|
đăng ngày 02 tháng
10, 2009
|
Toàn tập: 1 2 3 4
(Phần III)
Nguyễn Huệ Nhật
Trong Phần I, tôi đã chứng minh thực chất của
Tin Lành Lê Anh Huy chỉ là một trí thức dỏm, cuồng tín, kiến thức thấp kém
v..v... Trong Phần II, tôi đã phê bình vài đoạn của Tin Lành Huỳnh Thiên
Hồng và chứng tỏ đầu óc của Huỳnh Thiên Hồng thì đồng loại với đầu óc của Lê
Anh Huy. Trong Phần III này, tôi muốn nói đến Nguyễn Huệ Nhật. Về Nguyễn
Huệ Nhật thì tư cách của ông ta không nên bàn tới. Tự nhận là tu theo Phật
Giáo trong 15 năm, bỏ Phật Giáo theo Tin Lành rồi quay lại bài bác Phật Giáo
và đánh bóng Tin Lành. Về phương diện trí thức, nếu Nguyễn Huệ Nhật bài bác
Phật Giáo đúng và đánh bóng Ki-tô giáo đúng thì không nói làm gì. Nhưng vì
kiến thức của Nguyễn Huệ Nhật về đạo Phật cũng như về Ki-tô giáo thật là quá
tệ, vô cùng hời hợt, cùng loại với Lê Anh Huy và Huỳnh Thiên Hồng, cho nên
những gì ông ta viết về đạo Phật cũng như Ki-tô giáo chỉ có tác dụng làm cho
độc giả thấy rõ trình độ và con người của ông ta, một trình độ vô trình độ,
và một con người không có tư cách của con người. Đây là điều rõ ràng nhất
trong những bài viết của Nguyễn Huệ Nhật.
Tôi không đặt vấn đề Nguyễn Huệ Nhật hay bất cứ ai bỏ
đạo Phật, vì tôi cho đó là quyền tự do tín ngưỡng của con người. Nhưng sau
khi đọc những bài của Nguyễn Huệ Nhật tôi cảm thấy Nguyễn Huệ Nhật bỏ đạo
Phật là một điều rất đáng mừng cho Phật Giáo. Vì nếu ông ta ở lại đạo Phật
và lên làm Tăng Sĩ Phật Giáo, thì với kiến thức và tư cách như vậy ông ta
chỉ dẫn Phật tử đi vào ma đạo.
Để chứng minh, chúng ta hãy điểm qua một vài câu của
Nguyễn Huệ Nhật viết về đạo Phật cũng như về Ki-tô giáo để chứng minh kiến
thức của Nguyễn Huệ Nhật về cả hai tôn giáo đều thuộc loại vô trình độ, bất
kể là ông ta tự nhận là đã tu theo Phật Giáo trong 15 năm và sau đó đã nhận
được hồng ân Thiên Chúa của Tin Lành và nghe đâu, vì vài bài viết thuộc loại
nô lệ Kinh Thánh, đã được ban chức Mục sư của Tin Lành. Mừng cho Tin Lành
đã tuyển mộ được một Mục sư như Nguyễn Huệ Nhật. Tội nghiệp cho các tín đồ
Tin Lành đã có một Mục sư như Nguyễn Huệ Nhật.
Trước hết là vài câu về Phật Giáo.
Nguyễn Huệ Nhật viết về quyết định xuất gia của Đức Phật như sau trong bài
có đầu đề “Các Bạn Phật Tử Thân Mến”:
“Đã là con người thì không ai tuyệt
đối thánh khiết vô tội cả. Đã là con người thì ai ai cũng mong ước được
hoàn hảo. Chính Thái tử cũng mong cho mình như thế. Ngài thao thức về chân
lý. Ngài muốn tìm cho ra lẽ đạo huyền vi mầu nhiệm. Ngài muốn biết nguyên
nhân nào đã đưa nhân loại đến tình trạng tranh chấp chém giết lẫn nhau để
phải chuốc lấy khổ đau giữa thế gian này...”
Chúng ta có thấy ai viết bậy về đạo Phật
như Nguyễn Huệ Nhật chưa? Một Phật tử tầm thường, không cần phải tu 15 năm
(sic) như Nguyễn Huệ Nhật tự nhận, cũng biết rằng Đức Phật xuất gia là tìm
giải đáp cho những phiền não của chúng sinh qua ba cảnh Thái tử đích thân
chứng kiến: bệnh tật, già yếu, chết chóc, và động cơ thúc đẩy sự xuất gia
của Đức Phật là vẻ siêu thoát, thong dong, từ tốn của người tu hành và Người
đã chọn con đường đi tìm chân lý giải thoát trong cuộc đời tu hành. Cuối
cùng Người đã giác ngộ, tìm ra chân lý, sau 6 năm tích cực sống trong cuộc
đời của người xuất gia. Còn chúng ta “muốn biết nguyên nhân nào đã đưa
nhân loại đến tình trạng tranh chấp chém giết lẫn nhau để phải chuốc lấy khổ
đau giữa thế gian này...” thì dễ thôi. Đó chính là do sự ngu dốt,
ác độc của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo như được viết rõ trong cuốn gọi là Kinh
Thánh của Ki-tô Giáo, và tất nhiên, của những tôi tớ ngu dốt, ác độc của
Thiên Chúa ngu dốt, ác độc này”. Thật vậy, chúng ta chỉ cần mở cuốn Kinh
Thánh của Ki-tô Giáo ra đọc, và đọc lịch sử của Ki-tô Giáo từ ngày ra đời
đến nay, thì thấy tất cả giải đáp nằm trong đó. Có cần tôi phải chứng minh
không?
Một câu khác viết láo lếu về Phật Giáo
của Nguyễn Huệ Nhật như sau:
“Phật Giáo Việt Nam không phải là Phật Giáo chính
cống. Tôi chưa thấy Phật Giáo chính cống. Thế nên tôi từ bỏ họ mà không
tiếc gì cả.”
