![](../../images/nha.jpg) |
04 tháng 12, 2009 |
![](IMG/Ngcungthuong.jpg)
Nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông và phu nhân - Ảnh Việt Báo, tác giả gửi
... Nhân đây, mời bác và các thân hữu đến dự buổi mạn đàm về "Ảnh hưởng
phương Nam trong ngôn ngữ văn hoá Hán qua tên gọi 12 con giáp và Bụt/Phật
..." ở Viện Việt Học (15355 Brookhurst St Westminster CA 92685) vào ngày Chủ
Nhật (6/12/2009 từ 3 đến 4.30 pm).
Nếu có thể được, nhờ bác forward thông
tin này đến quý đồng hương (nhất là các vị ở Nam California) về buổi mạn đàm
này - ở San Jose thì vào ngày thứ Bảy (19/12/2009).
Thân gởi
Nguyễn Cung Thông
Lời giới thiệu của Việt Báo:
Westminster ( Cổ Ngưu )-- 2 giờ chiều Chủ Nhật ngày 6
tháng 12 năm 2009, tại hội trường Viện Việt Học, tọa lạc tại số 15355
Brookhust St, Suite# 222 Westminster, CA 92683, điện thoại ( 714 ) 775-2050
đã tổ chức buổi thuyết trình do Nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông đến từ Úc
Châu trình bày một đề tài nghiên cứu với nhiều khám phá mới về "Vết tích của
tiếng Việt cổ trong tiếng Hán, Trường hợp tên gọi của 12 con giáp và danh
xưng Bụt - Phật - fó Bắc Kinh."
Nhân chuyến ghé thăm tòa soạn Việt Báo, Ông Nguyễn Minh
Lân một trong những trụ cột của Viện Việt Học giới thiệu với chúng tôi về
nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông. Trong dịp nầy chúng tôi được Ông Nguyễn
Cung Thông cho biết Ông Du học tại Úc vào thập niên 1970, hiện tại Công ty
cố vấn giáo dục (Education Consultant), nghiên cứu về tiếng Việt, tiếng Việt
cổ với những chủ đề như: Hiện tượng M như: (mắt, mũi, môi, mồm, miệng, mép,
má, mụn, mi, mí . . .) "Nguồn gốc Việt Nam của 12 con giáp." Ông cũng cho
biết những loạt bài nghiên cứu nầy có thể tìm đọc trên mạng khoahoc.net,
dunglac.com, anviettoancau. . . "
Bụt hay Phật?"( vết tích của ảnh hưởng phương Nam trong văn hóa ngôn ngữ
Hán cổ) những loạt bài nầy có thể tìm đọc Tạp Chí Phật Học Online, Trang
Nhà Quảng Đức..v.v. . . Ông đã xuất bản một số sách như: Phương pháp giải
quyết vấn đề (Problem Solving strategies)-Melbourne, Úc (1996) và Việt Nam -
ISBN 0 646 280 252, Phương pháp cấu tạo bảo trì xe hơi (1992) Melbourne ( Úc
) Việt Nam-ISBN0 646 301 586. Tiếng Việt tuyệt vời ( hiện tượng m) 1996
Melbourne ( Úc ) -ISBN 0 646 357 301. . Trong dịp nầy Ông cũng cho
biết,Ông đã tìm ra được tiếng Việt cổ của tổ tiên qua tên gọi của 12 con
giáp: Tí, Sữu. . . Ông nói không riêng tiếng Việt gọi người sinh ra mình là
mẹ mà nhiều ngôn ngữ khác cũng dùng để gọi mẹ.
Ông đã dựa trên ngôn ngữ học và ông cho đây là một hiện tượng đặc biệt nên
ông kết luận rằng tổ tiên đã để lại cho con cháu một "lá bùa", ai giải được
"lá bùa" nầy sẽ hiểu được nguồn gốc lịch sử nước Việt.
Trong khi tiếp xúc Ông đã diễn đạt từ những khám phá qua qúa trình nghiên
cứu khá hấp dẫn. Có thể nói đây là một đề tài nghiên cứu khá công phu, theo
tuần tự thời gian chắc chắn làm cho người nghe sẽ biết thêm được những điều
mà từ trước đến nay chưa ai nhắc tới. Ước mong của Ông là muốn đóng góp một
phần về ngôn ngữ trong nguồn gốc tiếng Việt để cho thế hệ con cháu chúng ta
có căn bản tìm hiểu và nghiên cứu xa hơn. Đồng hương hãy đến để nghe Diễn
giả Nguyễn Cung Thông với đề tài công phu lần đầu tiên được thuyết trình tại
Viện Việt Học.
[Tác
giả chân thành cảm ơn bác Nguyên.Ng qua nhiều trao đổi trên diễn đàn Viện
Việt Học, California, Hoa Kỳ]
Bài này là
một phần trong loạt bài viết về "Bụt hay Phật". Bài đăng lần đầu tiên qua
chủ đề "Biết-Bụt-Phật" trên tạp chí Y Học Thường Thức, số 38 - tháng 5/6 năm
2000 (California, Hoa Kỳ). Khuynh hướng dùng từ Bụt như từ 'mới' thấy rõ nét
trong vòng hai mươi năm trở lại, nhất là qua các bài viết của Thiền Sư Nhất
Hạnh. Phần này sẽ đưa ra các dữ kiện ngôn ngữ văn hoá minh chứng từ Bụt (Nôm
lõi) là dạng cổ hơn của từ Phật Hán Việt, do đó khuynh hướng dùng từ Bụt
không phải là ‘mới’ như nhiều người lầm tưởng mà thật ra là ‘cổ’, và cổ lắm
... Không phải tình cờ mà GS Joseph Edkins (trong "Chinese Buddhism" Chương
XXV, 1893) đã từng đưa ra dạng âm cổ của fó (Phật đọc theo giọng Bắc Kinh
hiện đại) chính là But : ông hoàn toàn không biết Bụt đã có mặt trong tiếng
Việt từ lâu! Chuyến xe luân hồi (samsara
संसार ) không chỉ chuyên
chở nhân sinh, lịch sử mà còn ngôn ngữ con người chăng?
