ĐẠO PHẬT - ĐẠO CHÚA ĐỐI CHIẾU

Một Khảo Luận Qua Các Tài Liệu

Trần Chung Ngọc

https://sachhiem. net/TCN/TCNtg/TCN91.php

15 tháng 2, 2010

LTS: Thỉnh thoảng người ta nghe đâu đó một vài lời dè bĩu đối với những bài viết về các đạo Thiên Chúa, như của tác giả Trần Chung Ngọc, hay Nguyễn Mạnh Quang, đại khái như: "Đạo ai người nấy giữ, đạo đức nào cho phép phê bình đạo người ta." Mới nghe qua có vẻ chí lý ! Thật ra câu nói này đã có sẵn các "giả định" hay các tiền đề. Giá trị của câu nói đó bị đánh gục bởi tính cách dối trá của các giả định vì chúng quá xa rời với sự thật, và trở thành "phi lý". Giả định đầu tiên là "Các tôn giáo đều dạy ăn hiền ở lành", điều này chỉ đúng trong xã hội Đông Phương, thời tam giáo cổ truyền, lúc chưa có mặt các giáo sĩ Tây phương. Giả định thứ hai là "Những việc xấu của đạo Chúa có thật nhưng chỉ nằm trong lịch sử." Điều này cũng hoàn toàn sai. Ngày nào còn các bài giảng và hành động của các nhà truyền giáo nói xa xôi, bóng gió, hàm ý, hoặc trắng trợn tuyên bố những câu phản dân tộc, ngược với giá trị văn hóa, đạo đức thật sự, và lịch sử yêu nước của dân ta thì ngày đó cần có những bài viết vạch rõ âm mưu thâm độc để giữ gìn những nét đẹp nhân văn của truyền thống dân tộc. Sachhiem.net trân trọng kính mời độc giả cùng nghiên cứu với Giáo sư Trần Chung Ngọc trong bài đối chiếu tôn giáo sau đây. (SH)


1 2

Đạo Phật là tôn giáo duy nhất trên thế gian gọi các tín đồ của mình là những thiện trí thức, nghĩa là những con người đúng nghĩa là con người, và chủ trương con người có thể tự mình tu tập, giác ngộ như Phật..

Đạo Chúa là tôn giáo duy nhất trên thế gian gọi các tín đồ của mình là một “đàn chiên” [a flock], cần phải được chăn dắt để sợ và thờ phụng cha con một ông Thượng đế “vô hình, không thể mô tả được, không thể hiểu được” ở trên trời

[Theo sách National Catholic Almanac, 1968, trang 360, của Công Giáo: invisible, ineffable, and incomprehensible]

 

Vài Lời Nói Đầu:

Gần đây chúng ta thấy xuất hiện một số bài của Ki Tô Giáo nhằm ba mục đích:

► Thứ nhất là so sánh Đức Phật với Chúa Giê-su, lẽ dĩ nhiên là phê bình tiêu cực Đức Phật và đề cao Giê-su. Tuyệt đại những phê bình so sánh này là dựa theo những quan điểm và thiên kiến cá nhân về sự hiểu biết rất nông cạn về Đức Phật, và sự đề cao Giê-su thuần túy dựa trên sự cuồng tín, tin tất cả vào những điều thuộc loại mê tín hoang đường của Ki Tô Giáo.

Chúng ta hãy đọc một luận điệu xuyên tạc Đức Phật của Tin Lành: “Phật Thích Ca giác ngộ để giải cứu những người ở trong thời ấy. Thái tử Sĩ Đạt Ta là một vị Thái tử, còn Phật Thích ca giác ngộ trở thành một nhà cách mạng trứ danh của Ấn Độ.” [Chẳng có Phật tử nào, dù thấp kém đến đâu, hiểu Đức Phật một cách quá hạn hẹp như vậy. Sự kiện Phật Giáo đã phát triển trên khắp thế giới trong suốt hơn 2500 năm và đang phát triển mạnh mẽ ở phương trời văn minh Âu Mỹ đã bác bỏ nhận định rất ấu trĩ trên của Tin Lành]

Và vẫn u mê ca tụng Chúa của họ:

“Còn Chúa Jêsus Christ là ai? Ngài từ đâu đến ? Và đến để làm gì ? Câu trả lời là: Chúa Jêsus Christ là Đức Chúa Trời cao cả, từ trời cao đến thế gian, đến để lên thập tự giá chuộc tội cho loài người.” [Tất cả những điều này đã bị các học giả bác bỏ từ vài trăm năm nay, và gần đây bởi chính Giáo hoàng John Paul II khi Ngài chính thức công nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người, bởi Giám mục Tin Lành John Shelby Spong trong bài “Giê-su như là đấng cứu chuộc: một hình ảnh cần phải xóa bỏ” (Jesus as a rescuer: An image that has to go), bởi Linh mục Công giáo James Kavanaugh trong bài “Huyền Thoại cứu rỗi(The Salvation Myth); và nhà Nữ thần học nổi tiếng của Công giáo, Uta Ranke-Heinemann, đã coi những lời ca tụng trên của Tin Lành là những chuyện trẻ con, cần phải dẹp bỏ trong cuốn “Hãy dẹp đi những chuyện trẻ con” (Putting Away Childish Things)].

Chúng ta cũng có thể đặt một câu hỏi: Thế loài người đã có trên mặt đất từ bao giờ, và Chúa Giê-su leo lên thập giá để chuộc tội cho loài người khi nào, chuộc tội cho loài người sinh ra trước Giê-su hay là sinh ra sau Giê-su, và tội gì?” Chúng ta sẽ thấy, loài người còn tin vào sự chuộc tội của Giê-su thực sự chỉ là loài chiên mang hình người. Chúng ta hãy đọc thêm một câu thuộc loại mù quáng tin nhảm tin nhí của Tin Lành, những người có lẽ trong nhà chỉ có một cuốn sách duy nhất là cuốn Thánh Kinh nhưng chưa bao giờ mở ra đọc.

“Cho đến nay dù loài người văn minh, khôn ngoan tột đỉnh, cũng không ai tìm được một điểm nào mâu thuẫn hay ngụy tạo trong Kinh thánh. Trong khi đó, lần lần cục diện thế giới cứ tiếp tục ứng nghiệm theo lời Kinh thánh.

Ta thấy rõ ràng Kinh thánh tuyệt đối đáng tin, mà đã tin Kinh thánh thì tất cả những gì viết về Chúa Jêsus Christ là chân lý vĩnh cửu với thời gian và không gian.”

Hiển nhiên là người viết những điều vô nghĩa trên chỉ là viết bừa trong cơn mê sảng, vì không hề biết đến những cuốn nghiên cứu về Thánh Kinh như:

- “Cuốn Thánh Kinh Thuộc Loại Dâm Ô: Một Nghiên Cứu Bất Kính Về Tình Dục Trong Thánh Kinh” [The X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scripture, AA Press, Austin, Texas, 1989] của Ben Edward Akerley: cuốn sách dày hơn 400 trang, liệt kê những chuyện tình dục dâm ô, loạn luân trong Thánh Kinh.

- “Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Thánh Kinh” [All The Obscenities in the Bible, Kas-mark Pub., MN, 1995] của Kasmar Gene: cuốn sách dày hơn 500 trang, liệt kê tất cả những chuyện tục tĩu, tàn bạo, giết người, loạn luân v..v.. (Human sacrifice, murder and violence, hatred, sex, incest, child cruelty etc..) trong Thánh Kinh.

- “Sách Chỉ Nam Về Thánh Kinh” [The Bible Handbook, AA Press, Ausrin, Texas, 1986] của W. P. Ball, G.W.Foote, John Bowden, Richard M. Smith ...: Liệt kê những mâu thuẫn (contradictions), vô nghĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities) v..v.. trong Thánh Kinh.

- “Sách Hướng Dẫn Đọc Thánh Kinh Của Người Sống Lại [trong Chúa] Nhưng Hoài Nghi” [The Born Again Skeptic’s Guide To The Bible, Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1979] của Bà Ruth Hurmence Green: Bình luận những chuyện tàn bạo, dâm ô, kỳ thị phái nữ trong Thánh Kinh.

- “Một Trăm Điều Mâu Thuẫn Trong Thánh Kinh[One Hundred Contradictions in the Bible, The Truth Seeker Company, New York, 1922] của Marshall J. Gauvin: Liệt kê 100 điều mâu thuẫn trong Thánh Kinh.

- “Lột mặt nạ Thánh Kinh” [The Bible Unmasked, The Frethought Press Association, New York, 1941] của Joseph Lewis: đưa ra những sai lầm trong Thánh Kinh.

- “Thẩm Vấn Ki Tô Giáo” [Christianity Cross-Examined, Arbitrator Press, New York, 1941] của William Floyd: Phân tích từng quyển một trong Thánh Kinh.

- “Ki Tô Giáo Và Loạn Luân” [Christianity and Incest, Fortress Press, MN, 1992] của Annie Imbens & Ineke Jonker: Viết về Ki Tô Giáo và vấn đề loạn luân, những sự kiện về loạn luân và kỳ thị phái nữ bắt nguồn từ Thánh Kinh.

- “Những chuyện Dối trá và Hoang đường trong Thánh Kinh » [Deceptions and Myths of the Bible, Carol Publishing Group Edition, NJ, 1999] của Lloyd M. Graham.

- “Những chuyện Giả tưởng trong sách Phúc Âm” [Gospel Fictions, Prometheus Books, Buffalo, NY, 1989 ] của Randel McCraw Helms.

- “Thánh kinh của những Tin Dữ” [The Bad News Bible, Prometheus Books, NY, 1995] của David Voas

- “Ai viết những sách Phúc Âm?” [Who Wrote The Gospels?, Millenium Press, 1997] của Randel McCraw Helms

 

Xin nhớ rằng, những cuốn sách khảo cứu về Thánh Kinh như trên đã được phổ biến rộng rãi trên đất Mỹ, và Công Giáo cũng như Tin Lành, dù có nhiều quyền thế và tiền bạc, cũng không có cách nào dẹp bỏ những cuốn sách trên, hay đối thoại để phản bác, vì tất cả đều là sự thật. Nhưng Tin Lành luôn luôn cứ nhắm mắt ca tụng cuốn Thánh Kinh như con vẹt, vì thực ra họ chưa bao giờ đọc Kinh Thánh, cuốn sách mà bà Ruth Hermence Green, một tín đồ Ki Tô Giáo, sau khi đọc nó đã đề nghị phải cấm bán công khai, chỉ được bán dấu diếm dưới quầy hàng như những cuốn sách khiêu dâm, và không được bán cho cho những thiếu niên dưới 18 tuổi.

