ĐẠO PHẬT - ĐẠO CHÚA ĐỐI CHIẾU

Một Khảo Luận Qua Các Tài Liệu

Trần Chung Ngọc

15 tháng 2, 2010

1 2

III. Giáo Lý Của Chúa Và Của Đức Phật.

Về phương diện giáo lý thì ai cũng biết giáo lý bắt nguồn từ kinh điển của mỗi tôn giáo. Ki-Tô Giáo thì có cuốn Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước. Phật Giáo thì có Thiên Kinh Vạn Quyển. Kinh điển Phật Giáo thì nhiều và rộng vô chừng nhưng tất cả đều nhất quán, dẫn dắt con người bằng những con đường khác nhau nhưng cùng đi tới mục đích tối hậu là giác ngộ qua sự tu tập bản thân bằng bi, trí, dũng. Đặc biệt là trong kinh điển Phật Giáo ta không hề thấy những chuyện tàn ác, giết chóc, dâm loạn v..v... Trái lại trong cuốn được gọi là Thánh Kinh thì đầy rẫy những chuyện ác độc, vô luân, chiến tranh, chém giết, tàn sát tập thể và những giáo lý mâu thuẫn cùng cực v..v.. Đây là một sự kiện bất khả phủ bác.

Chúng ta hãy tìm hiểu cốt tủy giáo lý của Phật Giáo cũng như của Ki Tô Giáo.

Đối với Ki Tô Giáo thì ngày nay, vì những chuyện ác độc, loạn luân, giết người tàn bạo, cũng như những chuyện hoang đường trong Cựu Ước nên Ki Tô Giáo đã không còn đặt nặng vấn đề dùng Cựu Ước nữa, mà tập trung vào Tân Ước, đặc biệt là vai trò "cứu rỗi" của Giê-su. Vì thế ngày nay người ta đã cho rằng Ki Tô Giáo đã trở thành "đạo Giê-su" (Jesusism). Nhưng thực ra, cái mà chúng ta gọi là giáo lý tôn giáo, nghĩa là những điều giảng dạy trong tôn giáo, của Giê-su là giáo lý như thế nào? Chúng ta hãy đọc nhận định của một học giả Công giáo, Joseph L. Daleiden, trong cuốn The Final Superstition, trg. 174, như sau:

Có rất ít, nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo pháp mà người ta cho là của Giêsu. Giống như chính huyền thoại về Giêsu, những quan điểm mà Giêsu diễn đạt chỉ là một mớ hổ lốn những ngụ ngôn và luân lý mà chúng ta có thể thấy trong những đạo cổ xưa của Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Hi Lạp, Phật, Khổng, Ấn Độ... Một điều rõ ràng: Ki Tô Giáo, một tôn giáo sinh sau đẻ muộn trong lịch sử các tôn giáo, chỉ cóp nhặt (đạo văn) những quan điểm, ý kiến của Do Thái Giáo và các tôn giáo gọi là dân gian. Trong cuốn "Nguồn Gốc Luân Lý Trong các Phúc Âm", Joseph McCabe (Một Linh Mục Công giáo. TCN) đã trích dẫn những quan điểm luân lý trong Phúc Âm mà người ta cho là của Giêsu song song với những quan điểm luân lý tương đương và y hệt của các tác giả Do Thái và dân gian. [21]

Nếu cho rằng những lời rao giảng cóp nhặt của Giê-su về luân lý và đạo đức là "giáo lý của đạo Giê-su" thì đó là giáo lý của dân gian, của các tôn giáo khác có trước đạo Giê-su, trong đó có Phật Giáo, chứ đâu có phải của Giê-su? Đọc Tân Ước, có giáo lý nào của Giê-su mà chúng ta không thấy trong các tôn giáo khác hoặc trong dân gian? Tuyệt đối không có.

Còn cốt tủy giáo lý của Đức Phật là gì? Giáo lý đặc thù của Đức Phật bao trùm mọi mặt trong thế gian và nằm trong ba tạng Kinh, Luật, và Luận, thích hợp với mọi căn trí khác nhau của người đời, từ bình dân đến thượng trí thức. Cho nên khó có thể nói cốt tủy giáo lý của Đức Phật là gì trong một hay vài câu. Tuy nhiên, chúng ta có thể miễn cưỡng thâu tóm giáo lý của Đức Phật trong hai phần: Phần Tin và Phần Thực Hành.

