GH Pius
XII năm 1958, GH John XXIII từ chối không tiếp Spellman, còn cấm
tuyệt đối không cho Spellman vào bất cứ phòng họp nào của Vatican:
GH không chấp nhận vai trò Spellman chỉ đạo Chiến Tranh Lạnh ở VN.
Sự cấm đoán này là tiếng chuông báo hiệu liên minh
Vatican-Washington tan rã, thay thế bằng Vatican-Moscow.
4/ Tại sao GH Pius XII và HY Spellman muốn dội bom
nguyên tử xuống VN?
…cứu Vatican hay cứu Hiệp Sĩ Malta…
Ngày 5-12-1931
Đại Giáo Đường Đấng Cứu Thế/Cathedral
of Christ the Saviour ở Moscow - xây dựng trong 40 năm, dùng tới
422 kg vàng ròng dát vòm, biểu tượng tôn giáo/lịch sử/văn hóa/văn
minh dân tộc Nga Sô, kiểu “Mái chùa che chở hồn dân tộc” của nguời
Việt - bị Stalin cho phá hủy tan tành trong 45 phút. Cộng sản Liên
Sô còn phá hủy hàng ngàn nhà thờ, thánh đường, tu viện. Vì vậy khi
cộng sản Liên Sô chiếm thêm một phần ba Âu Châu, Vatican bẩy vía còn
ba rưỡi. Giáo Hoàng Pius và HY Spellman liền yểm trợ thế lực mạnh
nhất lúc đó là Mussolini, phát xít Ý để chặn cộng sản tàn phá
Vatican.
1949 là năm giáo hoàng Pius
XII và Franny như ngồi trên lửa:
● Liên Sô thử trái bom
nguyên tử đầu tiên 22 kilotons ngày 29-8-1949
● Trung Hoa bị cộng sản
nhuộm đỏ. Khi Trung Cộng bắt đầu tuôn vũ khí qua biên gìới giúp Việt
Minh, nỗi lo sợ của Vatican lên tới tuyệt đỉnh. Phải chận Trung Cộng
lại! Phải chận Trung Cộng lại!
● Tháng 7/1953: chấm dứt
chiến tranh Triều Tiên, có nghĩa đám “Knights of Malta” hội viên
giáo hoàng sắc phong trọn đời, cần thị trường mới. Cỡ như VN
thật…vừa vặn, xa xa nên khuất mắt trông coi, cái đám da nâu VN không
nhiều bạn bè. Đánh nhau ở chiến trường lớn, có thể xảy ra Thế Chiến
Ba, không chột cũng què.
Theo Avro Manhattan,
“Vietnam…Why Did We Go?/Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam” (7) Ki-tô
giáo đã không thành công ở Nhật, Trung Hoa, Thái Lan. Nếu cộng sản
chiếm VN, Vatican sợ sẽ mất toi 4 thế kỷ truyền đạo ở Việt Nam, cánh
cửa truyền đạo vào Đông Dưong. Kinh nghiệm truyền giáo cuả dòng
Jesuit từ thời Alexandre de Rhodes cho thấy người Việt đa số theo
Phật giáo hoặc thờ cúng tổ tiên, không dễ “cải đạo” họ theo Ki-tô:
họ không cần tới Roma. Pháp “bảo trợ” cho Ki-tô giáo ở VN suốt 80
năm. Nay Pháp đi, Vatican cần cái dù mới. Vì vậy Vatican thoả hiệp
với Hoa Kỳ, nước duy nhất có lực lượng quân sự hùng manh có thể đối
trọng với Liên Sô để giữ “thị trường con chiên” VN.
[Nam
tước Avro Manhattan (1914-1990) sinh tại Ý, ký giả/triết gia/hiệp
sĩ/đìệp viên liên quốc gia. Ông được giáo hoàng phong Hiệp sĩ Malta
vì hành động anh hùng chống Phát Xít Ý trong thế chiến II. Tác giả
hơn 60 cuốn đuợc dịch sang 40 thứ tiếng, có 10 cuốn đứng đầu bảng
“Sách Bị Vatican Cấm”. Cuốn “Vatican in World Politics”/1949 tái bản
57 lần (hiện không còn trên Amazon.com, internet chỉ có 4 chapters)
lúc đó là cuốn sách gối đầu giường cho lãnh đạo/quốc gia nào “giữa
ba lằn đạn” Liên Sô/Vatican/Hoa Kỳ. Lưu vong tại nước Anh cho đến
lúc chết bí mật tháng 11/1990 khi vừa hoàn tất cuốn Murder in
Vatican. Tới 76 tuổi mới bị thanh toán, Manhattan phải có gốc rất
lớn nhờ bạn bè vớí hồng y và là hiệp sĩ tới bốn dòng]
5/Tại sao Mỹ muốn dội bom nguyên tử xuống Việt Nam?
…Tại
VN là nơi dơ dáy để chết...

Kennedy, Spellman và Nixon năm 1960
Dean Rusk, bộ trưởng bộ
ngoại giao thời Kennedy và Johnson, nói “Nếu nước Mỹ chặn đuợc
Bắc VN bây giờ, mai mốt khỏi phải oánh ở mặt trận lớn hơn”. W.
Baldwin, một ngườì ủng hộ thuyết Domino, nói “VN là nơi dơ dáy để
đánh nhau. Nhưng không có nơi nào “tử tế” để chết cả. Thà đánh nhau
ở VN, ngưỡng cửa vào Trung Hoa, hơn là phải đánh nhau ở Hawaii, sân
nhà của chúng ta”. Nghe kém ngoại giao và không tử tế, nhưng ít
ra không giả dối.
Sau thế chiến II, nước
Anh/Pháp đều không muốn mất thuộc địa. Nước Anh vẫn muốn Burma,
Malaysia, và India. Pháp không chịu nhả Đông Dương, “nơi cung cấp vô
tận gaọ, cao su, than và sắt, dân tình dễ trị, khí hậu ấm áp”.
