 |
đăng ngày 02 tháng
10, 2009
|
Toàn tập: 1 2 3 4
(Phần II)
Tân tòng Tin Lành Huỳnh Thiên Hồng.
Tân tòng Tin Lành thứ hai mà tôi muốn nói đến là
Huỳnh Thiên Hồng. Chúng ta hãy đọc Huỳnh Thiên Hồng nhắc lại luận điệu
truyền đạo thuộc loại mê tín hoang đường của Tin Lành trong bài “Thuyết
Vô Ngã của Triết Phật & Tín Lý Hữu Ngã trong Thánh Kinh”. Chúng ta hãy
bỏ qua những điều Huỳnh Thiên Hồng viết láo lếu về Vô Ngã, thí dụ như “Sự
luận giải Lập thuyết Vô Ngã có thể tóm tắt trong ‘Thập Nhị Nhân Duyên’”
(sic) hoặc “Vô ngã tức là không có thật” (sic) chứng tỏ sự hiểu biết
về Phật Giáo của Huỳnh Thiên Hồng thuộc trình độ các nhà truyền giáo Tin
Lành ngu ngơ về đạo Phật, cố tìm cách để xuyên tạc những giáo thuyết của
Phật Giáo. Chúng ta cũng bỏ qua điều trong Kinh Thánh không làm gì có tín
lý Hữu Ngã. Nếu có thể nói về một cái ngã (linh hồn) trong Kinh Thánh thì
đó chỉ là ngã của những con chiên, thuộc loại súc vật, người ta chăn dắt đi
đâu thì đi đó. Huỳnh Thiên Hồng viết:
“Thánh Kinh bày tỏ sự hữu ngã của nhân loại
và chỉ ra con đường cứu rỗi cho nhân loại. Con đường cứu rỗi đó,
không cần phải qua một quá trình tu tập không cần phải phải tự
lực giác ngộ. Con đường cứu rỗi đó là sự ban cho vô điều kiện
của Đức Chúa trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Cao Siêu Tuyệt Đối. Một khi con
người tiếp nhận sự cứu rỗi ấy, lập tức được giải thoát khỏi gông cùm của tội
lỗi và mặc cảm tội lỗi, lập tức tràn ngập bình an, hạnh phúc...Muốn được ơn
cứu rỗi, con người cần ăn năn tội và tiếp nhận ơn tha thứ của Đức Chúa trời
trong Đức Chúa Jesus Christ..”
Tôi thật không muốn bình luận về luận điệu truyền đạo
rất ấu trĩ như trên của ông Huỳnh Thiên Hồng vì với kiến thức của con người
hiện đại nhưng cụm từ như Đức Chúa trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Cao Siêu
Tuyệt Đối chỉ là những lời nói trống rỗng, không có một căn bản thuyết
phục nào. Những thứ đó chỉ có trong đầu những tín đồ cấp dưới đã bị các bề
trên nhồi sọ để duy trì quyền lực thế tục chứ phần lớn cũng không còn trong
đầu óc của các bề trên nữa .. Nhưng để khai sáng đầu óc của ông Hồng cũng
như của những người tin vào ơn cứu rỗi của Chúa Trời trong Dê-su Ki Tô
(Jesus Christ), tôi đành phải mất chút thì giờ để viết về cái gọi là “ơn cứu
rỗi”. Chưa kể là Kinh Thánh viết rõ không làm gì có chuyện Dê-su “cứu rỗi”
người Việt Nam vì trong Tân Ước ông ta đã nhiều lần khẳng định là ông ta
được Cha ông ta cho xuống trân chỉ để cứu dân Do Thái mà thôi và còn coi
những người không phải Do Thái là đồ “chó”. Vậy ông Huỳnh Thiên Hồng, hay
bất cứ người Việt Nam nào, đương nhiên không phải là người Do Thái, muốn
nhận thân phận đó để được Dê-su cứu rỗi thì xin cứ tùy tiện, tôi không hề
ngăn cản.
Thứ nhất, ông Huỳnh Thiên Hồng (HTH) chưa đủ
trình độ để đi vào nền thần học Ki Tô Giáo để biết ý nghĩa của sự “cứu rỗi”
cho nên ông chỉ nhắc lại những điều Tin Lành nhồi vào đầu óc ông. Thứ nhì,
ông HTH chắc chắn là chưa bao giờ đọc Kinh Thánh hay có đọc thì cũng chỉ đọc
những đoạn vụn vặt trong đó. Chứng minh?
