●   Bản rời    

Những Sai Lầm Trầm Trọng Trong Quyển VIETNAM 1945-1995 -phần đầu (Nguyễn Mạnh Quang)

MỘT SỐ NHỮNG SAI LẦM TRẦM TRỌNG TRONG

CUỐN VIỆT NAM 1945-1995 CỦA TÁC GIẢ LÊ XUÂN KHOA

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/LEXKHOA/NMQ1.php

23 tháng 5, 2008

1 2

Lời đầu: Bài viết này là Chương 11 trong số 14 chương sách của quyển sách về "Hình Ảnh Người Việt Quốc Gia" mà người viết vừa mới biên soạn xong. Chương này cũng là một trong hai chương sách nói về di lụy của chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ được Vatican triệt để thi hành ở Việt Nam trong những năm 1862-1954 và ở miền Nam trong những năm 1954-1975. Chúng tôi cho công bố chương sách này trước với hy vọng được ông Lê Xuân Khoa lên tiếng và mong được lãnh hội những ý kiến và những lời phê bình xây dựng cùng những lời chỉ dẫn của độc giả cho biết những sai lầm và thiếu sót của chúng tôi.

Đa tạ,

Nguyễn Mạnh Quang.

Từ khi cuốn "Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963" được phổ biến rộng rãi vào cuối năm 1998, có hàng trăm độc giả gửi thư khích lệ và mong ước chúng tôi kiên trì tiếp tuc biên soạn nhiều tác phẩm khác kế tiếp. Nhiều đọc giả bày tỏ cảm tưởng khi nhìn ra được những khúc mắc, hay những mặt trái của các vấn đề lịch sử và chính trị, do đó bắt đầu hoang mang không còn tin tưởng những quyển sách trước đây đã được đọc (xem http://sachhiem.net/NMQ/ThuDocgia/QThudocgia.php). Vì thế, có một số độc giả yêu cầu chúng tôi nêu đích danh những tác giả đã có một hay nhiều ấn phẩm lịch sử trong đó có nhiều sự kiện lịch sử hoặc là bị bưng bít, hoặc là bị xuyên tạc hay bị bóp méo với mục đích để (1) che giấu việc Vatican cấu kết chặt chẽ với Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp trong những hành động tấn chiếm và thiết lập ách thống trị tại Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thập niên 1780 cho đến ngày 9/3/1945 cũng như trong thời Kháng Chiến 1945-1954, rồi lại cấu kết với Hoa Kỳ trong việc cưỡng chiếm và thống trị miền Nam từ tháng 7/1954 cho tới ngày 30/4/1975, và (2) bưng bít những việc làm tội ác làm Việt gian bán nước cho các thế lực xâm lược trên đây của nhóm thiểu số tu sĩ và tín đồ Ca-tô người Việt. Một trong những độc giả này là nhóm thân hữu của ông Trần Hoài Thư gửi cho chúng tôi là thư đề ngày 2/9/2000, có nguyên văn lá thư này:

“Chúng tôi là nhóm độc giả được đọc qua các tác phẩm của Giáo Sư viết. Xin Giáo Sư nhận nơi đây lòng thành kính và biết ơn sâu xa của chúng tôi.

Tại sao biết ơn và thành kính? Có phải là những sáo ngữ hay những lời tâng bốc nịnh bợ như những phường xu thời, cuồng tín không?

Xin trả lời dứt khoát: KHÔNG!

Hơn nửa thế kỷ qua, đây là lần đầu tiên chúng tôi được đọc thoải mái các sách có giá trị LỊCH SỬ thiệt thực, cụ thể, xác đáng, không thể chối cãi được như Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư, Thực Chất Của Giáo Hội La Mã, Công Giáo Chính Sử, Ki-tô Giáo: Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại, Đối Thoại Với Giáo Hoàng Phao Lô II, Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa? Bước Mờ Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam, A. De Rhodes, Người Đầu Tiên Vận Động Pháp Chiếm Việt Nam và Chữ Quốc Ngữ, Linh-mục Trần Lục, Thực Chất và Con Người Nguyễn Trường Tộ, Thực Chất Và Con Người Sự Nghiệp, v.v…

Tuy nhiên, người Chiến Sĩ Can Trường nhất vẫn là Giáo Sư, đầy đủ dũng khí hiên ngang đứng trước bọn Vong Nô bán nước phản dân, nói lên tất cả sự thật, khai đường mở lối cho lớp trẻ hậu sinh. Một việc làm mà theo chúng tôi nghĩ: Có một không hai!

Có ở trong chăn mới biết chăn cỏ Rận. Giáo Sư là người của Giáo Hội Gia Tô La Mã mới thấy đầy đủ Chân Tướng và Dã Tâm của những con Rận Chúa La Mã và vạch trần cho mọi người thấy. Dù bọn Rận Con có hăm dọa đòi lấy mạng sống, Giáo Sư cũng vẫn vững chân tiến tới vì nhiệt tâm yêu Quốc Gia Dân Tộc: “Vị Quốc Dân bất cầu báo”.

Dù vậy, các sách trên đây chưa được phổ biến rộng rãi trong nước. Chúng tôi mong rằng ngày gần đây đồng bào quốc nội sẽ được tiếp nhận đầy đủ hơn. Sau đây chúng tôi đề nghị Giáo Sư:

Xin giáo sư soạn một quyển sách, list ra họ tên tác giả, tên tác phẩm, tác giả gốc đạo gì, tháng năm tác phẩm ra đời, khuynh hướng chính trị tôn giáo v.v.. từ trước đến nay, để lớp trẻ sau này biết chọn sách mà đọc khỏi bị lạc dẫn. Thiết nghĩ chỉ có giáo sư mới đủ uy tín làm việc này!

Vì gần một thế kỷ nay, tất cả các sách giáo khoa và lịch sử hầu hết đều do bọn Thiên Chúa hoặc tay sai biên soạn, nên phần đông đều mù tịt. Ví dụ Pétrus Ký, A. De Rhodes, Nguyễn Trường Tộ, Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Ngô Đình Diệm, đều là vĩ nhân yêu nước, nhưng Sự Thật đều là Bán Nước.”

Được như vậy, kính xin Giáo Sư nhận nơi đay lòng tri ân chân thành của chúng tôi. Kính chúc Giáo Sư cà toàn gia quyến vui mạnh, Giáo Sư đạt được lý tưởng cao cả.”

Kính thư

Đại diện: Trần Hoài Thư. Ký tên [1]

Vì quá bận rộn cho các bộ sách khác, chúng tôi chưa lần nào đáp ứng sự ủy thác và kỳ vọng này của các đọc giả trong thời gian qua. Hy vọng chương sách này cũng như bộ sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã và tất cả những tác phẩm khác mà chúng tôi đã và đang biên soạn có thể đáp ứng được phần nào lời yêu cầu trên đây của nhóm thân hữu của ông Trần Hoài Thư cùng các độc giả khác và cũng là đáp ứng được lòng mong muốn của tất cả những người hằng quan tâm đến lịch sử và tương lai của dân tộc Việt Nam chúng ta.

۩

Ở hải ngoại sau năm 1975, có một số khá đông người không có căn bản sử học lại nhẩy rào vào lãnh vực viết sử, nhất là sử Việt Nam liên hệ đến giai đoạn cận đại. Đây là trường hợp của các tác giả như Linh-mục Vũ Đình Hoạt viết bộ Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan (1991), cựu luật-sư Nguyễn Văn Chức viết cuốn Việt Nam Chính Sử (1992), Lữ Giang viết hai cuốn Những Bí Ẩn Đàng Sau Các Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam (1994) và Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam (1999), Linh-mục Cao Văn Luận viết cuốn Bên Giòng Lịch Sử, Cao Thế Dung viết cuốn Việt Nam Huyết Lệ Sử (1996), Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức viết cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1996), Vĩnh Phúc viết cuốn Những Huyền Thoại & Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm (1998), Nguyễn Văn Châu viết cuốn Ngô Đình Diệm: Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở (1989), Linh-mục Phan Phát Huồn viết bộ Việt Nam Giáo Sử (1965), nhóm tu sĩ và tín đồ Ca-tô Nguyễn Gia Đệ, lê Hữu Mục, Bằng Phong, Phạm Xuân Thu, Trần Trung Lương viết cuốn Trần Lục (Montréal, Canada: TXB, 1996), nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Dương Diên Nghị, Nguyễn Châu, Lương Văn Toàn, Lê Hữu Phú và Hoàng Đức Phương Việt Nam: Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia - Cộng Sản - Tập I (2002), Nguyễn Gia Kiểng viết cuốn Tổ Quốc Ăn Năn (2001), Minh Võ viết cuốn Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê (1998), Nguyễn Đức Chiểu viết cuốn Việt Nam Mất Lỗi Tại Ai? (1993), Lê Xuân Khoa viết cuốn Việt Nam 1945-1995 -Tập I (2004), Tiến-sĩ Khi Nguyễn Tiến Hưng viết cuốn Đồng Minh Tháo Chạy (2005), v.v…

Phần lớn những người này là tín đồ Ca-tô, cho nên:

1.- Quan điểm về lịch sử của họ cũng méo mó, giống như quan điểm lịch sử của Vatican, nghĩa là cái gì thuộc về hay của Giáo Hội La Mã đều thánh thiện, đều cao cả, đều tốt đẹp, cái gì không phải hay không thuộc về Giáo Hội đều xấu và đều là tội ác.

2.- Họ tránh né bằng mọi giá, không đả động gì đến những việc làm bất chính hay tội ác của Vatican chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua và chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam (trong đó có những hoạt động gián điệp) từ giữa thế kỷ 16 cho đến ngày nay.

3.- Họ tìm đủ mọi cách đề cao và tôn vinh Giáo Hội La Mã, đề cao và tôn vinh tu sĩ và tín đồ Ca-tô người Việt có những thành tích tội ác bán nước cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ- Vatican trong suốt chiều dài lịch sử từ khi Giám Mục Pigneau de Béhaine kết thân với Nguyễn Phúc Ánh đem Hoàng Tử Cảnh sang Pháp cầu viện quân sự cho chúa Nguyễn để chống lại chính quyền Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của triều đình Tây Sơn vào giữa thập niên 1780.

4.- Họ tìm đủ mọi cách bóp méo các sự kiện lịch sử có liên hệ đến những việc làm bất chính hay tội ác của Giáo Hội La Mã, của tu sĩ cũng như của tín đồ Ca-tô và của các chính quyền đạo phiệt Ca-tô ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 với mục đích chạy tội cho Vatican và bọn Việt gian này.

5.- Họ dùng những thủ đoạn vu khống để bôi lọ các nhà ái quốc và các lực lượng nghĩa quân kháng chiến chống lại Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican trong suốt chiều dài lịch sử từ cuối thập niên 1850 cho đến ngày 30/4/1975.