Phần Tin nằm trong "Kinh Nền Tảng Đức Tin" thường được biết là Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama (Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Kinh Tụng Hằng Ngày, Đạo Phật Ngày Nay, Phật Lịch 2546, trang 98-99), mà tôi đã trích dẫn trong phần đầu.

Phần Thực Hành giáo lý Phật Giáo có thể tóm gọn vào 4 câu trong Kinh Pháp Cú:

- Chư ác mạc tác (Việc ác đừng làm: tinh thần của Tạng Luật)

- Chúng thiện phụng hành (Việc thiện phải làm: tinh thần của Tạng Kinh)

- Tự tịnh kỳ ý (Hãy giữ cho tâm ý thanh tịnh: tinh thần của Tạng Luận)

- Thị chư Phật giáo (Đó là lời chư Phật dạy)

Chúng ta thấy rõ, Kinh Kalama đã giữ cho người Phật tử khỏi rơi vào vòng cả tin, mê tín, dị đoan. Còn 4 câu trong Kinh Pháp Cú là những chỉ đạo tổng quát cho con người trên đường tu tập, tiến đến giác ngộ. Chúng ta nên để ý là, tuy giáo lý của Đức Phật rất rộng, thích hợp cho đủ mọi căn trí của con người, nhưng tất cả đều nhất quán, phù hợp với nhau, và không hề có sự mâu thuẫn.

Trái lại, trong Kinh Thánh có đầy những mâu thuẫn và có những đoạn không thể đọc được. Những nhà truyền giáo đạo Chúa hầu hết thuộc loại bất lương trí thức. Họ thường chọn những câu trong Thánh Kinh thích hợp trong việc truyền đạo, nghĩa là mê hoặc lòng người, và rồi các tín đồ cũng chỉ biết vậy nên chỉ nhắc lại như con vẹt những gì mình được nhồi vào đầu mà không bao giờ biết đến những câu có ngay trong Thánh Kinh nhưng cực kỳ mâu thuẫn với những lời giảng của các bậc chăn chiên. Điều này chúng ta có thể chứng minh dễ dàng nếu chúng ta chịu khó đọc Tân ước. Vậy thật ra cốt tủy “giáo lý” của Giê-su là gì? Các học giả đã phân tích kỹ Tân Ước và đưa ra vài nhận định sau đây:

William Hirsch: "Tất cả những điều Giê-su nói, giáo lý, bài giảng đều đưa tới một đơn từ: "Ta"" [22]

Hermann Samuel Reimarus: “Tất cả những điều rao giảng của Giê-su có thể nhận ra rõ ràng. Chúng nằm trong hai câu có ý nghĩa y hệt nhau: “Hãy thống hối, và tin vào Kinh Thánh” hoặc, ở một nơi khác “Hãy thống hối, vì Nước Thiên Đàng sắp tới” [23]

Vì "cái Ta" của Giê-su bắt nguồn từ một tâm bệnh hoang tưởng như chúng ta đã biết ở trên, cho nên trong Tân Ước có rất nhiều "cái Ta" tự tôn của Giê-su. Sau đây chỉ là vài trích dẫn những lời của Giê-su trong Thánh Kinh với vài lời phân tích của tôi dựa trên lô-gic.

John 6:35: Ta là thức ăn của đời sống.

John 8:12, 9:5: Ta là ánh sáng của thế gian

John 10: 11, 14: Ta là người chăn chiên chí thiện

John 11:25: Ta là Sự Sống Lại và là Sự Sống

John 14:6: Ta là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

John 10:30: Ta với Cha Ta là một.

John 10:36: Ta là Con Thiên Chúa

John 12:49: Ta không nói theo ý Ta; Chính người Cha sai Ta xuống đây đã cho lệnh Ta phải nói những gì và nói như thế nào.

Chúng ta có thấy giáo lý nào ở đây không? Đây không phải là những lời dạy có tính cách giáo dục đạo lý, mà chỉ là những lời tự nhận bắt nguồn từ một ảo tưởng. Những "cái Ta" của Giê-su đã đặt trước chúng ta khá nhiều vấn đề, và bắt buộc chúng ta phải có một sự chọn lựa dứt khoát, không thể nhập nhằng.

Thật vậy, Ta là Con Thiên Chúa khẳng định vai vế của Giê-su đối với Thiên Chúa, và lẽ dĩ nhiên hoàn toàn mâu thuẫn với Ta với Cha Ta là một. Dù chúng ta có nhắm mắt tin bừa thuyết điên rồ toán học (mathematical insanity) Chúa Ba Ngôi của giáo hội Công giáo đưa ra nhiều thế kỷ sau khi Giê-su đã chết đi chăng nữa thì các câu trên cũng còn đưa tới vài vấn đề khác. Thí dụ:

Chúng ta hãy xét đến câu John 12: 49 ở trên: Ta không nói theo ý Ta; Chính người Cha sai Ta xuống đây đã cho lệnh Ta phải nói những gì và nói như thế nào.