TT
Franklin Roosevelt muốn chấm dứt nạn thuộc địa này, ông viết: Có 1.1
tỷ người nâu phải sống dướí sự thống trị của một nhóm trắng. Có 1.1
tỷ địch thủ là đìều nguy hiểm, nước Mỹ phải giúp họ độc lập.
Roosevelt mất ngày 12-4-1945 khi chưa hết nhiệm kỳ (có giả thuyết
cho rằng ông bị ám sát). Harry Truman, tổng thống được dòng Jesuits
dựng lên kế vị Roosevelt, thế giới bắt đầu ngửi mùi bom NAPALM.
Có bốn lý do Mỹ muốn dội
bom nguyên tử ở VN năm 1954.
► 1. Vì còn… dư bom, quả thứ tư đáng lẽ bỏ ở mặt trận Trìều Tiên.
► 2. Mặt trận Âu Châu: sau Thế Chiến II, Đức/Ý/Nhật thua, Mỹ
mưốn quân sự hóa Tây Đức. Pháp sợ xanh lè cả mắt không muốn có láng
giềng là một đạo quân tinh nhuệ/kỷ luật, sở hữu một kho đạn dược của
“Hoa Kỳ-Người Ruồi Gieo Máu Lửa”, cho đến khi Mỹ đồng ý sẽ giúp Pháp
duy trì thuộc địa ở Đông Dương. Do đó, trong thời
gian đánh nhau với 100.000 quân Phát Xít Nhật ở mặt trận Đông Dương,
OSS Mỹ cộng tác/yểm trợ các nhóm kháng chiến
chống Pháp. Khi Mỹ thắng phe Phát
Xít Ý-Đức-Nhật, Truman quay ra giúp Pháp tàn sát các nhóm kháng
chiến này.
► 3. Mặt trận Á Châu: Harry Truman muốn có căn
cứ không quân/hải quân ở châu Á. Knights of Malta/anh em cột chèo
với Vatican, sở hữu những đại công ty sản xuất máy bay, dụng cụ quốc
phòng khổng lồ - Lockheed, Boeing, McDonnell-Douglas, Grumman, Ford
- cần chỗ thử vũ khí mới, thanh toán vũ khí cũ.
Từ 1944, Truman và Eisenhower cung cấp cho Pháp
tổng cộng 3 tỷ đô la (80% chiến phí), gồm
vũ khí cũ còn lại từ đệ nhị thế chiến (máy bay Hellcats, Bearcats,
Corsairs, xe tăng M-24 Chaffee). Từ 1949, Liên Sô và Mỹ đua nhau
cung cấp vũ khí tối tân hơn cho mặt trận Đông Dương.
Từ 1950 đến 1954, cơ quan MAAG có 350 cố vấn Mỹ
có mặt ở Saigon yểm trợ thực dân Pháp đàn áp kháng chiến VN. Trong
đám này có thiếu tá Edward Landsdale và Lucien Conein, hai
tên tuổi gắn liền với sinh mệnh ông Ngô Đình Diệm.
► 4.
White Supremacy/Siêu Da Trắng: da trắng là nhất nên không thể thử
bất cứ vũ khí (nói chi tới bom nguyên tử) ở Moscow, Washington,
Berlin, Rome, London, Paris…nơi cư dân toàn da trắng. Hơn thế, trong
số 10,000 Kights/Dame of Malta, phân nửa là quí tộc châu Âu dây mơ
rễ má từ Nga Hoàng qua các hoàng tộc châu Âu. Trang web “A Century
of US Militay Interventions” cho thấy trong 130 cuộc “can thiệp
quân sự” của Hoa Kỳ từ 1890 đến 1999, chỉ trên dưới 10 địa đìểm là
châu Âu và Hoa Kỳ, còn tất cả ở Châu Mỹ Latin, Á Châu, Trung
Đông…(8)
Percival đến một xứ sở xa lạ thản nhiên tàn sát dân làng vô tội chỉ
vì muốn trả ơn nước Pháp đã giúp nước Mỹ dành độc lập. Truman nuốt
ngay lời hứa trả độc lập cho VN. Giáo hoàng Paul VI và Spellman
quay ngoắt với anh em ông NĐThục/NĐDiệm. Người Mỹ trả cho người
Pháp, chủ đồn điền cao su Michelin 600 đô la cho mỗi cây cao su bị
bắn hạ, trả 120 đô la bồi thường cho mạng một đứa trẻ VN. Tất cả
phản ảnh tính Siêu Da Trắng. Những mỹ từ như thánh ý, bác ái, văn
minh, hoà bình, bình đẳng, độc lập các dân tộc… là cà rem bằng bọt
xà bông.
6/ Trái bom
nguyên tử nào dành cho VN?
…Trái thứ tư! Các nhà thần học bảo rằng Hoa Kỳ mang sứ mệnh…
Đệ Nhị
Thế Chiến, cuối tháng 4-1945: Mussolini bị hành quyết, Hitler tự tử
khiến Vatican mất tiêu hai cái dù. Hoa Kỳ và Liên Sô chạy đua từng
ngày chế tạo bom nguyên tử. Ngày 15-7-1945, Truman được báo là BỐN
trái bom nguyên tử đã hoàn thành, chỉ chờ lệnh tổng thống.

Thi thể một sinh viên ở phố Iwakana, 700 mét cách trung tâm nổ
Ngay lập tức, qua hôm sau,
16-7-1945, trái Gadget, 20 kilotons, đươc thử ở New Mexico/Mỹ, gần
nơi quần cư của đám thổ dân/Native Indian. Đó là “Chiến Dịch Trinity
(Trinity: Chúa ba ngôi: Cha/Con/Thánh Thần). Quái lạ là loài người,
toàn lấy tên Chúa để giết người. Còn nhớ những năm 1960 ở Saigon,
tuần báo Kịch Ảnh có loan tin Marlon Brando từ chối giải Oscar phản
đối việc tàn sát dân Native Indian.
Ngày 6 và 9 tháng 8-1945,
Truman nói dối dân Mỹ Hiroshima là một căn cứ quân sự. Truman đơn
phương quyết định dội trái Little Boy/9,700 pounds uranium xuống
Hiroshima và trái Fat Man/9,000 pounds plutonium xuống Nagasaki.