6.- Họ tìm đủ mọi các để hạ giá các vị anh hùng dân tộc và truyền thống văn hóa cao đẹp của dân tộc. Cuốn sách Tổ Quốc Ăn Năn của ông Ca-tô Nguyễn Gia Kiểng là một trong những thí dụ điển hình.

7.- Chính quyền Việt Nam hiện nay đang là đối tượng cho họ đánh phá theo sách lược “quậy cho nước đục để thả câu” giống như Giáo Hội La Mã và ông cha họ đã làm trong thế kỷ 19 bằng những thủ đọan vu khống và bóp méo lịch sử như bộ máy tuyên truyền của Vatican vẫn thường làm trong gần hai ngàn năm qua.

Trong chương sách này, người viết xin nêu lên trường hợp ông Lê Xuân Khoa, tác giả cuốn Việt Nam 1945-1995 - Tập 1 (Bethesa, Md: Tiên Rồng, 2004). Khi biên soạn cuốn sách này, tác giả đã vướng phải nhiều sai lầm trầm trọng, trong đó có một số sai lầm có thể là do chủ tâm của tác giả để giảm nhẹ tội ác cho Giáo Hội La Mã, một số có thể là cố tình chạy tội và tô vẽ cho anh em nhà Ngô cùng chính quyền Ngô Đình Diệm, và một số có thể là vì không có căn bản về sử học và không hiểu rõ tiếng Việt một cách chính xác.

Phần trình bày những sai lầm trầm trọng trong cuốn "Việt Nam 1945-1995" của tác giả Lê Xuân Khoa không phải là bài điểm sách. Chủ tâm của người viết là muốn nêu lên trước công luận một số những điểm sai lầm của tác giả. Bài viết này cũng chứng minh rằng muốn viết một cuốn sử về Việt Nam trong thời cận và hiện đại thì người viết phải nắm vững những sự kiện lịch sử hay chính tình Việt Nam, các thế lực quốc tế nào đã trực tiếp hay gián tiếp tác động và can thiệp vào từ thế kỷ 16, hay ít ra cũng từ cuối thế kỷ 18 cho đến ngày nay. Sau hết và cần thiết nhất là người viết phải có tinh thần vô tư, can đảm dám nói lên tất cả mọi sự thật của lịch sử. Vô tư cũng không phải là cố gắng tìm cách "nói tốt" rồi "nói xấu" đều nhau cho mọi tác nhân chính trị. Trong mọi âm mưu đen tối của các thế lực chính trị đều được che đậy bởi một bề mặt đẹp đẽ nào đó. Vấn đề điểm mới đáng nói, chứ không phải là diện. Cuối cùng, cái mục tiêu đạt tới của một phe nhóm nào đó có phục vụ cho đại khối cho dân tộc, hay cho một nhóm thiểu số nào, cho Việt Nam hay quốc gia nào khác. Phân biệt được những đặc điểm đó, là lúc tác giả sẽ được đánh giá về mức độ vô tư của tác phẩm của mình.

Cũng nên biết trong thế kỳ 16, Vatican ban hành nhiều thánh lệnh mà chủ đích là ban cấp đặc quyền cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha được đem quân đi đánh chiếm các vùng đất ở ngoải Âu Châu, được tự do chiếm đoạt tài nguyên, tàn sát nhân dân bản địa, cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái, cưỡng ép những người sống sót phải theo đạo Ca-tô và làm nô lệ cho Giáo Hội La Mã và đế quốc xâm lược liên minh với Vatican. [2]

Hy vọng rằng sau khi chương sách này được phổ biến rộng rãi, quý độc giả sẽ lên tiếng để cho mọi người trong nước cũng như ở hải ngoại cùng biết những điều mà người viết cho là “lỗi lầm trầm trọng” trong cuốn "Việt Nam 1945-1995" của ông Lê Xuân Khoa được nêu lên đây ĐÚNG hay SAI. Người viết mong được tiếp nhận ý kiến của quý vị và rất mong được ông Lê Xuân Khoa lên tiếng.

Trân trọng,

Nguyễn Mạnh Quang.

oooo ۩ oooo

Bản Việt Nam 1945-1995 Tập I của tác giả Lê Xuân Khoa được sử dụng trong bài viết này do nhà xuất bản Tiên Rồng phát hành vào năm 2004 (Không đề giá tiền). Sách dầy 568 trang, được chia ra làm 3 phần và Lời Kết:

Phần I: Những Nguyên Nhân Gốc của Tị Nạn. (Từ Chương 1 đến Chương 3).

Phần II: Chiến Tranh Chống Pháp và Tị Nạn 1954. (Tử Chương 4 đến Chương 9).

Phần III: Nội Chiến hay Chiến Tranh Ủy Nhiệm? (Từ Chương 7 đến Chương 10).

Ngòai 3 phần trên đây và lời kết, còn có các bản Phụ Lục A, B, C, D, E.

PHẦN TRÌNH BÀY NHỮNG SAI LẦM

TRONG CƯỐN VIỆT NAM 1945-1995

Bình thường, nếu chỉ viết một bài viết khoảng 15 hay 20 trang nói về một khía cạnh nào đó trong cuộc chiến Việt Nam mà không nói tới bàn tay của Giáo Hội La Mã trên vũ đài chính trị và quân sự ở Việt Nam trong thời cận và hiện đại, thì cũng không sao. Đằng này, ông Lê Xuân Khoa biên sọan cả một bộ sách nói về một giai đọan lịch sử trong những năm 1945-1995, trong đó nhân dân ta đã phải trải qua thảm nạn hai triệu người chết đói (vì bị chính quyền Bảo Hộ bóc lột và cố ý đẩy dân ta vào tình trạng chết đói với mục đích là tê liệt khả năng kháng chiến của nhân dân ta,[3] và hai cuộc chiến giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước kéo dài cả 30 năm trời (1945-1975). Ấy thế mà tác giả lại không nói đến vai trò của Giáo Hội La Mã. Viết như vậy thì chẳng khác nào như một vị công tố viện đưa ra trước tòa án xét xử một vụ sát nhân có dự mưu, lại chỉ truy tố tên sát thủ mà không truy tầm kẻ chủ mưu.

Viết sử mà viết như thế thì quả thật là viết sử tài tử, không hiểu gì về nguyên tắc viết sử nếu không muốn nói là có gian ý bưng bít và giấu nhẹm những tội ác cho một thế lực mà tác giả muốn bao che. Người viết không biết tác giả Lê Xuân Khoa chỉ là người viết sử tài tử, muốn tỏ ra là một nhà trí thức thống kim bác cổ, hay ông ta có chủ tâm tháu cáy lịch sử? Dù là ở vào trường hợp nào đi nữa, sự thật là cuốn "Việt Nam 1945-1995" có những sai lầm trầm trọng dưới đây:

Sai lầm thứ 1

Tác giả không nói gì đến vai trò của Giáo Hội La Mã trong thời cận và hiện đại, đặc biệt nhất là vai trò của Giáo Hội La Mã trong các chính quyền miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975.

Giáo hội La Mã là thế lực chủ động cấu kết với Pháp trong việc đánh chiếm và thống trị Đông Dương từ năm 1858 đến 1954. Sau đó Giáo hội lại cấu kết với Mỹ trong việc thống trị miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Sự kiện này đã được nói rõ trong quyển "Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-63".

Sai lầm thứ 2

Lời tuyên bố của ông Lê Xuân Khoa: “Cuộc chiến thứ nhất là kháng chiến chống Pháp và chống Quốc Gia Việt Nam do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Mặt Trận Việt Minh) lãnh đạo 1945-1954.”” (Trang 29).

Phản biện: Trong thực tế, cuộc kháng chiến chống Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican do chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Mặt Trận Việt Minh) lãnh đạo chỉ là cuộc kháng chiến nối tiếp các cuộc kháng chiến của nhân dân ta dưới quyền lãnh đạo của các nhà ái quốc Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Phan Tôn, Phan Liêm, Nguyễn Hữu Huân, Mai Xuân Thưởng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Lương Văn Can, Trịnh Văn Cấn, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông trong Việt Nam Quốc Dân Đảng vào cuối thập niên 1920 cho đến lúc bấy giờ. Các cuộc kháng chiến này đều có mục đích số 1 là giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của người ngoại bang. Chính vì cái mục đích số 1 này của Mặt Trận Việt Minh mà gần như toàn thể nhân dân ta (ngoại trừ một nhóm thiểu số “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”) đã lũ lượt nô nức lên đường đi theo Việt Minh đòi lại núi sông từ trong tay giặc. Sự kiện này đều được các sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Việt Nam Quốc Dân Đảng viết:

Sau 80 năm bị lệ thuộc, dân tộc Việt Nam chỉ thèm khát độc lập, và không biết gì đến khuynh hướng chính trị của phe này với nhóm khác. Người dân Việt Nam nghĩ rằng: miễn là nước được độc lập, còn đảng phái nào lãnh đạo cuộc tranh đấu giành độc lập hay cầm chính quyền cũng vậy, cốt là “Nước Việt Nam của người Việt Nam!”

Một yếu tố khác nữa, ngót hai triệu đồng bào chết đói vừa qua, là chết để đem linh hồn thức tỉnh ý chí những kẻ còn sống cũng phải phục thù rửa hận cho toàn dân. Đó là hoàn cảnh tạo nên cuộc cách mạng âm ỷ trong đầu óc mọi người dân Việt, khác nào như một kho thuốc nổ, chỉ còn đợi người nào hoặc đoàn thể nào châm ngòi lửa là nổ bùng. Lò thuốc súng đã có người châm, ngòi đã nổ, quần chúng ùa chạy theo Việt Minh Cộng Sản.”[4]

Sách Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F. Kennedy viết:

“Nói rằng người Pháp khom mình liếm gót thì quả cũng không ngoa chút nào. Và họ sẽ tiếp tục liếm gót cho tới khi cuộc chiến tranh sắp sửa kết thúc, lúc ấy người Nhật, nhận ra tình thế khó khăn của mình, sẽ tống tất cả lính tráng Pháp vào tù để đề phòng một cuộc mổi dậy. Nhưng vào lúc này có nhiều người khởi nghĩa hơn – những người khởi nghĩa bản xứ - chống lại sự áp bức của cả Pháp lẫn Nhật. Việt Minh là tên gọi của một nhóm dân quân du kích được tổ chức tốt và lập tức được cả nước đứng sau lưng. Đứng đầu nhóm là người sau này trở thành vị lãnh tụ duy nhất từng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống lại người Mỹ: Hồ Chí Minh.”[5]

Việt Minh được cả nước đứng sau lưng và cả nước quyết tâm LÊN ĐƯỜNG đi theo để chiến đấu đòi lại quê hương cho dân tộc. Hình ảnh hào hùng và vô cùng cảm động này được nhà thơ Nguyễn Tố Chi ghi lại bằng những dòng thơ lịch sử khiến cho người đọc cảm thấy như chính mắt nhìn thấy cái khí thế bừng bừng của dân ta lúc bấy giờ. Bài thơ này có tựa đề là Lên Đường và đã được ghi lại trong Chương 7 ở trên.