Thứ nhất, câu trên chứng tỏ Giê-su chỉ tự nhận, vì không có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ đó là sự thật, là một sứ giả của Thiên Chúa, được sai xuống trần để nói cho dân Do Thái, tuyệt đối không phải cho dân Việt, những gì mà Thiên Chúa muốn nói. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với lời tự nhận khác của Giê-su: John 10:30: Ta với Cha Ta là một.

Thứ nhì, nếu chúng ta chấp nhận câu John 12: 49 ở trên như là sự thực, thì những lời Giê-su nói đều là những lời của Thiên Chúa. Mà Thiên Chúa thì không thể sai lầm, vì Thiên Chúa, theo niềm tin của các tín đồ Ki-Tô, là bậc toàn năng, nghĩa là làm gì cũng được, và toàn trí, nghĩa là cái gì cũng biết, kể cả quá khứ vị lai, hai thuộc tính của Thiên Chúa có tính cách loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), nghĩa là có cái này thì không thể có cái kia, mà giáo hội đã thành công cấy vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, khi họ chưa phát triển về trí tuệ cũng như về thân xác. Điều này khiến chúng ta bắt buộc phải chọn một trong hai điều sau đây chứ không thể chọn cùng lúc cả hai.

1. Nếu những lời Giê-su nói không hề sai lầm, đúng trong mọi thời đại, thì vai trò Thiên Chúa của Giê-su có thể tạm chấp nhận được.

2. Nếu trong những lời nói và hành động của Giê-su có những sai lầm thì Giê-su không thể nào là Thiên Chúa.

Nhưng Thánh Kinh lại chứng tỏ rằng Giê-su có rất nhiều sai lầm. Vậy thực ra những lời nói của Giê-su cũng chỉ là những lời nói của một người thường, với sự hiểu biết giới hạn của một người thường, ở trình độ của một người dân thường trong vùng dân Do Thái cách đây 2000 năm, và sống với một ảo tưởng. Và như vậy, Giê-su đã phạm tội nói láo và lừa dối, vì ông ta khẳng định rằng những lời nói của ông là của Thiên Chúa không thể sai lầm.

Kết luận: Giê-su chỉ có thể đóng một trong hai vai trò: Thiên Chúa hay một người thường phạm tội nói láo và lừa dối chứ không thể cùng lúc cả hai. Vậy vai trò nào là vai trò đích thực của Giê-su?

Điều này không khó, chúng ta chỉ cần mở Thánh Kinh ra đọc thì sẽ thấy ngay. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ cũng như Mục sư Rubem Alves, dựa trên Thánh Kinh, đều viết rằng Giê-su tin và khẳng định rằng Moses (Môise) là tác giả của Ngũ Kinh trong khi thực sự thì Moses không viết. Huyền thoại về Moses được viết ra khoảng 3, 4 trăm năm sau khi Moses đã chết, trong 2 phẩm Xuất Ê-Díp-Tô (Exodus) và Dân Số (Numbers). Đây là kết quả nghiên cứu của những chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh mà chính giáo hội Công giáo cũng phải chấp nhận. Bằng chứng? Tên các vị Vua xứ Edom viết trong Sáng Thế 36 là những vị Vua sống trong những thời kỳ sau khi Moses đã chết từ lâu. Trong Phục Truyền 34 có kể cả chuyện Moses chết ra làm sao, chẳng lẽ Moses lại tả chuyện chính mình chết? Cho nên Moses không thể là tác giả của Ngũ Kinh. Vậy, nếu Giê-su đã sai lầm về một sự kiện lịch sử nhỏ nhặt như trên, không biết đến cả tác giả Ngũ Kinh là ai mà lại cho đó là Moses, thì làm sao chúng ta có thể tin được những lời nói về những chuyện trên trời, và nhất là những lời tự tôn của Giê-su, cho mình chính là Thiên Chúa toàn năng, toàn trí, và những lời đó chính là của Thiên Chúa? Kết luận, những câu khẳng định về cái "Ta" của Giê-su chẳng qua cũng chỉ là những điều hoang tưởng bệnh hoạn, không khác gì những hoang tưởng của David Koresh, James Jones và vô số người khác trong thời đại này.