160.000 ngườì chết ngay lập tức.
Robert Oppenheimer, giám
đốc Manhattan Project chế tạo bom nguyên tử (phí tổn tổng cộng 2 tỷ
đô la) sau này nói với Truman “Tổng thống, trong tay tôi có máu”.
Điều cần ghi nhận: tất cả các tướng lãnh Mỹ đứng đầu Hải Lục Không
Quân Hoa Kỳ đều thỉnh cầu Truman đừng dùng bom nguyên tử ở Nhật, kể
cả tướng Mac Arthur, vì không cần thiết. Có lẽ không có ai trong họ
là Hiệp Sĩ Malta hay có phần hùn trong mấy đại công ty sản xuất võ
khí. Nagasaki là cửa ngõ đầu tiên đón nhận đạo Ki-tô nên có rất
nhiều nhà thờ cổ với số tín đồ đông nhất nước Nhật. Tất cả đều bị
thiêu ra tro, biến thành than bốc hơi trong nháy mắt, đường phố biến
thành “con sông lửa”. Truman không thiết gì dân Nagasaki Ki-tô hay
không Ki-tô. Người Nhật đã bị thí trong cuộc chạy đua bom nguyên tử
giữa Hoa Kỳ và Liên Sô. Không thấy Chúa làm phép lạ! Trách Chúa cũng
oan. Chúa bị ngườì La Mã đóng đinh và người La Mã không gỡ cho Chúa
xuống, dù vẫn kêu tên Chúa thiết tha!
Trái thứ tư, TOAN DÙNG tại
VN. Có thể một cái tên VN rất oai hùng thần thánh nào đó đã dành
sẵn. Từ 1946 đến 1980, Hoa Kỳ đã
15 lần mang bom nguyên tử dọa đối phương như một võ khí tâm lý (8).

Nhà thờ Urakami, 850 người chết cháy khi đang cầu nguyện
McGeorge Bundy (1919-1996),
bạn John Kennedy từ hồi 8 tuổi, cố vấn an ninh quốc gia cho cả hai
đời tổng thống John Kennedy và Lyndon Johnson, thường được ca tụng
như một thiên tài chính trị. Trong cuốn “Lessons in Disaster:
McGeorge Bundy and the Path to War in Vietnam,” (9) ngoài việc thú
nhận “Chúng ta đã lầm” Bundy còn nhắc tới một điều hết sức kinh sợ: Năm
1954, khi Paris yêu cầu Mỹ can thiệp, bộ trưởng ngoại giao Mỹ
John F. Dulles sốt sắng đề nghị với bộ trưởng ngoại giao Pháp
Georges Bidault giúp…hai quả bom nguyên tử, “Two Nuclear Bombs to
Use as They Saw Fit”, nghe êm như “Giúp Em Đôi Chiếu Em Nằm”. Điều
này đã không xảy ra vì:
1. Tổng thống Eisenhower
không được sự chuẩn thuận của quốc hội Mỹ và sự hậu thuẫn cuả nước
Anh. Ngày 24-4-1954, ngoại trưởng Anthony Eden trả lời nước Anh
không muốn dính dáng tới chiến tranh Đông Dương;
2. Georges Bidault cũng từ
chối hai quả bom này, lý do: nếu dội lên Điện Biên Phủ, không chỉ
giết lực lượng kháng chiến VN, mà còn giết luôn cả lính Pháp (10).
Biến cố này có ghi trong
Pentagon Papers (11) và hồi ký cuả tổng thống Eisenhower. Kể từ
chiến tranh VN cho đến khi mất năm 1996, McBundy cố hết sức vận động
giải giới bom nguyên tử để sửa lỗi lầm của mình. Đó là một nét văn
hóa rất Mỹ: công khai nhận lỗi, tìm cách sửa chữa, không đổ hô cho
trời cho chúa hay duyên kiếp bẽ bàng hay càm ràm đầu thai lầm thế
kỷ. Phải chi có trường ốc nào dạy môn “nhận lỗi” này, tất cả người
VN chúng ta nên đi học để khỏi đẩy những người trẻ đầy nhiệt huyết
như Lê Thị Công Nhân vào tay “thánh ý” xa xôi. Ở Hoa Kỳ, câu châm
ngôn “Love Them or Lose Them/Yêu Họ hay Mất Họ” đuợc dạy dỗ cẩn thận
nơi các lớp đào tạo lãnh đạo cho tương lai.
Vietnam…Why Did We Go?
chương 4, Avro Manhattan viết “Năm 1948, cuộc chạy đua hạt nhân
kinh hoàng giữa Mỹ và Nga bắt đầu. Năm 1949, để tăng cường mặt trận
chống Nga, Pius XII phạt vạ tuyệt thông với bất kỳ cử tri nào ủng hộ
Cộng Sản. Và ngay sau đó những nhà thần học Mỹ bảo rằng Hoa Kỳ
mang sứ mệnh khi sử dụng bom nguyên tử.”
Chương 9, “Dưới thời
Eisenhower, khi anh em nhà Dulles, Spellman và Pius XII giúp hình
thành những sách lược của Hoa Kỳ, quân đội Mỹ định thả từ một đến
sáu quả bom 31-kiloton lên những lực lượng Việt nam. Những quả bom
này có sức mạnh ba lần hơn quả bom ném xuống Hiroshima. Âm mưu sử
dụng vũ khí hạt nhân chống lại Việt nam được bạch hóa trong cuốn đầu
tiên của loạt 17 cuốn lịch sử chính thức về Chiến tranh Việt nam
được xuất bản vào 1984 bởi Phòng Quân sử Lục Quân Hoa Kỳ”. Tính
rợ theo Avro Manhattan, sẽ có ít nhất 1.200.000 người Việt chết cháy
ngay lập tức.
7/ Tại sao Nước Mỹ thua?