Phải chăng Nguyễn Huệ Nhật đã biết tất
cả về Phật Giáo Việt Nam và thế nào là Phật Giáo chính cống nên biết là
“Phật Giáo Việt Nam không phải là Phật Giáo chính cống.”? Phật Giáo Việt
Nam có bao nhiêu tông phái, bao nhiêu Tăng, Ni, Phật tử, ở bao nhiêu miền,
bao nhiêu Tỉnh ở Việt Nam? Một người tu 15 năm mà còn không biết đến lịch
sử xuất gia của Đức Phật thì làm sao có thể biết được thế nào là Phật Giáo
chính cống? Vả chăng, nếu đã biết thế nào là Phật Giáo chính cống thì tại
sao Huệ Nhật lại không tu theo Phật Giáo chính cống?. Có phải là Huệ Nhật
chỉ viết càn, viết bậy hay không? “Họ” là ai ở đây? Là Phật Giáo Việt Nam
hay Phật Giáo chính cống? “Họ” chỉ người hay chỉ Phật Giáo? Viết một câu
mà không biết cả cách dùng từ, chẳng thành văn, vô nghĩa, tổng quát hóa vấn
đề một cách vô trách nhiệm v..v.. mà cũng đòi lên mặt phê bình Phật Giáo,
thật không biết đến liêm sỉ là gì.
Chúng ta hãy đọc một câu khác bắt nguồn
từ cái đầu óc bệnh hoạn của Nguyễn Huệ Nhật viết trả lời Trần Duy Phô:
“TDP chứng minh dùm tôi các vị thiền
tổ như ngài Hoằng Nhẫn, Huệ Năng, Thần Tú đã chứng ngộ thiền được không?”
Tự nhận là tu theo Phật Giáo trong 15
năm mà đặt một câu hỏi hết sức ngớ ngẩn. Chứng minh để làm gì? Trong Phật
Giáo, ai tu người ấy chứng. Người khác có chứng ngộ thiền hay không, chẳng
liên quan gì đến sự tu tập của bản thân. Trong cuốn Từ Áo Cà Sa Đến Thập
Tự Giá Nguyễn Huệ Nhật đã từng thú nhận là vì thấy vài tu sĩ Phật Giáo
khác không tu, và điều này cũng chỉ là ý kiến cá nhân của Nguyễn Huệ Nhật,
nên mình cũng không tu. Nguyễn Huệ Nhật cần ngó vào người khác để bắt chước
theo. Nay Nguyễn Huệ Nhật thấy người khác tin nhảm tin nhí vào đạo Tin
Lành nên bèn bắt chước theo, cũng đi tin nhảm tin nhí vào Tin Lành. Điều
này thật là rõ rệt, khi chúng ta đọc những điều ông ta viết về Ki tô Giáo.
Trên đây chỉ là vài điều Nguyễn Huệ Nhật
viết láo lếu về Phật Giáo trong số nhiều điều láo lếu khác. Trong bài này
tôi không có ý định giảng cho Nguyễn Huệ Nhật về Phật Giáo, vì tự nhận là 15
năm “tu theo Phật Giáo” mà Nguyễn Huệ Nhật chẳng học được cái gì của Phật
Giáo, thì chuyện giảng giải Phật Pháp cho Nguyễn Huệ Nhật là cả một chuyện
phí công, vô ích. Đầu óc thuộc loại hạ căn như của Nguyễn Huệ Nhật thì chỉ
thích hợp với Tin Lành. Vì Nguyễn Huệ Nhật theo Tin Lành nên tôi nghĩ tốt
hơn là giảng cho Nguyễn Huệ Nhật về chính đạo Tin Lành của ông ta.
Điều rõ ràng là không những viết bậy về
Phật Giáo mà Nguyễn Huệ Nhật còn viết bậy về Ki-tô Giáo rất nhiều. Điều này
chứng tỏ kiến thức tôn giáo của Nguyễn Huệ Nhật thuộc loại vô trình độ, vô
cùng hời hợt, sản phẩm của một khuôn đúc ngu dân của Tin Lành, một khuôn đúc
đã tạo ra những mẫu người giống nhau về trình độ hiểu biết tôn giáo như Lê
Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng, Nguyễn Huệ Nhật v..v..., một trình độ mà theo Mục
sư Ernie Bringas, thuộc thế kỷ 17, luôn luôn phát dị ứng với những tiến bộ
của nhân loại. Chứng minh?
Huệ Nhật viết bậy rất nhiều, ở đây tôi chỉ đưa ra
vài điều điển hình và chúng ta sẽ thấy những người Tin Lành cuồng tín như Lê
Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng và Nguyễn Huệ Nhật thật giống nhau ở điểm cùng có
một luận điệu truyền đạo rất ấu trĩ, lỗi thời, hoàn toàn vô nghĩa trong thời
đại ngày nay, phản ánh một trình độ hiểu biết quá sơ đẳng về chính Ki-tô
Giáo. Chúng ta hãy nghe Nguyễn Huệ Nhật nhắc lại như con vẹt những điều Tin
Lành dạy cho ông ta:
“Nhân loại vốn sinh ra trong vực sâu
tội lỗi. Chúng ta cần được cứu ra khỏi tội lỗi, cần được ơn tha thứ của đức
Chúa trời. Những ai chưa trở về tiếp nhận ơn cứu rỗi của đức Chúa trời thì
vẫn còn mò mẫm trong sai lầm...
Khi thắc mắc về Thượng đế và Kinh
Thánh, chúng ta cần xem Kinh Thánh kỹ hơn để biết trong đó nói gì. Kinh
Thánh cho chúng ta thấy rằng: Đức Chúa trời dựng nên thế gian với đầy đủ mọi
thứ. Sau cùng Ngài dựng nên loài người và ban cho họ quyền quản trị thiên
nhiên để họ làm ích lợi cho mình...