Mặt khác, nếu Giê-su tự cho mình chính là Thiên Chúa, Thiên Chúa ở đây phải hiểu là Thiên Chúa trong Cựu Ước, thì Giê-su lại bị kẹt trong vấn đề đạo đức. Vì trong Cựu Ước, Thiên Chúa được mô tả như một vị Thần chiến tranh, ác độc, ghen tuông, ưa ủng hộ dân này chém giết dân kia. Thật vậy, Thiên Chúa trong Cựu Ước dạy dân Israel của Ngài, Exodus 3, 22: "Vậy các ngươi sẽ ăn cướp của người Ai cập" và dân ngài đã tuân theo lệnh của Ngài như được kể trong Exodus 12, 35-36; Ngài dạy Moses, Numbers 31, 2: "Hãy báo thù dân Midian cho dân Israel" Moses tuân lệnh dạy dân mình, Numbers 31, 3: "Các ngươi hãy mang binh khí đi đánh dân Midian để trả thù cho Thiên Chúa" Numbers 31, 7: “chúng giao chiến cùng dân Midian, đúng như lời Chúa ra lệnh cho Moses, giết sạch mọi người Nam"; Và Numbers 31, 9-11: dân Israel bắt tất cả đàn bà Midian, và con nhỏ của họ, và cướp hết thảy súc vật, bày chiên, và của cải của họ. Chúng cũng đốt sạch những thành phố, thành trì mà dân Midian ở. Và đem theo tất cả đồ cướp được, người và súc vật" . Đọc tiếp những phần sau trong chương Numbers này chúng ta thấy Moses còn ra lệnh cho thuộc hạ giết hết đàn bà và con trai chỉ để lại trinh nữ. Sau đó là mục chia chác những "chiến lợi phẩm", Thiên Chúa cũng có phần như sau: 675 con chiên, 72 con bò, 61 con lừa, và 32 trinh nữ.

Một Thiên Chúa như vậy có đáng để cho chúng ta kính trọng hay không, khoan nói đến việc thờ phụng. Thờ phụng Thiên Chúa hay thờ phụng Giê-su thì cũng chẳng khác gì nhau vì Giê-su đã khẳng định ông chính là Thiên Chúa. Phải chăng vì vậy mà Giám Mục John Shelby Spong đã thú nhận: Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng.

Như chúng ta sẽ thấy, nhiều bằng chứng ngay trong Thánh Kinh chứng tỏ Giê-su có đầy dẫy những sai lầm và có một kiến thức rất giới hạn, tính tình dễ nổi nóng một cách bất thường v..v.. Vậy chúng ta có thể chấp nhận những lời tự tôn của Giê-su như "Ta với Cha Ta là một" hay "Ta là Con Thiên Chúa", "Ta là con đường, là sự thật, là sự sống" v..v.. được hay không? Vậy mà Giê-su dám tự nhận:

John 8, 12: Ta là ánh sáng của thế gian.

Ánh sáng gì của thế gian? Ánh sáng soi sáng trí tuệ và đạo đức con người? Tuyệt đối không phải. Đó là ánh sáng, thật ra là sự u tối, của một đức tin mù quáng, không cần biết, không cần hiểu. Lịch sử thế gian cho thấy, vì tin vào "ánh sáng thế gian" của Giê-su, Công giáo đã chìm đắm trong bóng tối dày đặc của 2000 năm đầy tội ác và vẫn còn đang tiếp tục mưu toan lùa nhân loại vào cảnh tối tăm nô lệ cho một định chế thế tục độc tài tham lam vô độ mang danh nghĩa tôn giáo.

Như trên đã nói, giới chăn chiên trong các giáo hội Ki-Tô, Công giáo cũng như Tin lành, thường trích dẫn những điều vụn vặt trong Tân Ước mà họ cho đó là những lời hay ý đẹp của Giê-su để giảng dạy cho tín đồ, phần lớn những lời này thuộc loại khẳng định tự tôn, với mục đích đề cao, thần thánh hóa Giê-su trước đám tín đồ vốn không bao giờ đọc Thánh Kinh và cũng không đủ trình độ để phân biệt chân giả. Họ không bao giờ đưa ra những câu chứng tỏ "lời nói không đi đôi với việc làm" và rất mâu thuẫn của Giê-su. Thực chất của Giê-su là chỉ nói ngon nói ngọt ngoài miệng, còn những hành động của Giê-su thì không bao giờ làm theo lời nói, trái lại còn trái ngược hẳn với những lời nói của mình. Do đó Giám Mục Spong đã phải đưa ra một nhận định: "Có nhiều bằng chứng trong Thánh Kinh chứng tỏ Giê-su ở Nazareth là con người thiển cận, đầy thù hận, và ngay cả đạo đức giả" . Chứng minh?