…Vì có TV…
Lần đầu tiên chiến tranh VN
được chiếu trên TV. Cảnh ở VN, mái lá cháy rụi, bom dội trên giếng
nước, trâu bò cắm đầu chạy máu mê ròng ròng, chất hóa học bỏ dọc
theo sông, hài nhi vỡ toang đầu phun óc, cố vấn Mỹ mặt non tựa lá
nho mùa xuân, méo sệch dưới lằn đạn Trung Cộng/Hoa Kỳ/Liên Sô vèo
vèo trên đầu. Cảnh ở Hoa Kỳ, thương binh rũ nguời trên đôi nạng,
Mom/Dad đón quan tài con giữa hai hàng lính u buồn…Sau đệ nhị thế
chìến, người Mỹ đã cố quên chiến tranh. Phải chứng kiến lại cảnh bom
đạn họ rất khiếp, nhất là khi họ hiểu ra tiền thuế và máu xương của
con họ xả ra cho Vatican cố giết một nước nhỏ xíu nghèo nàn còn
Spellman ngồi nhà rẩy nước thánh, họ không cho định mệnh mỉm cười
với Spellman nữa.
Lần đầu tiên người Mỹ tự
thiêu để phản đối chiến tranh VN.
Ngày
16-3-1965, Alice Herz, 82 tuổi, người Do Thái sống sót từ Holocaust,
theo đạo Quaker, tự thiêu ở Detroit. Ngày
2-11-1965, Norman Morrison, 31 tuổi, theo đạo Quaker, tự thiêu ngay
trước văn phòng McNamara ở Pentagon/Ngũ Giác Đài. Quaker là một
nhánh cuả Tin Lành quan niệm đơn sơ: anh là người Ki Tô không
có cắt bao qui đầu, thì tôi là người Ki-Tô không có rửa tội (12).
Ngày 9-11-1965,
Roger LaPorte, 22 tuổi, “Catholic Worker”, tự thiêu
trước trụ sở Liên Hiệp Quốc/New York. Tất cả để lại thơ “Đây là hành
vi tôn giáo…Chết cho ngươì khác sống… Hãy ngưng dội bom”. Cả nước Mỹ
bàng hoàng, nhợt nhạt chờ đón lời nguyền từ cõi chết.
Từ trên lầu ba Pentagon,
tướng McNamara đứng chôn chân nhìn đống lửa vàng hực lem lém nuốt
sinh mạng Morrison. Về sau, trong hồi ký “In
Retrospect: the Tragedy and Lessons of Vietnam/Thảm Kịch và Bài Học
Từ VN”, ông ghi “Cái chết cuả Morrison là thảm kịch, cho ông, cho
tôi và cả nước Mỹ. Đó là tiếng gào thét phản đối cuộc tàn sát cướp
đi sinh mạng của biết bao thanh niên Việt-Mỹ”. Ông thú nhận“We
are wrong, We are terribly wrong/Chúng ta đã lầm, đã vô cùng lầm lỡ”.
Bà quả phụ Morrison viết thư cảm ơn McNamara đã công nhận chiến
tranh VN là một thảm kịch, một lỗi lầm. Ông gọi cho bà ngay, cảm tạ
đã mở lòng, nhậm lời ông xin lỗi. Không kể giới lãnh đạo là vua nói
dối, một đức tính của “Ki-tô Hoa Kỳ” là dựa vào lòng tin cậy nhau,
Ki-tô tiếng Việt có một từ tương đương rất đẹp, “lòng lân mẫn”. Bà
Morrisson tin McNamara thành thật xin lỗi, bà viết thư cảm ơn như
cách tự thoát khỏi nỗi gian nan về cái chết thê thảm của chồng. Một
nét văn hoá Mỹ: khi nói lên sự thật, sẽ được đáp trả bằng khoan dung
và hào hiệp.
“An American Requiem, God,
My Father, and the War that Came Between Us/Kinh Cầu Hồn cho Nước
Mỹ- Thượng Đế, Cha Tôi và Chiến Tranh Giữa Cha-Con” (13), chủng sinh
James Carroll tu dòng Paule, đường hoạn lộ sáng hơn đèn xe lửa, đang
chờ cha linh hướng Spellman phong linh mục. Điều này không ngăn cản
Carroll viết “The Vietnam War began as Spellman’s/Chiến tranh VN bắt
đầu như là của Spellman”. Carroll biết cha mình,
trung tá tình báo đặc trách dội bom VN, cũng đứng đâu đó trên lầu
Pentagon, nhìn ngọn lửa thiêu đốt Morrisson. Cũng từ đó gia đình
Carroll không bao giờ đuợc như xưa nữa: hai thế hệ tan tành như
ngói. Carroll từ chối ơn kêu gọi: trả lại
áo linh mục. Cuộc chiến VN xa xôi
phủ màu tang trong gia đình Mỹ: anh em ly tán, mẹ ôm niềm ân hận, bố
con không nhìn mặt nhau. Cuốn sách đoạt giải National Book Award for
Non-Fiction (1996), giải thưởng cao quí nhất cuả văn học Mỹ.
Ghi chú: Ngày
11-5-1970, George Winne Jr, sinh viên 23 tuổi, bố đại uý hải quân,
tự thiêu ở khuôn viên University of California/San Diego, lưu lại
bút tích “In the Name of God, Stop the War/Vì Danh Chúa, Ngưng Chiến
Tranh”. Miếng gạch nơi Winne tự thiêu, được đặt làm đài tưởng niệm
phía đông thư viện, nơi linh hồn em yên nghỉ.
8/ Giáo Hoàng Paul VI xung trận “Jamais plus la
guerre”
…không là anh em nếu không có lòng trắc ẩn…
Gìữa một nước Mỹ tang tóc,
đại ngươn soái “Ba thước gươm, một cỗ nhung yên” thúc ngựa xông vào
vòng lửa đạn chính là giáo hoàng Paul VI. Vừa nhậm chức GH tháng
6/1963, Paul VI chớp mắt thấy tiêu tùng hai tổng thống Ki-tô Vatican
mất công gầy dựng: tháng 11-1963, TT Ngô Đình Diệm và Kennedy chết
thảm trong vũng máu bởi chính tay người Mỹ. Từ đó, bên tai tiếng bom
rền vang hơn tiếng thánh ca. Giáo Hoàng Paul VI lo lắng về việc
Spellman thủ hai vai một lúc: hồng y New York và tổng tuyên úy quân
đội, khiến thế giới suýt mấy lần đối diện với thế chiến ba. GH đã
cố nói chuyện với Spellman nhiều lần, nhưng chỉ nói với hai cái tai
điếc đặc.