Ngôn Ngữ
Học (Linguistics, đặc biệt là Ngôn Ngữ Học Lịch Sử/Historical Linguistics)
bước vào một giai đoạn mới khi các nhà nghiên cứu bắt đầu thiết lập hệ thống
so sánh các dữ kiện ngôn ngữ một cách khách quan1, không những
thế - qua các khám phá (định luật, thống kê) tìm ra - nhiều khám phá mới
cũng bắt đầu ra đời rất khắn khít với dữ kiện từ ngôn ngữ (càng ngày càng
thâu nhận nhiều và chính xác hơn so với thời xưa). Ngôn Ngữ Học từ đó đã
thoát khỏi quỹ đạo của truyền thống khoa học nhân văn để tiến dần đến một
khoa học chính xác hơn. Điển hình là các quan hệ giữa phụ âm đầu trong tiếng
Anh, Pháp, Tây Ban Nha, La Tinh, Đức ... mà ta khá quen thuộc. Thí dụ như
định luật Grimm có liên hệ trực tiếp đến chủ đề bài viết này. Định luật âm
thanh Grimm (Grimm's law hay còn gọi là Rask's-Grimm's law, First Germanic
sound shift) ra đời vào khoảng 1822. Người đọc có thể xem chi tiết về định
luật này trên mạng http://en.wikipedia.org/wiki/Grimm%27s_law
. Luật này ghi nhận sự tương đồng về phụ âm đầu trong ngữ hệ Ấn Âu
(Indo-European languages) như các âm mạnh (strong sounds) trở thành âm yếu
hơn (weak sounds) : ví dụ b, d, g trở thành p, t, k và sau
đó thành f,
θ, x
...v.v... Thí dụ fish (cá, tiếng Anh), Fisch (Đức) là poisson (Pháp), pez
(Tây Ban Nha), piscis (La Tinh) ... warp (cong vòng, tiếng Anh), värpa (Thuỵ
Điển), werpen (Hà Lan), verber (La Tinh) ... Theo thiển ý và với khuynh
hướng biến âm tự nhiên của tiếng nói (các phụ âm cùng vị trí phát âm ở môi
và răng) nên luật Grimm không chỉ hiện diện trong ngữ hệ Ấn Âu, nhưng còn có
thể áp dụng cho các ngữ hệ khác nữa. Thí dụ như tiếng Kara (ở New Ireland,
thuộc Papua New Guinea)2 có các tương quan (b-p-f/ph) như sau
*bulan
> fulan (mặt trăng)
*tapine
> tefin (đàn bà)
…
Nhìn
lại các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á, nhất là tiếng Hán, Hán Việt : không phải
ngẫu nhiên mà Phục Hy
伏羲 hay
宓羲còn có các tên gọi
khác là Bào Hy (庖羲),
Bao Hy (包羲)
... Phần này chỉ giới hạn vào biến âm b > p > f (ph-) trong tiếng
Hán, Hán Việt (HV) và Việt. Các dữ kiện ngôn ngữ trong bài không có trích
nguồn vì rất dễ kiểm tra lại, ngoại trừ một số tài liệu Ngôn Ngữ Học hay
nguồn dữ liệu đặc biệt quan trọng cho bài này. Các chữ có dấu hoa thị
(asterisk) đứng trước là dạng âm cổ phục nguyên (reconstructed form). Người
viết sẽ tránh dùng các thuật ngữ Phật Giáo, Ngôn Ngữ Học ... để bạn đọc cảm
nhận các nhận xét và dữ kiện trong bài dễ dàng hơn. Không nên lẫn lộn số thứ
tự cho phụ chú và thanh điệu trong bài. Phần sau chứng tỏ phần nào hiện
tượng Bụt-Phật trong tiếng Việt thật ra chỉ là một trường hợp phản ánh khá
rõ nét các âm cổ Việt còn tồn tại so với các âm Hán Việt nhập ngược vào có
hệ thống hơn từ thời Đường Tống, cũng như trường hợp tên gọi 12 con giáp
vậy. Nhìn rộng ra hơn, đạo Phật qua tiếng Phạn và kinh điển đã làm vốn từ
tiếng Hán trở nên rất phong phú. Có học giả Trung Quốc, như GS Peter Hu (Đại
Học Jiangsu) trong bài viết "Adapting English to Chinese", từng ước tính vốn
từ Hán (Cổ) tăng thêm khoảng 35000 chữ mượn6 từ tiếng Phạn và
kinh Phật; Hay xem thêm phần 4.1 bên dưới hay chi tiết trên mạng
vi.wikipedia địa chỉ
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt
hay bài viết
http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/150109-muoihaicongiap-suu-2.htm
1.
Giới thiệu tổng quát
Hai từ Bụt
và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích
còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như thành ngữ ăn chay
niệm Phật và
“Gần
chùa gọi Bụt bằng anh, của Bụt lại thiêu cho Bụt, của Bụt trả Bụt
(của 'chùa' hay của không
tự làm ra thì không bền, dễ đến dễ đi), bẻ tay Bụt ngày rằm, Bụt trên toà
sao gà mổ mắt, Bụt (chùa) nhà không thiêng, Bụt chùa nhà không thiêng đi cầu
Thích Ca ngoài đường, Bụt không thèm ăn mày ma, Bụt nhiều oản tí,
ngồi như bụt ốc (ngồi như phỗng), chùa nát có Bụt vàng (chùa đất có
Phật vàng), lành như Bụt, hiền như Bụt (hiền như đất, hiền như phỗng đất,
hiền như cục bột), đất Bụt ném chim giời,
Dù xây chín đợt
phù-đồ -
Không bằng làm phúc cứu cho một người,
Đi với Bụt mặc
áo cà-sa -
Đi với ma mặc áo giấy ...v.v…”
Hay
Miệng
na mô (nam mô) bụng bồ dao găm
(thành ngữ)
Đất vua
chùa làng, phong cảnh Bụt
(thơ cổ)
Sư rằng
cửa Bụt thênh thênh
(Nhị Độ Mai)
Chỉ
mong cầu khấn Bụt Trời
(Nhị Độ Mai)
Chỉn
Bụt là lòng
(Cư Trần Lạc Đạo)
Vẹn nhơ
chẳng bén, Bụt là lòng
(Nguyễn Trãi)
Chưa dễ
ai là Bụt Thích Ca/Mọi điều nhân nghĩa nhẫn thì qua
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
…v.v…
Khác với
Bụt chỉ thấy trong tiếng Việt, Phật cũng có mặt trong ca dao tục ngữ trong
văn hoá Trung Quốc và Việt Nam - nhưng chiều ảnh hưởng rõ ràng là từ Trung
Quốc qua VN :
Phật
tâm xà khẩu佛心蛇口 (thường nghe Phật
khẩu tâm xà hay khẩu Phật tâm xà ... hơn)3
Phật
khẩu thánh tâm
佛口聖心 , A Phật mạ tổ
啊佛罵祖 (dám nói dám làm …)
Giản
Phật thiêu hương
揀佛燒香 (chọn
Phật mà cúng, ra vẻ tốt lành bề ngoài để lợi dụng …)
Phóng
hạ đồ đao , lập địa thành Phật
放下屠刀,立地成佛 (bỏ quá khứ xấu để trở
thành người tốt/Phật ngay …)
(Lâm
thời) bão Phật cước臨時抱佛腳 (có chuyện mới tới cầu
Phật - tục ngữ nhập vào Trung Quốc thời Đông Hán. Văn hoá dân gian VN còn
truyền tụng "Ngày thường không thắp hương, gặp nạn đến ôm chân Phật"
- trích 'Dictionnaire vietnamien chinois francais' của Gustave Hue (1937)
Tá hoa
hiến Phật
借花獻佛 (lấy đồ của người này đem tặng
kẻ khác, mượn đầu heo nấu cháo ...)