1. Các nhà truyền giáo thường lấy câu: " Hãy lấy cây sà trong mắt ngươi ra trước rồi hãy lấy cây kim trong mắt người khác ra sau. Đừng phê phán ai để ngươi cũng không bị phê phán." để ngăn chận sự phê phán của con chiên, và các con chiên ngày nay cũng thường mang câu Đừng phê phán ai để ngươi cũng không bị phê phán để bảo vệ tôn giáo của mình. Nhưng họ không biết rằng, chính Chúa của họ thường phê phán người khác: Matthew 23: 13: Khốn cho giới dạy luật và Biệt Lập, hạng đạo đức giả; Matthew 23:15: Khốn cho các ông, hạng giả nhân giả nghĩa; Matthew 23: 16: Khốn cho các ông, hạng lãnh đạo mù quáng và còn nhiều lời phê phán tương tự khác đầy dãy trong Tân Ước.

Vậy trước khi phê phán họ, Chúa Giê-su đã lấy cây sà trong mắt mình ra chưa?

2. Các bậc chăn chiên và con chiên thường trích dẫn câu của Chúa: Matthew 5: 44: "phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho người khủng bố hành hạ các con", coi đó như là giáo lý tuyệt luân của Chúa mà các tín đồ đạo Chúa chẳng bao giờ tuân theo. Nhưng họ không bao giờ nhắc đến những câu phản ánh sự vô cùng đạo đức giả của Chúa: Matthew 12:30: Kẻ nào không theo ta, ở với ta, là chống đối ta., và coi những người không tin và tuân phục Giê-su là kẻ thù và dạy môn đồ: Luke 19:27 : Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người không muốn Ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta.

Giê-su cũng còn ra lệnh cho các tông đồ:

Matthew 18:6: Nếu ai làm cho một trong những đứa trẻ đã tin Ta phạm tội, thì tốt hơn cho hắn là buộc một cối đá vào cổ hắn và ném hắn xuống đáy biển cho chết đuối.

Phạm tội gì? Thánh Kinh tiếng Việt dịch "to sin" là "mất đức tin". Không tin Giê-su hay mất đức tin về Giê-su có phải là một tội hay không? Ngày nay, có biết bao nhiêu người mất đức tin, bỏ đạo, vì biết đến thực chất của huyền thoại về Giê-su cũng như về nền thần học ngụy tạo của Ki Tô Giáo qua những tác phẩm nghiên cứu của các bậc học giả trong giáo hội cũng như ngoài giáo hội nên đã tỉnh ngộ. Đây là một quan niệm vô cùng ác độc và man rợ cách đây 2000 năm của một người Do Thái mà các tín đồ được dạy phải coi như Chúa và Chúa đó là "Chúa lòng lành vô cùng", hay “Chúa yêu thương các bạn”. Trong Tân Ước có nhiều đoạn mô tả Giê-su rất hận thù những người không tin ông ta và đưa ra những lời nguyền rủa rất cay nghiệt tương tự như trên.

Học giả Công giáo Joseph L. Daleiden đã đưa ra nhận định sau đây:

Con người hành động dã man phần lớn là bị ảnh hưởng đạo đức trong nền văn hóa của mình. Đạo đức của Tân Ước là trả thù bất cứ người nào bác bỏ Ki Tô Giáo. Tuy những người viết Tân Ước một mặt viết Giê-su dạy phải tha thứ, Ông ta thực ra có một thái độ cực kỳ bất khoan nhượng đối với những người không chấp nhận ông ta là đấng cứu rỗi của họ. [24]

Chúng ta hãy kể thêm vài điều Giê-su nói một đàng làm một nẻo hay hoàn toàn mâu thuẫn với nhau:

3. Chúa Giê-su dạy: Matthew 5: 22: "Người nào nguyền rủa anh em sẽ bị xuống hỏa ngục" nhưng chính Giê- su lại đi nguyền rủa những người không chịu theo Giê-su:

Luke 8: 24: Nếu ngươi không tin ta là con Thượng Đế, ngươi sẽ chết trong tội lỗi của ngươi.