Ngày 4-10-1965, lần đầu
tiên một giáo hoàng Vatican viếng nước Mỹ vốn là đất của giáo hội
Tin Lành. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant và các viên chức cao
cấp trong chính phủ ra đón GH ở máy bay. Ngoại giao Roma cực kỳ tinh
vi qua mắt được cả thượng đế trên trời lẫn loài nguời dưới thế: hai
đại diện Chúa: Paul VI và Spellman tươi cười cho cả thế giới chụp
hình.
Chỉ FBI vất vả: 18.000 nhân
viên chìm nổi gài kín vì có mật tin không lành. Người New York đợi
12 tiếng đồng hồ chỉ để ngó GH từ xa. Giáo hoàng và hồng y ngồi
chiếc limousine thứ hai. Cảnh sát trưởng New York Vincent Broderick
ngồi chiếc thứ ba. Broderick hết hồn vía khi xe giáo hoàng chậm lại
như mưốn ngưng trước cửa Foundling Hospital của Spellman. Rất nhanh,
ông nghĩ ngay tới vụ ám sát John Kennedy: xe chở tổng thống thình
lình chậm lại vừa đủ thì giờ cho sát thủ. Broderick điên cuồng hét
vào máy ra lệnh xe không được ngừng. Ông bấm nút, 18 ngàn nhân viên
lông tóc dựng đứng lấy hết gân cốt chạy về hướng Paul VI. Trong tíc
tắc, Broderick định lao đầu chạy tới xe giáo hoàng. Nếu GH bị ám sát
tại Mỹ, nước Mỹ mang mặt bột mì xuống địa ngục ráo. Về sau, khi bị
nạo sát ván, tài xế FBI mếu máo cho biết Spellman còn ra lệnh ngưng
vài phút để Giáo Hoàng thấy hết vẻ hoành tráng cuả cơ ngơi ngài.
Broderick không bị Spellman mắng nhanh nhẩu đoảng là may. Ngài ngồi
trên cả những âm mưu ám sát nên tỉnh bơ làm sái lộ trình. Ngài hầm
hơi GH qua thăm Liên Hiệp Quốc, không phải vinh danh ngài nên vớt
vát cho dân chúng thấy Spellman ngồi cạnh giáo hoàng.
Spelllman đón Giáo hoàng vô
cùng trọng thể ở phòng bầu dục St. Patrick. Thiên thần vén mây rót
ánh sáng từ những chóa đèn pha lê toả trên trần cao vút, giá mỗi cái
100.000 đô la. Thánh ca réo như thác Niagara. Chén đĩa toàn vàng
bạc. Phụ nữ rón rén mặc toàn đen choàng khăn ren kín đáo như bà
phước. Cả một rừng thượng lưu Ki-tô nước Mỹ tốn bao nhiêu tiền mới
được một chỗ ngồi xa xa, nơi áo choàng giáo hoàng không chạm tới. So
với St. Patrick phòng làm việc cuả GH ở Vatican cũ kỹ như cái chạn
bát. Khi chào từ giã đi gặp riêng tổng thống Johnson tại khách sạn
Waldorf-Astoria, GH nhã nhặn từ chối Spellman đi theo làm thông dịch
khiến mặt Spellman tím rịm như trái sim. Người khách danh dự phải
đến trụ sở Liên Hiệp Quốc trước GH 30 phút là bà quả phụ Jackie
Kennedy. Bài diễn văn lịch sử dài 3354-chữ, GH Paul VI dùng tiếng
Pháp. Mảnh dẻ như cây sậy Pascal trong cơn gió cuồng bay, Paul VI
dứt khoát:
Jamais plus la guerre!
Jamais plus la guerre!
Chiến tranh!! Không!! Không
bao giờ nữa!!..Chỉ hoà bình mới soi sáng định mệnh nhân loại …Nếu
muốn là anh em, hãy bỏ khí giới xuống…Yêu người sao được khi lăm lăm
vũ khí trong tay! sẽ không là anh em nếu không có lòng trắc ẩn…”
Lời tuyên bố bung ra như
bom 30 kilotons. Người thông dịch toát mồ hôi, cà lăm không tin ở
tai mình. 116 đại biểu các quốc gia nồng nhiệt đứng dậy hoan hô, trừ
đại biểu Albanie tẩy chay. Buổi tối tại Yankee Stadium trước 90.000
người, diễn văn 1460-chữ bằng tiếng Anh, Paul VI nhắc “Peace/hòa
bình” tới 28 lần, như những thông điệp sau này của Đức DaLai LaMa.
Đức Lê Lợi, xong chiến tranh chống quân Minh, cũng trả kiếm cho rùa
thần. Không cần chữ nghĩa dài dòng, bài học để lại đời sau vẫn đúng
như ngàn năm trước: mài gươm cho sắc đánh giặc ngoài, xong việc binh
đao, phải coi dân là trọng.
“Hỡi anh em! Ta có ba điều
gửi lục địa trẻ trung rạng rỡ này: Hãy yêu hoà bình! Hãy phục vụ
hòa bình! Ta mang tặng hồng y Spellman phiến đá cậy từ đền thờ Saint
Peter’s Basilica ở Roma, hồng y hãy vì danh Chúa xây dựng một giáo
hội cho tương lai, trong Đức Tin và Đức Mến”
Một trăm triệu người khắp
thế giới nghe thông điệp của vị chủ chăn Vatican qua TV. Người Mỹ
vỡ toang đón niềm vui. Cả nước Mỹ
mềm môi say thánh ý như say rượu nho. Mừng nhất là các bà mẹ
héo hon sửa soạn cho con đăng lính đi VN hay qua Canada trốn lính,
trong đó có mẹ của James Carroll. Chỉ vài ngày sau, 100.000 người
khắp nước Mỹ nhảy múa mở đầu “Phong Trào Hoà Bình.” Thu xếp lại bản
đồ thế giới, thông điệp cuả giáo hoàng rất rõ: Vatican muốn chiến
tranh VN chấm dứt, nếu không, không “đi” với Hoa Kỳ nữa.