Phật
tính thiện tâm, Phật đầu khán phẩn, Phật đầu trứ phẩn, Phật đầu gia uế
(佛性禪心
佛頭着糞
佛頭著糞
佛頭加穢), kiến tính
thành Phật
見性成佛 …v.v…
Qua các
cách ghi nhận văn hoá dân gian trên, ta rất khó phân biệt mức độ thâm nhập
của hai từ Bụt và Phật - vấn đề sẽ rõ hơn khi đi sâu vào cách đọc và nguồn
gốc chữ (Hán) của hai từ này.
2.
Các cách đọc hiện tại của Bụt và Phật
Việt
Nam Bụt (dân
gian) so với Phật (Hán Việt/HV) -
Mường
(Bi) put (Bụt),
Phât (Phật) - như 'Liênh chùa mà ngỏ put' (lên chùa mà xem Bụt)
Gia
Rai mơnuih
pơsêh (Phật)
Khme
pút -
kêu trời như 'Phật ơi' là 'pút thô' (so với trời ơi, chúa ơi, mẹ ơi ...
tiếng Việt)
Kờho
Phợk
- tượng Phật rùp Phợk
Thái
พุทธ
póot - tượng Phật
พระพุทธรูป
prá-póot-tá-tá-rôop
Myanmar
(Miến Điện) Buđa
Lào
Phuth - phuthô/phuđô (Phù Đồ, Phật Đà)
Nùng
Pụt
Chăm/Chàm Bhik,
Phik (có tài liệu ghi là But4)
Bắc
Kinh/BK fú, fó, bó
(theo pinyin) so với giọng Ngô (Thượng Hải) là vơi?, giọng Đài Loan
là
hut8,fut8 (để ý các phụ âm đầu f,b,v) - giọng Quảng Đông là fat6 fat1 bat6,
Hẹ là fut8; giọng Triều Châu (Tiều) là hug8, hug4 (huk)
Nhật
butsu, futsu, hotsu
ふつkanji
仏-
Phật còn dùng để chỉ người quá cố (mỹ từ)
Tiếng Nhật
có khuynh hướng hầu hoá (glottalisation) phụ âm môi đầu như bèi, bò BK bắc
HV > hoku/hai - bó BK bạch HV > haku/byaku – bò/ba BK ba Việt ha/ba Nhật …
Nên có ba dạng biến âm but- fut- và hot- như trên so với giọng Đài Loan
Hàn
pwul
(pul), phil
불
Mã
Lai/Inđô buda
…v.v…
Một nhận
xét sơ khởi khi xem bảng so sánh trên là các giọng phía nam Trung Quốc
(Quảng Đông, Hẹ, Hán Việt) đều có dạng f- (hay ph-). Chữ Nôm dùng bột
孛 (sao chổi) chỉ Bụt trong Cư
Trần Lạc Đạo, và
佛 Phật HV cho thấy hai phụ âm b-
và f- cùng hiện diện, điều này rất đáng chú ý vì hiện tượng này (hai chữ
Bụt và Phật) chỉ có trong tiếng Việt.
3.
Các cách đọc cổ hơn
Đi ngược
dòng thời gian và dựa vào các tài liệu Trung Quốc như Khang Hy/Tập Vận/Đường
Vận, âm Hán trung cổ của Phật佛là
【唐韻】【集韻】【韻會】【正韻】符勿切,音咈 [Đường Vận][Tập Vận][Vận
Hội][Chánh Vận] phù vật thiết, âm phất
【集韻】【正韻】蒲沒切,音浡 [Tập Vận][Chánh Vận] bồ
một thiết, âm bột - dùng như bật
同弼 (cũng theo Khang Hy chép lại)
Rõ ràng là
có hai cách đọc khác nhau bột và phất/phật thời Đường Tống. Cách đọc phổ
thông bây giờ (giọng BK) là fó chứ ít khi là bó (ghi theo bính âm/pinyin).
Đi ngược
dòng thời gian xa hơn nữa đến thời Hán, theo Thuyết Văn Giải Tự thì Phật
佛 được Hứa Thận ghi nhận là
4995
見不審也。从人弗聲 kiến bất thị dã - hàm ý
không thấy rõ, như cách dùng phảng phất5 (仿
佛 hay bàng phất
彷
彿) mà tiếng Việt còn duy
trì âm và nghĩa rất cổ như cách dùng 'hình bóng phảng phất đâu đây, tiếng
phảng phất bên tai ...'
Nguồn gốc
của chữ Phật cho thấy là loại chữ hình thanh, đúng như Hứa Thận đã nhận xét
- tuy ông không ghi nhận nghĩa Phật là Phật Đà (Phật Tổ) trong thời Đông Hán
Seal
Characters (chữ triện) - trích từ mạng của tác giả Richard Sears
http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?character-Input=%E4%BD%9B&submitButton1=Etymology
Chữ Phật
không có mặt trong kim văn và giáp cốt văn : điều này cho thấy phần nào thời
gian đạo Phật nhập vào văn hoá Trung Quốc - không thể trước thời Tần; Tóm
lại, các dạng viết chữ (Hán) Phật có khả năng là các chữ tạo ra hay lấy từ
dạng có sẵn và dùng để ký âm một tiếng ‘nước ngoài’(ta sẽ thấy trong phần
sau : tiếng ngoại quốc này là tiếng Phạn, tiếng Việt Cổ) nhập vào văn hoá cổ
Á Đông.
4.
Gốc Phạn ngữ của Bụt và Phật
4.1 Theo
Nam Sơn Giới bản sơ thì 'Tiếng Phạn Phật Đà, Phù Đồ ... Có lẽ do lưu truyền
sai. Ở đây không phải chỉ người, dịch nghĩa là giác ...'; Còn theo Tông Luân
Luận Thuật Ký thì 'Phật Đà, tiếng Phạn, dịch là giác, tuỳ ý lược bớt chỉ gọi
là Phật ...'6. Phật Đà là một dạng phiên âm từ tiếng Phạn budh-
có nghĩa là biết, ý thức được ... Tiếp vị ngữ (hậu tố/suffix) -a thêm vào
động từ budh- cho ra dạng buddha
बुद्ध
nghĩa là đã giác ngộ (past participle, động từ chỉ quá khứ), người đã giác
ngộ (dịch là giác giả). Nếu thêm a- vào trước budh- hay là thêm tiền tố
(prefix) thì ta có dạng a-budhá
अबुध
là ngu đần; Các dạng liên hệ khác là bodhi
बोधि
(phiên âm HV bồ đề
菩
提, tiếng Nhật bodai hay
satori ) là biết lẽ chân chính (dịch nghĩa là chính giác
正覺), bauddha
बौद्ध giữ trong trí óc
(tinh thần) … Cấu trúc tiếng Phạn (đa tiết) đã ảnh hưởng phần nào đến quá
trình thành lập chữ Hán như các cụm từ vô minh, vô ngã, vô lượng, vô thường,
vô vi, vô đẳng, vô đạo, vô học, vô hình, vô ngôn, vô ái, vô sinh, vô si, vô
tận ...v.v... Với vô dùng như tiếp tố a- nói trên.