Matthew 12: 34: Ôi thế hệ của những loài rắn độc, ác như các ngươi làm sao có thể nói những lời tốt lành?

Matthew 23: 33: Ngươi là loài rắn, ngươi là thế hệ của những rắn độc, làm sao các ngươi thoát khỏi hỏa ngục?

Vậy bây giờ Chúa Giê-su đang ở đâu? Dưới hỏa ngục hay trên thiên đường?

4. Chúa Giê-su dạy, Matthew 23: 11-12: “Các con càng khiêm tốn phục vụ người thì càng được tôn trọng... Ai tự đề cao sẽ bị hạ thấp, ai khiêm tốn hạ mình sẽ được nâng cao”, nhưng những “cái Ta” của Chúa ở trên không chỉ là tự đề cao mà là tự tôn một cách quá cống cao ngã mạn. Cái tính khiêm tốn mà Giê-su dạy các môn đồ, Giê-su để vào đâu mà lại đưa ra những lời tự nhận quá huênh hoang như trên?

5. Matthew 6: 1: Đừng làm những việc thiện trước mặt mọi người, để cho họ thấy. Nếu không các ngươi không thể được phần thưởng của Cha các ngươi trên trời.

Matthew 5: 16: Hãy để cho ánh sáng của các ngươi tỏa sáng trước mọi người, để cho họ thấy những việc lành thiện của các ngươi và vinh danh Cha các ngươi ở trên trời.

6. John 5: 31: Nếu ta làm chứng cho chính ta, thì sự làm chứng của ta không đúng sự thật.

John 8 : 14: Tuy ta tự làm chứng cho chính ta, nhưng sự làm chứng của ta đúng là sự thật.

7. John 12: 47: Và người nào nghe những lời ta nói mà không tin, ta sẽ không phán xét họ; vì ta xuống đây không phải để phán xét thế giới mà để cứu thế giới.

John 9: 39: Để phán xét ta đã xuống trần, và những người nào không nhìn thấy sẽ nhìn thấy, và những người nào nhìn thấy có thể bị làm cho mù.

8. John 10: 30: Ta với Cha ta là một.

John 14: 28: Cha ta vĩ đại hơn ta

Nói tóm lại, khi tìm hiểu về thực chất con người của Giê-su, chúng ta cần giữ thái độ: "Đừng vội tin những gì các bậc chăn chiên nói về Giê-su trong các nhà thờ, mà hãy nhìn kỹ những gì Giê-su nói và làm trong Thánh Kinh". Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể có những nhận định trung thực và chính xác về Giê-su, do đó tránh được những sự mê hoặc của những luận điệu thần học về những thuộc tính thần thánh của Giê-su, một nền thần học của giới giáo sĩ đưa ra, chỉ cốt để tự tạo quyền lực thế gian trên đám tín đồ thấp kém, khai thác sự yếu kém tinh thần và lòng mê tín cả tin của họ.

Đi sâu vào vấn đề, xét về mặt trí tuệ cũng như đạo đức thì nhiều chuyện trong Tân Ước chứng tỏ tư cách của Giê-su còn kém cả nhiều người thường nữa. Thí dụ như trường hợp Giê-su gọi người đàn bà phi Do Thái là chó, hay đuổi hai con quỷ ra khỏi người mà Giê-su cho là bị quỷ ám trong khi họ chỉ bị bệnh động kinh vì trong người thiếu chất “glutamic acid”, rồi cho chúng nhập vào một đàn cừu 2000 con rồi bắt cả đàn cừu nhào xuống sông chết đuối hết, hay nguyền rủa một cây sung để nó không bao giờ ra trái nữa chỉ vì trái mùa nó không có trái để cho Giê-su ăn khi đang đói, trong khi Giê-su có thể biến nước thành rượu, hay biến một ổ bánh mì thành trăm ổ bánh mì v…v…

Tất cả những điều mà người ta cho là “giáo pháp” của Giêsu, nghĩa là những lời dạy về luân lý đạo đức con người, được gói ghém trong Bài Giảng Trên Núi (Sermon on the Mount). Trong bài giảng này có một phần mà các Linh Mục thường mang ra giảng trong nhà thờ, và do đó các tín đồ thường biết dưới tên "Phúc Thật Tám Mối" và ca tụng với người ngoại đạo là “tuyệt vời”, tuy nội dung chẳng có gì đặc biệt vì tất cả đều là những điều thông thường trên thế giới

Về bài giảng trên núi này, Kenneth C. Davis viết như sau trong cuốn Don't Know Much About The Bible: Everything You Need to Know About the Good Book But Never Learned:

"Một trong những bài giảng chính của Giêsu là một bài dài mà Augustine gọi là "Bài Giảng Trên Núi." "Bài Giảng Trên Núi" được trình bày toàn phần trong Phúc Âm Matthew (hơn 100 câu) và dưới dạng một bản rút ngắn trong Phúc Âm Luke. Trong Luke bài giảng này tương tự như trong Matthew, tuy ngắn hơn (khoảng 30 câu), và được nói ở đồng bằng khi Giêsu cầu nguyện xong và xuống núi.