Các quốc gia đang lâm
chiến nhẩy tango trên than hồng. KGB, CIA, MI6 vồ lấy hai bài diễn
văn, kính hiển vi xét từng dấu phẩy dấu chấm. Washington bí mật cho
loan tin “Giáo hoàng không biết ngài nói gì”. Sự thật thế nào? 1. GH
biết/không biết trận chiến toàn cầu đều là con cờ cuả đế quốc vô
hình Knights of Malta: bao giờ đạt chỉ tiêu sản xuất bom đạn mới
ngưng chiến được 2. GH đã có mật ước với một trong hai (hoặc cả hai)
siêu cường Liên Sô/Hoa Kỳ? 3. GH Paul VI vẫn được coi là có khuynh
hướng cộng sản. Khi còn là bộ trưởng ngoại giao Vatican, ông đã từ
chối chiếc mũ hồng y GH Pius XII ban, thà nhận một nhỉệm sở xa xôi
với chức giám mục khiêm nhường, để phản đối chính sách thân Phát Xít
của GH Pius XII. Giáo hoàng Paul VI mang niềm bí ẩn ấy về cõi thiên
đàng và chỉ nói riêng với Chúa, vị hôn phu 2000 tuổi.

Giáo hoàng và hồng y trước nhà thờ St.
Patrick
9/ Nụ hôn ly biệt Spellman-Judas
…chưa
bao giờ bẽ bàng thế...
Nguyên soái Paul VI xuất
chiêu xong lập tức tra gươm cuốn nhung y trở về Roma làm giáo hoàng
tiếp 13 năm ôi thôi là sóng gió. Nhưng Giáo Hoàng Tươi Cười/Smiling
Pope, tức John Paul I lên kế vị, chỉ ở ngôi đúng 33 ngày (26-8-1978
đến 28-9-1978), bị ám sát chết ngay trên giuờng ngủ trong điện
Vatican, trên tay còn cầm bài diễn văn sẽ đọc ngày mai, cất chức
Giáo Hoàng Đen. Vatican từ chối không cho giải phẫu tử thi theo đúng
luật của nước Ý. Mới chỉ 3 tuần lễ trước, ngày 5-9-1978, giám mục
Nikodim của giáo hội Chính Thống Liên-sô, sang Vatican dự lễ Giáo
Hoàng Tươi Cười nhậm chức, ngã quị dưới chân giáo hoàng. Thi thể của
hai vị có những dấu hiệu hệt nhau. Dư luận cho rằng Nikodim đã cầm
nhầm ly cà phê dọn lên cho Giáo Hoàng Tươi Cười (Murder in Vatican,
chapter 23)
Chúa ôi! Làm giáo hoàng có
sung sướng gì đâu. Bà quản bắt ne bắt nẹt. Ăn phải có người nếm. Bếp
của giáo hoàng như một pháo đài. Buồn miệng muốn ăn cái kẹo cũng
không được. Lính gác lởn vởn xung quanh. Đi xe gắn kiếng-chống-đạn.
Ngủ nướng thêm 15 phút là có báo động om sòm “GH bị ám sát”. Mang
trong tim màu nhiệm đức tin. Mang trên đầu niềm hãnh diện của giống
da trắng. Mang trên vai gánh nặng tội lỗi ngàn năm cuả giáo hội. Đối
diện với cả trăm vụ kiện thưa, từ cướp vàng dấu tiền nạn nhân chiến
tranh đòì bồi thường đến sờ mó trẻ em. Giáo dân tưởng ngài rảnh rỗi,
òn ỷ mách cáo đòi thánh ý phân xử trăm điều. Chỉ một mình ngài biết
sau ánh hào quang nơi bàn thờ cung thánh là bão tố địa ngục trần
gian. Chỉ ngày mai thức dậy mới biết chưa bị KGB, CIA, Giáo Hoàng
Đen ám sát. Cây thánh giá Chúa trao quá nặng! Theo chân Chúa trên
đồi Golgotha còn có Mẹ Maria và cô Magdalena. Giáo hoàng đơn độc một
mình.

Ảnh
https://www.npg.si.edu/exh/sorel/spell.htm
Spellman
có cúi đầu nhận lãnh “Chín tầng gươm báu trao tay”?
Giỡn chơi! Lên xe tiễn nhau đi,
chưa bao giờ bẽ bàng thế. Giữa hai hàng lính danh dự nhung phục sáng
choang, Spellman quì hôn
lên nhẫn GH nụ hôn ly biệt đắng như pha nọc rắn. Khung cảnh như
trong phim: dáng cao như tài tử Anthony Perkins, áo choàng bay trong
gió; đôi giầy da mầu đỏ ngừng trên bực thang chót; Giáo Hoàng Trắng
quay lại dang tay đầy kịch tính chúc phúc nước Mỹ lần cuối. Cả nước
Mỹ thổn thức cứ như một bầy trinh nữ ngây thơ. Một bà cụ nhất định
quì cầu nguyện cho đến khi vị giáo hoàng 68 tuổi về Roma bình yên.