Trước hết, chúng ta cần biết thế nào là ơn cứu rỗi. Trong cuốn Bước
Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, trang 76, để trả lời câu hỏi "Tại sao
nhân loại cần cứu rỗi?", Giáo hoàng John Paul II đã trích dẫn một
câu trong Phúc Âm John làm luận điểm giải thích, John 3:16: “Thiên
Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai
tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.” Đọc
tiếp Tân Ước, chúng ta thấy câu John 3: 18: “Người nào không tin
vào Giê-su thì đã bị đầy đọa rồi, vì người đó không tin vào đứa con duy nhất
của Thượng đế” Câu John 3:16 ở trên không phải là lời giải thích
cho câu hỏi “Tại sao nhân loại cần đến sự cứu rỗi?” mà là một câu
Giáo hoàng dùng để khẳng định về một đức tin mà thực chất rất là ngu xuẩn
của Ca-Tô Giáo với mục đích: 1) huyễn hoặc những người nhẹ dạ cả tin, mê mẩn
về một sự sống đời đời, sau khi chết, ở trên một thiên đường giả tưởng, bằng
cách tin vào một nhân vật đầy tính chất huyền thoại do nền thần học Ki Tô
Giáo tạo dựng lên; và 2) hù dọa những tín đồ đầu óc yếu kém về một sự luận
phạt phi lý và hoang đường. Tại sao tôi lại bảo là rất ngu xuẩn? Phần phân
tích hai câu trên trong một phần sau sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn đề.
Trước hết, điều này thật là rõ ràng vì tháng 7, 1999, Giáo Hoàng John
Paul II, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước
những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, đã bắt buộc
phải tuyên bố: "thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng
chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an
abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải
là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thiên Chúa, mà là trạng thái hậu
quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này”
(Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition
resulting from attitudes and actions which people adopt in this life). Như
vậy là Giáo Hoàng đã bác bỏ đức tin quan trọng nhất trong Ki-tô giáo: Quyền
năng “cứu rỗi” của Jesus, và hi vọng của các tín đồ Ki-tô về một cuộc sống
đời đời trên thiên đường cùng Jesus, và sự luận phạt của Jesus đối với những
người không tin ông ta, và tin vào luật “Nghiệp Báo” của Nhà Phật. Nếu
không có thiên đường thì chỗ nào là chỗ để cho những người tin Giê-su sống
một cuộc sống đời đời? Nếu không có hỏa ngục thì chỗ nào để cho Giê-su luận
phạt và đầy đọa những người không tin ông ta? Tin vào những gì không có
thực thì chẳng phải ngu xuẩn thì là gì.
Mặt khác, phân tích ra thì những câu John 3:
16 và John 3: 18 là những câu vô nghĩa và nhảm nhí nhất trong Tân Ước
vì những câu này chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Giê-su mà thôi.
Thật ra đó chỉ là đức tin vào Dê-su Ki Tô của một số người Do Thái trong
thời cách đây chưa đầy 2000 năm, thí dụ như các “thánh” John và Paul mà đầu
óc không lấy gì làm sáng sủa cho lắm. Về sau, nền thần học Ki-tô giáo, qua
nhiều thế kỷ đã khai thác sự mê tín của con người và diễn giải quan niệm của
John và Paul, một quan niệm đặc thù của người Do Thái trong thời chưa
khai hóa, là Dê-su Ki Tô có quyền năng “cứu rỗi” cho cả nhân loại. Ngày
nay, Tin Lành cũng chấp chặt vào câu John 3:16 ở trên và chủ trương chỉ cần
tin và đầu phục (surrender) Chúa Dê-su Ki Tô là được cứu rỗi. Điều này
chúng ta thấy rõ trong đoạn trên của Huỳnh Thiên Hồng.
Điều hiển nhiên là, trước khi Giê-su sinh ra đời thì nhân loại đã trải
qua bao nhiêu thế hệ trong nhiều ngàn năm, nếu không muốn nói là cả triệu
năm, trong đó đã trải qua biết bao nhiêu thế hệ của tổ tiên, ông bà Giê-su.