Nhưng theo Kinh Thánh thì Thượng đế
dựng lên muôn vật. Ngài là đấng tạo hóa hằng hữu, loài người là loài thọ
tạo duy nhất được Ngài ban cho hình ảnh của Ngài.
Đọc những đoạn đầu trong sách Sáng Thế Ký, chúng
ta có thể tin và cũng có thể không tin. Nhưng dù tin hay không tin, suốt
nhiều ngàn năm tri thức nhân loại không ai có thể chứng minh ngược lại để
bài bác một cách cụ thể”
Chúng ta thấy ngay sự hiểu biết của Nguyễn Huệ Nhật
về thế giới ngày nay thuộc loại hiểu biết của những tín đồ Ki-tô ngu dốt ở
Âu Châu trong thời đại đen tối trí thức (dark ages) hay thời đại Trung Cổ.
Những câu tôi trích dẫn của Linh mục James Kavanaugh, Mục sư Tin Lành Ernie
Bringas và Giám Mục Tin Lành John Shelby Spong trong Phần I và
Phần II của loạt bài về Hiểm Họa Tin Lành tưởng cũng đủ để dạy
cho Nguyễn Huệ Nhật một bài học về những điều hoang đường thuộc nền thần học
Ki-tô giáo như: sinh ra trong tội lỗi, ơn tha thứ của Dê-su, và thuyết sáng
tạo trong Kinh Thánh.
Tuy nhiên, để khai sáng đầu óc của Nguyễn Huệ Nhật
một chút thôi, nếu trong đầu óc của ông ta còn chỗ để có thể được khai sáng
sau khi đã bị cái bả Tin Lành làm cho mụ mị, tôi xin đặt vài vấn đề với
Nguyễn Huệ Nhật.
Trước hết, Nguyễn Huệ Nhật viết: “Sau cùng Ngài
(Thượng đế) dựng nên loài người và ban cho họ quyền quản trị thiên
nhiên để họ (sic) làm ích lợi cho mình...”
Một câu hỏi được đặt ra là: Có thật là
loài người có “quyền quản trị thiên nhiên để họ làm ích lợi cho
mình...” không? Nguyễn Huệ Nhật hiểu “thiên nhiên” như thế nào? Nói
riêng về trái đất, loài người đã quản trị những trận bão lụt, cuồng phong,
sóng thần, động đất, các dã thú, siêu vi trùng v..v.. để “họ làm
ích lợi cho mình” như thế nào? Mặt khác, thiên nhiên không chỉ là
trái đất và những hiện tượng xảy ra trên trái đất, mà còn gồm cả vũ trụ
rộng khoảng 13.7 tỷ năm ánh sáng trong đó có khoảng 100 tỷ thiên hà, mỗi
thiên hà có hàng trăm tỷ ngôi sao v..v.. Vậy loài người quản trị “thiên
nhiên” như thế nào? Có làm ngưng được sự đang nở rộng của vũ trụ, có thay
đổi được nhiệt độ trên trái đất để trên Bắc Cực thì ấm, ở đường xích đạo thì
mát v..v.. hay không? Nguyễn Huệ Nhật chép trong Kinh Thánh ra điều mê
tín, hoang đường, ngớ ngẩn của thời bán khai mà thực sự không biết là mình
đang nói cái gì.
Nguyễn Huệ Nhật tin tất cả vào Kinh Thánh, nhưng lại
không biết rằng Kinh Thánh chỉ là sản phẩm của những đầu óc chưa mở mang,
chứa đầy sự mê tín trong thời đại chưa khai hóa (A product derived from
primitive superstitions), do đó đã không còn mấy giá trị trong thế giới văn
minh tiến bộ, cho nên cứ luôn luôn viện dẫn Kinh Thánh, làm như những điều
viết trong Kinh Thánh phải có giá trị tuyệt đối, không thể sai lầm, không hề
biết đến nhân loại đã ra khỏi, bỏ lại đàng sau Thời Đại Của Đức Tin
(The Age of Faith = Thời Trung Cổ) để bước sang những Thời Đại Của Lý Trí
(The Age of Reason = Thế kỷ 17), Thời Đại Cách Mạng Khoa Học (The Age
of Scientific Revolution = Thế kỷ 17-18), Thời Đại Khai Sáng (The Age
of Enlightenment = Thế kỷ 18), Thời Đại Của Hệ Tư Tưởng (The Age of
Ideology = Thế Kỷ 19), và Thời Đại Phân Tích (The Age of Analysis =
Thế Kỷ 20). Những thời đại sau này, đặc biệt là thuyết Tiến Hóa của
Charles Darwin vào giữa thế kỷ 19 và những hoàn chỉnh của thuyết này trong
các bộ môn khoa học trong vòng 150 nay, đã bác bỏ mọi luận điệu thần học
của Ki-tô giáo về sự hiện hữu của một Thiên Chúa, về thuyết sáng tạo trong
Kinh Thánh, về công cuộc chuộc tội và cứu rỗi của Dê-su Ki Tô, và tước đoạt
mọi quyền lực thế tục của Ki-tô Giáo, thu hẹp Ki-tô Giáo trong những ốc đảo
mê tín lỗi thời, điển hình là tài sản đất đai rộng lớn của Ca-tô Giáo Rô-ma
ở Âu Châu đã bị thu hẹp lại trong một diện tích bằng hai cái sân chơi banh,
phạm vi của Vatican và Thánh Đường Phê-rô ngày nay, mười điều răn của
Thượng đế Ki-tô không được phép trưng bày trong những nơi công cộng, thuyết
Sáng Tạo không được phép dạy song song với thuyết Tiến Hóa trong các trường
công lập v...v... Nguyễn Huệ Nhật thật đúng là một loại ếch ngồi đáy giếng,
coi trời bằng vung.