4.2 Rõ
ràng Phật, Phật Đà là các từ nhập từ tiếng Phạn, cho nên Bụt, bật, bột và
Phất, Phật chỉ là các dạng biến âm mà âm cổ hơn (gần âm Phạn nhất) là Bụt
hay bột, bật. Khuynh hướng biến âm từ b thành ph- đã có nhiều học giả bàn
đến : từ thời Henri Maspéro (1912, ông nhận xét hiện tượng tách b-ph ở Hán
Việt hoàn toàn ăn khớp với quá trình phân hoá phụ âm môi môi và môi răng của
tiếng Hán Trung Cổ), tới thời Vương Lực, cũng như Nguyễn Tài Cẩn7
và Lê Văn Quán8. Ngoài liên hệ budh- Bụt Phật, ta còn có những
liên hệ tương tự chứng tỏ chiều biến âm b > ph như Phạm (Phạn)
梵 là phiên âm của Brahmá (tiếng
Phạn)
ब्राह्म
; Phạm/Phạn còn có các dạng phiên âm khác như Phạm ma, Bột lạm ma, Bà
la hạ ma, Một la hám ma, Phạm lãm ma ... Phạm/Phạn9 gắn liền với
Phật và Ấn Độ như Phạm học là Phật học, Phạm vũ là chùa (thờ Phật, tu viện),
Phạm ngôn (kinh Phật), Phạm thổ (nước Ấn Độ), Phạm Hoàng (vua Ấn Độ, Phật
Tổ) ... Điều này dễ hiểu vì kinh Phật thường dùng tiếng Phạn. Trong phần
này, tiếng Phạn (Sanskrit, so với tiếng Phạn Nam/Pali) dùng như là một thước
đo và để so sánh (control sample) vì là một loại tử ngữ (dead language, rất
ít người dùng trừ khi đọc kinh và cũng chỉ ở một vài nơi), quan trọng hơn là
tiếng Phạn rất ít thay đổi (ngữ âm và ngữ pháp) và ta có khá nhiều dữ kiện
để luôn kiểm chứng được cách đọc và viết. Tuy không ghi nhận phật
佛 là Phật Đà/Phật Tổ nhưng Hứa
Thận có nhận ra Phạn là dạng phiên âm của đạo Phật (Thích giáo) trong Thuyết
Văn Giải Tự
3837
林部:
梵:出自西域釋書,未詳意義
3837 Lâm
bộ : Phạm/Phạn : xuất tự tây vực thích thư , vị tường ý nghĩa
Âm trung
cổ cho thấy Phạn đọc như phàm (buồm) theo Đường Vận : phù phiếm thiết, âm
phàm (thật ra kết quả này không làm ta ngạc nhiên vì cấu trúc của chữ Phạm :
bộ lâm
林 hợp với chữ phàm凡hài
thanh).
4.3 Phá/pha
la đoạ
頗
羅
墮 hay Phả La Trá là phiên âm của
Bharadvaja
भारद्वाज
: một trong 6 họ Bà La Môn (quí tộc)
4.4
Phum ở Nam bộ là làng thôn với luỹ tre bao quanh, liên hệ đến phum
(tiếng Khme nghĩa là làng). Phumi (phuuM miH)
ภูมิ
tiếng Thái có nghĩa là địa phương, đất, nền nhà; Tiếng Môn Cổ phùm là
đất, lãnh thổ cũng như tiếng Môn hiện đại, tiếng Chao Bon (Nyah Kur) ...
Theo thiển ý, các tiếng phum, phumi có gốc tiếng Phạn bhumi
भूमि
(đất, nền, địa phương, lãnh thổ, nước/quốc gia ...). Bhumi lại có gốc tiếng
Phạn là bhu- भु
(trở thành, trở nên : to become, to grow into).Trong kinh Phật, bhumi
dịch nghĩa thành địa như Thập địa hay Thập trụ (dasabhumi - 10 giai đoạn bồ
tát trở thành Phật), bhudana (người chủ đất chia đất mình cho người
nghèo) …
4.5 Liên
hệ lịch đại (diachronic) giữa phụ âm môi tắc hữu thanh b- và xát vô thanh
ph- rất rõ nét khi so sánh tiếng Việt và Hán Việt
Buông
phóng
放
(phủ vọng thiết, phân phòng
thiết - Đường Vận/ĐV)10
Buồng
phòng
房 (phù phương thiết/ĐV)
Bùa
phù
Bù
phù
Búa
phủ
Bụa (goá)
phụ
Bộ
pho
Bể
phá
Bể (biển)11
pha
陂
Bán,
buôn phán
Buồn
phiền
Buồm
phàm
Bún
Phấn
Bỏ
phế
Bá
phách
Bố/ba
phụ
Bưng
phụng
Bay
phi
Buộc
phọc
Bè
phái (phe)
Bèo
phiêu
Bởi
vị/vì
Bụt
Phật
…v.v…
Liên hệ
đồng đại (synchronic) b-ph cũng hiện diện nhưng ít gặp hơn như
Bỏng
phỏng
Bứt
phứt (phứt lông chim - Việt Nam/VN Tự Điển)
Bổ (cắt)
pha (VN Tự Điển)
Bình
bịch phình phịch (từ láy, tượng thanh)
...v.v...
4.6 Chữ
Phật đã được dùng trong Hậu Hán Thư - Tây Vực Truyện
后汉书 -
西域传 :
…
宣称三世十方,到处有佛
/
西方有神,名曰佛
…
… Tuyên
xưng tam thế thập phương , đáo xứ hữu phật / tây phương hữu thần , danh viết
Phật …
4.6.1
Cũng như các tài liệu trung cổ bên Trung Quốc như Tây Du Ký ...v.v... Có
nhiều tranh luận về nguồn gốc của chữ Phật : có học giả cho rằng chữ Phật
đơn âm có thể là do cụm từ (đa âm) Phật Đà đơn âm hoá mà thành - xem thêm
nguồn ghi ở điểm 4.1 bên trên; Điều này có cơ sở giải thích khi tiếng Phạn
đa âm nhập vào tiếng Hán đơn âm thì hiện tượng rút gọn âm có thể xẩy ra như
tăng già
僧伽 (samgha
संघ)
trở thành tăng để cho ra các từ kép (chữ Phạn hợp với chữ Hán) như bần tăng,
tăng phòng, tăng đồ, tăng lữ, tăng vật, tăng chúng, tăng thống ... Cù Đàm
瞿昙 (Go-tama
गोतम)
còn gọi tắt là Cù như trong cách dùng Cù Lão; Thiền na
禪那 (dhyana
ध्यान)
gọi tắt là thiền như trong các cách dùng thiền định, thiền môn, thiền kinh,
thiền trượng ... Bát là tên gọi tắt của bát đa la
鉢
多
羅 (pâtra
पात्र)
và dùng trong các từ ghép y bát, ngoã bát, phạn bát, chúc bát ... (bát đã mở
rộng nghĩa chỉ cái tô, cái chén ...); Thích là tên gọi tắt của Thích Ca/Già
釋迦 (sâkya
शाक्य)
và các cách dùng như Thích giáo (đạo Phật), Thích môn, Thích điển, Thích tử
(Phật tử, đệ tử của đức Phật); Sám
懺 là tên gọi tắt của sám ma
(kshamá
क्षम
kiên nhẫn) dùng trong cụm từ sám hối
懺悔 (chữ Phạn sám hợp với chữ Hán
hối), sám ma
懺摩, sám pháp
懺法, sám nghi ...v.v…
4.6.2
Ngược lại với giả thuyết Phật Đà có trước Phật như trên, một số học giả đề
nghị Phật có trước hay cùng thời với Phật Đà vì qua các con đường (nhập vào
Trung Quốc) khác nhau. Thí dụ như qua trung gian các ngôn ngữ vùng Trung Á;
Đề nghị này khá hấp dẫn vì con đường tơ lụa (丝绸之路,
Ti Trù Chi Lộ/Silk Road) đã tạo cơ hội cho nhiều hoạt động và giao lưu văn
hoá, tôn giáo, thương mại thời cổ đại. Nhà Phật Học Quý Tiến Lâm (1996) đã
chứng minh rằng trong văn tự Hồi Hột, tiếng Phạn đa âm Buddha đã biến thành
trọc âm Bụt, điều này cũng được tác giả Huỳnh Ngọc Chiến12 ghi
nhận rõ ràng trong bài viết "Từ Buddha đến Phật và Bụt". Ngoài ra kết quả
nghiên cứu của 'GS Chen' cho thấy thời Hán từ song tiết Phật Đà không phổ
thông so với từ đơn tiết Phật : điều này có thể là chữ Phật được dịch trực
tiếp từ kinh Phạn địa phương và nhập trực tiếp vào Trung Quốc. Cũng như đề
nghị của GS Sylvain Lévi (1913)13, kinh Phạn địa phương có thể là
từ các nước Trung Á, và phù hợp với bài viết đăng trên mạng - xem thêm
http://www.chibs.edu.tw/publication/LunCong/004/19_36.htm
. Từ đơn tiết Phật, tuy nhập vào tiếng Hán (Cổ) qua ngã khác nhưng giản
tiện hơn so với cụm từ Phật Đà, do đó càng ngày càng trở nên phổ thông.