Ai biết đến Giê-su? Ai tin Giê-su? Vậy tất cả cũng đều bị Giê-su luận phạt
hay sao? Trước năm 1533, người Việt Nam không ai nghe và biết đến tên
Giê-su, hiển nhiên không ai có thể tin Giê-su, vậy tất cả dân tộc Việt Nam
trong mấy ngàn năm trước năm 1533 cũng bị luận phạt hay sao? Những người
Việt Nam theo Ki Tô Giáo có nghĩ đến các điều hoàn toàn vô nghĩa như trên
hay không? Cái tín điều phi thực tế, phi nhân tính, phi lôgic như vậy mà
giáo hoàng nêu lên được trong thời đại này thì kể cũng lạ. Điều lạ hơn nữa
là các tín đồ vẫn còn tin theo cái tín lý quái gở đó với một tâm cảnh vô
cùng ích kỷ, chỉ nghĩ đến đời sống đời đời sau khi chết của riêng mình, mà
không hề nghĩ đến bản chất ác độc, phi lý, phản khoa học, hoang đường, bất
khả áp dụng, của sự luận phạt của Giê-su. Không những chỉ ích kỷ mà họ còn
để lộ một tinh thần yếu kém, sợ sệt thần linh trong thời đại tiến bộ của
khoa học kỹ thuật ngày nay mà quan niệm thần linh khi xưa đã không còn chỗ
đứng. Trong thời đại mà các thần bình vôi, thần cây đa, thần hà bá v..v..
đã không còn ý nghĩa, tại sao họ vẫn còn có thể tin vào một “Thiên Chúa” của
người Do Thái cách đây 2000 năm mà bản chất cũng không khác gì những “Thần
Linh” trong dân gian trên khắp thế giới?
Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy rõ là
cứu rỗi có nghĩa là cứu rỗi linh hồn, linh hồn này khi chết được để vào một
kho chứa ở đâu đó, ai để không biết, ở trong đó chờ ngày Dê-su Ki Tô trở lại
trần lần thứ hai, bao giờ trở lại, không ai biết, hi vọng Giê-su làm cho
xác chết sống lại, chẳng biết còn nguyên vẹn hay đã tan rũa, họp lại với
linh hồn để sống một cuộc sống đời đời trên thiên đường (mù) cùng Chúa. Đó
là ý nghĩa đích thực của từ “cứu rỗi” và là niềm tin của người Ki-tô vào hi
vọng được sống đời đời với Chúa của họ.
Qua sự phân tích ở trên, chúng ta thấy
sự “cứu rỗi” của Dê-su Ki Tô, hoặc Hồng ân Thiên Chúa, hoặc ơn tha thứ của
Dê-su Ki Tô v..v.. chẳng qua chỉ là cái bánh vẽ của Ki tô Giáo để dụ những
người ngu ngơ, khờ khạo như Huỳnh Thiên Hồng và Nguyễn Huệ Nhật vào trong
vòng xiềng xích tâm linh của Ki-tô Giáo. Thực sự, đó chỉ là cái bánh vẽ,
vậy thì con đường đi đến cái bánh vẽ đó chỉ dẫn những kẻ khờ khạo xuống vực
thẳm đen tối của sự ngu si.
Huỳnh Thiên Hồng quảng cáo “con đường cứu rỗi” của
Dê-su Ki Tô và tin rằng Con đường cứu rỗi đó, không cần phải qua một quá
trình tu tập không cần phải phải tự lực giác ngộ, và chỉ cần
ăn năn tội và tiếp nhận ơn tha thứ của Đức Chúa trời trong Đức Chúa Jesus
Christ..”.
Nhắc lại những điều vô nghĩa, huyền hoặc trên, Huỳnh
Thiên Hồng đã chứng tỏ cho độc giả thấy là ông ta mù tịt về Kinh Thánh, chỉ
tin vào những lời giả dối bịp bợm của giới truyền đạo. Chúng ta hãy
khoan xét đến sự kiện là nhân loại có cần đến cái gọi là “cứu rỗi”, một ảo
tưởng của Ki Tô Giáo hay không? và con đường tu tập, tự lực giác ngộ là
con đường ngược chiều với con đường cứu rỗi, do đó câu trên hoàn toàn vô
nghĩa....