NẾU nói rằng,“Cuộc chiến thứ nhất là kháng chiến chống Pháp và chống Quốc Gia Việt Nam do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Mặt Trận Việt Minh) lãnh đạo 1945-1954”, THÌ hóa ra các lực lượng nghĩa quân kháng chiến dưới quyền lãnh đạo của các nhà ái quốc như Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Phan Tôn, Phan Liêm, Nguyễn Hữu Huân, Mai Xuân Thưởng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Lương Văn Can, Trịnh Văn Cấn, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông trong Việt Nam Quốc Dân Đảng vào cuối thập niên 1920 cũng đều là chống lại Quốc Gia Việt Nam hay sao?

Rất mong ông Lê Xuân Khoa giải thích vấn đề này cho mọi người cùng biết.

Cụm từ “Quốc Gia Việt Nam”

Ông Lê Xuân Khoa hiểu như thế nào về cụm từ “Quốc Gia Việt Nam”? Và nghĩ như thế nào về triều đình Huế sau khi đã ký các Thoả Hiệp Nhâm Tuất 1862, Giáp Tuất 1874 và Giáp Thân 1884 để rồi:

Pháp thành ông chủ cơ đồ,

Vua thành tượng gỗ, dân nô lệ người?

Ông Lê Xuân Khoa nghĩ như thế nào về cái Quốc Gia Việt Nam do ông Bảo Đại làm quốc trưởng? Ông có biết rằng cụ Trần Trọng Kim cho rằng cái Quốc Gia Việt Nam này (của ông Bảo Đại) “chỉ là một con chó nằm trong một thứ cũi chó mạ vàng” không? Dưới đây là lời cụ Trần Trọng Kim nói và được ông Bùi Nhung ghi lại trong cuốn Thối với nguyên văn như sau:

Ông Bảo Đại ngụ ở Hồng Kông, cho nguyên Thủ Tướng Trần Trọng Kim về tiếp xúc với Cao Ủy Pháp tại Saigòn. Cụ Kim kể lại đoạn này với tôi, lúc tôi từ Hà Nội vào thăm cụ ở Nam Vang, đường Lasansa, số 4: “Tôi trở về nước có nhiệm vụ dọ dẫm xem Pháp có thật tình không, nghĩa là có cho Việt Nam tự do, độc lập thật sự như trong khối thịnh vượng chung của Anh không? (Commonwealth). Tôi gặp ông Cao Ủy ở Sàigòn. Sau một giờ chuyện-trò, tôi biết rõ cái dã tâm của thực dân! Liên Hiệp Pháp chỉ là một thứ cũi chó mạ vàng!”[6]

Ông Lê Xuân Khoa nghĩ như thế nào về vai trò ông Bảo Đại trong tình trạng làm vua của một nước mà tất cả mọi thứ quyền lực như chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, tài chánh và quản trị nhân dân đều nằm trong tay liên minh Pháp – Vatican? Làm vua như vậy có phải là vua gỗ, vua hề, vua bù nhìn không?

Trong bài viết “Một Vài Suy Nghĩ Xung Quanh Bài Viết của Trần Trung Đạo”, ông Lê Đăng Hoàng phản bác hai chữ “Quốc Gia Việt Nam” của ông Lê Xuân Khoa sử dụng bằng cách đặt ra vấn đề như sau:

Quốc- Công? Cộng là cộng sản thì đúng rồi. Nói chính xác là Cộng Sản miền Bắc. Thế còn quốc là quốc nào? Xứ An Nam thuộc địa với ông vua cuối cùng Bảo Đại chăng? Hay quốc gia bảo hộ sau năm 1945 cũng với quốc trưởng cựu hoàng đó. Cái quốc gia đó, theo Đại-tá sử gia Phạm Văn Sơn, chỉ là “… chiếc bánh vẽ mà dân Việt Nam chẳng thể nào ăn được cơ mà! Hay quốc gia nhập cảng của ông Ngô Đình Diệm, ông Nguyễn Văn Thiệu? Những người nghĩ ra cái tên “chiến tranh Quốc - Cộng” này, liệu có định nhận cơ hội đó để tỏ lòng tri ân ngoại bang đã cưu mang 130 ngàn tỵ nạn? Bởi vì bằng hành động “ghé vai san sẻ” đó, họ định giúp cho ngoại bang bán tháo đi phần nào cái cay đắng bại trận chăng? Nhưng không thể được đâu! Người ta sẽ khinh bỉ mà nói rằng: Lạ lùng và dơ dáy quá! Đây là cuộc chiến của chúng tôi với Cộng Sản Việt Nam. Mấy người đâu có tư cách gì để thay thế nước Mỹ nhận phần thua thiệt. Mấy người xét cho cùng cũng giống như những robot trong chiến tranh trí tuệ ngày nay, đâu có gì hơn. Đối với thế giới nó chỉ vẻn vẹn là chiến tranh Việt Nam (Vietnam war). Chấm hết, đừng un deux gì nữa.”[7]

Còn ông Bảo Đại? Sử gia Joseph Buttinger gọi ông ta này là một “playboy” với nguyên văn như sau:

Đòi hỏi của Bảo Đại làm cho người Pháp ngạc nhiên. Họ coi ông ta chỉ là một tên ăn chơi đàng điếm.” “Bao Dai’s demands came as a surprise to the Frenchmen who looked upon him as nothing but a playboy.” [8]

Và hai nhà viết sử Bradley S. O’ Leary & Edward Lee thì gọi ông ta là “con bù nhìn”, “một tay ăn chơi trác táng” , “một kẻ phàm ăn” :

Vào thời điểm đó, Ngô Đình Diệm là Thủ Tướng, làm việc dưới sự chỉ đạo của một con bù nhìn chính trị khác là Bảo Đại, người từng nhiều năm phục vụ cho người Pháp với tư cách là “hoàng đế”. Tuy nhiên, Bảo Đại là một tay ăn chơi trác táng, một kẻ phàm ăn. Ông đã đốt một phần lớn cuộc đời mình trong các buổi tiệc tùng ở Pháp trong khi tổ quốc ông quằn quại trong loạn lạc và đói kém.”[9]


Sai lầm thứ 3

Tác giả Lê Xuân Khoa khẳng định cuộc chiến 1954-1975 giữa hai miền Nam và miền Bắc là một cuộc chiến tranh ủy nhiệm, ông viết:

Tị nạn 1975 là kết quả là một cuộc tranh chấp hai mươi năm mà phe quốc gia gọi là cuộc chiến đấu chống chế độ cộng sản của dân tộc Việt Nam, còn phe cộng sản thì gọi là chiến tranh chống Mỹ - Ngụy để cứu nước. Thực tế thì đây là một cuộc chiến giữa hai phe người Việt theo đuổi những lý tưởng khác nhau, đồng thời cũng là một cuộc chiến tranh ủy nhiệm trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh giữa hai khối quốc tế tư bản và cộng sản, với sự tham dự trực tiếp của Hoa Kỳ.” (trang 271)

Phản biện: Người viết hoàn toàn không đồng ý với ông:

1.- Nói về lý tưởng, người viết xin khẳng định rằng, trong cuộc chiến 1954-1975, miền Nam thật sự không có lý tưởng gì cả. Chính quyền và quân đội miền Nam là do liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican dựng nên, được Hoa Kỳ trang bị, tài trợ, trả lương, nuôi dưỡng và bảo vệ bằng sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ để phục vụ cho quyền lợi của Hoa Kỳ của Vatican. Khi nào không còn được Hoa Kỳ trả lương hay bảo vệ bằng sức mạnh quân sự thì cả chính quyền và quân đội miền Nam sẽ rơi vào tình trạng rã đám. Đây là khẳng định và lời khẳng định này đã xẩy ra đúng như vậy. Đó là sự thật lịch sử không ai có thể phủ nhận được, và chính Tổng Thống Kennedy cũng đã từng tuyên bố rằng: “Không có Mỹ, Việt Nam sẽ sụp đổ trong một đêm.[10]

Cũng vì thế mà khi biên soạn cuốn sách có nội dung nói về Cuộc Kháng Chiến 1945-1954 và Cuộc Chiến Giải Phóng Miền Nam 1954-1975 để thống nhất đất nước, sử gia Vũ Ngự Chiêu đã dùng cụm từ Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng đặt tên cho cuốn sách này (Houston, TX: Văn Hóa, 2000).

Người viết cũng xin khẳng định rằng, trong cuộc chiến này, miền Bắc có lý tưởng rõ rệt mà toàn thể nhân dân Việt Nam và cả nhân dân thế giới đều biết. Lý tưởng đó là theo đuổi cuộc chiến giải phóng miền Nam để hoàn thành sứ mạng lịch sử thống nhất đất nước và miền Bắc đã thành công. Trong cuộc chiến này, NẾU miền Nam có chính nghĩa để phát động chiến tranh với chiêu bài thống nhất đất nước và NẾU thành công, THÌ người viết cũng gọi nó là “cuộc chiến thống nhất đất nước.” Thế nhưng, miền Nam đào đâu ra được chính nghĩa khi mà hai Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều là những tín đồ Da-tô và đều được Giáo Hội La Mã và Mỹ đưa lên lãnh đạo chính quyền để làm tay sai cho hai thế lực này?