Lúc đó chưa có hàng giáo phẩm VN tỵ nạn ở Mỹ, nếu không thì tiếng
kinh cầu vang rền khắp 9 ngàn tầng trời chứ không bỡn. Giáo hoàng
nhìn Spellman tạm biệt. Lửa trong đáy mắt tung tóe như hai mảnh
thiên thạch cắt nhau trên không gian. Hồng y 76 tuổi, khuỵu chân
chào kính giáo hoàng lần nữa, sầu như chưa sầu thế bao giờ. Ngài lảo
đảo như sắp ngã, thiếu điều muốn nấc nhìn theo máy bay khuất trong
mây. Cận vệ phải đưa tay cho ngài vịn. Vừa về tới St. Patrick,
Spellman hầm hầm trẹo quai hàm vứt ngay Đức Tin Đức Mến lẫn phiến đá
Roma vào thùng rác, dù bằng bạc cũng vẫn là thùng rác. Với
Franny, chỉ GH Pius XII biết dùng quyền lực, các
GH khác bán chuối bán pizza
cũng không nên thân. Ôm mối hận bị
sỉ nhục trước công chúng cho đến cuối đời, Spellman cắt đứt liên hệ
với GH Paul VI, tiếp tục ra lệnh cho Johnson dội bom, thí
quân vào một trận chiến vô đạo.
Sau chuyến đi cuả GH Paul
VI, màu sắc ngoại giao Roma rõ
nét: liên lạc trực tiếp với Hà Nội và Trung Quốc. Hồng y Igino
Eugenio liên lạc với đại
diện VN ở Âu châu. Hồng y Paolo Bertoli qua trung gian người Pháp
làm việc với Saigon và Hà Nội. Đại diện Vatican ở Cambodia tiếp xúc
với Việt-Cộng. Học giả, luật gia, sử gia, hàng giáo phẩm, nhân viên
ngoại giao… đổ xô về Roma. GH và ông Hồ Chí Minh trực tiếp trao đổi
thư từ. Thời gian này ở
miền Nam VN, chính phủ quân sự/dân sự thi nhau đổ. Uỷ Ban Lãnh Đạo
Quốc Gia (6-1965 đến1967), hai nhân vật chính là
ông Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao
Kỳ, không rõ VNCH vẫn duy trì liên lạc ngoại giao với Roma không.
Đoạn sử này của cả hai miền Nam-Bắc VN hình như còn chìm trong bóng
tối.
Spelllman
phản ứng ra sao trước những “điệp vụ” này? Thiệp giáng sinh 1965 gửi
Vatican, ảnh chụp Spellman đứng trước máy bay chiến đấu với hai quân
nhân. Dư luận miền Nam VN ghét oan cái đám phản chiến tốt đen Jane
Fonda, John Kerry, trong khi GH Paul VI, McNamara, McBundy là phản
chiến thượng hạng. Người Việt vỗ tay nhạo báng trên xác chết người
Việt mấy chục năm nay mà không biết (hay không dám) chỉ đích danh kẻ
mang chiến tranh choàng lên cổ người Việt là HY Spellman. Có đọc một
nhận xét từ người ngoại quốc “Người Việt khi không đánh ngoại xâm
thì chúng nó đánh nhau”.
Chúng nó đánh nhau! Một
tâm thức chắc chắn được tình báo các nước đối tác nghiên cứu/khai
thác, khi cần áp dụng với giá rẻ mạt hay hứa hẹn tầm phào là tạo
ngay đuơc chia rẽ, hỗn loạn. Lời thề kinh hãi cuả dòng Jesuits/dòng
Tên gặp đất tốt, khỏi bón phân phiếc chi hết… “Con đã được đào
tạo để lẳng lặng gieo mầm mống tị hiềm và thù ghét giữa cộng đồng,
địa phương, quốc gia đang hòa bình, và khích bác chúng gây đổ máu,
lôi kéo chúng giao chiến với nhau, và gây ra khởi loạn hay nội chiến
ở các quốc gia…”(14)
10/ Hồng Y
Spellman không nói thay cho Giáo Hoàng
…Điều gì đó dường như tan vỡ nơi đức hồng y…
Ngày
23-12-1966, dự lễ Giáng Sinh với lính Mỹ ở VN, Spellman tuyên bố “Lính
Mỹ chiến đấu để tự vệ, bảo vệ, và cứu rỗi, không chỉ nước Mỹ, mà cả
nền văn minh nữa./…defense, protection, and salvation not only for
our country, but…of civilization itself”.
Hôm sau Vatican lên tiếng tức thì
“Đó không phải quan điểm của tòa thánh, HY Spellman không nói thay
cho giáo hoàng”. Tờ New
York Times, tờ The Nation, tờ công giáo CommonWealth nhất loạt lên
tiếng gay gắt công kích Spellman.
Năm 1967, một số cựu quân
nhân tuần hành khắp nước Mỹ, ngồi xe lăn hay đi nạng, vứt bỏ huy
chương. Một số lên tiếng xin lỗi người Việt, hy vọng ngày nào họ sẽ
trở lại xây dựng nơi họ đã phá tan nát. Nhóm này ngày càng lớn
và lập nên
Vietnam Veterans Against the War
ngay tại New York.
Không giống những vị chủ
chăn khác phải cân nhắc hoặc ít ra phải giả bộ cân nhắc hay Điêu
Thuyền khóc mếu chút đỉnh, Spellman không hề nao núng khi bị chỉ
trích là sát nhân. Ngài cũng chẳng xem TV. Chủ nhật 22/1/1967, trước
nhà thờ St. Patrick, 25.000 người phẫn nộ “Bắt Spellman Đi Lính,
Liệng Ổng Ra Mặt Trận, Ngưng Ngay Cuộc Chiến Spellman” khiến ngài
phải ngưng ngang xương thánh lễ. Ngài bắt đầu xuống tinh thần và
uống khá nhiều ruợu. Không điều gì làm con tim vui trở lại. Mớ bạn
học cũ ở Fordham University
lọm khọm đến hát cho ngài nghe mấy bài thời chủng sinh, ngài cũng
gắt om lên. “Something seemed to have broken in the Cardinal/Điều
gì đó dường như tan vỡ nơi đức hồng y”, John Cooney trong “The
American Pope” trang 399 ghi như thế. Ngồi mãi trên ngai, đũng quần
cũng phải mòn chứ.