Thiên Chúa ban cho con đường là để đi trên con đường
đó. Đi đâu? Đi đến cứu rỗi? Bao giờ thì được cứu rỗi? Khi còn sống hay
khi đã chết, và chết rồi cũng còn phải chờ đến ngày tận thế? Theo như Huỳnh
thiên Hồng thì chỉ cần ngồi yên mà hưởng cái Thiên Chúa ban cho mà không cần
phải đi, không cần phải tu tập, tương tự như “nằm há miệng chờ sung rụng từ
cây sung ở gần thành Jerusalem (Nước trời (Kingdom of God) của Ki Tô Giáo)”
[Nhưng khổ một nỗi cây sung đó đã bị Chúa Dê-su của ông Hồng nguyền rủa cho
nó chết héo queo rồi, không bao giờ có thể ra trái nữa, nên ông Hồng có nằm
đến ngày tận thế cũng không hứng được trái nào].
Cái dỏm của Huỳnh Thiên Hồng là không chịu đọc Kinh
Thánh, không biết thế nào là cứu rỗi, cho nên cứ viết bậy viết bạ về “ơn cứu
rỗi” của Dê-su Ki Tô. Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy Dê-su đã đưa ra nhiều
con đường để cho những ai muốn hưởng cuộc sống đời đời trên thiên đường (mù)
cùng ông ta phải theo. Sau đây là vài đoạn trích từ Kinh Thánh:
Thứ nhất, Matthew 5: 17-19: Đừng tưởng ta đến để
hủy bỏ luật pháp [luật của Thượng đế trong Cựu Ước] và lời tiên tri.
Không, ta đến để hoàn thành luật pháp và thực hiện các lời tiên tri
[chẳng thực hiện được điều gì]. Ta nói quả quyết: Một khi trời đất vẫn
còn thì không một chi tiết nào trong luật pháp bị xóa bỏ, trước khi mục đích
luật pháp được hoàn thành [Thực tế là nhiều luật có tính cách man rợ của
Thượng đế trong Cựu Ước không còn phép được áp dụng trong thế giới văn minh
ngày nay]. Người nào phạm điều răn nhỏ nhất và quyến rũ người khác làm
theo là người hèn mọn nhất trong Nước Trời. Trái lại, người nào vâng giữ
điều răn và dạy người khác làm theo là người lớn trong Nước Trời. [Hai
câu này cho thấy Nước trời (Kingdom of God) không phải là nước thiên đường
trên các tầng mây mà chỉ là một Jerusalem mới của người Do Thái đặt dưới
quyền thống trị và luật pháp của Thượng đế đích thân cai quản, theo như niềm
tin của người Do Thái trước khi Dê-su sinh ra đời và đặc biệt cũng là của
Dê-su sau này như tất cả các học giả nghiên cứu Kinh Thánh đều đồng thuận
điểm này].
Matthew 19: 17: Chúa Dê-su đáp:..Muốn hưởng sự
sống đời đời, phải vâng giữ các điều răn.
Vậy, giữ các điều răn trong Cựu Ước là con đường thứ
nhất để có thể hưởng cuộc sống đời đời (được cứu rỗi) trên thiên đường
(mù).
Thứ nhì, Matthew 19:21: Dê-su đáp: Nếu ngươi muốn
được trọn vẹn, hãy đi bán hết tài sản, lấy tiền phân phát cho người nghèo,
thì ngươi sẽ có của cải quý giá ở trên Trời, rồi hãy theo Ta.
Matthew 19: 29: Người nào bỏ nhà cửa, bỏ anh em,
chị em, cha mẹ, vợ con, tài sản để theo ta thì người ấy sẽ lãnh bội phần, và
sẽ hưởng sự sống đời đời.
Vậy bán sạch tài sản giúp người nghèo, từ bỏ cha mẹ,
vợ con, anh chị em là con đường thứ hai để có được cuộc sống đời đời trên
thiên đường (mù) cùng Dê-su.
Thứ ba, Mark 8: 35, Luke 9: 24: Ai muốn bám lấy
sự sống của mình thì sẽ mất đi sự sống, còn ai vì Ta mà mất đi sự sống thì
sẽ được cứu.
John 12: 25: Ai quý chuộng mạng sống của mình sẽ
mất nó. Ai ghét sự sống của mình trong đời này, sẽ được sống đời đời.
Vậy con đường thứ ba để đi đến cứu rỗi là phải ghét
bỏ sự sống hiện tại để sống đời đời về sau. Chẳng vậy mà Kinh Nhật Khóa của
Ca-tô Giáo có câu cầu nguyện hàng ngày “Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự
đời là chốn chim muông cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm
một cùng vua David” (Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm,
Giao Điểm 2001, trang 173.). Muốn có sự sống đời đời cùng Chúa trên
thiên đường (mù), con đường nhanh nhất là con đường tự sát, chết đi cho rồi.