► Thứ nhì là cố gắng diễn giải lắt léo Kinh Thánh với mục đích hòa hợp những gì viết trong Kinh Thánh với những khám phá của khoa học trong mấy trăm năm gần đây. Trong cả hai mục đích trên, tất cả chỉ là những ngụy biện mê tín tôn giáo phi khoa học cho nên không đáng để chúng ta phê bình, thảo luận.

► Và thứ ba là đi lấy những cái hay cái đẹp trong dân gian và Phật Giáo vơ vào cho Ki Tô Giáo một cách vô lêm sỉ, bất lương trí thức. Thí dụ như về quan niệm “sắc sắc không không” của Phật Giáo hay quan niệm về ông Trời trong dân gian.

Đây là những hình thức xâm lăng tôn giáo và xâm lăng văn hóa điên cuồng của Ki Tô Giáo ở Á Châu, khi Ki Tô Giáo đang phải đối diện với một sự suy thoái cao tốc hay “rơi tự do” (free fall) ở những phương trời văn minh Âu Mỹ, và trước sự phát triển mạnh mẽ của Phật Giáo trên toàn thế giới, nên hi vọng vớt vát lại ở Á Châu, một lục địa chiếm một phần ba dân số trên thế giới, nhưng nơi đây người dân còn biết rất ít về bản chất và thực chất của Ki Tô Giáo, cho nên rất dễ rơi vào vòng ngục tù tâm linh của họ. Nhưng hi vọng của họ cuối cùng cũng chỉ là vô vọng, vì không ai có thể ngăn chận được sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đặc biệt là ở Á Châu. Chân lý Phật giáo hiển nhiên như trái đất quay chung quanh mặt trời. Cuối cùng thì, dựa theo lời của Galileo Galiei nói với giáo hoàng Urban VIII: Rồi cuối cùng mọi người sẽ biết sự thật, và không ai có thể chống được sự thật.

Trước những thủ đoạn bất lương trên của một số người trong Ki Tô Giáo, Công giáo cũng như Tin Lành, tôi nghĩ đã đến lúc tôi cần phải viết một bài đối chiếu giữa đạo Phật và đạo Chúa, điều mà tôi vẫn tránh từ trước tới nay, vì những độc giả không quen thuộc với những tiêu chuẩn trong lãnh vực học thuật có thể hiểu lầm là tôi cố ý phê bình tiêu cực Ki Tô Giáo và đề cao Phật Giáo. Để tránh sự hiểu lầm và những vu khống vô căn cứ như “chống đạo”, “phá đạo”, “gây chia rẽ tôn giáo”, hay ngu đần và thiếu học vấn hơn nữa là “làm tay sai cho Cộng sản” v…v…, tuyệt đại đa số những tài liệu tôi dùng trong bài viết này là của các bậc thức giả Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô, tuyệt đối không có tài liệu nào của Phật Giáo nhận định về đạo Chúa, và cũng không có tài liệu nào của... Cộng sản.

 

ĐẠO PHẬT - ĐẠO CHÚA ĐỐI CHIẾU

 

Không ai có thể đưa ra sự đối chiếu về mọi mặt của hai đạo đã từng xuất hiện trên thế gian từ 2500 năm hoặc 2000 năm trước. Do đó, bài viết này chỉ đối chiếu những nét chính trong bốn chủ đề như sau về cốt tủy của mỗi Đạo:

1. Căn Bản đức tin tôn giáo trong Đạo Phật và Đạo Chúa.

2. Về Đức Phật và Chúa Giê-su với tư cách là Giáo chủ của đạo Phật và đạo Chúa;

3. Giáo lý của Chúa và của Phật.

4. Đạo Phật và Đạo Chúa đã mang lại những phúc lợi gì cho nhân loại.

Sự so sánh đối chiếu này thuần túy nằm trong lãnh vực học thuật, nghĩa là dựa theo những công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh về mỗi đạo của các bậc lãnh đạo, các học giả trí thức ở trong cũng như ở ngoài đạo, chứ không dựa theo niềm tin của các tín đồ ở dưới trong đạo Phật cũng như đạo Chúa, phần lớn không biết rõ về chính đạo mình theo. Và như vậy, tôi xin hoan hỉ đón nhận mọi phê bình hay phản bác đứng đắn, trí thức, dựa trên những tài liệu nghiên cứu, trên lịch sử, chú không dựa trên cảm tính hay những niềm tin cá nhân.

 

I. Sự Khác Biệt Về Căn Bản Đức Tin Trong Đạo Phật Và Đạo Chúa:

a) Căn bản đức tin trong Phật Giáo nằm trong Kinh Nền Tảng Đức Tin, thường được biết là Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama.

Sau đây là "Kinh Nền Tảng Đức Tin" của Phật Giáo, (Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Kinh Tụng Hằng Ngày, Đạo Phật Ngày Nay, Phật Lịch 2546, trang 98-99):

...Này các thiện nam tín nữ Ka-la-ma, nhân đây Như Lai sẽ giảng giải về 10 nền tảng của đức tin chân chánh:

- Một là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.

- Hai là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.

- Ba là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.

- Bốn là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.

- Năm là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.

- Sáu là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.

- Bảy là, chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.

- Tám là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.

- Chín là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.

- Mười là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.

Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm, chỉ khi nào, sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận thấy: "Lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán, nếu sống và thực hiện lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay hiện tại và về lâu, về dài" thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo.

Với Kinh Nền Tảng Đức Tin này, người đời bảo rằng Phật Giáo là đạo của trí tuệ quả nhiên không sai. Vì đây mới chính là nền tảng đức tin mà theo tôi, tuyệt vời nhất trong mọi nền tảng đức tin khác, vì nền tảng này đã tôn trọng phẩm giá và trí tuệ của con người đúng nghĩa là một con người. Kinh Nền Tảng Đức Tin, rất hợp với tinh thần khoa học và trình độ hiểu biết của nhân loại ngày nay, cho nên đã gây một cú “sốc” nặng trong giới trí thức Tây phương. Và Tây phương đã tỉnh thức qua sự phát triển mạnh mẽ của Phật Giáo trong thế giới Tây phương, một sự phát triển tự nhiên, không cần đến bất cứ thủ đoạn nào để thu nhặt tín đồ.

b) Căn bản những niềm tin chính trong Ki-Tô Giáo, đặc biệt là Công Giáo, được gói ghém trong bản Kinh Tin Kính của các Tông Đồ (Apostle's Creed) thường gọi tắt là Kinh Tin Kính, đặt ra khoảng năm 150. Trong thời đại đế Constantine, qua công đồng Nicene năm 325, kinh này được thêm vào vài đoạn nâng Chúa con Giêsu lên cùng hàng với Chúa Cha với những lời có tính cách huênh hoang mơ hồ, trống rỗng vô nghĩa như "Thần của Thần, ánh sáng của ánh sáng" (God of God, light of light) v..v.. Kinh này đưa đến một sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa giáo hội miền Đông và giáo hội miền Tây. Đến thế kỷ thứ 7, kinh này lại được thay đổi và thêm vào thuyết Chúa Ba Ngôi và nhiều điều hoang đường nữa, dài hơn kinh Tông đồ và kinh Nicene nhiều. Kinh này có tên là Kinh Tin Kính Athanasius. Vì kinh này dài và lủng củng nên chẳng có mấy ai đọc nó. Anh Giáo thường dùng kinh Nicene làm căn bản và Công Giáo dùng kinh Tông đồ làm căn bản. Trong sách Giáo Lý Công Giáo của Việt Nam chỉ có Kinh Tin Kính của Tông đồ chứ không có những kinh Nicene hay Athanasius.

Nguyên văn bản kinh như sau, chúng ta nên để ý rằng bản kinh bằng tiếng Việt (Sách Giáo Lý Công Giáo, nxb Zieleks, Texas, 1991, trg. 14) có vài chỗ không đúng với bản kinh bằng tiếng Anh.

Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.

Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu KiTô là con một Đức Chúa Cha cũng là Chúa chúng tôi, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh,

chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô,

chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông,

ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng;

ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần.

Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các Thánh thông công.

Tôi tin phép tha tội.

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.

Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Có vẻ như Kinh Tin Kính tiếng Việt ở trên pha trộn hai bản văn khác nhau, cũ và mới. Để cho vấn đề được rõ ràng và dễ bề so sánh, tôi xin đăng nguyên 2 văn bản tiếng Anh như sau. Những phần để trong dấu ngoặc cong (..), chữ màu xanh, là thuộc bản văn mới trong cuốn Catechism of the Catholic Church, xuất bản năm 1994, hoặc để thay một từ cũ (có gạch dưới), hoặc mới thêm vào. Còn những phần trong dấu ngoặc thẳng [..], chữ màu đỏ, là trong bản văn cũ được bỏ đi:

I believe in God the Father Almighty,

maker (creator) of heaven and earth

And in Jesus Christ, his only Son, our Lord

who (He) was conceived by (the power of) the Holy Spirit,

(and) born of the Virgin Mary;

(Jesus Christ) suffered under Pontitus Pilate,

was crucified, dead (died), and (was) burried;

he descended into hell

(on) the third day he rose again [from the dead];

he ascended into heaven

and sitteth (is seated) on (at) the right hand of

[God] the Father [Almighty]

from thence he shall (will) come (again)

to judge the living and the dead.

I believe in the Holy Spirit,

(I believe in) the holy catholic church,

[the communion of saints]

(I believe in) the forgiveness of sins,

(I believe in) the resurrection of the body,

(I believe in) [and the] life everlasting, Amen.