4.6.3 Có
thể Phật giáo đã đến Việt Nam trước khi truyền đến Trung Quốc không? Đây là
một giả thuyết rất khác biệt với ‘niềm tin’ của đa số người cho rằng Phật
giáo truyền từ Trung Quốc đến Việt Nam. Hãy xem lại các dữ kiện :
- Bụt
(không thấy dùng Bụt Đà) trong văn hoá dân gian luôn chỉ người hiền lành hay
Phật (tích cực, phù hợp với nghĩa nguyên thuỷ của buddha, rất khác với Phật
của tiếng Hán; Phật đọc như phất với nghĩa tiêu cực như không, trái ý ...
'phật lòng' hay Bật hay Bột (chợt) : điều này cho thấy người Hán không
hiểu nghĩa của Bụt khi nhập vào tiếng Hán và chỉ ‘nhái’ lại theo âm mà thôi.
Âm Bụt (chữ Nôm dùng bột孛)
gần với âm Phạn Buddha nhất trong các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á, các nền văn
hoá này đã từng vay mượn chữ và ý này từ đạo Phật như bảng so sánh bên trên.
Các ngôn ngữ láng giềng như Thái, Lào, Khme, Chăm ... vẫn còn dạng đơn âm
Bụt/Phut cũng như tiếng Mường (Bi) và Việt. Các cách dùng Bụt, Phật (với hai
nghĩa khác nhau như phật lòng, phật ý so với đức Phật) và phù đồ trong văn
hoá dân gian là bằng chứng cho thấy dạng cổ Bụt khó có thể đào thải tuy sức
ép của tiếng Hán rất là nặng nề qua bao ngàn năm đô hộ và đồng hoá. Nếu Bột
勃 và Bột Đà
勃
陀 được dùng trong vốn từ tiếng
Hán14 (thay vì Phật hay Phật Đà) cho đến ngày nay thì nguồn gốc
Bụt hay Phật không khó giải quyết, nhưng chính vì các biến âm của dạng Phật
(xem bảng liệt kê cuối bài) mà ta có thể đặt lại vấn đề. Cách dùng Bụt như
Bồ Tát (hiền/lành như Bụt) trong tiếng Việt đã duy trì nghĩa nguyên thuỷ của
bồ (bodh- âm Phạn, trí tuệ - một dạng của budh- biết/hiểu giác ngộ) trong
các dạng phiên âm Bồ Tát
菩薩, bồ đề
菩提. Người Hán dùng bồ
chỉ là phiên âm trực tiếp (transliteration) chứ không hiểu là các dạng bồ
bột Bụt Phật đều cùng một gốc! Khuynh hướng biến âm rất tự nhiên theo
dòng thời gian (lịch đại) làm cho ta rất khó nhận ra nguồn gốc các âm trên :
đến ngay cao đệ của Pháp Sư Huyền Trang là Khuy Cơ còn nhận xét rằng
'Phạn văn Bột Ðà, ngọa lược vân Phật'.
- Sự có
mặt của chữ Bụt dùng bột khá rõ nét trong các tài liệu chữ Nôm xưa như Phú
Dạy Con (Mạc Đỉnh Chi 1280-1350), Cư Trần Lạc Đạo (vua Trần Nhân Tông 1258 –
1308), Vịnh Vân Yên Tự (Hoà Thượng Huyền Quang, 1300) ... Cho tới thời tự
điển Việt Bồ La (Alexandre de Rhodes, 1651) vẫn còn thông dụng như chữ Phật,
nhưng càng ngày càng ít dùng đi và thay bằng chữ Phật. Điều này cho ta cơ sở
đặt ra giả thuyết Bụt đã từng được dùng (phổ thông) ở Việt Nam thời đầu công
nguyên. Ảnh hưởng sâu đậm về sau từ văn hoá ngôn ngữ Hán (nhất là từ thời
Đường Tống phản ánh qua âm trung cổ Phật còn duy trì trong tiếng Việt) làm
mờ nhạt tuy không thể nào xoá hẳn (dù vô tình hay cố ý) các vết tích và đóng
góp của phương Nam vào văn hoá Cổ Á Đông mà ít người ý thức được.