Thứ tư, như đã viết ở trên, John 3: 16: “Thiên
Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai
tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.” một câu
tôi cho là nhảm nhí nhất trong Tân Ước mà tôi đã phân tích ở trên.
Tôi không hiểu những người như Lê Anh Huy, Huỳnh
Thiên Hồng v… v… sẽ chọn cái gì trên con đường đó: Áp dụng luật Môi-se; hay
bán sạch tài sản, từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em; hay ghét bỏ sự sống hiện
tại hoặc chết quách đi để mau về Nước Trời; hay tin vào cái bánh vẽ cứu rỗi
cho riêng mình mà không nghĩ đến họ hàng tổ tiên của mình ở Việt Nam trước
thế kỷ 16, không cần biết đến nhân loại đã sinh ra trước Dê-su cả triệu
năm? Hi vọng những người như Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng v… v… cho chúng
tôi biết đã chọn con đường đó như thế nào?
Nhưng tại sao con người lại phải tin vào một huyền
thoại của dân tộc Do Thái? Theo huyền thoại này và theo luận điệu thần học
của Ki Tô Giáo thì tin ở đây là tin Dê-su là Con Thiên Chúa người con duy
nhất mà Thiên Chúa đã hy sinh [mà thật ra không phải là đứa con duy nhất mà
là chính Thiên Chúa theo thuyết “Ba Ngôi Thiên Chúa”], bắt phải chịu khổ nạn
đóng đinh trên thập giá để chuộc cái tội tổ tông hoang đường do chính Thiên
Chúa toàn năng gây ra, để cho Thiên Chúa nguôi cơn giận với nhân loại v..v..
chứ không phải là tin vào ơn tha thứ của Dê-su. Thiên Chúa toàn năng, nhưng
lại không thể nghĩ ra cách nào khác để lấy lại sự hòa thuận giữa Thiên Chúa
và con người, phải dùng đến sự hy sinh đứa con một, một tội ác mà các tòa án
dân sự ngày nay không dung thứ. Hổ cũng không ăn thịt con, nhưng Thiên Chúa
còn dữ hơn hổ, không ăn thịt con nhưng lại khiến cho con phải chịu khổ nạn
bị đóng đinh trên cây thập giá, một hình phạt dã man nhất trong lịch sử nhân
loại. Bắt đứa con chịu khổ nạn, gọi là để chuộc tội cho nhân loại, để
xóa sạch tội lỗi trên thế gian, để con người không còn chết vì lìa xa thiên
chúa, nhưng thế gian vẫn đầy những tội lỗi, con người, kể cả những đại diện
của Chúa trên trần (Vicars of Christ), vẫn chết như thường, và con
người, càng ngày càng rời xa thiên chúa. Tình trạng lục địa Âu Châu
ngày nay sống như là không hề có Thiên Chúa mà cũng chẳng cần tới sự cứu rỗi
của Dê-su nữa , theo nhận định của Hội Đồng Giám Mục Âu Châu vào năm 1999,
và lời than phiền của Giáo hoàng hiện thời, Benedict XVI. Vậy sự hy sinh
của Dê-su quả thật là vô ích. Mà Dê-su có hy sinh quái gì đâu. Giả vờ chết
có chưa đầy ba ngày đã sống lại và không cần đeo hỏa tiễn cũng có thể bay
lên trời, coi như sức hút của trái đất như không có. Những luận điệu thần
học có tính cách mạ lỵ đầu óc con người mà ngày nay vẫn còn nhiều người tin
thì kể cũng lạ.
Hơn nữa, xét cho cùng thì “tin vào Dê-su
Ki Tô” là điều không cần thiết và trái với thuyết chuộc tội và cứu rỗi của
Ki-tô Giáo. Tại sao Dê-su lại bị đóng đinh trên thập giá? Các nhà nghiên
cứu Kinh Thánh cho rằng vì Dê-su tự xưng láo lếu là Con của Thượng Đế , là
Vua của Do Thái v..v.. Nền thần học Ki-tô Giáo khẳng định là Dê-su tình
nguyện chịu chết để chuộc tội cho nhân loại và mang lại sự hòa giải giữa
Thượng đế và nhân loại, và nhân loại không còn chịu sự nóng giận và trừng
phạt của Thượng đế hay Chúa Cha nữa. Nếu Dê-su đã chuộc tội cho nhân loại
bằng cái chết của mình thì tin vào Dê-su là điều thừa thãi, nếu không muốn
nói là công cuộc chuộc tội của Dê-su vô giá trị.