2.- Người viết không đồng ý với ông Lê Xuân Khoa Về luận điệu cho rằng cuộc chiến giải phóng miền Nam để thống nhất đất nước (1954-1975) là “một cuộc chiến tranh ủy nhiệm”. Luận điệu này của ông Lê Xuân Khoa bị ông Lê Đăng Hoàng phản bác thẳng thừng. Trong bài viết “Một Vài Suy Nghĩ Xung Quanh Bài Viết của Trần Trung Đạo”, tác giả Lê Đăng Hoàng viết rõ ràng như sau:

Thế còn uỷ nhiệm? Ai ủy nhiệm cho ai và ủy nhiệm cái gì cũng cần phải xem lại. Hãy đọc các ngài đã chết và hỏi các ngài còn sống như Kennedy, Johnson, Nixon, Gerald Ford, MacNamara, Westmoreland, Kissinger xem đã bao giờ nước Mỹ ủy nhiệm cho miền Nam Việt Nam cái sứ mạng tiến hành chiến tranh với miền Bắc chưa? Câu trả lời chắc chắn là chưa bao giờ. Người Mỹ luôn luôn tự biết đánh giá sức mạnh của họ, và cả thế giới tự do đều tin rằng nước Mỹ có đủ người và của để lãnh trách nhiệm đó. Nếu ủy nhiệm, theo đúng luật chơi, Tổng Thống Kennedy phải tìm một chính phủ có đủ tư cách pháp nhân để ký “ủy nhiệm thư” tiến hành chiến tranh chứ? Ông Diệm do người Mỹ đào tạo, đưa về, dựng nên,… tóm lại 100% mác “made in USA” thì làm sao đại diện cho miền Nam được……

Và nếu ủy nhiệm, tại sao nước Mỹ lại đưa từ 4 ngàn lên đến 2 vạn 3 ngàn cố vấn vào miền Nam trong “chiến tranh đặc biệt” và trực tiếp vạch mưu, hành quân giao tranh với Việt Cộng? Đó là chưa kể từng ngàn phi vụ trên không của không lực Mỹ tiến hành chở quân, ném bom, lùng sục, giải chất độc khai quang… trên toàn lãnh thổ miền Nam. Và đến “chiến tranh cục bộ,” từ ủy nhiệm đã có ý nghĩa trong bối cảnh này: Chính phủ Mỹ đã ủy nhiệm cho 55 vạn con em họ tiến hành chiến tranh với miền Bắc Việt Nam. Từ “ủy nhiệm” cũng chẳng có ý nghĩa gì trong giai đoạn cầm quyền của Tổng Thống Nixon. Đây là giai đoạn loay hoay tìm đường thoát ra khỏi cuộc chiến trong danh dự của nước Mỹ. Khi biết không thắng thế, và đặc biệt là khi nhận được tín hiệu bảo đảm rằng Việt Nam không ảnh hưởng gì đến quyền lợi toàn cầu của Mỹ, Nhà Trắng đã buông cuộc chiến đó, và lẽ đương nhiên buông luôn cái chính quyền do họ dựng lên theo cái cách như chúng ta vứt đi một cái áo rách. Tổng Thống Thiệu đã chua chát nói: “Họ (người Mỹ) đã đâm nhát dao vào lưng chúng tôi”. Để cho rõ những hành động cụ thể của Nhà Trắng đối với vai trò của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, quý vị nên tham khảo ý kiến của các nhà ngoại giao lẫn CIA lão làng như William Colby, Cabot Lodge, Lucien Conein, Polgar…”[11]


Sai lầm thứ 4

Ông Lê Xuân Khoa tránh né, không nói đến đặc tính cuồng tín của ông Ngô Đình Diệm cùng bản chất tuyệt đối trung thành với Tòa Thánh Vatican và dốt nát về chính trị.-

Đặc tính cuồng tín của ông Diệm được sử gia Berenard B. Fall trình bầy đầy đủ nơi trang 236 trong cuốn The Two Vietnams (New York: Frederick A.Praeger, 1964). Bản chất “tuyết đối trung thành với Tòa Thánh Vatican” và dốt nát về chính trị với lời tuyên bố để đời “Tin tưởng vào quyền lực Vatican và chống Cộng một các cực lực” của ông Ngô Đình Diệm được ông Lương Minh Sơn nói rõ trong bài viết có nhan đề là Bài Học Chiến Tranh Việt Nam Nhìn Từ Hậu Trường Chính Trị Hoa Kỳ. Bài viết này được đăng tải trên nhiều ấn phẩm lưu hành ở hải ngoại. Một trong những ấn phẩm này là tờ Sự Thật – Đặc San Xuân Đinh Sửu (Fremont, CA: TXB, 1997, tr. 20-33) của cụ Lê Hữu Dản. Lời tuyên bố để đời trên đây của ông Diệm nằm ở trang 23. Về đặc tính cuồng tín và tình trạng ngu xuẩn, dốt nát về chính trị của ông Diệm đã được người viết trình bầy đầy đủ trong Chương 63 (Mục XVII, Phần VI) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Chương sách này đã được đưa lên sachhiem.net và giaodiemonline.com từ ngày 2/11/2007.

Ông Lê Xuân Khoa cũng không hề nói tới việc ông Ngô Đình Diệm tổ chức một cuộc đại lễ vô cùng long trọng để dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm (tức là Vatican) vào tháng 2 năm 1959. Buổi lễ này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh nói rõ ở nơi các trang 126-127 trong cuốn Thập Giá Va Lưỡi Gươm (Paris, Sudestasie, 1978). Hành động này chứng tỏ rằng ông Ngô Đình Diệm là một người siêu cuồng tín và nó cũng cho chúng ta thấy rõ chính quyền của ông Diệm thực sự là cách tay nối dài của Vatican. Đây là bằng chứng nói lên cái ý đồ của ông Lê Xuân Khoa trong việc giấu nhẹm cái bản chất làm nô lệ cho Vatican của ông Ngô Đình Diệm.


Sai lầm thứ 5

Ông Lê Xuân Khoa khen tụng ông Ngô Đình Diệm l“ người có lý tưởng, liêm khiếtcan đảm.” (trang 432).

Phản biện: Trước hết xin đặt vấn đề về chuyện ông Diệm là người có lý tưởng. Xin hỏi ông Lê Xuân Khoa đây là thứ lý tưởng gì khi mà chính miệng ông Ngô Đình Diệm tuyên bố công khai với các chính khách người Mỹ có thế lực trên sân khấu Hoa Kỳ rằng ông ta “tin tưởng vào Tòa Thánh Vaticanvà chính ông Diệm đã huy động hàng ngàn nhân viên chính quyền, hàng ngàn quân nhân công binh, dùng vật liệu và tiền bạc công quỹ quốc gia vào tổ chức một buổi đại lễ vô cũng long trọng tại thủ đô Sàigòn để dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm (tức Vatican) vào tháng 2 năm 1959, rồi dùng quân xa chuyên chở hàng trăm ngàn giáo dân từ nhiều nơi trên toàn lãnh thổ về Sàigòn tham dự buổi lễ này, trong đó có cả giáo dân từ Cái Sắn (Kiên Giang, cách Sàigòn khoảng trên 200 cây số và hai cái phà)?

Là một người viết sử về thời cận và hiện đại của đất nước, chẳng lẽ ông Khoa lại không biết rằng Vatican là một đế quốc thực dân xâm lược và đã dùng tín đồ Ca-tô người Việt làm tay sai chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thế kỷ 16 cho đến ngày 30/4/1975 và cho đến ngày nay vẫn còn tiếp tục đánh phá đất nước và chính quyền của dân ta hay sao?

Chẳng lẽ ông Khoa không biết ông Ngô Đình Diệm là một trong những tín đồ Ca-tô Việt gian đắc lực nhất của Vatican hay sao?

Chẳng lẽ ông Lê Xuân Khoa không biết chủ đích của Vatican đưa ông Diệm sang Hoa Kỳ để vận động cho ông ta được Mỹ đưa về Việt Nam cầm quyền nhằm phục vụ cho Hoa Kỳ và Vatican hay sao?

Sự kiện ông Ngô Đình Diệm đưiợc Tòa Thánh Vatican sai phái Giám-mục Ngô Đình Thục dẫn sang Mỹ rồi giao cho Hồng Y Francis Spellman vận động những tu sĩ và tín đồ Thiên Chúa Giáo có thế lực trong chính giới Hoa Kỳ để họ thuyết phục chính quyền Hoa Kỳ dùng sức ép đối với Pháp và ông Bảo Đại đưa ông Diệm lên cầm quyền được các sách sử ghi lại rõ ràng. Dưới đây là một số trong những cuốn sử đó:

1.- Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Viking Press, 1983), p 217.

2.- Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled, Vol. II (New York: Frederich A. Praeger, 1967) pp, 846-848.

3.- Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, California: Văn Nghệ, 1993), trang 87-91.

4.- Lê Hữu Dản, Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, Calìornia, 1997), trang 23-24.

5.- Berenard B. Fall, The Two Vietnams (New York: Frederick A.Praeger, 1964), pp. 242-244.

6.- Frances FitzGerald, Fire In The Lake (NY: Vintage Books, 1972), pp. 103-105.

Kế đó là hai chữ can đảm được ông Lê Xuân Khoa tặng cho ông Diệm, người viết nghĩ rằng chẳng ổn chút nào cả. Ông Diệm sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong hoàn cảnh nước nhà đã hoàn toàn bị Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican cưỡng chiếm và thống trị. Trong khi không biết bao nhiêu thanh niên đồng thời với ông Diệm cũng như trước ông và sau ông đã ý thức được trách nhiệm lời dạy “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” của Nho giáo mà quyết tâm liều chết lên đường đuổi giặc cứu nước, thì ông Diệm lại được đưa vào trường hậu bổ rồi ra làm quan tìm cách truy lùng bắt giam và tra tấn các nhà ái quốc một cách cùng cực dã man bằng cách trói nạn nhân vào một cái ghế có khoét lỗ ở giữa bàn ngồi, chỗ thông với hậu môn rồi cho đốt nến (đèn cầy) ở dưới để khảo cung, lấy tin tức tâng công với quan thày. Sự kiện này được cụ An Khê Nguyễn Bính Thinh ghi lại như sau:

Khi ông làm tri phủ Hòa Đa đã nổi tiếng là tay sai đắc lực của Pháp, lùng bắt và tra tấn các nhà cách mạng rất dã man bằng cách xông lửa nến (đèn cày) dưới ghế ngồi. Ông cho trói chặt người bị lấy khẩu cung vào ghế ngồi, mặt ghế có khoét lỗ ở ngay hậu môn chỗ ngồi, bên dưới đốt ngọn đèn cầy cho lửa xông lên, dần ruột gan, tim phổi người nọ (nạn nhân) bị sấy lửa, khô dần đi, không chịu nổi, dù có khai để chấm dứt cực hình nhưng hậu quả về sau không lường được. Lối tra tấn dã man này, ngay với các bót giam của Pháp, như bót Catinat, cũng chưa dám dùng.” [12]

Hành động dã man như vậy đối với các nhà ái quốc lại được gọi là can đảm hay sao? Thưa ông Lê Xuân Khoa!