Với những công cuộc khảo cứu hiện đại nhất về nhân
vật Dê-su và với những kết quả khoa học không ai có thể phủ bác, kể cả tòa
thánh Vatican, về nguồn gốc vũ trụ và con người, thì con người không sinh
ra trong vực sâu tội lỗi, không cần đến sự "cứu rỗi" đầy tính hoang đường và
huyễn hoặc của nền thần học Ki Tô Giáo dựng lên. Trong Phần II tôi đã
luận về cái gọi là “ơn cứu rỗi” trong Ki Tô Giáo. Ngày nay chỉ còn những
kẻ “ngụp lặn trong ngu si, cuồng tín, mò mẫm trong sai lầm” mới cần được cứu
ra khỏi tội lỗi, cần được ơn tha thứ của đức Chúa trời, và “trở về (sic)
tiếp nhận ơn cứu rỗi của đức Chúa trời”. Hơn 4 tỷ người trên thế giới
chưa bao giờ quan tâm đến điều mê tín của thời bán khai mang nhãn hiệu “ơn
cứu rỗi”. Tại sao? Bởi vì lịch sử thế giới đã chứng minh rằng:
Những ai chưa trở về tiếp nhận ơn cứu rỗi của đức Chúa trời thì vẫn còn có
đầu óc lành mạnh , sáng suốt. Trái lại, những ai “đã “trở
về (sic) tiếp nhận ơn cứu rỗi của đức Chúa trời” thì tiếp tục có đầu óc mụ
mị mò mẫm trong sai lầm... Lịch sử các cuộc Thánh Chiến, Tòa án xử
dị giáo, săn lùng thiêu sống phù thủy (sic) và những kẻ lạc đạo (heretics)
của Ca-tô Giáo Rô Ma; những cuộc cưỡng ép thổ dân cùng thiêu sống thổ dân Mỹ
của Tin Lành; chính sách truyền đạo ngu đần vô đạo đức của Ca-tô và Tin
Lành; và những cuộc chiến tranh triền miên giữa Ca-tô, Tin Lành, Chính
Thống, Hồi Giáo, Do Thái Giáo là những bằng chứng hùng hồn nhất để chứng
minh là những kẻ “đã “trở về (sic) tiếp nhận ơn cứu rỗi của đức Chúa
trời” thì vẫn còn tiếp tục “ mò mẫm trong sai lầm..”
Ai có thể xóa bỏ được những lời nói, hành động ác ôn của Thiên Chúa,
Chúa Cha cũng như Chúa Con, trong Kinh Thánh Ki-tô Giáo? Ai có thể xóa bỏ
được lịch sử ác độc, đẫm máu của Ki-tô Giáo, tập đoàn của những người đã
tiếp nhận “ơn cứu rỗi” của đức Chúa trời? xin lên tiếng!!!
Nguyễn Huệ Nhật viết: Nhưng theo Kinh
Thánh thì Thượng đế dựng lên muôn vật. Nếu thật quả như vậy thì thật
là tội nghiệp cho Thượng đế vì ông ta đã tạo nên những mẫu người như Nguyễn
Huệ Nhật. Ở đây, để bình luận về điều mê tín của Nguyễn Huệ Nhật trong
Kinh Thánh: “Nhưng theo Kinh Thánh thì Thượng đế dựng lên muôn vật”
tôi tưởng nhắc lại một đoạn trong Phần I cũng không phải là vô ích:
James A. Haught đã đưa ra một nhận định bất khả phủ bác
trong cuốn 2000 years of disbelief: famous people with the courage to
doubt, trang 324, như sau, về Thượng đế của Nguyễn Huệ Nhật:
Qua luận lý, chúng ta có thể thấy... Nếu có
một đấng thần linh sáng tạo ra muôn loài thì ông ta đã làm ra ung thư vú
cho phái nữ, bệnh hoại huyết cho trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí
nhớ (alzheimer), và hội chứng down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh
cho những con cáo cắn xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết
những hươu nai. Không có một con người nào độc ác đến độ hoạch định những
sự khủng khiếp như vậy. Nếu một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là
một con ác quỷ...
(Through logic, you can see that... If a divine
maker fashioned everything that exists, he designed breast cancer for women,
childhood leukemia, leprosy, aids, alzheimer's disease, and down's
syndrome. He madated foxes to rip rabbits apart and cheetahs to slaughter
fawns. No human would be cruel enough to plan such horrors. If a
supernatural being did so, he's a monster...)
Vậy thì, nếu Nguyễn Huệ Nhật tin rằng Thượng đế của
ông ta trong Kinh Thánh dựng lên muôn vật thì Nguyễn Huệ Nhật cũng phải tin
Thượng đế của ông ta chính là một ác quỷ. Ngoài ra, Nguyễn Huệ Nhật cũng
phải tin là Thiên Chúa hay Chúa Trời nhân từ, lòng lành của Nguyễn Huệ Nhật
đã có những hành động điển hình sau đây, hoặc là đích thân ra tay, hoặc đích
thân chỉ huy, hoặc là ra lệnh cho tôi tớ làm:
- Thiên Chúa đòi hỏi và chấp nhận giết người
để tế Thiên Chúa (Leviticus 27; Judges 11; 2 Samuel 21).
- Thiên Chúa giết đứa con đầu lòng trong mọi
gia đình Ai Cập (Exodus 12)
- Thiên Chúa chấp nhận nô lệ (Exodus 21;
Leviticus 25)
- Thiên Chúa chấp nhận việc bán con gái làm nô
lệ (Exodus 21)
- Thiên Chúa ra lệnh giết các phù thủy và
những kẻ lạc đạo (Exodus 22)
- Thiên Chúa xử chết những người vi phạm ngày
lễ Sabbath (không nghỉ làm việc ngày thứ Bảy) (Exodus 31)
- Thiên Chúa giết 70000 người trong một dịch
hạch do chính Chúa tạo ra (2 Samuel 24)
- Thiên Chúa cho 2 con gấu cắn nát 42 đứa trẻ
vì chúng chế riễu nhà tiên tri Elisha (2 Kings 2)
- Thiên Chúa tạo ra hồng thủy giết chết mọi
người và mọi sinh vật, chỉ chừa lại gia đình tên say rượu Noah và giống vật
mỗi thứ một cặp, vì Chúa thấy loài người, do chính Chúa “sáng tạo” ra, tội
lỗi (Genesis 6) [Dưới con mắt cận thị của Thiên Chúa thì con người sa
ngã, mang tội với Thiên Chúa, do đó Thiên Chúa tạo ra Hồng Thủy để giết hại
hầu hết loài người. Nhưng thử hỏi, tại sao Thiên Chúa lại giết cả mọi sinh
vật hoàn toàn vô tội, gồm có nhiều triệu chủng loại khác nhau, khi chúng do
chính Chúa “sáng tạo” ra và không hề làm điều gì trái với ý của Thiên Chúa?]