Mặt khác, câu “Muốn được ơn cứu rỗi, con người
cần ăn năn tội và tiếp nhận ơn tha thứ của Đức Chúa trời trong Đức Chúa
Jesus Christ..” của Huỳnh Thiên Hồng viết ở trên phản ánh một niềm tin
nhảm nhí của thời bán khai. Chứng minh?
Thứ nhất, Chúa Dê-su chết đã gần 2000 năm nay
rồi. Điều này không ai có thể phủ nhận. Tại sao? Vì Kinh Thánh viết rõ
Dê-su tin chắc là mình sẽ trở lại trần ngay trong thời đại của ông ta, khi
mà một số người theo ông ta còn sống [Matthew 16: 27-28; 24:34; Mark 9:1;
13:30; Luke 21: 27,32; John 14:3], nhưng ông ta đã biệt tăm trong gần 2000
năm nay. Điều này chứng tỏ ông ta đã nói láo, lừa dối hứa hẹn một sự cứu
rỗi cho một số người tin theo ông ta. Do đó, thực ra ông ta không phải là
Chúa cứu dân tộc Do Thái, khoan nói đến chuyện cứu thế, mà chỉ là tự cho
mình là Chúa, là Vua của người Do Thái, một sự hoang tưởng bắt nguồn từ sự
tin vào những điều viết trong Cựu Ước như nhiều nhà phân tích Kinh Thánh đã
ghi nhận, và đây cũng là lý do mà ông ta bị đóng đinh trên cây thập giá,
đồng hạng với hai tên ăn trộm cùng bị đóng đinh ở hai bên.
Thứ nhì, nếu ông ta không phải là Chúa
cứu thế của tất cả nhân loại thì ông ta, cũng như bất cứ thần thánh nào
trong tín ngưỡng nào khác, đều không có quyền tha thứ tội lỗi cho bất cứ
ai. Cho nên, tin rằng Dê-su có quyền tha tội cho nhân loại chỉ là điều tin
nhảm tin nhí, không còn một giá trị nào trong thế giới hiện đại. Nếu nền
thần học Ki-tô giáo bảo rằng tội ở đây là tội tổ tông do Adam và Eve gây ra
thì có nghĩa là các tín đồ tin theo đã đi giật lùi trở lại thời kỳ đen tối
trí thức, khi mà toàn thể Âu Châu đều tin vào thuyết sáng tạo trong Cựu
Ước. Chính giáo hoàng John Paul II đã công nhận thuyết Tiến Hóa và phát
biểu năm 1996 như sau:
“Thân xác con người có thể không phải là
sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa
dần dần...Những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận Thuyết Tiến
Hóa hơn chỉ là một giả thuyết.”
(The human body may not have been the
immediate creation of God, but is the product of a gradual process of
evolution...Fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution
as more than just a hypothesis).
Nếu con người không phải là tác phẩm “sáng tạo” tức
thời của Thượng Đế như Giáo Hoàng John Paul II đã công nhận trước thế giới
thì làm gì có tội tổ tông? Thật vậy, thuyết thần học Ki Tô về sự cứu chuộc
và cứu rỗi của Chúa Giê-su đặt căn bản trên huyền thoại về tội tổ tông.
Nhưng ngày nay, trừ những giáo dân ít học và kém hiểu biết, có còn ai tin
vào huyền thoại "tội tổ tông" nữa đâu. Malachi Martin, giáo sư tại viện
nghiên cứu Thánh Kinh của giáo hoàng tại Rô-ma dưới triều đại giáo hoàng
John XXIII (Professor at the Pontifical Biblical Institute of Rome, served
in the Vatican under Pope John XXIII), đã viết trong cuốn "Sự Suy Thoái
Và Sụp Đổ của Giáo Hội Rô-Ma" (The Decline and Fall of the Roman Church)
như sau, trang 230:
Giáo Hoàng John XXIII nói trong buổi khai mạc
Công Đồng Vatican II ngày 11 tháng 10, 1962, rằng "những giáo lý và quan
niệm sai lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại bỏ
chúng... Nhưng nếu Roncalli (John XXIII) không thấy là điều giảng dạy mới
của mình dẫn tới đâu, thì hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong
những thập niên 1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội
tổ tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác.