Ai cũng biết rằng ông Diệm thuộc về gia đinh đã theo Ca-tô đã từ nhiều đời và cũng là một gia đình đã nhiều đời bán nước cho cả Vatican và Pháp. Vì quá hăng say tỏ ra đăc lực với quan thày người Pháp, bọn tín đồ Ca-tô này có những thái độ và hành động băng xăng, xun xoe, tâng bốc nịnh bợ quan thày để lấy điểm như trường hợp trên đây của ông Diệm. Thực trạng đã khiến cho chính những người Pháp quan thày của chúng phải lợm giọng, khinh bỉ và ghê tởm. Đoạn văn dưới đây là bằng chứng cho sự kiện này:

Chúng tôi chỉ có với mình”, Đô Đốc Rieunier sau này nói, “những giáo dân và bọn du thủ du thực”. “Bọn lang bạt bị trục xuất khỏi làng vì đói rét hoặc vì tội phạm.” Đại Tá Bernard viết, xô về đây cái lưng mềm dễ uốn, họ tham sống sợ chết; họ hoàn toàn hững hờ với cuộc đấu tranh của dân tộc mình, sẵn sàng phụng sự bất cứ những ông chủ nào. Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ tất cả nhân viên hành chánh cần thiết cho nhà nước, hoặc những người giúp việc gia đình: làm đầy tớ, làm khuân vác, làm người chạy giấy và cả những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của Hội Truyên Giáo. Chính là qua sự tiếp xúc với bọn khốn nạn này mà bọn thực dận và công chức, vừa đổ bộ lên, làm quen với dân tộc Việt Nam.” Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam 1858-1997. (Raphael, France, 1995,) tr. 101-102.

c.- Về hai chữ liêm khiết ông Lê Xuân Khoa tặng cho ông Diệm, người viết xin hỏi ông Lê Xuân Khoa, trước khi được Mỹ và Vatican đưa về Việt Nam cầm quyền vào ngày 7/7/1954, tài sản của ông Diệm và anh em nhà Ngô có bao nhiêu? Toàn bộ tài sản của riêng ông Diệm trị giá là bao nhiêu ngàn đồng Việt Nam? Toàn bộ tài sản của mỗi người anh em của ông Diện trị giá là bao nhiêu ngàn đồng Việt Nam?

Và sau hơn chín năm nắm giữ chức vụ thủ tướng và tổng thống ở miền Nam Việt Nam, khối tài sản của riêng cá nhân ông Diệm và mỗi người anh em nhà Ngô to lớn như thế nào?

Chưa kể những khối tài sản kếch sù của Giám-mục Ngô Đình Thục, của vợ chồng ông Ngô Đình Nhu, của ông Ngô Đình Cẩn và của ông Nguyến Văn Bửu (người tình của bà Cả Lễ tức Ngô Thị Hoàng), chỉ riêng khối tài sản khổng lồ của ông Ngô Đình Diệm thôi cũng đủ cho chúng ta thấy rõ cái tính cách “man trá” của những người cho rằng ông Diệm là con người liêm khiết! Dưới đây là phần trình bày của người viết về bộ mặt thật “liêm khiết” của ông Ngô Đình Diệm:

Thứ nhất, tác giả sách The Politics of Heroin in Southeast Asia trình bày khá đầy đủ trong một tiểu mục dài 7 trang (159-166) với tựa đề là “Diem’s Dynasty and Nhu Bandits” (Triều đại Ngô Đình Diệm và băng đảng ăn cướp Ngô Đình Nhu). Dưới đây là nguyên văn một đoạn trong số 7 trang sách nói về tội ác độc quyền nhập cảng, chuyển vận, phân phối thuốc phiện và cho tái lập hàng trăm tiệm hút ở Chợ lớn, rồi cho phát triển lên đến hai ngàn năm trăm (2.500) tiệm hút để thu lợi bất kể gì là việc làm này gây nguy hại ghê gớm cho xã hội và tương lai của dân tộc:

Dù là hầu hết các tiệm hút ở Sàigòn đã đóng cửa cả ba năm rồi, hàng ngàn dân nghiện người Tầu và người Việt vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những lãnh tụ của các tổ chức có thế lực của người Tầu ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối thuốc phiện nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, các tiệm hút thuốc phiện này đã hoạt động trở lại, và năm năm sau, một phóng viên của tờ Time – Life lượng định ở Chợ Lớn có tới 2.500 tiệm hút thuốc phiện họat động công khai.” Nguyên Văn: “Although most of Saigon’s opium dens had been shut for three years, the city’ s thousands of Chinese and Vietnamese addicts were only too willing to resume or expand their habits. Nhu used his contacts with powerful Cholon Chinese syndicate leaders to reopen the dens and set up a distribution network for smuggled opium. Within a matter of months hundreds of opium dens had been reopened, and five years later one Time-Life correspondent estimated that there were twenty-five hundred dens operating openly in Sagon‘ s sister city Cholon.” [13]

Thứ hai, hai nhà viết sử Bradley S. O’ Lreary và Lee nói về tội ác của anh em ông Diệm trong việc buôn bán thuộc phiện từ Lào về miền Nam Việt Nam như sau:

Lại thêm một bằng chứng cho thấy bản chất đạo đức giả của Diệm. Nhu, em ông, đã tiếp thu lực lượng cảnh sát mật của quốc gia (do Viễn nắm giữ trước đây) và ông vẫn duy trì mạng lưới tình báo rộng lớn. Mặc dù viện trợ Mỹ cho Diệm cực kỳ lớn (đến năm 1963 đã tăng lên gần nửa tỉ đô la hàng năm), nhưng Diệm vẫn cần thêm các khoản thu này để nuôi dưỡng quân đội thường trực và chính quyền của ông. Các hoạt động tình báo và mật thám của Nhu sắp rơi vào bế tắc vì thiếu tiền.

Giải pháp cho vấn đề tài chính này thật đơn giản. Mở lại các ổ thuốc phiện và phục hồi việc buôn bán của vô số con nghiện đang đói thuốc ở Sàigòn. Vậy là vào năm 1958. Nhu đã làm đúng những điều đó.

Một số người thân Diệm quả quyết rằng Nhu làm vậy theo ý riêng mà không được sự đồng ý của ông anh, nhưng làm sao có thể tin được như vậy? Làm sao mà người đứng đầu nhà nước không hay biết hay không được báo cho biết rằng có hàng trăm ổ thuốc phiện đã được mở cửa làm ăn trở lại một cách đột ngột tại thành phố thủ đô? Chẳng lẽ Nhu xoay sở cung cấp tiền bạc được cho cảnh sát và mạng lưới tình báo rộng lớn của ông hơn 100.000 đặc vụ bán chuyên nghiệp mà ngài tổng thống anh ông chẳng bao giờ tìm biết hay sao? Không thể như vậy được. Không, Diệm biết chuyện này và tán thành, vi ông rất cần mạng lưới điệp viên của Nhu để tiếp tục theo dõi rất nhiều kẻ thù của chế độ. Diệm mang bệnh hoang tưởng kiểu Stalin. Đối với Diệm thu lợi từ những kẻ phạm tội không phải là một cái tội…

Bonaventure Francisci, biệt danh là “Đá”, một người Pháp hòa nhã, đẹp trai… Nhu và Francisci Đá thực hiện một hợp đồng phân phối thuốc phiện đến Sàigòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sàigòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến chất lượng cao để bán cho trùm ma túy ở Mỹ như Santos, Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana. Tất cả đều làm giầu trong chuyện này, và ai cũng thấy được rằng đó là chuyện làm ăn rất an toàn, bởi vì Nhu có thể được coi như Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp của Nam Việt Nam, ông không phải ưu tư hay trả lời trước bất cứ một cơ quan thi hành pháp luật nào. Ông ta là luật pháp, và ông ta sử dụng sức mạnh này để đảm bảo cho Francisci và khách hàng của ông ở Marseille – một nguồn cung cấp thuốc phiện ổn định để sản xuất bạch phiến. Một vụ làm ăn ngon lành.

Với vị trí quyền lực trong chính phủ Nam Việt Nam, Nhu có thể đảm bảo rằng các máy bay chở đầy thuốc phiện của Francisci (đội lốt vận tải “ngoại giao”) có thể bay từ Lào đáp xuống Sàigòn và chuyển hàng xong mà không gặp nhiều kiểm tra phiền toái. Thậm chí Nhu còn tăng năng suất đều đặn trong hai năm 1961 và 1962 bằng cách huy động Đội Vận Tải Số 1 của riêng ông (chuyên hoạt đọng tình báo trên không, thỉnh thoảng bay phối hợp với CIA) vào việc đó. Giữa năm 1958 và 1963, Sàigòn thực sự trở thành kho hàng chứa thuốc phiện thô mà phần lớn sẽ chuyển tới Marseille. Để cuối cùng thỏa mãn nhu cầu của con nghiện bạch phiến ở Mỹ.

Tuy nhiên, Nhu còn có những khuyến khích khác cho hợp đồng béo bở này. Trong lúc các máy bay vận tải thuê riêng của Francisci, thường gọi là Hàng Không Thương Mại Lào, hàng ngày chở thuốc phiện tới Sàigòn mà không bị luật pháp gây rắc rối, thì những tay cung cấp nhỏ hơn KHÔNG được an toàn như vậy. Lực lượng cảnh sát của Nhu sẽ lập tức hỏi thăm họ vì đã dám lấn sân của Francisci

Anh em Guerini không thể nào phấn chấn hơn trước hợp đồng của Francisci, và cũng không thể hài lòng hơn về Nhu vì ông đã giúp thực hiện được hợp đồng đó. Hợp đồng này giúp cho anh em Guerini trở thành những ông trùm ma túy toàn cầu vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, đồng thời nó tạo ra một liên minh tội phạm vững như bàn thạch giữa Nhu và tập đoàn Marseille. Nhu, Diệm và toàn bộ dòng họ Ngô Đình ai cũng nổi lên giầu có khác thường nhờ vào liên minh này (trong khi vẫn kiếm được nguồn tài chính bất minh cần thiết cho cảnh sát mật và tình báo). Quan trọng hơn thế, anh em tội phạm Guerini thậm chí còn tích lũy được nhiều của cải hơn và những khách hàng chủ yếu của họ là Mafia Mỹ cũng vậy.

Cho nên, về căn bản, tập đoàn Marseille, Mafia Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành những đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy toàn cầu. Có nghĩa là tiền tỉ, tiền tấn chảy vào túi người nào có dính dáng, dĩ nhiên là thế. Và nguồn suối mạnh mẽ không ngừng phát sinh ra tiền bạc và sức mạnh này chính là Ngô Đình Nhu.[14]

Thứ ba, nhà viết sử William J. Lederer nói về số tiền không lồ mà anh em nhà Ngô đã chuyển ra ngoại quốc là 18 tỉ Mỹ kim. Nhà viết sử này viết:

Ngoài sự tăng lên rõ rệt về số vàng dự trữ của Sàigòn, theo các mật báo viên người Thụy Sĩ và người Trung Hoa của tôi, từ năm 1956, một số người Việt Nam (quyền thế) đã chuyển tới 18 tỉ Mỹ kim vào các nhà ngân hàng ngoại quốc. Sau đó không lâu, qua một người hùn vốn kín miệng, tôi được biết Bà Ngô Đình Nhu đã mua một ngân hàng lớn hàng thứ nhì tại kinh thành Paris, trả bằng tiền mặt.” Nguyên văn: “In addtition to the visible increase in Saigon’s gold reserve, approximately $18 billion, according to my Swiss and Chinese informants, has been sent to foreign banks by private Vietnamese individuals since 1956. Not so long ago, Madame Nhu, through a silent partner, purchased outright the second largest private bank in Paris. For cash.”[15]

Thứ tư, sách Đảng Cần Lao viết về những khoản tài sản và tiền bạc kếch sù của ông Diệm như :

Như mọi người đều biết, Ngô Đình Diệm là một kẻ lang thang xứ người, sống nhờ vào sự giúp đỡ của nhiều người hoặc sống trong các tu viện do người anh là Giám-mục Ngô Đình Thục gửi gấm. Ngô Đình Thục chỉ biết việc tu hành, vợ chồng Ngô Đình Nhu cũng chẳng có tài sản gì , chỉ sống với số lương làm quản thủ thư viện, có lúc còn túng thiếu, Ngô Đình Cẩn chỉ là người quản gia, không có tài sản gì cả.