Với kiến thức của con người hiện nay, Giám Mục Tin Lành John Shelby Spong đã viết một cuốn khảo luận nhan đề Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Hoặc Chết trong đó ông đưa ra một nhận định tổng quát về Kinh Tin Kính:

Những lời trong Kinh Tin Kính của các Tông đồ, và sau đó được khai triển thành Kinh Tin Kính Nicene, được nặn ra trong một thế giới quan mà ngày nay không còn hiện hữu. Thật vậy, thế giới quan này thật là xa lạ đối với thế giới mà tôi đang sống trong đó. Cách nhận thức thực tại khi những Kinh Tin Kính của Ki Tô Giáo được đề ra thì nay đã bị xóa sạch bởi sự phát triển hiểu biết của con người. [1]

Kinh Tin Kính trên rõ ràng là sản phẩm của một số người ở vài thế kỷ đầu, không hiểu gì về vũ trụ học, sinh học, di truyền học, sinh hóa học, cổ sinh vật học, địa chất học, vật lý học hiện đại v...v..., những môn học mới phát triển trong những thế kỷ gần đây. Ngoài ra, bản kinh này còn chứa nhiều điều mâu thuẫn, phi lý, hoang đường, chỉ hợp với những tín đồ đã bị điều kiện hóa, không có khả năng tự mình suy nghĩ. Cho nên những người ngày nay còn tin vào những điều trong Kinh Tin Kính là những người, theo nhận định của Mục sư Tin Lành Ernie Bringas, trong đầu có một khuyết tật, những hiểu biết của họ thuộc thế kỷ 17, hay nói khác đi, chỉ là những người mù lòa tin bướng tin càn.

Nhưng vấn đề chính ở đây không phải là Kinh Tin Kính chứa những niềm tin đã lỗi thời và không còn giá trị, mà Kinh đó đã chứng tỏ Ki Tô Giáo là tôn giáo của “đức tin”, một đức tin thuộc loại mê tín lỗi thời bất kể đến những tiến bộ trí thức của nhân loại. Thảm thay, đa số tín đồ Ki Tô Giáo vẫn còn tin vào những điều không còn giá trị trong Kinh Tin Kính. Then chốt của đạo Chúa là tin Giê-su thì sẽ được cứu rỗi, không tin thì sẽ bị đầy đọa hỏa ngục , như được viết trong một câu thuộc loại lừa bịp ngu xuẩn đần độn nhất trong Tân Ước, John 3: 16: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”, vì câu này chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Giê-su, mới cách đây gần 2000 năm, trong khi loài người đã xuất hiện trên trái đất ít ra là vài trăm ngàn năm, nếu không muốn nói là cả triệu năm.

Nói tóm lại, sự khác biệt giữa căn bản đức tin trong đạo Phật và đạo Chúa là ở hai cụm từ: “chớ vội tin” trong đạo Phật, và “tôi tin” trong đạo Chúa. Rõ ràng là: đạo Phật dựa vào trí tuệ, sự hiểu biết, sự kiểm chứng để đi đến đức tin, còn đạo Chúa dựa tất cả vào một đức tin thuộc loại tin bừa, không cần biết, không cần hiểu, không cần đến kiểm chứng, dù rằng những điều trong Kinh Tin Kính, theo Giám mục John Shelby Spong nhận định ở trên, nay đã bị xóa sạch bởi sự phát triển hiểu biết của con người [về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người. TCN]. Vì vậy đạo Chúa có nhiều tín đồ hơn đạo Phật. Trong dân gian, số người kém hiểu biết bao giờ cũng là số đông.

 

II. Về Đức Phật và Chúa Giê-su với tư cách là Giáo chủ của đạo Phật và đạo Chúa.

Trước hết chúng ta cần biết một sự kiện: Đức Phật đúng thật là đấng đã sáng lập ra đạo Phật, còn Giê-su thì không phải là người sáng lập ra đạo Chúa. Tân Ước viết rất rõ, Giê-su tin rằng ngày tận thế đã gần kề, nên không hề có ý định thiết lập một đạo mà chúng ta gọi là “đạo Chúa” [Xin đọc Matthew 16: 27-28; Matthew 24:34; Mark 9: 1; Mark 13:30; Luke 21: 27, 32; và John 14: 3 trong Tân Ước]. Cho nên chúng ta không thể gọi Giê-su là “Giáo chủ” của đạo Chúa. Tuy nhiên, qua mánh mưu ngụy tạo thần học của các thượng phụ Ki Tô Giáo để mê hoặc người dân thấp kém trong thời bán khai, dù sao thì Ki Tô Giáo cũng đã thành hình, và tín đồ được dạy là phải tin vào huyền thoại “cứu thế” và “cứu rỗi” của Giê-su. [Xin đọc bài “Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ”: https://www.sachhiem.net/ TCN/TCNtg/TCN37.php, của Giám mục John Shelby Spong, và bài “Huyền Thoại Cứu Rỗi: https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php, của Linh Mục James Kavanaugh.] Dù sao thì Giê-su đã trở thành đối tượng thờ phụng của khoàng một phần ba dân số trên thế giới. Cho nên, trong mục đích đối chiếu giữa đạo Phật và đạo Chúa, chúng ta cũng nên biết về con người của Đức Phật và của con người Giê-su.

Trong thế giới Âu, Mỹ (Bắc và Nam), và Phi Châu, Chúa Giê-su được biết đến nhiều hơn, không phải vì những giáo lý cao cả trong Kinh Thánh của Ki-tô Giáo, Cựu Ước cũng như Tân Ước, mà vì chính sách truyền đạo của Ki-tô Giáo trong thế giới Tây phương cộng với chính sách thực dân của Tây phương ở Phi Châu, Nam Mỹ, Bắc Mỹ v…v…

Trong thế giới Á Đông, Đức Phật được biết tới nhiều hơn, không phải vì chính sách truyền đạo của Phật Giáo, mà vì những giáo lý nhân bản, trí thức, khoa học của Phật Giáo.

A. Về Chúa Giê-su:

Có thể nói, Giê-su là một nhân vật đã được tìm hiểu, nghiên cứu kỹ hơn bất cứ nhân vật nào trên thế giới. Đây là một vấn đề tìm hiểu quan trọng về một khuôn mặt thần thánh của Ki Tô Giáo, nên phần khảo luận này hơi dài, xin các độc giả kiên nhẫn.

Có lẽ tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô Giáo không hề đọc đến 3 tác phẩm nhan đề Giê-su là ai?, trong số hàng trăm tác phẩm khác, mà nội dung là kết quả nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong lịch sử Ki Tô Giáo. Tác giả 3 tác phẩm nghiên cứu về cùng một chủ đề này là hai học giả Ki-Tô: Colin Cross và Thomas Wright, và Linh mục Công giáo John Dominic Crossan, giáo sư thần học tại đại học De Paul ở Chicago trong 26 năm. Ba tác phẩm này cùng với nhiều tác phẩm nghiên cứu khác ngày nay đã có thể cho chúng ta một cái nhìn khá chính xác về nhân vật Giê-su. Ngay cả mặt mũi thực sự của Giê-su cũng được đài BBC dùng máy điện toán tái tạo dựa trên những mẫu sọ người Do Thái cách đây 2000 năm, và những hình vẽ người Do Thái cho đến thế kỷ thứ 4. Hình ảnh gần đúng với sự thực này đã được đăng trên báo chí, và chương trình “Dateline NBC” của đài truyền hình NBC ngày 11 tháng 4, 2001 cũng đưa lên cho cả thế giới coi. Hình ảnh này cũng được đài TV Discover loan truyền cho thế giới coi tối ngày 15 tháng 4, 2001, trong cuốn phim khảo cứu “Jesus: The Complete Story”, cùng với những chi tiết đối ngược với những luận điệu thần học của giáo hội.

Theo các khoa học gia thì hình ảnh Giê-su mà chúng ta thường thấy trên các hình vẽ, tượng hình v..v.. ngày nay chỉ là những sản phẩm tưởng tượng của các nghệ sĩ (Artists’ fantasies) thuộc giống dân da trắng, vì sự thực là không có một tài liệu nào cho biết hình dáng Giê-su ra sao. Nhưng với kỹ thuật tái tạo trong khoa học ngày nay, người ta đã có thể tái tạo khuôn mặt của Giê-su một cách sát với thực tế nhất. Khuôn mặt này trông thô lỗ, râu tóc quăn, da ngăm ngăm, mũi to, môi dày v..v.., như chúng ta thấy sau đây, không có gì giống với những hình ảnh do người da trắng tạo ra theo sự tưởng tượng của họ.

Hình Giê-su do đài BBC (Anh) tái tạo năm 2001 và được đài Discovery (Mỹ) phát hành dưới dạng DVD

Vậy thì “Giê-su là ai?”.

Cho đến thế kỷ 16, hầu như toàn thể Á Châu chẳng có mấy người biết Giê-su là ai. Còn ở Âu Châu thì không một ai dám đặt ra câu hỏi này và không một ai dám phê phán bình luận cuốn Thánh Kinh vì sợ bị tù đầy, tra tấn và mang đi thiêu sống. Chi tiết về “Giê-su là ai?” đã được trình bày tạm gọi là đầy đủ trong Chương I của cuốn “Chúa Giê-su Là Ai? Giảng Dạy Những Gì?”, của tác giả Trần Chung Ngọc, Giao Điểm xuất bản năm 2002. Độc giả có thể đọc Chương này trên https://www.sachhiem. net/TCN/TCNtg/ Giesu/Giesulaai2.php.