- Thiên Chúa ra lệnh giết vợ con, anh em nếu
họ theo tôn giáo khác (Deuteronomy 13)
- Thiên Chúa xử chết những đứa trẻ nào không
cắt miếng da đầu dương vật (Genesis 17)
Và đây chỉ là một số nhỏ trong vô số những hành động
ác ôn tương tự mà Thiên Chúa của Nguyễn Huệ Nhật là thủ phạm, trực tiếp hay
gián tiếp. Có bao giờ Nguyễn Huệ Nhật cũng như những đồng đạo của ông ta
biết đến những điều trên, đã được viết rõ trong Kinh Thánh của Ki-tô giáo
không?
Nguyễn Huệ Nhật cùng các đồng đạo Tin Lành (sic)
hãy giải thích, hoặc đi hỏi các bề trên, để giải thích những hành động ác ôn
của Thiên Chúa như trên, và cũng nên đọc sách Khải Huyền trong Tân ước để
biết thêm là Thiên Chúa của Nguyễn Huệ Nhật và đồng đạo độc ác và khủng
khiếp như thế nào, và cũng để biết không làm gì có chuyện Thiên Chúa “cứu
rỗi” những người không phải là Do Thái mà Thiên Chúa đã từng coi họ như chó,
không thể ném cái mẩu bánh “cứu rỗi” của người Do Thái cho chúng ăn.
Kinh Thánh viết rõ như vậy, Nguyễn Huệ Nhật và các đồng đạo hãy theo đúng
lời của chính Nguyễn Huệ Nhật viết: Khi thắc mắc về Thượng đế và Kinh
Thánh, chúng ta cần xem Kinh Thánh kỹ hơn để biết trong đó nói gì.
Nhưng thực ra đây chỉ là câu nói dỏm, vu vơ của Nguyễn Huệ Nhật, vì rõ
ràng là Nguyễn Huệ Nhật chưa từng đọc Kinh Thánh, hay chỉ đọc những đoạn
được phép đọc và được phép hiểu theo “lý luận” của Tin Lành. Thật vậy, nếu
đọc kỹ Kinh Thánh thì chúng ta không ngần ngại gì mà không vứt bỏ nó đi,
hoặc giữ làm tài liệu để “chống Ki-tô Giáo” như nhiều học giả, chuyên gia về
Kinh Thánh đã làm. Khoa học gia Ira Cardiff đã đưa ra một nhận xét rất chính
xác như sau:
“Nếu một người thông minh đọc cả cuốn Thánh
kinh với một óc phê phán thì chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi."
(If an intelligent man should critically read it
(the Bible) all, he would certainly reject it.)
Tại sao lại phải vứt bỏ nó đi? Ruth Hurmence Green, một
phụ nữ đã trưởng thành trong một gia đình Ki-tô và trong nền giáo dục Ki-tô
trong mấy chục năm đã trả lời thay cho chúng ta trong cuốn "The Book of
Ruth", trg. 59-60, sau khi bà ta đọc kỹ cuốn Kinh Thánh, như sau:
"Không có cuốn sách nào mà trong đó mạng sống con
người, thật ra là mọi mạng sống, lại rẻ rúng như vậy. Thiên Chúa ác ôn
trong Cựu Ước ra lệnh cho dân Do Thái giết, cưỡng hiếp, và tra tấn không
thương sót toàn thể dân chúng nhiều quốc gia, "trẻ thơ và sơ sinh, thiếu
niên và trinh nữ, và người già cả."..
Không có một trang sách nào trong Kinh Thánh mà
không làm tôi bất bình về một phương diện nào đó. Thật ra, sau mỗi lần tìm
hiểu Thánh Kinh tôi lại muốn đi tắm rửa sạch sẽ với xà bông "lye" của bà
nội. Và khi tôi thấy Kinh Thánh coi thường phụ nữ thường là tôi muốn quẳng
nó ra cuối phòng. Tôi nguyện không bao giờ còn cầm cuốn Thánh Kinh một
cách lộ liễu trên tay ở nơi công cộng. Thomas Paine, đấng cứu rỗi thực
sự của thế giới, đã tố cáo cuốn Thánh Kinh thay tôi: "Tôi thành thật ghê
tởm nó như là tôi ghê tởm mọi sự độc ác."...
Nếu luật kiểm duyệt được thi hành một cách
chặt chẽ, cuốn Kinh Thánh sẽ phải bán dấu diếm dưới quầy hàng"
(There is no other book in which human
life, all life in fact, is so cheap. The fiendish Lord of the Old Testament
orders the Jews to kill, rape, and torture without pity entire nations,
"infant and suckling, young man and virgin, and the man with gray hair."
...There wansn't one page of this book that
didn't offend me in some way. In fact, after a session of searching the
scriptures, I always wanted to take a bath with Grandma's lye soap. And
when I encountered the Bible's disdain for women, I very often almost
pitched the good book across the room. I vowed never to be seen in public
with an unconcealed Bible in my hands. Thomas Paine, the true savior of the
world, denounced the Bible for me: "I sincerely detest it as I detest
everything that is cruel."...
Strict censorship would mean that the Bible
would have to be sold from under the counter.)