Khi tổng thống Johnson bắt
McNamara phải từ nhiệm ngày 29-11-1967 - vì tội dám hỏi “chiến tranh
VN có đạo lý không và phải ngưng dội bom”- Spellman thật sự chới
với. Nhưng hai ngày sau, ngài vẫn hùng dũng tuyên bố cuối tháng sẽ
đi VN ăn tết giáng sinh với lính Mỹ. Lần này Chúa có vẻ hơi hoảng,
qua hôm sau Chúa lật đật cất ngài đi đoàn tụ gia đình với GH Pius
XII ngày 2-12-1967 bằng chuyến bay Air Thiên Đàng, non-stop,
thuyền-ra-cửa-biển luôn. Ngài đi, không mang theo thảm Ba-Tư và chén
dĩa vàng, cũng không kịp thưởng thức tấm poster Edward Sorel vẽ, có
tên "Pass the Lord, and Praise the Ammunition”, đại diện Chúa mặt
phụng phịu quạu cọ, “rao giảng” Tin Mừng bằng súng gắn lưỡi lê.
Poster đến tay báo chí, vừa vặn Spellman “băng hà” sau nhiều trận
tai biến mạch máu não. Ngài hưởng 78 mùa xuân, mùa nào cũng đánh
nhau mệt nghỉ.
Đám ma ngài xứng đáng là
“đám táng cá voi”. Sau khi ngài mất, Vatican cũng như báo chí Hoa Kỳ
cố quên như không hề có một hồng y Spellman trên cõi đời, dù ngài để
lại nhiều trường ốc đồ sộ. Vatican dập dình phong thánh cho GH Pius
XII cho đỡ mất mặt, nhưng không bao giờ nhắc tới tên Francis Joseph
Cardinal Spellman, SJ.
Hồi thanh niên ngài có mần
thơ. Giờ đây trên lối thiên đàng, giá ngài dừng tay ngắt vài nhánh
oải hương cho lòng dịu dàng và viết hồi ký “Tâm Tư Hồng Y Giáo Chủ
Spellman” thế nào cũng thâu thêm một mớ tiền âm phủ uống cà phê, nếu
ngài bán giá nơi nới một chút cho lính, lúc nào cũng nghèo. Ít ra họ
cũng xứng đáng được biết họ chết vì ai.
11/ Câu hỏi
của Đại sứ Giovanni D’Orlandi
….Hoa
ngày mai đều nằm trong hạt ngày hôm nay…

Ảnh https://www.30giorni.it/us/articolo.asp?id=9049
Đại sứ Giovanni
D’Orlandi/Italy tại Saigon từ 1962-1968, bồi hồi ghi trong nhật ký
(15):
“Trong 20 năm, số
bom trải ở VN là bẩy triệu tấn, nhiều hơn cả bom thả trong đệ nhị
Thế Chiến, trên một mảnh đất lớn hơn xứ Italy chút xíu, sáu mươi
ngàn lính Mỹ và sáu trăm ngàn lính Việt Nam tử trận, ba triệu người
chết…”
“Nếu phí tổn chiến
tranh tính theo đầu người được chia đều, mỗi gia đình VN đều có một
căn nhà có vườn, một tủ lạnh và một TV”
“Khi 200,000 người
Ki-tô di cư từ Bắc vào Nam, mỗi người đuợc vài nắm gạo và vài cái
chăn. Số lớn tiền viện trợ chạy trở lại nước Mỹ, qua Switzerland hay
Hongkong”
Không phê bình luận tội ai
hết, chỉ cần vài con số, đại sứ D’Orlandi ném vào lịch sử Việt Nam
và lương tâm Việt Nam một câu hỏi bỏ ngỏ “Gây nên chiến tranh quốc
gia/cộng sản tại VN, ai là người hưởng lợi”??
Ở đâu đó, thiên đàng/địa
ngục, hai chiến binh vĩ đại Pius XII và Spellman - người duy nhất
thắng trận - đội vòng nguyệt quế kết bằng đầu lâu, có thể đang bầy
một trò chơi mới cho trăm năm tới, lại cần thêm dăm cái lưng cong.
Đọc trên tienve.org một câu
hay tuyệt “Không Phải Đêm Dài Nào Cũng Chấm Dứt Bằng Ánh Bình Minh”.
Chừng nào còn thiếu vắng những trả lời minh bạch. Amen! Xin Được Như
Nguyền
Cécilia Trần Thị Vĩnh-Tường
(Mùa Vu Lan 2010)
Chú thích
(1) https://www.vvaw.org/about/warhistory.php
https://timelinesdb.com/listevents.php?subjid=72&title=Vietnam
(2) https://www.gio-o.com/NgoBacJBalestier.html
(3
https://www.tinmoi.vn/Da-Nang-canh-cua-bien-Dong-04144027.html
(4 https://www.rileystjames.com/MGWED.HTM
(5) https://www.chuacuuthe.com/?p=8427
(6)
https://www.awesomestories.com/history/pentagon-papers/the-truth-about-tonkin
https://my.opera.com/PANWENFANGHUI/blog/bi-n-c-v-nh-b-c-vi-t-8-1964-ph-n-v
(7) https://www.reformation.org/vietnam.html,
https://sachhiem.net/LICHSU/AVRO/AVRO_01.php
- dịch giả Trần Thanh Lưu
(8)
https://www.officeoftheamericas.org/images/pdf/usmilitaryinterventions.pdf
(9) https://www.nybooks.com/articles/archives/2010/jun/10/mac-bundy-said-he-was-all-
wrong/
(10)
https://findarticles.com/p/articles/mi_m1141/is_29_43/ai_n19360865/?tag=content;col1
(11)
https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon/pent6.htm
(12)
Nguyễn Đức Hiệp,“Khoa
Học và Tôn giáo”
https://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=1310& Itemid=31
(13)
Carroll, James - “An American Requiem, God, My Father, and the War
that Came Between Us”, (Houghton Mifflin Co, Boston-New York. 1996),
trang 164.
(14)
https://sachhiem.net/SACHNGOAI/HoangKhoi.php
(15)
https://www.30giorni.it/us/articolo.asp?id=9049
nguồn https://vietsciences.org/biographie/politicians/Spellman.htm 12/11/2010