Sự tiến bộ trí thức là một định luật thiên nhiên của nhân loại. Dù giáo hội Công giáo đã tìm hết cách và xử dụng tối đa mọi quyền lực thế gian trong suốt 1500 năm, từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 19, với những biện pháp dã man, tàn bạo nhất để ngăn chận sự tiến bộ này, cuối cùng giáo hội cũng phải đầu hàng trước những bước tiến trí thức của loài người. Thật vậy, ngay từ 1760, Hermann Samuel Reimarus, giáo sư ngôn ngữ Á Đông tại đại học Hamburg bên Đức, đã viết một cuốn sách đưa ra nghi vấn về sự thực lịch sử viết trong các Phúc âm. Vì sợ bị giáo hội trả thù, ông ta đã xếp đặt để cho tác phẩm của ông được xuất bản sau khi ông ta chết. Rồi cho đến năm 1835, Giáo sư Thần học David Friedrich Strauss cho ra đời cuốn Khảo Xát Kỹ Cuộc Đời Của Giê-su (Life of Jesus Critically Examined) trong đó tác giả dùng những phương pháp phân tích để đi tới kết luận: các Phúc âm không phải do các tông đồ của Giê-su viết mà là do những tín đồ Ki Tô về sau, những người đan lẫn những truyền thuyết, những điều tưởng tượng và sự kiện vào với nhau.”(..the gospels were written not by followers of Jesus but by later Christians who wove fact, legend, and fantasy together). Sau đó Strauss bị cấm dạy môn Thần học cho đến khi chết. Chúng ta có thể đọc tóm tắt những tác phẩm của Reimarus và Strauss trong cuốn sách được coi là làm “lung lay thế giới thần học” (..it rocked the theological world) vào đầu thế kỷ 20, Tìm Kiếm Nhân Vật Giê-su Lịch Sử (The Quest of The Historical Jesus), của một tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới, Y Khoa Bác Sĩ Albert Schweitzer. Ngoài bằng bác sĩ, Albert Schweitzer còn có hai bằng cấp khác: tiến sĩ Thần học, và tiến sĩ Triết Học.

Bước sang thế kỷ 20, sự khám phá ra những cuộn kinh nơi Biển Chết (The Dead Sea Scrolls) song song với kỹ thuật định tuổi vật chất cùng nhiều khám phá khác trong ngành khảo cổ đã giúp cho những nhà nghiên cứu rất nhiều trong công cuộc đi tìm những sự thực trong Thánh Kinh. Rồi đến thập niên 1960, những khoa dạy môn Thần học trong các trường đại học Ki Tô bắt đầu xuống dốc vì càng ngày càng ít người học, nhiều học giả đã bỏ các trường đại học Ki Tô để sang dạy tại các trường đại học công, nơi đây họ có nhiều tự do hơn trong việc khảo cứu.

Tất cả những sự kiện trên đã làm động cơ thúc đẩy cho công cuộc nghiên cứu Phúc âm và về nhân vật Giê-su phát triển mạnh mẽ. Điển hình là Hội Nghiên Cứu Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, đã phối hợp các kỹ thuật nghiên cứu tân tiến nhất như khảo cổ, cổ sinh vật học, phương pháp định tuổi vật chất, với phương pháp phân tích ngữ học, cổ ngữ học, xã hội học, sử học v..v.. để phân tích từng câu, từng lời, từng sự kiện viết trong Phúc âm. Một khuôn mặt đặc biệt trong ngành nghiên cứu Tân Ước lại chính là một linh mục Công giáo: John P. Meier, giáo sư Thần học. Trong tác phẩm Một Người Do Thái Ở Ngoài Lề, Không Đáng Kể: Nghĩ Lại Về Nhân Vật Giê-su Lịch Sử (A Marginal Jew: Rethinking The Historical Jesus), tập 1 và 2, nhà xuất bản Doubleday tại New York phát hành năm 1991 và 1994, với sự duyệt và phê chuẩn (imprimatur) của Vatican, tuy còn dè dặt trong những điểm tế nhị khác thuộc về đức tin Công giáo, linh mục Meier đã thẳng thắn luận về những bằng chứng chứng tỏ Giê-su là đứa con hoang, đã lấy vợ, và nhiều chủ đề khác có thể gây ngỡ ngàng trong một giáo xứ (He discusses evidence that the historical Jesus was illegitimate, that he was married, and various topics that might raise eyebrows in a parish house). Hơn thế nữa, Meier đồng ý với các đồng nghiệp trong ngành, bác bỏ những chuyện có tính cách siêu nhiên trong Tân Ước như là sự thực lịch sử: Giê-su đi trên sóng, biến đổi nước thành rượu, và các phép lạ khác v..v.. Linh mục Meier cũng bàn đến một vấn đề quan trọng khác liên hệ đến tín lý then chốt “Maria đồng trinh” của Công giáo, và đưa ra nhiều bằng chứng trong Thánh Kinh chứng tỏ là bà Maria đã sinh nở ít ra là 7 lần, với Giê-su là đứa con đầu lòng. Lẽ dĩ nhiên, tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô không hề biết đến những kết quả nghiên cứu sâu rộng này.

Vậy kết quả những công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su ra sao? Cho đến nay, các chuyên gia về tôn giáo ở trong cũng như ngoài Ki Tô giáo đã có thể đưa ra một giải đáp khá chính xác cho câu hỏi "Giê-su là ai?". Những kết quả nghiên cứu tổng hợp về nhân vật Giê-su đã cho chúng ta một con người lịch sử hoàn toàn khác với hình ảnh Giê-su mà các giáo hội Ki Tô đưa ra trước đám đông tín đồ thấp kém. Tại sao vậy? Chúng ta có thể đọc trong cuốn Sự Thật Về Phúc Âm của Russell Shorto, một học giả đã nghiên cứu và duyệt qua những công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong hai thế kỷ 19 và 20, những đoạn như sau:

Bữa ăn chiều cuối cùng, Sinh ra từ một trinh nữ, chết rồi sống lại: những niềm tin chính của Ki Tô Giáo đang bị thử thách từng điểm một. Các học giả chuyên nghiên cứu Thánh Kinh – một thời đã là những người gìn giữ nền Thần học Ki Tô – ngày nay đang dùng khoa khảo cổ, cổ sinh vật học, ngữ học, khoa học điện toán, và ngay cả khoa vật lý các hạt nhỏ, để tìm hiểu vấn đề “Giê-su là ai?” Kết quả là một sự duyệt lại tận gốc rễ Phúc âm và những chuyện trong Phúc âm nay đã trở nên thật là rõ ràng nhưng lại làm cho một số người choáng váng bàng hoàng.

Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Công giáo bảo thủ cho phép nghiên cứu (như LM John Meier. TCN), cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại.

...Công cuộc nghiên cứu của Hội Nghiên Cứu Giê-su, và của tất cả những nhà nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay, biểu thị cho một sự chuyển hướng của các học giả chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh về tiêu chuẩn lương thiện văn hóa, lánh xa sự độc đoán của giáo hội. Theo Funk (chủ tịch Hội Nghiên Cứu Giê-su. TCN), các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng (ảo tưởng tin rằng mình chính là con của Thần Do Thái và là đấng cứu tinh của dân Do Thái. TCN)họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. [2]

Có ba chi tiết quan trọng trong đoạn tóm tắt kết quả nghiên cứu về nhân vật Giê-su của Shorto ở trên: 1) Phần lớn những điều mà ngày nay chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại; 2) Giáo hội và các bậc lãnh đạo trong giáo hội đã biết rõ sự thực trên; 3) Chỉ có những tín đồ Ki-Tô, và có thể những bậc lãnh đạo Ki Tô trong các nước kém phát triển, hoặc một số người ngoại đạo không hề nghiên cứu về nhân vật Giê-su, là vẫn còn tin rằng những gì giáo hội dạy về Giê-su đều là sự thực, và do đó vẫn tiếp tục sống trong bóng tối.

Phải chăng Shorto đã đưa ra những nhận định vô căn cứ? Tuyệt đối không phải. Chúng ta hãy xét đến vài kết quả nghiên cứu điển hình về nhân vật Giê-su của một số giám mục, linh mục, học giả chuyên về tôn giáo:

1. Trong cuốn Giê-su Là Ai ?, học giả Ki Tô Colin Cross viết như sau trong phần dẫn nhập:

Nhìn từ xa và xét về toàn thể, Giê-su ở Nazareth có vẻ như là một nhân vật lịch sử hiển nhiên. Nhưng khảo xát kỹ về bất cứ chi tiết nào cũng làm cho hình ảnh này mờ nhòa. Lý do về sự bất minh này thật là hết sức đơn giản. Đó là chúng ta không có bất cứ một tài liệu nào, thuộc bất cứ lãnh vực nào, về phần lớn cuộc đời của ông. Ông ta không viết một cuốn sách nào. Ngay cả hình dáng của ông ra sao cũng không ai biết. Không có ngay cả một bằng chứng nào tự nó có giá trị để chứng tỏ là ông đã hiện hữu. Những tài liệu hiện hữu, những phúc âm, chỉ viết về một phần nhỏ nhoi của đời ông và được viết theo quan điểm sùng bái cá nhân và nghi thức tôn giáo chứ không phải theo quan điểm sử học thông thường. Trong những chuyện kể trong phúc âm có những điều bất phù hợp nghiêm trọng cũng như những điều rõ ràng là không thể xảy ra. [3]

2. Mục Sư Ernie Bringas cũng viết như sau, trong cuốn Thi Hành Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Do Quyền Lực Thánh Kinh Gây Nên:

Điểm đồng thuận ngày nay là nhân vật lịch sử Giê-su - những lời Giê su nói và những hành động Giê-su làm, và những biến cố xảy ra trong cuộc đời của ông - không thể xác định được chính xác. Trong khi chúng ta biết tác giả của một phúc âm nhìn nhân vật Giêsu như thế nào như họ đã viết lại, và viết lại như thế nào, thường là chúng ta không thể đi quá những điều viết trong phúc âm để biết về chính con người thực của Giê-su. Chúng ta không thể đoan quyết là những lời nào viết trong phúc âm về cuộc đời của Giê-su là đúng như sự thực. [4]

3. Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị Giáo sư Thần học Ca-Tô (A Chair in Catholic Theology), viết trong phần dẫn nhập của cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con như sau:

Chúng ta vấp phải sự thực sau đây về nhân vật Giê-su. Chúng ta không biết khi nào ông ta sinh ra và ở đâu cũng như khi nào ông ta chết. Ông ta là một người không có một tiểu sử. Chúng ta không biết những hoạt động của ông như là một thầy giảng trước quần chúng thật sự đúng là ở đâu và kéo dài bao lâu. Nói cho thật đúng, chúng ta chẳng biết gì nhiều hơn là ông ta đã sinh ra đời, có người theo ông ta làm môn đồ, và ông ta bị hành quyết trên giá hình chữ thập – loại hình phạt của La Mã – và như vậy có một kết cục xấu số...