Thế mà sau 9 năm ông Diệm cầm quyền, gia đình họ Ngô đã lợi dụng quyền hành vơ vét của nhân dân và tiền viện trợ cho dân miền Nam, một gia tài lên đến trên 1 tỷ bạc. (Đây chỉ là một phần nhỏ tài sản gia đình này theo kết qua sơ khởi của Ủy Ban Điều Tra Tài Sản. Sau đây là gia tài của từng người trong gia đình họ Ngô và thuộc hạ:

Gia tài của Ngô Đình Diệm.- Hoạt động kinh tài của các cá nhân hoặc đoàn thể do chính quyền Diệm thành lập và trợ cấp đều nhắm vào sự gia tăng tài sản do Diệm đứng tên. Diệm còn có thể có tài sản khác trong những sở hữu của Thục, Cẩn, Nhu, Lệ-Xuân và Luyện.

Theo cuộc điều tra sơ khởi của Ủy Ban Điều Tra Tài Sản Nhà Ngô, tài sản thủ đắc phi pháp của Ngô Đình Diệm được kê như sau:

1.- Bất động sản gồm có: 58 mẫu đất trồng cây ăn trái, cơ sở chăn nuôi, v.v.. tọa lạc tại Gia Định, Phước Long trị giá chung là 33.4 triệu do Nguyễn Đức Xích làm quản lý.

2.- Động sản gồm có: 1 số bạc, vàng và bạc mặt trị giá là 42 triệu 600 ngàn đồng và một số đồ quý giá.

Cộng chung: trên 76 triệu.

Sau khi tổng kết, Ủy Ban còn biết thêm ông Diệm còn có Hãng Tôm Long Hải và Khách Sạn Hương Giang ở Huế.” [16].

Thứ năm, sách Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Tòan Thư 1954-1963 (ấn bản 2000), nơi trang 124 nói về chuyện Ngô Đình Diệm và Chiếc cặp da 1 triệu mỹ kim. Tài liệu này do Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu sưu tầm, nguyên văn như sau:

"Ngô Đình Diệm & Cặp Da Đựng 1 Triệu Mỹ Kim (Đại Sứ Lodge báo cáo về lời tiết lộ của Tướng Nguyễn Khánh (1964) Tư liệu Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu.

Ngô Đình Diệm & Một Triệu Mỹ Kim Khi Bị Giết? Theo lời Nguyễn Khánh, khi bị giết tại Chợ Lớn, Ngô Đình Diệm có một chiếc cặp da (briefcase) đựng 1 triệu Mỹ kim. Số tiền này sau đó tàng hình. Khánh nói với Đại-sứ Cabot Lodge rằng Tướng Dương (Big) Minh đọat số tiền trên.

176.- Letter From the Ambassador In Vietnam (Lodge) to the Secretary of State.

Saigon , May 26, 1964

Dear Dean: This is for you, the President, Bob MacNamara, and whoever else you think needs to know. It is definitely not a subject which should get into the cable traffic. General Khanh told me on May 25 that when Diem was shot he had in his hand a brief case containing one million dollars U.S. currency "in the largest denominations". He said the General Minh took possession of the brief case and has never yet surrendered it. He added that General Minh at the same time had taken possession of forty kilograms of gold bars. I advised General Khanh not to make this public lest it shake public confidence here in all generals. He hopes that General Minh will make his exit quietly.

As ever yours,

Cabot Lodge.[17]

Còn nhiều nữa, chúng tôi sẽ trình bày đầy đủ trong hai Mục XXI và XXIII, Phần VI, bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã). Đọc hết những mục này nữa, độc giả sẽ thấy rõ thành tích tham nhũng của anh em nhà Ngô ghê tởm như thế nào! Phải thành thực mà nói rằng ông Ngô Đình Diệm và toàn thể gia đình ông ta từ ông Ngô Đình Khả cho đến tất cả đàn con của ông Ngô Đình Khả là anh em ông Ngô Đình Diệm và lũ cháu của ông ta là Ngô Điình Huân và Nguyễn Văn Thuận đều là một hạng người hoàn toàn mất hết nhân tính, mất hết liêm sỉ. Một hạng người như vậy, thì làm gì có được đức tính “liêm khiết”? Sự thực rõ ràng là như vậy! Ấy thế mà ông Lê Xuân Khoa lại phong bút khen tụng ông Ngô Đình Diệm “ người có lý tưởng, liêm khiếtcan đảm.” Xem như vậy, kỹ thuật lươn lẹo và vo tròn bóp méo những sự thật lịch sử trong cung cách viết sử của ông Lê Xuân Khoa quả thật là vô cùng trơ trẽn và cực kỳ trắng trợn!

Điều này cũng chứng tỏ ông Lê Xuân Khoa đã không cố gắng tìm đọc nhiều nguồn tài liệu khác nhau ở trong các văn khố hay thư viện để thu thập những dữ kiện lịch sử liên quan đến đề tài biên soạn, rồi dùng trí thông minh để quyết định cho lập luận hay những lời tuyên bố khẳng định của mình, mà chỉ dựa vào những tài liệu đã bị đãi lọc qua “cái sàng lọc Vatican” hay những “lời Giáo Hội dạy rằng…” rồi đưa ra những luận điệu tôn vinh ông Ngô Đình Diệm như là một “nhà ái quốc” “có lý tưởng liêm khiết và can đảm” một cách cực kỳ lố bịch như vậy!

Nếu chỉ đọc những tài liệu đã bị đãi lọc qua “cái sàng lọc Vatican” hay “Giáo Hội dạy rằng…”, thì Bà Maria là Đức Mẹ Đồng Trinh, nhưng trong thực tế bà ta đã có chồng và một đàn con. Sự kiện này được sách sử ghi nhận với nguyên văn như sau:

Bốn người anh em và nhiều chị em gái của ông Jesus đều được nói đến ở trong kinh sách của ông Mark 6. (Không có căn bản nào trong bản văn này nói rằng những người anh chị em này là những người cùng cha khác mẹ hay là anh em con chú con bác đối với ông Jesus, và làm như vậy là phản lại động cơ giáo điều chủ nghĩa.) Tất cả các danh tính bà con của ông Jesus chứng tỏ rõ ràng cái tính chất thuần túy Do Thái của gia đình ông ta. Tên mẹ của ông Jesus là Mary (Miriam) , tên bố ông ta là Joseph, và tên các người em của ông ta là James (Jacob), Judas và Simon (tên của những của những ông già đáng kính trong Cựu Ước.) ” Nguyên văn: "Four of Jesus' brothers and several sisters are mentioned in Mark 6. (There is no basis in the text for making them into half brothers and half sisters or cousins, and to do so betrays a dogmatic motive.) All his relatives' names testify the purely Jewish character of the family: his mother's name was Mary (miriam), his father's, Joseph, and his brothers', James (Jacob), Judas, and Simon (names of Old Testament patriarchs)"[18]

Nếu chỉ đọc những tài liệu đã bị đãi lọc qua “cái sàng lọc Vatican” hay “Giáo Hội dạy rằng…”, thì tất cả các ông giáo hoàng đều thánh thiện và không bao giờ lầm lẫn. Thế nhưng, trong lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều giáo hoàng đã sống và hành động còn hơn cả những bạo chúa và những con quỷ dâm dục ghê gớm nhất trong lịch sử loài người. Độc giả có thể tìm thấy những sự thật lịch này trong rất nhiều tài liệu ở trong các thư viện. Xin ghi lại dưới đây một vài đoạn để độc giả nhìn thấy rõ cái bản chất gian dối lươn lẹo trong những cái gọi là “Giáo Hội dạy rằng…” Sử gỉa Loraine Boettner viết trong cuốn Roman Catholicism với nguyên văn như sau:

“Giáo Hội tự phong là “thánh thiện”, nhưng thực tế, qua các thời kỳ trong lịch sử và trong khả năng chính thức, Giáo Hội La Mã đã nhân danh tôn giáo phạm những tội ác tàn ngược nhất trong đó có cả những tội giết người, ăn cướp, khủng bố đủ mọi hình thức, hối lộ, làm đồ giả, lừa đảo, và đủ các thứ tội ác khác. Không phải chỉ có tín đồ của Giáo Hội mới làm những tội ác này mà là tất cả những người “mang chức thánh” từ các giáo hoàng cho đến các hồng y, giám mục và các tu sĩ. Tìm hiểu lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy tất cả những người này đều là những ác nhân tuốt luốt.”. Nguyên văn: “She applies to herself the term “holy,” but the fact is that through the ages and in her official capacity the Roman Church has been guilty the most atrocious crimes, practiced in the name of religion, including murder, robbery, persecution of all kinds, bribery, fraud, deception, and practically every other crimes known to man. Such crimes have been practiced not merely by church members, but by popes, cardinals, bishops, and priests who, as a study of church history will show, undeniable were evil men.”[19]

Sách Babylon Mystery Religion dành hẳn Chương 12 với tựa đề là Papal Immorality trong đó tác giả kể ra những màn kịch của hơn 20 giáo hoàng ("Đức Thánh Cha") đại diện Chúa Kitô "ăn no rửng mỡ", rồi "ấm cật dậm dật phao câu", rồi thanh toán lẫn nhau bằng những thủ đoạn vô cùng kinh khủng mà tác giả cuốn sách này cho là "kinh khủng độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người" (sheer horror has never been duplicated in the annals of human history). Xin mời quý vị theo dõi những sự kiện này qua đoạn văn nguyên bản như sau:

"Thêm vào những bằng chứng hiển nhiên cho chúng ta thấy rằng nhân cách và đức độ của rất nhiều ông giáo hoàng không xứng đáng đựợc gọi là giáo hoàng. Một số các ông giáo hoàng có những hành động hủ hóa, sa đọa, đê tiện và bỉ ổi đến nỗi ngay cả những người ngoại đạo cũng cảm thấy xấu hổ cho các Ngài. Các ông giáo hoàng thường hay phạm những tội ác như ngoại tình, làm tình một cách bất bình thường với đàn ông, bán thánh, hiếp dâm, giết người và say sưa tuý lúy. Những người thường cao rao là "Đức Thánh Cha", là "Đại Diện của Chúa Kitô", là "Giám Mục của các ông giám-mục" mà lại mang đầy những tội ác như vậy, nghe ra thật là rùng mình! Những ai đã thấu hiểu lịch sử của chế độ giáo hoàng và Giáo Hội La Mã đều biết rõ hơn ai hết, rằng không phải tất cả các ông giáo hoàng đều thánh thiện cả." Nguyên văn:"In addition to the conclusive evidence that has been given, the very character and morals of many of the popes would tend to identify them as successors of pegan priests, rather than representatives of Christ or Peter. Some of the popes were so depraved and base in their actions, even people who professed no religion at all were ashamed of them. Such sins as adultuery, sodomy, simony, rape, murder, and drunkeness are among the sins that have committed by popes. To link such sins with men who have claimed to be the "Holy Father", "The Vicar of Christ", and “Bishop of bishops", may sound shocking, but those acquainted with the history of the papacy well know that not all popes were holy men."[20]

Sách Vicars of Christ viết về chuyện làm tiền theo kiểu "Tú bà" của Giáo Hoàng John XXII (1316-1334) và Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484), và còn siêu hơn cả "Tú Bà" ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam vì rằng Giáo Hoàng John XXII (1316-1334)Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) đều có "Đấng tòan năng, toàn thiện ở khắp mọi nơi" ban ơn cho. Chuyện như sau:

"Ở Avignon, Giáo Hoàng John XXII tham lam cho phép các tu sĩ được giữ tình nhân với điều kiện phải đóng thuế. Ngay cả các ông tu sĩ trong trắng (không có tình nhân - NMQ) cũng phải đóng thuế trong trường hợp họ ngả vào trong vòng tay của một người đàn bà." Nguyên văn: "In Avignon, the avaracious John XXII allowed priests to keep their mistresses on payment of a tax. Even the few chaste priests had to pay up just in case they, too, fell into the arms of a woman."[21]

Kinh tởm hơn nữa, Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) vừa loạn luân với chị hay em gái vừa cho phép "mở nhà chứa" để thu thuế:

"Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) can tội loạn luân (incest) ăn ở với chị (em) gái sinh ra đứa con trai tên là Pietro Riario.“ [Sixtus ' favourite was Pietro Riario, whom the historian Theodor Griesinger believed was his son by his own sister.... ] Sixtus IV cũng là giáo hoàng đầu tiên cấp giấy hành nghề mở "nhà chứa" (nhà thổ)) tại Kinh Thành La Mã. Nhờ vậy mà mỗi năm, ông thu hoạch được 30 ngàn tiền ducats. Ông cũng thâu hoạch được những khoản tiền khá lớn bằng cách đánh thuế các tu sĩ nào muốn công khai sống với tình nhân (bạn gái). Tệ hơn nữa, ông còn làm tiền bằng cách bán giấy phép cho các ông nhà giầu được quyền "an ủi" các bà có chồng xa nhà, v.v..." (“Sixtus was the first pope to license the brothels of Rome; they brought him in thirty thousand ducats a year. He also gained considerably from a tax imposed on priests who kept a mistress. Another source of income was granting privileges to rich men "to enable them to solace certain matrons in the absence of their husbands”)[22]

Nếu chỉ đọc những tài liệu đã bị đãi lọc qua “cái sàng lọc Vatican” hay “Giáo Hội dạy rằng…”, thì Giáo Hội La Mã là “Hội Thánh duy nhất, thánh thiện công giáo và tông truyền” và là “Hiền Thê của Thiên Chúa làm người”. Thế nhưng, trong thực tế, văn hào Voltaire lại gọi Giáo Hội La Mã là hay đạo Thiên Chúa La Mã là “Cái tôn giáo ác ôn”,[23] và học giả Henri Gullemin gọi là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn.[24]

Nếu chỉ đọc những tài liệu đã bị đãi lọc qua “cái sàng lọc Vatican” hay “Giáo Hội dạy rằng…”, thì các ông giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục và linh mục đều là những người mang chức thánh đại diện cho Chúa Jesus ở trong cõi nhân gian này, và lúc nào các Ngài cũng thánh thiện lắm, không hề tà dâm, không hề làm tình bậy bạ với các trẻ em, không hế tán tình nữ tín đồ và chuyên môn làm những việc cứu nhân độ thế. Thế nhưng, trong thực tế, từ đầu mùa xuân năm 2002, báo chí đã khui ra cả hàng rừng những hành động dâm dục vô cùng ghê tởm của các ngài. Phải chăng, người Âu Châu, đặc biệt là người Pháp, đã từng là nạn nhân sớm nhất của các Ngài, cho nên họ mới gọi các Ngài là “lũ qua đen” (les corbeaux noirs), là bọn “lưu manh buôn thần bán thánh đội lốt thày tu”, rồi từ bỏ Giáo Hội, không thèm đến nhà thờ nữa. Tình trạng tín đồ Ca-tô Âu Chau từ bỏ nhà thờ được ông Hồng Chương viết trong bài “Mừng Chúa Giáng Sinh” trong đó có một đoạn như sau:

Theo báo USA Today, số ra ngày 11.8.2005, tại Âu Châu, đặc biệt tại các quốc gia tân tiến như Pháp, Thụy Điển, Hà Lan, số tín đồ đi lễ nhà thờ ít hơn 10%. Giáo Hoàng Benedict 16 đã rất đau khổ mà than thở rằng các giáo hội Âu Châu, Úc Châu, Mỹ Châu đang suy thoái dần. “Con người nơi đây không có dấu hiệu là họ cần đến Thượng Đế, ngay cả việc cần đến Giê-su lại còn ít hơn nữa”, ông nói với các giáo sĩ người Ý. “Những giáo hội được gọi là truyền thống có vẽ như đang dẫy chết.” Nguyên văn: “The drop is most evident in France, Sweden and the Netherlands, where church attendence is less than 10% in some areas. Last month, Pope Benedict XVI lamented the weakening of churches in Europe, Autralia and the USA. “There no longer evidence for a need of God, even less of Christ,” he told Italian priests. “The so-called traditional churches look like they are dying.” (USA Today, August 11.2005).”[25]

Chuyện tín đồ Ca-tô người Âu Mỹ bỏ nhà thờ cũng được ông Bùi Văn Phú (Australia) viết trong mục Trí Thức Hải Ngoại Với Phật Giáo Việt Nam (Phần Kết đăng trong www.danchimviet.com ngày 8/8/2006) trong đó có một đoạn như sau:

Không phải chỉ có tín đồ TCG ở Đức bỏ đạo mà tất cả các nước Tây phương đều như vậy cả. Con chiên đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật chỉ trong khoảng từ 2 - 8% mà thôi, đa số là những ông bà gần đất xa trời, còn giới trẻ họ chỉ đi nhà thờ 3 lần trong suốt cuộc đời: Một lần bằng xe nôi, một lần bằng xe hoa và một lần bằng xe tang mà thôi.” Bùi Văn Phú. “Trí Thức Hải Ngoại Với Phật Giáo Việt Nam – Phần Kết.” www.danchimviet.com ngày 8/8/2006.

Vì chịu ảnh hưởng sâu nặng bởi những chuyện phi luân, loạn luân, dâm loàn ở trong thánh kinh, và vì chịu ảnh hưởng bởi những tấm gương đĩ điếm, trụy lạc, phõng đãng, phản nhân luân của các Đức Thánh Cha và các viên chức cao cấp trong giáo triều Vatican, cho nên các đấng chăn chiên của những người tự nhân là “người Việt Quốc Gia” ở hải ngoại cũng sống đời phóng đãng bê bối thối tha, đi tìm thú vui, tán tỉnh đàn bả con gái, làm tình với nữ tín đồ và sờ soạng con nít một cách vô tội vạ. Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Thực trạng này được người trong chăn là linh-mục Nguyễn Thanh Sơn nêu đích danh những con quỷ dâm dục được Giáo Hội La Mã phong cho chức thánh, khoác áo lịnh mục đã hành xử loạn luân và phi luân giống như các Giáo Hoàng Sergius III (904-911), John XII (955-963), Leo VIII (963-964), Boniface VII (974-985), Benedict IX (1032-1044), Innocent III (1198-1216), Boniface VIII (1294-1303), John XXII (1316-1334), John XXIII (1410-1415), Pius II (1458-1464), Sixtus IV (1471-1484), Innocent VIII (1484-1492), Alexander VI (1492-1503), Paul III (1534-1549), Gregory XIII (1572-1585), v.v…để công bố cho thiên hạ biết. Trong tờ Tận Thế số Ra Mắt, nơi trang 27, Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn viết:

"Những ai đã biết, đọc và nghe về những ác quỉ dưới đây mà còn cố tình bênh vực, bao che, ủng hộ, ca tụng và đi xem lễ do chúng làm, sẽ bị Đức Mẹ nghiêm khắc trừng phạt:...

A.- Nhóm ác quỉ thuộc Phụ tỉnh DCCT/VN (Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam hải ngoại): Nguyễn Đức Mầu, Châu Xuân Báu, Vũ Minh Nghiễm, Đinh Ngọc Quế, Nguyễn Văn Phan, Phạm Quốc Hưng, Nguyễn Tất Hải, Đinh Minh Hải, Phan Phát Huồn, Nguyễn Trường Luân, Trần Ngọc Bích, Nguyễn Đức Thành, Bùi Quang Tuấn, và thầy bẩn moi và quịt: Nguyễn Văn Mới.

B.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Los Angeles: Trần Công Nghị, Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Quang Hòa, Lê Sơn Hà, Chu Quang Minh, Vũ Thế Toàn, v.v...

C.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Orange County: Nguyễn Đức Tiến, Mai Khải Hoàn, Nguyễn Văn Tuyên, Phạm Ngọc Tuấn, Chu Vinh Quang, Nguyễn Văn Luân, Đỗ Thanh Hà, Vũ Tuấn Tú, Ngô Văn Trọng, Mai Thành Hân, Xuân Nguyên Hồ, Trần Văn Kiểm, Đinh Viết Thục, Bùi Công Minh, Nguyễn Trọng Tước, tức Nguyễn Tầm Thường, v.v...