Những sự khác nhau trong hai bài giảng này đã đưa đến sự đồng thuận của các học giả là bài giảng trong Matthew là kết quả góp nhặt từ nhiều bài giảng của Giêsu thành một bài dài có thể nhớ được. Nói khác đi, đó là những lời giảng của Giêsu được ghi lại một cách trung thực và là "Những Lời Hay Ý Đẹp Nhất của Giêsu" được gom lại thành một bài." [25]

Chúng ta hãy đi vào vài chi tiết trong Tân Ước để phân tích xem bài giảng đó hay như thế nào? “Bài giảng trên núi” chiếm 3 đoạn trong Phúc Âm Matthew: 5,6, và 7, và dạng rút ngắn trong Phúc Âm Luke 6:17-45. Những trích dẫn sau đây là từ Phúc Âm Luke.

Một trong những điều giảng dạy của Giêsu mà các tín đồ cho là hay nhất là câu mà các nhà truyền giáo gọi là "Luật Vàng" (Golden Rule), Luke 6: 31: "Hãy làm cho người khác điều các con muốn người ta làm cho mình".  Nhưng đây không phải là một luật do Giêsu sáng tác, vì chúng ta  biết rằng, hơn 500 năm trước khi Giêsu sinh ra đời thì Đức Khổng Tử cũng đã nói luật trên nhưng dưới một dạng khác: "Những điều mà mình không muốn người ta làm cho mình thì đừng có làm cho người khác" (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân).  Và trong kinh Talmud của Do Thái cũng có câu (Sabbath 31: 1):  "Cái gì mà mình không thích thì đừng có làm cho người khác" (What thou does not like, do thou not to thy neighbor). Điều mà hầu hết mọi người không biết là một người già hơn nhưng sống đồng thời với Giê-su, giáo sĩ Do Thái Hillel, cũng đã dạy một điều gần tương tợ như thế: “Điều gì ngươi không thích thì đừng làm cho láng giềng của ngươi” (Sabbath, 31:1). Nhưng điều sẽ không làm cho ai ngạc nhiên cả là người đầu tiên dạy Luật Vàng lại không phải là Hillel hay Khổng Tử, và chắc chắn không phải là Giê-su, mà chính là Đức Phật. Dù dùng một công thức khác, Đức Phật đã dạy cùng một ý trong kinh Nipata 705 khi Ngài nói: “Hãy nghĩ như vầy: Ta thế nào thì người khác thế ấy, người khác thế nào thì ta thế ấy. Hãy dung thông với kẻ khác, không hại ai cũng không ai hại người khác” .

Do đó, Luật Vàng mà các tín đồ Ki Tô thường cho là của Giêsu, thật ra chỉ là cóp nhặt tư tưởng đã có từ trước trong dân gian và thay đổi câu văn từ tiêu cực (negative) sang tích cực (positive). Nhưng cũng vì thế mà Luật Vàng của Giê-su không được hoàn hảo, vì điều mà mình muốn người khác làm cho mình chưa chắc đã là những điều đúng, lành thiện v..v.. mà có thể bắt nguồn từ tham dục, hay si ngốc. Và cũng chưa chắc đó là những điều mà người khác cần đến, hoặc muốn mình làm cho họ. Trái lại, luật của Đức Khổng Tử có tính cách luân lý rộng lớn, khuyên ngăn chúng ta không nên làm cho người khác những điều họ có thể không muốn, vì chính mình cũng không muốn những điều này. Đây là một cách xử thế khôn ngoan, tránh gây bất hòa, vì "đừng làm" ngụ ý thận trọng, trong khi "hãy làm" thường có tính cách áp đặt hay cưỡng bách. Chính sách cưỡng bách người ngoại đạo vào đạo là theo cái “Luật vàng” (sic) này của Giê-su.