Ông Giê-su này không chỉ nằm sâu dưới đất ở Jerusalem (nghĩa là thực ra đã chết và chôn ở Jerusalem. TCN) mà còn ở dưới một núi những nghệ thuật tồi tệ, chuyện hoang đường, và cách diễn giải của giáo hội. [5]

4. Học giả Andrew Harvey viết trong cuốn Con Của Người:

Không còn nghi ngờ gì nữa, sự phân tích lịch sử đã chứng tỏ là các phúc âm không phải là những điều do Thiên Chúa linh cảm hoặc là những điều trung thực do nhân chứng kể lại về cuộc đời của Giê-su, mà là những câu chuyện đã được gọt dũa cẩn thận, được xếp đặt để cho phù hợp với, hoặc cổ xúy những sở thích tôn giáo, nhân cách, nhóm người khác nhau trong những năm đầu đầy xúc động của Ki Tô Giáo. Những phúc âm không phải là những tài liệu viết ra theo sự linh cảm trực tiếp của Thần thánh, hoặc những ghi chứng lịch sử rõ ràng; chúng không phải là những điều mạc khải trực tiếp của Thần Ki Tô hoặc là những chuyện do những nhân chứng, những người biết rõ Giê-su, muốn kể lại rõ ràng những kinh nghiệm của họ đối với Giê-su. Được viết vào cuối thế kỷ đầu, chúng biểu thị và cô đọng những truyền thống trong những cộng đồng Ki Tô đầu tiên và từ từ biến đổi trong khoảng 300 năm để thành những phúc âm ngày nay chúng ta có. [6]

5. Giám mục John Shelby Spong viết trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà:

Giê-su được diễn giảng bởi những tín đồ Ki Tô lúc đầu theo những quan niệm về Thiên Chúa mà họ tin tuyệt đối, dựa theo hình ảnh của một ông vua trên trời. Điểm chủ yếu là hình ảnh Giê-su ngồi bên phải cái ngai của Chúa Cha ngồi trên trời. Hình ảnh này phản ánh niềm tin huyền thoại phổ thông thời đó về một vũ trụ được coi như là một vương quốc.

Nhưng Giê-su đã được “sinh ra từ một người đàn bà”. Sự sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết. Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ . [7]

6. Trong cuốn Giê-su Nguyên Thủy, hai tác giả Elmar R. Gruber và Holger Kersten viết:

Hầu như không có đề tài nào khác gây sôi nổi trong thế giới Tây phương như là nhân vật “Giê-su ở Nazareth”; hầu như không có đề tài nào khác đã đưa đến sự hiện hữu của nhiều cuốn sách như vậy, hoặc đến những sự tranh luận sôi nổi và nồng nhiệt như vậy. Tuy vậy, nhân cách của con người Giê-su lịch sử được bao phủ bởi một bức màn đen tối dày đặc. Trong 15 thế kỷ, chúng ta chỉ có những chuyện kể về Giê-su theo luận điệu thần học chính thức của giáo hội, viết ra với mục đích củng cố đức tin Ki-Tô cùng lôi cuốn người ngoại đạo vào Ki Tô giáo....

Trong thế kỷ 19, lần đầu tiên Tân Ước được đưa ra làm chủ đề nghiên cứu trí thức. Đây là sự bắt đầu của công cuộc khảo cứu có hệ thống về cuộc đời của Giê-su.

Năm 1835 David Friedrich Strauss đã xuất bản một cuốn sách nhan đề “Cuộc Đời Của Giê-su”, gây nhiều ảnh hưởng. Trang bị với những quan điểm phân tích thuần lý và với tinh thần không thỏa hiệp, Strauss đã thẳng thắn bác bỏ tích cách chính xác lịch sử của các phúc âm. Đối với ông, những điều viết trong phúc âm chỉ là những truyền thuyết và những chuyện sùng tín về hình ảnh con người Giê-su, lấy ý từ Cựu Ước. Sự chống đối tính cách xác thực của phúc âm như trên còn đi xa hơn vào khoảng giữa thế kỷ 19. Bruno Bauer loại hẳn hình ảnh của Giê-su trong công việc nghiên cứu lịch sử, tuyên bố rằng nhân vật chính trong Tân Ước là một phát minh huyền thoại. Những gì về Giê-su và Paul (Phao Lồ) chỉ là những giả tưởng văn chương; và Ki Tô Giáo được coi là tạo ra bởi một nhóm cuồng tín pha chế đức tin xung quanh hai nhân vật phát minh từ những truyền thống tôn giáo Hi Lạp, Do Thái và La Mã.

Ngày nay chúng ta có đến hơn 80000 tác phẩm chuyên khảo về Giê-su, nhưng tác dụng của chúng để soi sáng nhân vật Giê-su lịch sử thật quả là vô cùng khiêm nhường. Ai là Giê-su? Ông ta sinh ra bao giờ? Hình dáng ông ta ra sao? Khi nào ông ta bị đóng đinh trên thập giá? Bao giờ, ở đâu và ông ta chết như thế nào? Tìm kiếm giải đáp cho những câu hỏi trên đã trở thành một vấn đề không giải quyết nổi. Trong những cuốn sách viết trong hai thế kỷ đầu hầu như không có cuốn nào nhắc đến Giê-su như là một con người thực sự hiện hữu. Những nguồn tài liệu về sau toàn là những tác phẩm thần học, dựa trên niềm tin không thắc mắc: Giê-su là con đấng Cứu Tinh (của dân Do Thái. TCN) và là con của Thần Gia-vê (thần của dân Do Thái. TCN). Do đó, hầu như không có những tác phẩm thực sự vô tư về Giê-su, và cho tới ngày nay, công cuộc nghiên cứu trí thức cũng không ở vị thế có thể khẳng định là Giê-su sinh ra năm nào. Hầu như không có tài liệu nào nói về cuộc đời niên thiếu của Giê-su, một giai đoạn quan trọng làm nền tảng tạo ra những cá tính của con người. Ngay cả những chuyện kể về khoảng thời gian ngắn ngủi ông ta tiếp xúc với quần chúng cũng không nói gì nhiều về tiểu sử của ông ta. Có vẻ như là ông ta không được các sử gia đương thời biết tới, hay ít nhất là không đáng để nhắc tới. Vậy làm sao mà các sử gia này không hề biết tới những phép lạ hoặc những hiện tượng kỳ lạ như được kể trong phúc âm? [8]

7. Michael Martin trong cuốn Bản Án Chống Ki Tô Giáo viết:

Những phương pháp phân tích hiện đại về học thuật khảo cứu Thánh Kinh đã đặt vấn đề về tính cách xác thực của Thánh Kinh, nhất là Tân ước. Trong ánh sáng của sự phân tích Tân Ước này, nhiều nhà thần học đã cho rằng người ta chẳng biết được bao nhiêu về Giê-su. Thí dụ, W. Trilling cho rằng “không có một ngày tháng nào trong đời sống của Giê-su” có thể được khẳng định và J. Kahl đoan quyết rằng điều duy nhất ta biết về Giê-su là ông ta “đã hiện hữu trong một thời điểm mà chúng ta chỉ có thể biết một cách đại khái”. Nhiều học giả khác cho rằng việc tìm kiếm một Giê-su lịch sử là điều vô vọng..

Sự phân tích về con người Giê-su lịch sử được tôn trọng nhất ngày nay là của G. A. Wells. Wells nhấn mạnh rằng những nghi vấn về giá trị lịch sử của Giê-su của ông phần lớn dựa trên những quan điểm của các nhà thần học Ki Tô và các học giả chuyên về Thánh Kinh. Những vị này đồng thuận chấp nhận rằng các phúc âm được viết trong khoảng từ 40 đến 80 năm sau khi Giê-su mãn kiếp người và bởi những tác giả vô danh không đích thân biết đến Giê-su. Theo Wells thì những vị trên cũng thừa nhận rằng trong những chuyện kể về Giê-su, phần lớn là truyền thuyết và những chuyện trong phúc âm được viết theo động cơ thần học của những tác giả. Ngoài ra, những bằng chứng trong phúc âm thuần túy là của Ki Tô Giáo. [9]

Trên đây chỉ là vài nhận định tổng quát về tiểu sử không rõ ràng của Giêsu. Sở dĩ những học giả nghiên cứu về nhân vật Giê-su đưa ra những nhận định như trên là vì họ đã dùng những phương pháp khảo cứu phân tích khoa học trên mọi khía cạnh liên quan đến con người Giê-su, thí dụ như đối chiếu cổ sử, phân tích cổ ngữ, phân tích từng câu từng lời trong Thánh Kinh v..v.. Đi vào chi tiết và dựa trên Thánh Kinh, chúng ta còn thấy rõ ràng là không có một căn bản nào có tính cách thuyết phục để cho những người có đầu óc có thể biết được Giê-su là ai để mà tin, vì trong Thánh Kinh có quá nhiều điều mâu thuẫn về con người lịch sử Giê su. Những chi tiết về một phần nhỏ, trong khoảng 3 năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi 33 năm của Giê-su được mô tả trong bốn Phúc Âm Matthew (Mã Thi Ơ), Mark (Mác-cô), Luke (Lưu Ca) , và John (Gioan), và những thư viết cho tông đồ của Paul (Phao Lồ). Nhưng chính những chi tiết này: khi sinh ra đời, gia phả, thời gian gần 3 năm đi giảng đạo, khi chết, đều hoàn toàn mâu thuẫn nhau. Vì chúng hoàn toàn mâu thuẫn nhau, chứ không phải là bổ túc cho nhau theo như luận điệu bào chữa của một số tín đồ được dạy như vậy mà không tự chính mình đọc Thánh Kinh với một đầu óc suy luận, cho nên, chúng ta không thể dựa vào đâu để tin chi tiết nào thật, chi tiết nào giả.

Kết luận về Chúa Giê-su:

1. Giê-su là một nhân vật không có một tiểu sử rõ rệt.

2. Tất cả những gì viết về Giê-su trong Tân ước chỉ là những truyền thuyết và huyền thoại.

3. Các Giáo hội Ki-Tô và giới trí thức lãnh đạo trong các Giáo hội đều biết Giê-su chỉ là một người thường sống với ảo tưởng mình là con của Thiên Chúa của Do Thái, và là cứu tinh của dân tộc Do Thái mà thôi.