D.- Những ác quỉ ở nhiều nơi: Đinh Đức Đạo (Đức Ông giám đốc văn phòng thờ quỷ Rôma), Phan Tấn Thành (giáo sư thờ quỉ Rôma), Cao Minh Dung (Đức Ông, nhân viên Bộ Ngọai Giao tòa... quỷ!), Nguyễn Văn Phương (Chủ Tịch Liên Đoàn thờ Qủy, Riverale, Georgia) Lê Xuân Thượng (Đức Ông thờ quỷ cái Trần Thị Liễu, (Houston, Texas), Đào Quang Chính (Houston, Texas), Nguyễn Ngọc Tư (Houston, Texas), Nguyễn An Ninh (Eastpointe, MI), Hoàng Xuân Nghiêm (Tổng Thủ Quỹ Liên Đoàn Thờ Quỷ, (Wyoming, MI), Phạm Văn Tuệ, Trần Cao Tường, Vũ Hân (Marrero, LA), Việt Châu (Chủ Nhiệm Nguyệt San Thờ Quỷ, Gretna, LA), Nguyễn Đức Huyên (Giám Đốc đền thờ Quỷ), Nguyễn Văn Dậu (giáo sư thờ Quỷ, Metairie, LA) Phạm Quốc Hùng (Wichita, KS), Phan Đình Cho (Gíao-sư đại học thờ quỷ, Washington DC), Nguyễn Thanh Long (Silver Spring, MD), Trần Quí Thiện (Arlington, VA), Nguyễn Huy Quyền (Glen Ellyn, IL), Trịnh Thế Hùng (Chicago, IL), Đỗ Quang Biên (hưu trí thờ quỉ cái: Mầu, San Diego, CA)... (Còn tiếp với vô vàn vố số ác quỉ nằm trong Chi Dòng Đồng Công ở Carthage, MO, đã lợi dụng Đức Mẹ để làm tiền trắng trợn từ 24 Đại Hội Thờ Quỷ Mammon, đã qua, và Đại Hội thứ 25 sắp tới. Chính Đức Mẹ sẽ đánh tan đại hội bịp này.)" [26]

Trong tờ Tận Thế Số 2, nơi trang 31, Linh-mục Sơn viết:

"2.- Thật không ngờ một linh mục bệnh hoạn có thể trở thành một con người viết những điều mạnh mẽ như vậy, đó là chửi thẳng vào mặt ác quỷ Nguyễn Đức Mầu, kẻ dơ bẩn đã ăn nằm với không dưới 100 đàn bà mất nết từ Việt Nam sang tới Hoa Kỳ (đọc Thư LM Nguyễn Thanh Sơn gửi Cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Chúa Cứu Thế ở Roma, trong "Quyền Năng Đức Mẹ Diệt Trừ Satan III") và ác quỷ Trần Công Nghị, kẻ dâm thú cũng đã "ăn nằm" với hàng trăm đàn bà hư đốn trên 35 năm qua, từ Việt Nam sang Roma, tới Hoa Kỳ, trong số đó có hai (2) ma nữ lõa lồ: CAO THỊ MỸ LỆ (từ năm 1975 tại Portland, Oregon), con gái Cao Đăng Tường, cháu "yêu dấu" của Cao Đăng Minh, Dòng Chúa Cứu Thế (tên này cũng đã có con trai khôn lớn), và hiện nay đang ăn nằm với "con điếm nhớp nhúa nhất thủ đô tỵ nạn)" là DIAMOND BÍCH NGỌC. Đôi song ca đã và đang hát rất mùi với nhau, trong chương trình lứa đôi Thiên Chúa và Đức Mẹ mang nhãn hiệu rỗng tuếch: "Sống Tin Giữa Dòng Đời", trên đài Little Sàigon." [27]

Ngoài ra, còn có cả hàng rừng vụ khác tương tự như trên. Nói cho rõ, nếu cứ dựa vào những tài liệu đã bị đã lọc qua “cái sàng lọc Vatican” hay “Giáo Hội dạy rằng…” thì cái gì của Giáo Hội cũng thánh thiện cả, tất cả những bọn Vỉệt gian Da-tô như Nguyễn Hữu Độ, Trần Bá Lộc, Ngô Đình Khả, Trần Lục, Lê Hoan, Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Phạm Ngọc Chi, Nguyễn Văn Thuận, Hoàng Quỳnh, Mai Ngọc Khuê, Cao Văn Luận, Trần Đình Vận, Nguyễn Lạc Hóa, Nguyễn Bá Lộc, Đinh Xuân Hải, Cao Đăng Minh, Trần Công Nghị, Nguyễn Hữu Dụ, Trịnh Thế Hùng, Đào Quang Chính, v.v.., đều là những người thánh thiện và đều là “những người quốc gia chân chính”, “yêu nước chân chính” cả!

Sai lầm thứ 6

Ông Lê Xuân Khoa đã cố tình lờ đi (1) không nói đến khu rừng tội ác của ông Diệm trong thời gian ông ta làm quan cho chính quyền Bảo Hộ Pháp – Vatican từ năm 1922 cho đến giữa năm 1933, (2) không nói đến gia đình ông Diệm đã cấu kết với đế quốc xâm lăng Nhật trong những năm đầu thập niên 1940, (3) không nói đến những rặng núi tội ác sau khi được Liên Minh xâm lược Mỹ - Vatican đưa lên cầm quyền ở miền Nam Việt Nam từ ngày 7/7/1954 cho đến xế trưa ngày 1/11/1963, và (4) cũng không hề nói đến vấn đề ông Diệm đã làm gì để có khối tài sản khổng lồ như các sách sử đã công bố. Không những thế, ông Khoa còn gộp chung ông Diệm vào một nhóm với hai ông Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hải Thần để khen tụng. Dưới đây là nguyên văn lời ông Lê Xuân Khoa viết:

“Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam và Ngô Đình Diệm đại diện cho nhóm yêu nước quá khích…” (trang 419).

Phản biện: Thú thực, người viết không hiểu TẠI SAO ông Lê Xuân Khoa lại có thể viết một đoạn văn theo cái kiểu nhập nhằng đánh lận con đen như trên? Ai cũng biết rằng từ năm 1858 cho đến ngày 30/4/1975, Việt Nam trở thành đấu trường giữa một bên là Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican cấu kết với thế lực phong kiến phản động bản địa đang thống trị Việt Nam, sau đó lại được Hoa Kỳ nhẩy vào tiếp tay và một bên là đại khối dân tộc dân tộc Việt Nam cùng các tổ chức ái quốc và cách mạng có chủ trương đánh đuổi liên minh giặc này ra khỏi đất nước và tiệu diệt mọi thế lực phong kiến bản địa. Ông Lê Xuân Khoa há chẳng biết rằng, (1) những kẻ đứng vào hàng ngũ Liên Minh Pháp – Vatican (tức “quân xâm lăng”) và thế lực phong kiến phản động bản địa là “những quân phản quốc” mà ta thường gọi là “Việt gian”, và (2) những người đứng về phía đại khối dân tộc đối đầu với thế lực ngoại xâm và bọn phong kiến phản động bản địa trên đây được gọi là “những người yêu nước” hoặc “các nhà ái quốc”, hay sao?


Xem tiếp "Sai lầm thứ 7"

CHÚ THÍCH


[1] Thư của ông Trần Hoài Thư đề ngày 2/9/2000 đại diện cho mọt nhóm độc giả gửi cho người viết, địa chỉ 11402 Basye St., El Monte, CA 91732.

[2] Trần Tam Tình, Thập Giá và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978), tr. 14-15 và Nguyên Vũ, Ngàn Năm Soi Mặt (Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr. 389-396.

[3]Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân - Tập1 (Los Alamato s, CA: Xuân Thu, 1989), tr. 79-80.

[4]Hoàng Van Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng (Sàigòn: TXB, 1964),. Tr. 255-256.

[5] Bradley S. O’ Leary & Edward Lee, Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F Kennedy – Phạm Viên Phương & Mai Sơn dịch (Nhà Xuất Bản Tư Do, 2000), tr. 21.

[6] Bùi Nhung, Thối Nát (Houston, TX: Xuân Thu 1980?), tr. 99-100.

[7] Lê Đăng Hoàng. “Một Vài Suy Nghĩ Xung Quanh Bài Viết của Trần Trung Đạo.” www.talawas.org. Ngày 18/4/2005.

[8] Joseph Buttinger, Vietnam: A Political History (New York: Frederick A. Praeger, 1969), p. 289.

[9] Bradley S. O’ Leary & Edward Lee, Sđd., tr. 26.

[10] Bradley S. O’ Leary & Edward Lee. Sđd., tr. 99.

[11] Lê Đăng Hoàng. Tlđd. “Một Vài Suy Nghĩ Xung Quanh Bài Viết của Trần Trung Đạo.” www.talawas.org. Ngày 18/4/2005.

[12] Lê Hữu Dản, Tài Liệu Soi Sáng Sự Thật - Tập Hai (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1996), tr. 326-327.

[13] Alfred W. McCoy, The Politics of Heroin in Southeast Asia (New York: Harper & Row, Publishers, 1972), p.160.

[14]Bradley S. O’ Leary & Edward Lee, Sđd., tr. 48-53.

[15] William J. Lederer, Our Own Worst Enemy (NY: W. W. Northo & Company Inc., 1968), p.165.

[16] Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam 1993), tr. XI-XII. Muốn biết những tài sản khổng lồ của từng người anh em nhà Ngô, xin đọc hết các trang XI-XV trong sách này và toàn bộ Chương 19 (từ trang 339 đến hết trang 431) trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX; Văn Hóa, 2000) của tác giả Nguyễn Mạnh Quang.

[17]Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Tòan Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 200), tr 124. Source: Department of State, Rank Files: Lot 72 D 192, Correspondence -I. Top Secret.

[18] Encyclopedia Britannica, Vol. 10, Ed. 1980, page 149.

[19] Loraine Boettner, Roman Catholicism (Phillipsbueg, NJ: Presbyterian and Reformed Publishing Company, 1962), p. 27.

[20] Ralph Woodrow, Babylon Mystery Religion (Riverside, CA: Ralph Woodrow Evangelistic Assoc.n, Inc., 1981), p 91.

[21] Peter de Rosa, Vicars. Of Christ (Dublin, Ireland : Poolberg Press Ltd, 2000) p.410.

[22] Peter de Rosa. Ibid., p.101.

[23] Bùi Đức Sinh, Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo- Phần Nhì (Sàigon: Chân Lý, 1972) tr 165.

[24] Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000) tr. 92.

[25] Hồng Chương. “Mừng Chúa Giáng Sinh.” www.giaodiemonline.com Tháng 12/2006.

[26] Nguyễn Thanh Sơn, Tận Thế Số Ra Mắt 15/6/2002 (Fountain Valley, CA, TXB, 2002), tr 27.

[27] Nguyễn Thanh Sơn, Tận Thế Số 2 15/7/2002 (Fountain Valley, CA, TXB, 2002), tr 31.

Các bài cùng tập