Nhưng có một điều mà Nguyễn Huệ Nhật và các đồng đạo
Tin Lành của ông ta cũng như tuyệt đại đa số tín đồ Ki-tô Giáo không biết
đến là nhân loại đã “đưa đám Thượng đế” từ cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ
19 [Xin đọc cuốn Đám Tang Thượng Đế (God’s Funeral) của A. N. Wilson,
W. W. Norton and Company, Inc., New York, 1999] chứ không chờ đến lời tuyên
bố “Thượng đế đã chết” (God is dead) của Friedrich Nietzsche. Thật
vậy, ngay từ cuối thế kỷ 18, Edward Gibbon với cuốn Lịch Sử Suy Thoái và
Sụp Đổ Của Đế Quốc La Mã (The History of the Decline and Fall of the
Roman Empire ), xuất bản làm 3 tập trong khoảng 1776-1788, và David Hume,
với cuốn Đối Thoại Về Tôn Giáo Thiên Nhiên (Dialogues Concerning
Natural Religion) năm 1779, đã khai tử Thượng đế của Ki Tô Giáo.
Khai tử như thế nào?
Quan điểm khoa học, ngay từ cuối thế kỷ 18, đã
lay đổ nền tảng của một tôn giáo cũ kỹ tin rằng Thượng đế đã ban cho Adam
quyền quản trị mọi vật thụ tạo của Thượng đế trên trái đất, và Thượng đế
dựng nên con người theo hình ảnh của Thượng đế và giống như Thượng đế, rồi
khi con người không tuân lệnh Thượng đế, chính cái ông Thượng đế cũng là
Người này lại biến mình thành Người, và tự xuống trần để chuộc tội những tội
lỗi của chính mình (Wilson, p.x: Scientific viewpoints shook the
foundation of an old religion which believed that God had put Adam in charge
of all His earthly creation, and made Man in His own image and likeness;
even, when Man had disobeyed Him, this self-same God had Himself become Man,
and come down to earth to redeem Him of His sins). Tác phẩm của Gibbon,
không những vạch trần những sự sa đọa và đạo đức giả của những Thánh vĩ đại
nhất trong Ki-tô Giáo, những giáo hoàng và cột trụ thần học của giáo hội
(greatest saints, popes and doctors of the Universal Church) mà còn khinh
bỉ những lý tưởng cao quý nhất của họ (sheer contemptibility of their
highest ideals). Còn tác phẩm Dialogues của Hume đã loại bỏ mọi sự cần
thiết triết lý về niềm tin vào Thượng đế (remove any necessity for believing
in God) và đã được một nhà bình luận đương đại coi như là một “giấy chứng
tử” (death certificate) đối với Ki-tô giáo. Vì vậy, những thập niên cuối
thế kỷ 19 được coi như là thời đại đích thực của “cái chết của Thượng đế”
(Wilson, p. 281: The closing decades of the 19th century were the
true era of the “death of God”).
Kiến thức con người hiện đại đã bác bỏ dứt khoát
quan niệm về một vị Thần toàn năng, sáng tạo ra muôn loài vì quan niệm này
cực kỳ phi lý trước những bằng chứng không ai có thể phủ bác của khoa vũ trụ
học, sinh học, sinh hóa học, địa chất học v..v.... Nguyễn Huệ Nhật nhắm
mắt tin vào Kinh Thánh mà không biết đến sự tiến bộ trí thức của nhân loại
trong mấy thế kỷ nay. Nguyễn Huệ Nhật có vẻ như quên hẳn rằng thuyết Sáng
Tạo trong Kinh Thánh không được chứng minh bởi bất cứ một sự kiện nào trong
khi thuyết khoa học về nguồn gốc vũ trụ và thuyết Tiến Hóa đã được chứng
minh bởi vô số những kết quả nghiên cứu trong nhiều bộ môn khoa học. Thật
vậy, chúng ta hãy so sánh sơ lược mức độ khả tín của niềm tin vào thuyết
Sáng Tạo trong Kinh Thánh và những bằng chứng khoa học về vũ trụ:
Dựa theo những dữ kiện không thể sai lầm trong Kinh
Thánh, Tổng Giám Mục James Ussher ở Ái Nhĩ Lan (Ireland) đã tính rất kỹ và
xác quyết rằng Thượng đế đã sáng tạo ra vũ trụ muôn loài này vào tối ngày
thứ Bảy, 22 tháng 10, năm 4004 Trước Thường Lịch (TTL) (Archbishop James
Ussher...concluded that God had made heaven and earth on the evening of
Saturday, October 22, 4004 B.C.), nghĩa là cách đây khoảng hơn 6000 năm.
Nhưng ngay từ đầu thế kỷ 19, các nhà địa chất học
(geologists) đã nhận thức được rằng, thế giới đã tiến hóa qua nhiều kỷ
nguyên (aeons), không phải là do Thượng đế sáng tạo ra trong 6 ngày như được
Thượng đế mạc khải trong sách Sáng Thế Ký, và thật là khó chịu cho những nhà
thần học hơn nữa, vũ trụ mà chúng ta đang sống trong đó là một vũ trụ tàn
nhẫn (pitiless universe). Nhiều chủng loại đã tiến hóa để rồi bị
tuyệt chủng, đây là thông điệp của những sinh vật hóa thạch. Người ta
tự hỏi, có gì bảo đảm là nhân loại, một chủng loại trong số nhiều triệu
chủng loại hiện hữu, một ngày nào đó sẽ không chịu chung số phận của các
chủng loại đã bị tuyệt chủng? Niềm tin vào một Thượng đế đầy tình thương
yêu, nhân từ và toàn năng thật khó mà có thể chấp nhận trước sự kiện hiển
nhiên về một vũ trụ vô nhân tính, tàn nhẫn, và nhất là Thượng đế, nếu có một
Thượng đế, chỉ có thể khoanh tay ngồi nhìn, hoàn toàn bất lực trước sự vận
hành của vũ trụ và thiên nhiên.