Tại sao các nhà thần học và giám mục lại từ
bỏ thuyết thần học về tội tổ tông? Vì ngày nay, thuyết này không còn phù
hợp với trình độ hiểu biết tiến bộ của nhân loại, hơn nữa lại còn chứa những
mâu thuẫn mà không nhà thần học nào có thể biện minh được. Do đó, chúng ta
có thể kết luận rằng, những kẻ nào, như vài kẻ tân tòng Tin Lành như Lê Anh
Huy, Huỳnh Thiên Hồng và Nguyễn Huệ Nhật, Trần Long chẳng hạn, còn tiếp tục
nói về tội tổ tông, Satan, và cho rằng những điều viết trong Kinh Thánh tất
nhiên phải đúng sự thật, chẳng qua chỉ là những kẻ thuộc loại đầu óc mụ mị,
cuồng tín, mù lòa tin bướng tin càn.
Nếu tin nhảm tin nhí, cho rằng Dê-su có quyền năng
ban ơn tha thứ những tội ác thế gian như ăn cắp, giết người, loạn dâm
v..v.., thường xảy ra trong đám tín đồ tin ông ta, trong giới Giáo hoàng
cũng như trong giới các Hồng y, Tổng Giám mục, Giám mục, Linh mục trong
Ca-tô Giáo Rô-ma, và trong giới các giám mục, mục sư Tin Lành, sau khi ông
ta chết cách đây gần 2000 năm, thì có phải là cho rằng ông ta đã mù quáng,
khuyến khích, và có thể coi như là đồng lõa với những tội ác mà ông ta không
hề biết là sẽ như thế nào và bao giờ sẽ xảy ra trong tương lai. Thực tế cho
thấy rằng, luật pháp thế gian, tùy theo mỗi quốc gia, đã coi ơn tha thứ của
Dê-su như vô giá trị và trừng phạt những kẻ có tội đối với xã hội. Những
linh mục, mục sư loạn dâm, những người có Thánh Linh ngự trong người, vẫn bị
tòa án thế tục đưa ra xét xử và bắt ngồi tù, bất kể là Dê-su có ban ơn tha
thứ cho những tôi tớ của Chúa như họ thường tưởng hay không.
Phải chăng vì trước những sự hiểu biết
của con người thời nay về những điều phi lý trong thuyết cứu chuộc và cứu
rỗi của Ki Tô Giáo mà Linh mục Ca-tô James Kavanaugh cũng như Giám mục Tin
Lành John Shelby Spong, cũng như nhiều nhà thần học, học giả khác trong thế
giới Tây phương đều đã bác bỏ thuyết này [Xin đọc bài Huyền Thoại Cứu Rỗi
của Linh mục James Kavanaugh và Dê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh
Cần Phải Dẹp Bỏ của Giám mục Tin Lành John Shelby Spong trên trang nhà
Giao Điểm]
Huỳnh Thiên Hồng, cũng như bất cứ ai,
đều có quyền tin vào Thượng đế cũng như vào cái bánh vẽ “cứu rỗi” của Ki-tô
giáo. Nhưng đưa ra những luận điệu ngớ ngẩn, thuộc loại mù lòa tin bướng
tin càn ra để mà quảng cáo cho Thượng đế hay cái bánh vẽ đó thì chỉ tự chứng
tỏ là mình có đầu óc thuộc loại mì ăn liền. Nếu đưa ra những luận cứ hợp lý
trí, có tính cách thuyết phục thì không ai có thể nói gì. Nhưng nếu chỉ nói
theo niềm tin của mình mà thực sự lại không hiểu gì về chính niềm tin của
mình, thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Qua những bài viết của Lê Anh Huy,
Huỳnh Thiên Hồng, Nguyễn Huệ Nhật, và một vài tân tòng Tin Lành khác ở trong
nước như Phan Như Ngọc, Khuất Minh, Nguyễn Hồng Ân, chúng ta thấy rõ là họ
chỉ làm trò cười cho thiên hạ qua mớ kiến thức quá kém cỏi của họ, cũng như
qua những luận điệu sặc mùi mê tín hoang đường phản ánh những đầu óc thuộc
loại hạ căn, cuồng tín của thời Trung Cổ, thảm thay, vẫn còn sót lại trong
thời đại văn minh tiến bộ của thế giới ngày nay.
[Xin đọc tiếp Phần III.]
Các bài tôn giáo cùng tác giả