4. Nhưng họ vẫn dấu kín những sự thực về Giê-su trước đám tín đồ thấp kém.

5. Do đó, những tín đồ Ki Tô Giáo, nhất là những tin đồ không phải là người Do Thái, tin vào Chúa Giê-su chẳng qua chỉ là tin vào sự lừa dối của các Giáo hội Ki Tô mà mục đích là để tự tạo những quyền lực vật chất thế tục.

Thật tội nghiệp.

 

B. Về Đức Phật:

Hình Đức Phật trên trang nhà Đạo Phật Ngày Nay

Trái với Chúa Giê-su, Tiểu sử Đức Phật rất rõ ràng. Tất cả những nhà nghiên cứu về Phật Giáo, Đông cũng như Tây, đều đồng thuận những nét chính sau đây về Đức Phật:

Hơn 2500 năm trước, tại Vương Quốc mà ngày nay gọi là Nepal, dưới chân núi Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya), một hoàng tử có tên là “Tất-Đạt-Ta Cồ Đàm” (Siddharta Gotama) đã sinh ra, con của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Tịnh Diệu (Maha Maya). Hoàng tử sống trong nhung lụa, và đức Vua không để cho Hoàng tử biết đến những cảnh khổ trong dân gian ở ngoài cung. Đức Vua cưới vợ cho Hoàng từ, đó là Công nương Yasoddhara. Sau những chuyến tuần du ra ba cửa thành, Hoàng tử nhìn thấy cảnh già yếu, ốm đau bệnh tật, xác chết trong dân gian. Hoàng tử nhận thức được rằng, đời sống trên nhung lụa của Người ở trong cung chỉ là một ảo ảnh. Sự khổ hiện hữu khắp chung quanh Người. Chắc hẳn vì có một đầu óc rất nhạy cảm cho nên Hoàng tử cảm thấy lòng rung động trước những cảnh khổ của những người khác. Từ đó những ý nghĩ như: nguyên nhân tự đâu mà có những sự khổ, làm sao có thể giúp nhân loại thoát được sự khổ v..v…, đã ám ảnh Người. Rồi một ngày kia, Người nhìn thấy một Thầy Tu khổ hạnh phong thái bình thản, an nhiên tự tại, đưa đến ý nghĩ cho Người muốn xuất gia. Hoàng tử đi đến quyết định từ bỏ sự giàu sang phú quý của mình, quyết chí đi tìm đường chấm dứt sự khổ. Khi đó Người đã có một đứa con trai tên là Rahula. Nhưng Người cương quyết rứt bỏ những tình cảm cá nhân về thê nhi, và bỏ hoàng cung, sống một cuộc sống khổ hạnh với hi vọng có thể tìm ra con đường thoát khổ. Khi đó Người được 29 tuổi.

Mới đầu, Người tu học với các đạo sĩ Bà La Môn. Không có kết quả, Người đi tu khổ hạnh cùng với năm bạn tu khác. Đến khi Người cảm thấy mình gầy yếu kiệt sức mà chẳng thấy kết quả gì, Người bèn từ giã các năm bạn tu khổ hạnh và tự mình đi tìm chân lý. Tại một nơi, Người được một thôn nữ tên là Sujata cúng dường một tô sữa tuơi. Uống xong Người cảm thấy đã lấy lại phần nào sức, tinh thần sảng khoái hơn, và nhận thức được rằng cần phải ăn uống để thân thể tráng kiện, tinh thần minh mẫn mới có thể tìm ra lẽ đạo. Người đến ngồi dưới cây Bồ Đề tu tập Thiền Định. Sau một thời gian Thiền định, Người chứng ngộ được dần dần những huyền bí của vũ trụ như tính vô thường, vô ngã, duyên sinh và không của vạn pháp v…v…, và cuối cùng Người chứng được Túc mạng minh, thấy rõ ràng những đời quá khứ, hiện tại, vị lai; Thiên nhãn minh, thấy được cả vũ trụ bao la; và Lậu tận minh, siêu việt được vô minh sinh tử. Người đã thành đạo, nghĩa là thành Phật, một bậc tỉnh thức, giác ngộ.. Sau đó, trong suốt 45 năm trời, người đã đi khắp nơi không mệt mỏi thuyết giảng về một số điều quan trọng mà Người đã chứng ngộ được để giúp con người giải thoát được vòng sinh tử. Từ nhận thức của Người sau khi giác ngộ, Giáo lý của Người nhằm mục đích “khai thị ngộ nhập Phật Tri Kiến”, nghĩa là giúp cho người đời có thể hội nhập vào những cái biết, cái thấy của Đức Phật: “Những gì Ta đã thành đạt được thì ai cũng có thể thành đạt được” [What I have achieved you too can accomplish]

Trên đây chỉ là vài chi tiết cốt yếu về tiểu sử Đức Phật, tôi đã bỏ qua rất nhiều chi tiết khác, những chi tiết này thích hợp hơn trong lãnh vực nghiên cứu về toàn bộ tiểu sử Đức Phật. Tưởng chúng ta cũng nên biết là về sau, người đời đã dùng 10 danh hiệu để tôn vinh Người. Đó là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh túc, Thiện Thị Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn.

Trong 10 danh hiệu này thì có 4 nói về trí tuệ và đạo đức của Đức Phật.

a) Chánh Biến Tri = Có trí tuệ đúng đắn và rộng khắp trong mọi lãnh vực.

b) Minh Hạnh Túc = Có trí tuệ và đức hạnh viên mãn.

c) Vô Thượng Sĩ = Con người siêu việt, phi phàm.

d) Thiên Nhân Sư = Thầy của các đấng ở trên Trời, trong đó có Thiên Chúa, và con người. [Thiên Chúa là từ người Trung Hoa dùng để chỉ đấng ngự trị ở trên trời. Năm 1583, giáo sĩ dòng Tên Matteo Ricci tới Trung Quốc và dùng từ Thiên Chúa của người Trung Hoa đánh đồng với Thần Gia-vê của Ki Tô Giáo. Từ Thượng đế là từ của Khổng Giáo dùng, đồng nghĩa với Thiên Chúa]

Chúng ta nên hiểu trí tuệ ở đây là khả năng nhận thức bao quát về con người và vũ trụ và từ đó có thể dẫn dắt con người đến sự giác ngộ chứ không phải là một sự hiểu biết chuyên ngành của một chuyên gia khoa học ngày nay.

Một câu hỏi được đặt ra: Những danh hiệu mà người đời tôn vinh Đức Phật đặt căn cứ vào đâu? Câu trả lời là: Những danh hiệu đó bắt nguồn từ sự chứng nghiệm của con người qua tư cách, đạo đức, và trí tuệ của Đức Phật trong 45 năm thuyết Pháp không mệt mỏi của Người. Từ những giải đáp rành rọt về rất nhiều vấn đề thế gian, từ tác phong hàng ngày của chính Đức Phật mà mọi người trong thời Phật tại thế đều có thể quan sát và đánh giá, cho nên những danh hiệu trên mới được đặt ra chứ không phải là ngẫu nhiên mà cũng không phải vì những đệ tử Phật cũng như đại chúng vì đã theo Phật nên muốn tôn vinh Đức Phật. Tuy vậy mà Đức Phật luôn luôn cũng chỉ nhận mình là Phật, nghĩa là Bậc Tỉnh Thức hay Bậc Giác Ngộ.

Người theo Đạo Chúa có thể cảm thấy xúc phạm trước danh hiệu “Thiên Nhân Sư” người đời đã tôn vinh Đức Phật. Một người như Đức Phật ở trên mặt đất mà lại là bậc Thầy của Thiên Chúa của họ ở trên trời là điều họ khó có thể chấp nhận. Nhưng họ phải hiểu rằng trên trời có nhiều Thiên Chúa, Thiên Chúa của các nền văn hóa khác nhau. Thật vậy, mỗi Thần giáo đều có quan niệm riêng về Thiên Chúa của tôn giáo mình. Nữ học giả Judith Hayes đã viết một cuốn sách nhan đề "Chúng Ta Đặt Niềm Tin Vào Thiên Chúa! Nhưng Mà Là Thiên Chúa Nào?" (In God We Trust! But Which One?). Giáo sư Keith Hopkins thuộc Hàn Lâm Viện Anh Quốc cũng viết một cuốn mang tên "Một Thế Giới Đầy Những Thiên Chúa" (A World Full of Gods). Và nữ tu Công giáo Karen Armstrong cũng đã xuất bản cuốn Một Lịch Sử Về Thiên Chúa (A History of God) trình bày quan niệm về các Thiên Chúa trên thế gian.

Những công cuộc nghiên cứu của các tác giả trên và lịch sử các nền văn minh khác nhau trên thế giới đã chứng tỏ Ki Tô Giáo chỉ là một tôn giáo thờ thần trong số nhiều tôn giáo hay truyền thống dân tộc thờ thần, trong thời đại mà con người chưa hiểu rõ nguyên nhân của những thiên tai hay hiện tượng thiên nhiên, cho nên tục thờ Thần ở đâu cũng có. Do đó, lẽ dĩ nhiên là về bản chất, Thần của Ki Tô Giáo mà các tín đồ Công giáo, Tin Lành Việt Nam tôn lên làm Thiên Chúa cũng chẳng có gì hơn Thần của các tôn giáo khác, nếu không muốn nói là trong một số khía cạnh, thí dụ như về đạo đức và khoa học, còn kém hơn cả những người thường như chúng ta. Điều này có thể chứng minh dễ dàng nếu chúng ta chịu khó đọc kỹ và phân tích Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước.

Riêng đối với Thiên Chúa của đạo Chúa thì những sự kiện lịch sử sau đây sẽ chứng minh là danh hiệu “Thiên Nhân Sư” không sai. Chứng minh?