- quan
trọng hơn cả là biến âm b > ph như đã ghi nhận bên trên, và do đó có khả
năng buddha nhập vào tiếng Việt (Cổ) thành *bud- trước, sau đó nhập vào
tiếng Hán thành Bột, Bật và Phất, Phật (âm Hán Trung Cổ). Âm Phật lại nhập
ngược vào tiếng Việt có hệ thống từ thời Đường Tống cũng như đa số các tiếng
Hán Việt khác : quá trình nhập ngược (back-loan) này tương tự như tên gọi 12
con giáp tuy xẩy ra trễ hơn. Cư sĩ Tâm Hà Lê Công Đa cũng từng viết về khả
năng Phật giáo đến Việt Nam trước (chứ không phải từ Trung Quốc qua) - xem
chi tiết bài viết trên mạng
http://www.daophatngaynay.com/english/vietnam/country/005-VietnameseBuddhism.htm
; Học giả Lê Mạnh Thát cũng đề nghị Phật giáo đã đến Việt Nam khoảng thế kỷ
thứ III hay thế kỷ thứ II trước công nguyên - xem thêm tài liệu trên mạng
http://www.thuvienhoasen.org/u-lspgvn1.htm
; Tác giả Nguyễn Lang thì cho rằng khoảng đầu công nguyên thì Phật giáo đến
Việt Nam (trung tâm Luy Lâu) - xem chi tiết trên mạng
http://www.thuvienhoasen.org/vnphatgiaosuluan1-01.htm
. Xem thêm tóm tắt về lịch sử Phật Giáo Việt Nam trên mạng
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_%C4%91%E1%BA%A1o_Ph%E1%BA%ADt_Vi%E1-%BB%87t_Nam
Các giả
thuyết trên về Phật, Phật Đà và Bụt là những đề tài rất lý thú cần được
nghiên cứu cẩn thận và nhiều dữ kiện (xuất thổ)15 để thêm sức
thuyết phục; Chúng nằm ngoài phạm vi của bài viết (phần 1) này. Điều cho ta
thấy rõ ràng là từ các dữ kiện trên, Bụt là dạng cổ (có trước) hơn Phật (âm
Hán trung cổ) tuy cùng một gốc tiếng Phạn, rất phù hợp với quá trình biến
âm tự nhiên của ngôn ngữ.
Các
con đường truyền bá của Phật giáo
(trích từ vi.wkipedia)
![](IMG/BandoBuddha.jpg)
5.
Phụ chú và phê bình thêm
Để dễ cảm
nhận các ý từ bài viết nhỏ này hơn, người đọc nên xem các bài viết sau đây,
xem phần phụ chú này cho các tài liệu đã trích dẫn
- "Từ
Buddha đến Bụt và Phật" tác giả Huỳnh Ngọc Chiến12
- "Bụt hay
Phật" tác giả Phạm Mạnh Lương - Tạp Chí "Thế kỷ 21" số 129 (1/2000)
- "Bụt hay
Phật" tác giả Nguyễn Trọng Phu - Tạp Chí "Thế kỷ 21" số 123 (7/1999)
- "Danh Từ
Bụt" - Sư Cô Chơn Không (Lá Thư Làng Mai Số 25 12/2/2002) - đăng trên mạng
Thư Viện Phật Giáo Hoa Sen
- "Phật"
trên mạng vi.wikipedia địa chỉ
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt
- Chử
Đồng Tử, một trong Tứ Bất Tử, học đạo với sư Phật Quang, đọc thêm chi tiết
trên mạng
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AD_%C4%90%E1%BB%93ng_T%E1%BB%AD
hàm ý là đạo Phật đã có mặt tại Việt Nam thời vua Hùng
1) từ thời
đại tiến bộ và văn minh hơn, nhiều tài liệu (sách vở, phương tiện truyền
thông) về ngôn ngữ trở nên phong phú và chính xác hơn ... Nên khả năng phân
tách dữ kiện thâu nhận khách quan hơn so với trước đây : Ngôn Ngữ Học thường
là một phần của Văn Học, Triết Học ...
2) trích
từ cuốn "An Introduction to Historical Linguistics" tác giả Terry Crowley -
University of Papua New Guinea Press (1987). Định luật Grimm giải
thích rất nhiều trường hợp tương ứng giữa các ngôn ngữ La Tinh, Hy Lạp, Anh,
Pháp ... Nhưng có một số ít trường hợp trong nhánh Germanic phụ âm t
lại không tuân theo luật t >
θ (vô thanh) mà
lại thành ra d (hữu thanh) như
pater
(cha, tiếng La Tinh) fadar (cha, tiếng Gothic) father
(cha, tiếng Anh)
cutis
(da thú, tiếng La Tinh) hide (tiếng Anh)
Haut (tiếng Đức)
...v.v…
Karl
Verner (1875) đã bổ túc cho luật Grimm thêm hoàn hảo với nhận xét là các phụ
âm vô thanh như p, t, k, s có thể biến thành phụ âm hữu thanh b, d, g, z/r
nếu nguyên âm đi trước chúng là trọng âm (stressed vowels). Từ đó ta có thêm
định luật Verner (Verner’s law, Second Consonant Shift) về biến âm trong ngữ
hệ Ấn Âu. Khả năng thuyết phục của các định luật âm thanh này cao đến nỗi
trong ngôn ngữ học còn lưu truyền câu nói 'luật âm thanh không có ngoại
lệ' (sound laws are without exceptions/die Ausnahmslosigkeit der
Lautgesetze). Các luật âm thanh Grimm và Verner đều có thể giải thích được
dạng budh- Phạn so với bụt và Phật và fó fú bó BK (giọng BK Ngô có khuynh
hướng bỏ mất phụ âm cuối) thuộc ngữ hệ Nam Á và Hán Tạng. Học giả Arne
Østmoe đã từng nêu ra nhận xét là luật Grimm có thể đã hiện diện trong một
số chữ Thái (Cổ, proto Tai-Kadai) mượn từ tiếng Germanic, cũng như qua tiếng
Hán (Cổ) - xem bài viết "A germanic-Tai Linguistic Puzzle" của Arne Østmoe
trong tập Sino-Platonic Papers, 64 (January 1995).
3) mức độ
phổ thông của thành ngữ này phản ánh qua cách dùng trong tiếng Việt : ngay
cả một người không biết chữ (chưa kể đến việc biết chữ Hán, Nôm ...) mà vẫn
thấy dùng thành ngữ khẩu Phật tâm xà này rất là ‘chuẩn’
4) theo
"Tự Điển Đồng Nguyên Việt & Đông Nam Á" Nguyễn Hy Vọng (California, 2006)
5) còn có
nghĩa là giống như, tự(a) hồ (as if, be alike) trong tiếng Hán - tiếng Việt
không ai nói "cô ấy làm việc phảng phất như không biết mệt". Ngoài ra
âm cổ của Phật
佛thường được ghi nhận
trong các tự điển Trung (Hoa) là
古代音韻與現代拼音對照 Cổ đại âm
vận dữ hiện đại bính âm đối chiếu
[
廣 韻 ]
符弗切,入8物,fú,臻合三入文並
[ Quảng
Vận ] phù phất thiết , nhập 8 vật ,fú, trăn hiệp tam nhập văn
tịnh
[
平水韻 ]
入聲四質·入聲五物
[ Bình
thủy vận ] nhập thanh tứ chất _ nhập thanh ngũ vật
[
唐 音
] bhiət
[ Đường âm
] bhi?t - để ý âm thời Đường có dạng *biêt (so với biết
tiếng Việt)
[
國 語 ]
fó,fú
[ Quốc
ngữ/BK ] fó,fú
[
粵 語 ]
bat6fat1fat6
[ Việt ngữ
] bat6fat1fat6
[
閩南語 ]
hut8,put8
[ Mân Nam
ngữ ] hut8,put8
trích từ
http://tool.httpcn.com/Html/KangXi/21/PWAZKOCQUYILFUYB.shtml ]
Các cách
viết cổ (dị thể) của chữ Phật - trích từ tự điển dị thể trên mạng
http://dict.variants.moe.edu.tw/eng.htm
…v.v…
Chữ Phật
佛
này là phổ thông nhất trong các cách viết với tần số dùng là 108885 trên
434717750 (so với chữ nhất 一 rất thông dụng với
tần số dùng là 6336632 trên 434717750).