Điều không ai có thể phủ nhận là khoa học ngày
nay đã xác định tuổi của vũ trụ là vào khoảng 13.7 tỷ năm, tuổi của trái đất
là vào khoảng từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ năm, và loài người đã có mặt trên địa
cầu cả vài triệu năm, hình thành theo định luật tiến hóa. Tất cả những
điều này đều do sự tiến bộ trí thức của nhân loại khám phá ra và đều đã được
chính Giáo hoàng John Paul II, đại diện cho khoảng 1 tỷ tín đồ của Ca-tô
Giáo Rô-ma, công nhận. Nhưng Nguyễn Huệ Nhật vẫn mù quáng viết rằng:
“Đọc những đoạn đầu trong sách Sáng Thế Ký, chúng ta có thể tin và cũng có
thể không tin. Nhưng dù tin hay không tin, suốt nhiều ngàn năm tri thức
nhân loại không ai có thể chứng minh ngược lại để bài bác một cách cụ thể”
Thật là tội nghiệp cho những đầu óc thuộc loại như của Nguyễn Huệ Nhật
nếu chúng ta đi làm một công việc ngớ ngẩn là so sánh đầu óc của ông ta với
đầu óc của hàng ngàn thức giả trong những xã hội Tây phương cỡ Bertrand
Russell, Thomas Paine, Thomas Jefferson, Victor Hugo, Voltaire v..v.., khoan
kể đến những bậc lãnh đạo trong Ki-tô Giáo như Giáo hoàng John Paul II, Giám
mục John Shelby Spong, Linh mục James Kavanaugh, Mục sư Ernie Bringas, nhà
thần học Hans Kung, Uta Ranke-Heinemann v..v..., tương tự như so sánh ánh
sáng của một con đom đóm với ánh sáng của mặt trời.
Quyền chọn lựa là quyền tự do của con người. Theo
Nguyễn Huệ Nhật thì chúng ta có thể tin hoặc không tin thuyết sáng tạo trong
Kinh Thánh. Nhưng thế nào là tin, và thế nào là không tin. Dựa vào đâu mà
tin? Và dựa vào đâu mà không tin? Vấn đề chính là ngày nay chúng ta có
100% bằng chứng là trái đất đã hình thành cách đây hơn 4 tỷ năm, và 0% bằng
chứng về một trái đất có tuổi từ 6 tới 10000 năm. Như vậy, chúng ta đang
đối diện với “100% đúng” của các bằng chứng khoa học và “100% sai” vô bằng
chứng của thuyết Sáng Tạo trong Kinh Thánh, nếu chúng ta xét đến tổng hợp
những kết quả nghiên cứu, đo lường trong vũ trụ học, địa chất học, hóa học,
vật lý học, cổ sinh vật học, sinh học đưa đến việc xác định tuổi của trái
đất. “100% đúng” là kết quả của lý trí, và “100% sai” hay “0% đúng” là
sản phẩm của đức tin. Thật là thú vị khi chúng ta so sánh hai con số về
tuổi của trái đất: nếu chúng ta biểu diễn tuổi thực của trái đất, thí dụ 4
tỷ rưỡi năm, bằng một đoạn giây dài 150 thước (m), thì tuổi của trái đất
trong Thánh Kinh, 10000 năm, chỉ mỏng bằng một tờ giấy. Trong đức tin
Tin Lành của Nguyễn Huệ Nhật, dựa vào vài điều viết láo lếu trong Kinh
Thánh, phạm vi hiểu biết chỉ bằng bề dày của một tờ giấy; ngoài đức tin Tin
Lành, kiến thức con người trải dài 150 m. Đây là điều Lê Anh Huy,
Nguyễn Huệ Nhật và Huỳnh Thiên Hồng cần biết để dạy lại cho những đồng đạo
Tin Lành còn sống trong bóng tối của ngu si vô trí.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, những người ngày nay
còn tin vào thuyết Sáng Tạo và kế hoạch “cứu rỗi” của Dê-su KiTô như Nguyễn
Huệ Nhật thật ra chỉ là những người không có mấy đầu óc, tự giam mình trong
những sai lầm vĩ đại. Thật vậy, nếu Nguyễn Huệ Nhật đã đọc kỹ Kinh Thánh,
đây là điều hầu như không thể có, và tin thuyết Sáng Tạo, và đối với Tin
Lành, Kinh Thánh là những lời của Thượng đế (Words of God) nên không thể sai
lầm, thì Nguyễn Huệ Nhật cũng phải tin rằng trái đất thực sự phẳng, có 4
góc, mặt trời quay xung quanh trái đất, trời là một cái vòm bằng đồng thau,
trên có những cánh cửa để cho các thiên thần mở ra cho mưa rơi xuống khi
Thượng đế muốn, Thượng đế làm cho mặt trời ngưng lại suốt một ngày, ngày tận
thế đã xảy ra trong thời của Dê-su khi một số tông đồ của Dê-su còn sống
v..v.. và tất cả những chuyện thuộc các loại sau đây chiếm hơn nửa cuốn Kinh
Thánh: bạo hành giết người (Violence & Murder), giết người hàng
loạt (Mass Killing), loạn luân (Incest), ăn thịt người
(Human Cannibalism), độc ác đối với trẻ con (Child cruelty), tục
tĩu quá mức (Scatology), trần truồng (Nakedness), đĩ điếm
(Harlotry), hiếp dâm (Rape), thù hận tôn giáo và chủng tộc
(Religious & Ethnic Hatred), nô lệ (Slavery), say rượu
(Drunkeness) v..v.. [Xin đọc cuốn Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Kinh
Thánh (All The Obscenities In The Bible) của Gene Kamar].
Với một kiến thức tôn giáo thuộc loại vô trình
độ mà tôi vừa chứng minh ở trên, vậy mà Nguyễn Huệ Nhật dám huênh hoang
viết: “Tôi sẵn sàng đối thoại với các anh trong tình yêu Thiên Chúa”.