Thiên Chúa, cha của Chúa Giê-su, mạc khải trong Thánh Kinh là trái đất là trung tâm của thế giới, mặt trời quay chung quanh trái đất, và thế giới mà chúng ta thấy trước mắt là thế giới duy nhất. Chúng ta đã biết, Giáo hội Công giáo đã “nướng sống” linh mục khoa học gia Giordano Bruno chỉ vì ông này cho rằng ngoài thế giới của chúng ta còn có nhiều thế giới khác, điều này trái với những lời mạc khải của Thiên Chúa trong Thánh Kinh. Nhưng hơn 500 năm trước khi Chúa sinh ra đời, Phật Giáo đã nhận thức về vũ trụ như sau:

Thế giới chúng ta đang sống không phải là duy nhất và cũng không phải là trung tâm vũ trụ. Ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có rất nhiều thế giới khác, và Phật giáo phân loại các thế giới thành 3 loại: Tiểu Thiên Thế Giới, Trung Thiên Thế Giới, và Đại Thiên Thế Giới. Danh từ thế giới trong Phật giáo chỉ một thiên thể (thí dụ như trái đất) hoặc một tập hợp các thiên thể được coi như thuộc một nhóm (thí dụ như thái-duơng-hệ mà trái đất là một hành tinh trong đó). Vậy, một ngàn thế giới họp thành một Tiểu Thiên Thế Giới, một ngàn Tiểu Thiên Thế Giới họp thành một Trung Thiên Thế Giới, và một ngàn Trung Thiên Thế Giới họp thành một Đại Thiên Thế Giới. Do đó, lấy đơn vị là một hệ thống tương tự như hệ thống Thái Dương Hệ và gọi là thế giới thì Tiểu Thiên Thế Giới gồm có khoảng một ngàn thế giới, Trung Thiên Thế Giới gồm khoảng một triệu thế giới , Đại Thiên Thế Giới gồm khoảng một tỷ thế giới v..v.. Đó là quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo từ hơn 2500 năm về trước.

Chúng ta thấy rằng quan niệm này hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày nay của những nhà thiên văn (astronomers) hay những nhà vật-lý-học về thiên thể (astrophysicists), và đã đi trước khoa-học nhiều thế kỷ. Một Tiểu Thiên Thế Giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một thiên hà (galaxy) gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có sinh vật trên đó. Thí dụ như giải ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao (constellation) Andromeda. Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với một chùm thiên hà (galactic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và một Đại Thiên Thế Giới có thể so sánh với cái mà Hannes Alfven gọi là siêu thiên hà (metagalaxy) ở trong Đại Vũng (Big Dipper) của Tiểu Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít ra là cả triệu thiên hà. Cho tới nay, vì những giới hạn tự tại của những dụng cụ quan sát cho nên các khoa học gia chưa thể đi xa hơn trong việc khảo sát vũ trụ. Nhưng không phải vì những giới hạn kỹ thuật này mà vũ trụ cũng bị giới hạn theo, và nay chúng ta đã hiểu tại sao Đức Phật lại "bỏ ngỏ" quan niệm về vũ trụ hữu hạn hay vô hạn. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thấy rõ khả năng vô tận của con người, và rằng Phật Pháp không phải là những giáo điều cứng ngắc không bao giờ thay đổi. Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện đại, không có gì có thể coi như là vĩnh cửu, bất biến.

Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo thì chúng ta không thể bỏ qua Kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành Tựu. Trong phẩm này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới: nhân duyên khởi, chỗ trụ nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh, thanh tịnh tánh, Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt, và môn vô sai biệt. Để cho vấn đề tương hợp với khoa học được rõ ràng, sau đây tôi xin luận về điểm : hình trạng các thế giới. Chúng ta hãy xét đoạn kinh văn sau đây:

Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn....hoặc hình như nước xoáy....hoặc hình như hoa ... có vi trần số hình sai khác như vậy."

Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, Phổ Hiền Bồ Tát lại tuyên thuyết: "Chư Phật tử! Tất cả thế giới chủng đó hình trạng đều khác nhau: hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe...hoặc hình hoa sen...có vi trần số hình trạng như vậy."

("Kinh Hoa-Nghiêm", Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản)

So sánh với những hình trạng của các chòm sao, giải thiên hà, ngân hà khám phá bởi khoa học ngày nay chúng ta thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng của chúng một cách vô cùng chính xác. Thí dụ như các hình như bánh xe, nước xoáy chúng ta có thể quan sát được trong các chòm sao như Cetus, Pegasus và Hercules, hình sông là giải ngân hà (Milky Way) và nhiều thiên hà khác, hình dạng như hoa là những khối tinh vân trong khoảng không gian liên-thiên-hà (intergalactic clouds of gas) có chứa hàng tỷ ngôi sao v...v... Thật tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề có kính thiên văn, dù thô sơ nhất, mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã có những hiểu biết chính xác về vũ trụ như trên. Nếu không phải vì đã giác ngộ hoàn toàn, nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ, thì làm sao có thể biết được những điều như trên. Và chúng ta cũng nên nhớ là những điều đức Phật và các Bồ Tát chọn để tuyên thuyết cho người đời chẳng qua cũng chỉ là một nắm lá trong tay so với số lá cây trong rừng.

Vài hình ảnh sau đây trong khoa học thiên văn hiện đại cho chúng ta thấy kiến thức của Đức Phật và các Bồ Tát đã chính xác như thế nào.

 

Hình xoay chuyển của Thiên Hà NGC 523 Sculptor

 

Hình bánh xe của Thiên Hà Andromeda

 

Hình nước xoáy của Thiên Hà [The Spiral Galaxy NGC 2997]

 

Hình hoa nở của Thiên Hà Trifid

 

Hình vòng nhẫn của khối tinh vân 250px-M57_The Ring Nebula

 

Hình núi Tu Di của Thiên Hà M104: The Sombrero Galaxy

Vậy, chúng ta hãy tự hỏi, Đức Phật và các Bồ Tát có đáng là bậc Thầy của Thiên Chúa ở trên trời không? Danh hiệu “Thiên Nhân Sư” không phải là không có căn bản. Nhưng không phải là chỉ có Đức Phật mới đáng là bậc Thầy của Thiên Chúa, mà trong lịch sử chúng ta cũng thấy không thiếu gì người đáng là bậc Thầy của hai cha con Thiên Chúa, thí dụ như vài người trong giáo hội Công giáo như Copernicus, Bruno, Galilei, Darwin v…v… nếu chúng ta đọc những kết quả nghiên cứu của họ về vũ trụ, về con người, so với những điều “mạc khải” của Thiên Chúa trong Thánh Kinh, khoan nói đến kết quả nghiên cứu hay tư tưởng của vô số các triết gia, tư tưởng gia, khoa học gia hiện đại.

Sự khác biệt giữa Đức Phật và Chúa Giê-su là, Đức Phật là một nhân vật lịch sử có thật, có một tiểu sử rất rõ ràng được cả thế giới công nhận. Còn Chúa Giê-su là do Chúa từ trên trời rơi vào trong bụng người con gái tên là Maria, một chuyện mà ngày nay chẳng còn mấy người tin. Chúa Giê-su chỉ là một người thường như mọi người, nhưng sống với một ảo tưởng. Đức Phật cũng chỉ là một con người, nhưng là một con người tỉnh thức, giác ngộ, vì thế được gọi là Phật, nghĩa là do sự tu tập thiền định, quán chiếu v…v…, “Người” đã thấy rõ được những huyền bí trong vũ trụ. Điều này chúng ta thấy rõ qua những lời giảng dạy của Người trong Kinh điển Phật Giáo, thí dụ như trong Kinh Hoa Nghiêm ở trên. Mặt khác, Đức Phật đã để lại cho hậu thế một rừng giáo lý đặc thù để giúp con người đi theo vết chân Người, để có thể cũng thành đạt những kinh nghiệm Giác ngộ như Người. Còn bản chất Chúa Giê-su, theo nền Thần học Ki Tô Giáo, là “ông cứu rỗi” của những người tin vào ông ta chứ không phải là một ông Thầy dạy Giáo lý để giúp cho các tín đồ thăng tiến về mặt tu tập hay trí tuệ. Để thấy rõ vấn đề, chúng ta hãy đọc nhận định của Tiến Sĩ George Dennis O'Brien, Giáo sư Triết, Viện Trưởng Viện Đại Học Rochester, trong cuốn "Thiên Chúa Và Đường Xe Lửa ở New Haven. Và Tại Sao Cả Hai Đều Chẳng Mấy Thành Công" ("God and The New Haven Railway. And Why Neither One Is Doing Very Well", Beacon Press, Boston, MA., 1986, trg. 108), phân biệt quan trọng giữa “giác ngộ” và “cứu rỗi”:

“Một tôn giáo "giác ngộ" tăng tiến trí tuệ tâm linh hoặc đạo đức của chúng ta bằng một giáo pháp nào đó. Một tôn giáo "cứu rỗi" cải đổi đời sống của chúng ta bằng cách dẫn chúng ta sống đời sống của chúng ta trong một người khác. [Tín đồ Ki Tô thường nói: Chúa ở trong tôi hay Chúa ở cùng tôi]

...Khi bậc Thầy xuất chúng qua đời, giáo pháp của ông ta có thể tiếp tục sống.. Ông ta có thể có một giáo pháp như Tám Thánh Đạo (Bát Chánh Đạo. TCN) khiến cho cái trí tuệ đặc biệt của ông ta tồn tại vĩnh viễn. Ngay cả khi bậc Thầy không để lại một giáo pháp nào mà chỉ là mẫu mực của một trí tuệ tìm tòi và lý tưởng về tính Thiện, như Socrates, cái gương sáng của ông Thầy tồn tại và làm tiêu chỉ cố gắng cho những đệ tử sau này. Tất cả những phương tiện trên để tiếp nối "đời sống của Sư Phụ" đều có ý thức cao và được áp dụng rộng rãi...Nhưng cái khung truyện đó không phải là chủ trương của Tân Ước. Không phải là giáo pháp của ông Thầy tồn tại, mà là chính "ông Thầy". Mà dù như vậy đi chăng nữa thì cũng không có "ông Thầy" mà chỉ có "ông cứu thế".

...Trong một tôn giáo cứu rỗi, ta không thể đạt được một trình độ tâm linh cao bằng cách học hỏi về một chân lý nào đó, một sự kiện nào đó, một con người nào đó. Tất cả những điều trên đều có tính cách giáo dục và cao quý, nhưng đó không thuộc một truyện phim thuộc loại cứu rỗi. Trong câu chuyện về tội lỗi và cứu rỗi, con người tới một trạng thái mới bằng cách sống với một người khác.