6) trích
"Từ Điển Phật Học Hán Việt" NXB Khoa Học Xã Hội - Hà Nội (1998). Chỉ có một
cụm từ bud-dha
बुद्ध
của tiếng Phạn mà ta có các dạng phiên âm và phiên nghĩa liên hệ như liệt kê
dưới đây (xem thêm chi tiết từ các trang mạng
http://www.acmuller.net/soothill/soothill-hodous.html
hay
http://zh.wikipedia.org/wiki/%E4%BD%9B
)
Bộ Đa 部多
Bộ Đà 部陀
Bột Đà 勃
陀/勃
馱/馞
陀
Bộ Tha 步
他
Hưu Đồ 休
屠
Mẫu Đà 母
陀
Một Đà 沒
馱/没陀
Phật Đà 佛陀/佛
馱
Mẫu đà
母陀
Phật 佛
Yêu
仸
Phật Đồ 佛圖
Phí Đà 沸
馱
Phù Đà 浮
陀
Phù Đầu 浮
頭
Phù Đồ 浮
屠/浮
圖
Phù Tháp 浮
塔
Phục Đậu 復豆
Vật Tha 物
他
Vô Đà 毋陀
Giác giả
覺
者
Giác ngộ
giả
覺悟者
…v.v…
Đấy là
không kể các từ phiên âm từ tiếng Phạn khác như Già Phạm (Bà Già Phạm, một
trong các danh hiệu của đức Phật) ... Hay các dạng dịch nghĩa như Giác
Hoàng, Giác Vương, Nhân Vương, Ngưu Vương, Tri Giả, Giác, Trí ... Hay những
tên gọi khác của Phật như Như Lai, Đại Giác ...v.v...
Các dạng
phiên âm trên đều tuân theo định luật vật lý (âm thanh) nhất định như
b/ph-v-m (phụ âm đầu) chứ không phải là ngẫu nhiên thành hình! Bảng tóm tắt
trên giải thích được phần nào hiện tượng vốn từ Hán tăng vọt khi tiếng Phạn
(qua kinh Phật, đạo Phật) nhập vào văn hoá Trung Quốc. Ngoài ra các cách
phiên âm tiếng Phạn buddha như trên còn phản ánh các cách đọc địa phương
(yếu tố không gian/địa lý) và sự thay đổi về cách đọc qua những thời đại
(yếu tố thời gian).
Chữ già
伽 cũng dùng để chỉ Phật đặc biệt
trong tiếng Nhật - có thể đây là trường hợp mở rộng nghĩa của các dạng phiên
âm tiếng Phạn như tăng già, già lam, na già ... Còn một chữ nữa để chỉ Phật
là yêu
仸 (jiu2 giọng Quảng Đông, yao3
giọng Bắc Kinh bây giờ -
於兆切,音夭 ư triệu thiết, âm yêu -
theo Quảng Vận, Tập Vận - trích Khang Hy - yêu còn cách đọc nữa là fó BK hay
PHẬT) : đây cũng là một trong nhiều dị thể của chữ Phật như
仏 (xem bảng các chữ dị thể của
chữ Phật ở trên). Yêu mang nghĩa tiêu cực như yếu đuối, méo mó, cong vẹo
...v.v... Có thể yêu/Phật
仸 là dạng phiên âm Bụt của Mân
Việt (gồm các giọng Triều Châu/Tiều hay một phần ở Quảng Đông, một phần Hải
Nam, Đài Loan); Giọng Mân Việt có khuynh hướng hầu hoá (âm b/p thành h) nên
Bụt trở thành hut8 - hay đọc như húc
旭 hiok8 (Triều Châu). Theo Ngọc
Thiên
玉篇 thì
仸 :
乙
小
切,
旭
也 ất tiểu thiết, húc dã ... Cách
dùng chữ húc cũng có cơ sở giải thích dựa vào phạm trù nghĩa của húc : ánh
sáng mặt trời khi mới ló dạng (chỉ đức Phật hay đấng giác ngộ, hết vô minh
...). Các dạng đọc phương Nam như Bụt Bột Hut8 ... đều bị đào thải để thay
bằng âm Phật (fó BK). Chữ yêu
仸 (Phật) có mặt trong Phật Thuyết
Đại Báo Ân Trọng Kinh, Phan Trần truyện, Thiên Nam Ngữ Lục ... cho đến thời
Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương. Theo ý kiến bạn Nguyên.Ng trên diễn đàn Viện
Việt Học (10/8/2009) thì yêu仸có
thể là một dạng phiên âm của Gautama hay Kiều Đáp Ma
喬答摩 giản thể
乔答摩. Để ý kiều
嬌 có nghĩa là mềm mại (so với ẻo
lả, yêu/yểu仸).
Nguồn gốc chữ này và tại sao lại hiện diện rất sớm trong giai đoạn hình
thành chữ Nôm rất đáng chú ý và cần được nghiên cứu thêm để soi sáng quá
trình cấu tạo chữ Nôm cũng như đóng góp của phương Nam vào vốn từ Hán (Cổ).
7) GS
Nguyễn Tài Cẩn ghi nhận biến âm b > ph trong cuốn "Một số vấn đề chữ Nôm"
trang 99, 104 ... NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp (Hà Nội - 1986);
Trong cuốn "Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt" trang 137,
178 ... NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội (bản in 2004).
8) GS Lê
Văn Quán ghi nhận biến âm b > ph, và còn khẳng định buồm là âm cổ của phàm
帆mà ta không biết (tưởng
đọc theo nghĩa)... trong cuốn "Nghiên cứu về chữ Nôm" trang 110 ... NXB Khoa
Học Xã Hội (Hà Nội 1981).
9)
phạm/phạn
梵 nghĩa nguyên thuỷ là cây cỏ
sinh tươi (phồn thịnh). Từ thời đạo Phật nhập vào Trung Quốc thì nghĩa này
bị đào thải và đổi thành tên nước Ấn Độ, Phật giáo, thanh tịnh, tụng (niệm
Phật) ... Tương tự như trường hợp chữ Phật, nghĩa nguyên thuỷ đã mất đi sau
khi được dùng làm ký âm tiếng Phạn. Bồ
菩nghĩa nguyên thuỷ là
một loài cỏ (Thuyết Văn Giải Tự), được dùng để phiên âm trong kinh Phật; Thí
dụ như Bồ tát 菩薩
là tên viết tắt của
Bồ-đề-tát-đóa
菩薩薩埵 (phiên âm tiếng Phạn
bodhisattva
बोधिसत्त्व).
Phật
佛nghĩa nguyên thuỷ là
giúp, phụ (như bật
弼, trích “Từ Nguyên”,
Bắc Kinh, NXB Thương Vụ Ấn Thư Quán, 2004), nhưng từ khi Phật giáo nhập vào
Trung Quốc t này được dùng để ký âm Phật (Đà) và nghĩa cổ hơn từ từ
đào thải đồng thời với sự bành trướng của đạo Phật.