Với trình độ của Nguyễn Huệ Nhật như vậy, ai lại đi tự hạ mình để đối
thoại với Nguyễn Huệ Nhật? Riêng tôi, tôi xin được từ chối. Bởi vì,
đối thoại là giữa những người có trình độ sấp sỉ nhau hoặc tương đương, chứ
khoảng cách kiến thức cách nhau cả vài thế kỷ thì làm sao có thể đối thoại
được.
Người Ki-tô Giáo thường khoe rằng, cuốn Kinh Thánh
là cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất [nhưng hiển nhiên là ít
được đọc nhất], và Ki-tô giáo có số tín đồ đông đảo nhất [hiển nhiên là
tuyệt đại đa số tín đồ thuộc loại nghèo khổ, thấp kém, không có mấy đầu óc,
ở các nước trong thế giới thứ ba] hàm ý Ki-tô Giáo tất nhiên phải có giá
trị. Lẽ dĩ nhiên, Ki-tô giáo có giá trị đối với những người có đầu óc như
của Nguyễn Huệ Nhật.
Có hai câu hỏi thường được đặt ra: Thứ nhất, tại sao,
với nội dung cuốn Kinh Thánh như trên mà cuốn “Kinh Thánh” vẫn được bày bán
tự do và để trong thư viện các trường học trên đất Mỹ?
Không có gì là khó hiểu. Vì trong các nước Ki-tô Giáo
trong thế giới tự do, nếu các loại sách khiêu dâm và cả các dụng cụ kích
dâm, các phim ảnh đầy cảnh bạo tàn và tình dục, những chuyện hoang đường về
ngày tận thế của Tim LaHaye v...v... vẫn được bán tự do thì không có lý do
gì lại cấm bán cuốn “Kinh Thánh”. Trong các nước này, cuốn “Kinh Thánh” là
vật để thờ phụng tuy chẳng có mấy người đọc nó, cho nên nó vẫn được lưu trữ
trong các thư viện, bên cạnh loại sách huyền thoại. Một trong những lý do
mà Gene Kamar viết cuốn All The Obscenities In The Bible nêu trên là
để phản đối sự kiểm duyệt một số sách mà các nhà bảo thủ Ki-tô Giáo
(fundamentalists) cho rằng không thích hợp để trong thư viện các trường công
lập. Gene Kamar chứng minh rằng cuốn “Holy Bible” còn tệ hơn nhiều so với
những cuốn sách bị kiểm duyệt. Lẽ dĩ nhiên Gene Kasmar không thành công
trong ý định loại bỏ cuốn Kinh Thánh ra khỏi các thư viện công cộng, vì đa
số người dân Mỹ theo Ki-tô-giáo và các nhà bảo thủ Ki-tô Giáo viện lẽ đó là
những lời mạc khải của God và chứa những điều đạo đức trong đó. Chúng ta
cũng không nên quên rằng, Ruth Hermence Green, một phụ nữ theo Ki-tô Giáo đã
50 năm, sau khi đọc kỹ cuốn Kinh Thánh đã viết: “Nếu luật kiểm duyệt được
thi hành đứng đắn thì cuốn Kinh Thánh phải được bán dấu diếm dưới quầy
hàng.” (Strict censorship would mean that the Bible would have to be
sold from under the counter.)
Thứ nhì, tại sao một cái đạo ác ôn đã gây
ra bao thảm họa cho nhân loại trong bao nhiêu thế kỷ như vậy lại có số tín
đồ đông nhất?
Cách đây hơn 1 thế kỷ, Robert G. Ingersoll đã giải
thích điều này. [Robert G. Ingersoll được coi như là một nhà hùng biện nổi
danh của Mỹ (A celebrated orator of 19th century America). Ông
ta là bạn của 3 Tổng Thống Hoa Kỳ, là người đã có công nhất trong việc làm
nở rộ quyền tự do tư tưởng ở Hoa Kỳ. (A personal friend of three U.S.
presidents, the individual most responsible for the flowering freethought in
the United States.). Bức tượng của ông, ghi công ông, nay được đặt ở Peoria,
Illinois. Edgar Lee Master, một thi sĩ, đã đưa ra nhận xét: "Đối với
những người yêu chuộng tự do ở khắp nơi, nhất là đối với giới trẻ ở Hoa Kỳ
không biết đến Robert G. Ingersoll, hãy nhớ rằng ông ta đã giúp để cho quý
vị được tự do." (To the lovers of liberty everywhere, but chiefly to the
youth of America who did not know Robert G. Ingersoll, remember that he
helped to make you free.)] Ingersoll đã nói thẳng trước một cử tọa đông đảo
mà mỗi người phải bỏ ra $2 (năm 1890) để nghe ông diễn thuyết (Joseph Lewis,
Ingersoll: The Magnificient, p. 140):
"Hãy để tôi nói thầm vào tai người Tin Lành:
Ca-Tô Giáo Rô-ma thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ
rằng quần chúng thì ngu dốt (ignorant) và các linh mục thì xảo quyệt.
Hãy để tôi nói thầm vào tai người Ca Tô Rô-ma:
Tin Lành Giáo thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ là
quần chúng thì mê tín và các mục sư thì đần độn (stupid).
Hãy để cho tôi nói thầm vào tai tất cả mọi
người: những người không theo Ki-tô Giáo không có chết - họ đang mỗi
ngày một lớn mạnh. Và điều đó chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ là quần chúng
càng ngày càng học hỏi được nhiều hơn - và họ đang tiến bộ - rằng đầu óc con
người đang được giải thoát, và loài người đang văn minh lên.”
(Let me whisper in the ear of the
Protestant: Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves
that the people are ignorant and that the priests are cunning.
Let me whisper in the ear of the Roman Catholic:
Protestantism dies hard. What does that prove? It proves that the people
are superstitious and the preachers stupid.
Let me whisper in all your ears: Infidelity is
not dying - it is growing - it increases every day. And what does that
prove? It proves that the people are learning more and more - that they are
advancing - that the mind is getting free, and that the human race is being
civilized.)
Các bài tôn giáo cùng tác giả