Giêsu có hội đủ những tiêu chuẩn của những bậc Thầy xuất chúng về tâm linh không? Không đâu. Cái tiêu chỉ của sự siêu quần về tâm linh là con người phải là một bậc Thầy xuất chúng về tỉnh thức, về trí tuệ tâm linh, hoặc một tâm bình lặng. Giêsu không phải là một ông Thầy, mà là một ông cứu thế.

Chúng ta hãy coi một bậc Thầy xuất chúng. Socrates là một thí dụ tốt. Socrates là một đại sư về tỉnh thức tâm linh. Ông ta cho rằng ông không biết gì cả, chỉ đặt cho học trò vài câu hỏi có tính cách mưu mẹo, thách đố. Socrates muốn chắc rằng học trò bám vào chân lý chứ không bám vào Socrates.

Đức Phật là một thí dụ về một bậc Thầy "tôn giáo" xuất chúng cũng có cùng giáo pháp tự chứng như Socrates.

Đức Phật không phải là một đấng cứu rỗi, Người là Đấng Giác Ngộ. Người đã chứng được những chân lý về nhân sinh, và Người đã đưa ra Tám Thánh Đạo để hướng dẫn con người đạt tới cùng sự giác ngộ như Người và do đó thoát khỏi khổ đau..

Tương phản với những bậc Thầy xuất chúng kể trên, chúng ta phải nói rằng Giêsu hiển nhiên hiểu lầm về vai trò của một giáo pháp. Giêsu không có học trò (hay đệ tử) mà chỉ có môn đồ (hay tông đồ). Và điều này không phải là ngẫu nhiên. Giêsu nói: "Kẻ nào "tin vào" Ta thì sẽ được sống đời đời." Không phải là tin vào giáo pháp của ta mà tin vào chính TA. Cái mà Giêsu "biết" không phải là sự giác ngộ, Giêsu chỉ biết Chúa Cha: "Chỉ có con mới biết Cha", "Kẻ nào biết TA sẽ biết Cha", "Chỉ có thể đến với Cha ta qua TA".

Bất cứ Ki-Tô Giáo có thể là cái gì khác, có vẻ như là ở ngoài mặt rõ ràng đó là một tôn giáo thuyết giáo về sự cứu rỗi và một đấng cứu rỗi. Trước khi chúng ta cảm thấy chán ngấy với ý tưởng này, điều quan trọng là chúng ta phải nhớ rằng hầu hết những chủ lực tinh thần lớn khác, không những là không thuyết giáo về sự cứu rỗi mà trong vài trường hợp, còn thực sự khinh ghét ý tưởng này. Hồi Giáo là một trường hợp điển hình... Người theo Hồi Giáo thấy rằng cái khái niệm của Ki-Tô Giáo về một đấng cứu rỗi đã làm hạ phẩm giá của cả đấng cứu rỗi lẫn người được cứu rỗi.

Để sống đạo hạnh và tiến tới Giác Ngộ, con người cần những bậc Thầy chứ không cần tới các đấng cứu rỗi. Sự khác biệt thật là quan trọng. Xét về toàn diện, những tôn giáo đạo đức hay giác ngộ thì hợp với xu hướng của người Mỹ ngày nay hơn. Những tôn giáo này có hai lợi thế rõ rệt so với những tôn giáo dựa theo Thánh Kinh. Trước hết là những tôn giáo này có vẻ như là những con đường tâm linh tự lực Điều này hợp với tinh thần độc lập và tự tin của người Mỹ. Tuy rằng các bậc Thầy xuất chúng rất là đáng quý trong các tôn giáo này, nhưng họ cũng có thể được để qua một bên, và con người có thể tự học lấy. Người ta không thể tự cứu rỗi trong tôn giáo dựa vào Thánh Kinh. Lợi thế thứ nhì của các tôn giáo giác ngộ và đạo đức là những tôn giáo này có thể dẹp bỏ phần lớn cái mưu toan thần học. Nếu thực sự có các Thần - và trong Phật Giáo có vẻ như là không hề có - thì vai trò của các Thần là những bậc Thầy hữu ích (nhưng có thể bỏ qua), hoặc là những lý tưởng hay những nhân vật gương mẫu. Chân lý nằm trong giáo pháp chứ không nằm trong ông "Thầy - Cứu rỗi."” [10]

 

C. Vài Nhận Định Về Chúa Giê-su Và Đức Phật Của Các Học Giả:

Sau đây chúng ta sẽ điểm qua vài nhận định về Chúa Giê-su cũng như về Đức Phật qua những nghiên cứu của một số học giả Tây phương về hai khuôn mặt quan trọng nhất trong thế giới ngày nay. Chúng ta đã thấy, những nhận định tổng quát về Chúa Giê-su nằm trong những tác phẩm nghiên cứu của các học giả về nhân vật Giê-su. Ở đây tôi chỉ đưa ra vài nhận định điển hình về Chúa Giê-su của một số học giả Tây phương.

a) Về Chúa Giê-su:

Đây là những nhận định của một số trí thức Âu Mỹ về Giê-su:

1) Robet Funk (The Jesus Seminar):

Giê-su chỉ là một người thường như mọi người, nhưng sống với một ảo tưởng mình là con của Thiên Chúa của người Do Thái ở trên trời, và có nhiệm vụ giải cứu người Do Thái, và chỉ người Do Thái mà thôi. [Xin xem chú thích [2] ở trên]

2) Bertrand Russell, một thiên tài toán học và triết lý, đã được giải thưởng Nobel năm 1950, nhận định về trí tuệ và đức hạnh của Chúa Giê-su như sau:

"Xét về trí tuệ hay đức hạnh tôi không thể nào cho rằng Đức Ki-Tô (Giê-su) cũng cao cả như vài người khác được biết trong lịch sử. Tôi nghĩ rằng, về trí tuệ hay đức hạnh, tôi phải đặt Đức Phật và Socrates lên trên Đức KiTô." [11]

3) Giám mục John Shelby Spong viết trong cuốn Hãy Cứu Cuốn Thánh Kinh Ra Khỏi Phái Bảo Thủ (Rescuing The Bible From Fundamentalism), trang 21:

i) “Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.”

ii) Sự sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết. Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ.

Chúng ta có thấy hấp dẫn đối với một Chúa (Giê-su) phải giết cả một bày heo (vào khoảng 2000 con. TCN) để đuổi một con quỷ ra khỏi thân người hay không? Chúng ta có nên khâm phục và kính trọng người mà chúng ta gọi là Chúa đã nguyền rủa một cây sung khi nó không ra trái lúc trái mùa không?..

Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng. [12]

Tại sao một ông Giám mục Tin Lành lại có thể đưa ra những nhận định tiêu cực về Chúa Giê-su như trên? Vì ông ta đã đọc kỹ Tân Ước và có những nhận xét về một vài trong số nhiều hành động thiếu đạo đức và thiếu hiểu biết của Giê-su như được mô tả trong Tân Ước.

 

b) Về Đức Phật:

Sau đây là một số nhận định điển hình về Đức Phật của một số học giả Âu Mỹ:

1) H. G. Wells ( 1866-1946), Sử Gia và Nhà Xã hội học Anh (British historian, socialist.)

Ðức Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, năm trăm năm trước Chúa Ki Tô, đã dạy con người đức tính vị tha. Trong một số chiều hướng Ngài rất gần gũi với chúng ta hơn, và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Ðức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ con người và ít mơ hồ đối với vấn đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh.

Các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành, đơn độc, một mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ không phải là một huyền thoại. [13]

2) Giáo sư Saunders , Tổng Thư ký Văn hóa Y.M.C.A., India, Burma, Ceylon.

Không khó khăn gì khi chọn lựa đức Phật là một người được tôn sùng trong số những người vĩ đại của nhân loại. [14]

3) Albert Schweitzer (1875-1 965), Học giả người Pháp, Nhà Thần học và Triết Gia, [French Scholar, Theologian and Philosopher,Winner of The Nobel Prize.]

Ngài đem ý nghĩa những chân lý giá trị trường cữu và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng Ấn độ mà cho cả nhân loại. Ðức Phật là một nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng thấy có trên hoàn vũ. [15]

4) Beatrice Webb (1881-1943), Kinh tế gia và nhà xã hội người Anh [ British Economist, Socialist]

Về phương diện lô-gíc và đạo đức thì Đức Phật đứng trên Chúa Ki Tô và triết lý của Đức Phật thì cao hơn những lời giảng dạy trong Tân ước. Không giống như niềm vui sướng thô thiển vĩnh viễn (trên thiên đường) và sự đầy đọa đời đời (dưới hỏa ngục) của giáo hội Ki-Tô, giáo lý về Nghiệp thì hòa hợp với những sự thừa nhận của khoa học hiện đại về tính phổ quát của luật nhân quả và tính bền bỉ của nghiệp lực. [16]

5) Giáo sư Max Muller, Học giả người Ðức [A German Scholar].

Ðức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản của đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến. [17]

6) Abdul Atahiya, một thi nhân Hồi Giáo.

Nếu bạn muốn thấy người cao quí nhất của loài người, bạn hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một người ăn xin; chính là Ngài đó, siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại giữa con người. [18]

7) Moni Bagghee, trong cuốn "Ðức Phật Của Chúng Ta" [Our Buddha]

Ðiều đáng chú ý nhất nơi đức Phật là sự kết hợp gần như độc nhất của một đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng từ tâm. Thế giới ngày nay ngày càng hướng về đức Phật, vì Ngài là người duy nhất tiêu biểu cho lương tâm của nhân loại.

Ðức Phật là nhà tiên phong thương yêu nhân loại, và là một triết gia siêu phàm trong nhân phẩm dũng cảm và sáng chói. Ngài có những điều mà chưa ai có thể quên được là Ngài thuyết pháp trong hăng say và nhiệt tình về nguồn kiến thức. Vĩ đại hơn, trí tuệ của Ngài chính là đài gương soi sáng. [19]

8) Giám mục Milman. - Bishop Milman:

Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni gần gủi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài, Ngài là Con Ðường, là Chân lý và là Sự sống. [20] [Đã được các học giả công nhận, không như lời tự tôn của Chúa Giê-su: John 14:6: Ta là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống mà ngày nay thiên hạ đã bác bỏ. TCN]

 

(Xin xem tiếp Phần III...)


Các bài tôn giáo cùng tác giả