10) Thời
Đông Hán, hai âm phóng và phòng đọc giống nhau (giống âm phương) - như Hứa
Thận đã ghi nhậrong Tết Văn Giải Tự
Phòng
室在旁也從戶方聲 Thất tại bàng dã tòng hộ
phương thanh
Phóng
逐也從攴方聲
Trục dã tòng phốc/phác
phương thanh
11) Bể
(biển) là một trường hợp cho thấy âm trung cổ vẫn còn duy trì phụ âm môi tắc
b/p nhưng khi nhập vào tiếng Việt thì theo khuynh hướng trở thành ph- . Bể
là âm cổ hơn so với pha HV陂(theo
HV Tự Điển của Nguyễn Văn Khôn, Thiều Chửu ghi thêm các dạng bi, bí). Âm
trung cổ của pha là [Đường Vận ] bỉ vi thiết [ Tập Vận ] [ Vận Hội ] ban mi
thiết [ Chánh Vận ] bô my thiết; Các giọng BK, Ngô, Hẹ, Quảng Đông ... vẫn
duy trì phụ âm đầu b/p; Chỉ có âm HV là pha và âm (Hán) Hàn là phi, âm (Hán)
Nhật là ha, hi (hầu hoá). Pha còn cho ra dạng phá và trở thành bất tử qua ca
dao
Thương
em anh cũng muốn vô
Sợ
truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Bình
平
(píng BK) có các cách đọc trung
cổ
[ Đường
Vận ] phù binh thiết [ Tập Vận ] [ Vận Hội ] bồ binh thiết [ Chánh Vận ] bồ
minh thiết : âm bình ... [ Vận Hội ] bì mệnh thiết , âm bệnh (音病).
Các giọng BK, Ngô, Hẹ, Quảng Đông ... vẫn duy trì phụ âm đầu p; Các biến âm
của bình là bằng, phẳng (b>ph) cũng như âm (Hán) Hàn phyeng, âm (Hán) Nhật
đã hầu hoá thành hei, hyou (nhưng đôi lúc vẫn còn dùng dạng ben) - tiếng
Thái vẫn duy trì phụ âm đầu môi tắc hữu thanh b qua dạng baen
แบน
. Tác giả Axel Schuessler trong "ABC Etymological Dictionary of Old Chinese"
(2007) phục nguyên âm thượng cổ của bình là *breng so với một dạng cổ
khác là *bieng
[
上古音 ]:耕部并母,
bieng
http://tool.httpcn.com/Html/KangXi/25/PWILCQMERNUYEMEKO.shtml ]
Cách dùng
từ ghép bằng phẳng, buồn phiền, bè phái
... đáng chú ý vì thứ tự chữ (chính trước phụ sau) cũng là cánh cửa hé
mở cho thấy phụ âm b- hiện diện trước phụ âm ph- (không nghe ai nói phẳng
bằng, phái bè hay phiền buồn cả)
Các dữ
kiện này cũng chứng tỏ tương quan b-ph và chiều biến âm từ phụ âm b- thành
ra phụ âm ph-
12) Bài
viết "Từ Buddha đến Bụt và Phật" của tác giả Huỳnh Ngọc Chiến đăng trên mạng
talawas (25/7/2008) ghi lại nguồn tài liệu "Phật giáo học thuật luận văn
tập" tác giả Quý Tiến Lâm, NXB Đông Sơ xuất bản xã, Đài Bắc (1996). Hồi Hột
là tên gọi một nước (616-840) ở phía bắc Trung Quốc, giúp nhà Đường giẹp
loạn An Lộc Sơn ... Hồi Hột
回紇 chỉ là một tên gọi (chủng tộc
Urghur) trong nhiều tên gọi khác như Hồi Cốt, Ô Hộ, Ô Hột, Vị Hột, Dụ Cố,
Đinh Linh, Thiết (Sắt) Lặc, Viên Hột, Uý Ngột Nhi Đẳng, Đuy Ngô Nhĩ
...v.v... Các học giả TQ thường có 'khuynh hướng' khảo sát nguồn gốc tên
Phật, 12 con giáp ... từ phương tây (thạch động Đôn Hoàng) hay phương bắc
(Hồi Hột) vì nhiều lý do!
13) Bài
viết bằng tiếng Anh chứng minh từ đơn tiết Phật và song tiết Phật Đà nhập
vào Trung Quốc qua các ngã khác nhau, dựa vào tài liệu lịch sử và kinh Phật;
Chủ đề bài viết là "On the oldest Chinese transliterations of the name
Buddha"
14) Bột
勃 đọc là bó, bèi (giọng BK), but6
(giọng Quảng Đông), put8 (Hẹ, Đài Loan), pud8 [ khách ngữ bính âm tự vị ]
... So với âm (Hán) Hàn pal, âm (Hán) Nhật bitsu, hotsu. Bột nghĩa là chợt,
thốt nhiên, đột nhiên, bừng lên ... 'Bất thình lình', 'bất
chợt’ - theo thiển ý bất là một dạng biến âm của bột; Không phải ngẫu
nhiên mà hốt
忽 (âm vật) cũng có nghĩa là bất
chợt. Bồng bột nghĩa nguyên thuỷ là bừng lên (lên ùn ùn, bừng lên rực rỡ
xanh tươi) nhưng tiếng Việt hiện tại lại mang nghĩa hơi khác (làm việc không
suy nghĩ cẩn thận).
15) như
tháp tưởng niệm hai vị sư Sona và Uttara (vua A Dục/Asoka
अशोक
gởi đi hoằng pháp, thế
kỷ thứ III trước công nguyên) ở Hải Phòng; Bia Võ Cảnh viết bằng chữ Phạn ở
Nha Trang (thế kỷ thứ II); Các di tích tìm thấy ở Óc Eo, Sa Huỳnh ... đều
cho ta kết luận rằng lãnh thổ Việt Nam đã từng là khu vực nhộn nhịp giao
thương với Ấn Độ vào thời Hán.
(xem phần 2
®)
Các bài khác trong đề tài nghiên cứu về chữ cổ Việt Nam:
- Một văn bản chữ cổ của người Pà Thẻn (Trần Vân Hạc)
- Chữ Viết Khoa Đẩu Duy Nhất Trên Đá Cổ Sa Pa (Trần Vân Hạc)
- Người Lắng Thầm Tìm Con Chữ Việt Cổ (Trần Vân Hạc)
- Vài nét về tiến trình của chữ Quốc ngữ (Trần Vân Hạc)
- Công Trình Chữ Việt Cổ Của Giáo Sư Lê Trọng Khánh (Trần Vân Hạc)
Những bài nghiên cứu cùng tác giả:
BỤT HAY PHẬT ? phần 2A (Nguyễn Cung Thông)
BỤT HAY PHẬT? phần 1 (Nguyễn Cung Thông)
Bụt hay Phật ? phần 3 (Nguyễn Cung Thông)
Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp (Nguyễn Cung Thông)
Tản mạn về cõi Đâu Suất và lý thuyết tương đối -1 (Nguyễn Cung Thông)
Tứ Diệu Đế (Nguyễn Cung Thông)