Charles Bradlaugh, một tư tưởng gia tự do (freethinker) nổi tiếng của Anh Quốc, đã phân tích những điều giảng dạy của Giêsu trong một bài viết đặc sắc: Giêsu Giảng Dạy Những Gì?. Độc giả có thể lấy bài này trong Internet (www.infidels.org). Ở đây, tôi không có ý định phê bình toàn thể "Bài Giảng Trên Núi" cho nên sau đây tôi chỉ phân tích tiếp vài lời dạy của Giê-su mà một số trí thức Công giáo cho đó là phản ánh "đỉnh cao trí tuệ của Chúa":

Mathhew 5:3: Phúc cho kẻ có tinh thần yếu kém, vì nước thiên đàng thuộc về họ.

Bình luận về câu trên, Charles Bradlaugh viết:

Tinh thần yếu kém có phải là đức tính chính mà Giê-su đặt lên cao nhất trong những điều giảng dạy của ông ta hay không? Thực ra đó có phải là một đức tính không? Chắc chắn là không. Tinh thần dũng cảm, tinh thần lương thiện, tinh thần đầy đủ những mục đích công chính, đó là những đức tính; tinh thần yếu kém là một tội ác... [26]

Tại sao Charles Bradlaugh lại viết như vậy? Chẳng có gì là khó hiểu. Giả thử bạn là một người có tinh thần yếu kém và bị người ta tát cho một cái vào má. Trong trường hợp này, Giê-su dạy bạn phải hành động như thế nào? Luke 6:29 đã vạch rõ: "Nếu các con bị ai tát má này, cứ đưa luôn má bên kia.". Đây có phải là điều thực tế hay không. Tôi không khuyên bất cứ bạn đạo nào làm cuộc thí nghiệm sau đây: đến trước mặt "Hồng Y thiết giáp" Ratzinger, nay là Giáo hoàng Benedict XVI, và tát cho ông ta một cái xem các ông ấy phản ứng như thế nào, có đưa má kia cho bạn tát thêm hay không. Dù chúng ta có lòng nhân từ đến đâu thì, nếu chúng ta không tát trả lại thì ít ra cũng phải có biện pháp ngăn chận để cho khỏi bị tát thêm. Dung dưỡng sự bạo hành là đồng lõa với bạo hành. Cho nên Charles Bradlaugh đã viết "tinh thần yếu kém là một tội ác", tội ác đối với xã hội, tội ác đối với nhân loại, vì đã khuyến khích sự bất công và bạo hành.

Luke 6: 20: "Phúc cho các con đang nghèo khổ, vì Nước Trời thuộc về các con"; Luke 6: 24: "Nhưng khốn cho các con đang giàu có, vì các con đã được an ủi rối"

Đây có phải là giáo lý về luân lý đạo đức hay không, hay chỉ là những lời hứa hẹn vô trách nhiệm. Có ai biết "nước Trời" ở đâu? Người nghèo khổ, chỉ vì lý do duy nhất là đang nghèo khổ, được hứa hẹn một nước Trời chỉ có trong đầu óc bất bình thường của Giê-su. Người giàu có, chỉ vì lý do duy nhất là đang giàu có, bị Chúa nguyền rủa. Công bằng và bác ái ở chỗ nào?

Thực tế là ở trên đời này có ai muốn mình nghèo khổ đâu. Vì hoàn cảnh nên nghèo khổ và nếu có lòng dũng cảm, có ý chí, chăm chỉ học hành, làm lụng thì con người có thể vượt qua sự nghèo khó. Nhưng cái “Nước Trời” của Giê-su đã được những nhà truyền giáo xảo quyệt tận dụng để mê hoặc những người nghèo khổ đầu óc thấp kém. Và họ đã thành công.

Mặt khác, nếu lời của Giê-su như trên là đúng thì trong Công giáo, từ Giáo Hoàng trở xuống cho tới các Linh Mục, không ai có thể lên thiên đường được, vì đối với lớp dân nghèo khổ, thì các giới chức trong giáo hội toàn là những người giàu có, dư ăn dư mặc. Tài sản của Giáo hội Công giáo Hoàn Vũ (Vatican) lên tới hàng ngàn tỷ đô la, và các giáo hội địa phương cũng chỉ vơ vét của cải thế gian, làm giàu trên sự đói khổ của đám cùng đinh.

Người Việt Nam chúng ta có những câu: "Bần cùng sinh đạo tặc" hay "Đói ăn vụng, túng làm càn". Giê-su chắc không biết đến những câu này nên mới phát ngôn như trên.

Phê bình hai câu trên, Charles Bradlaugh viết:

Giêsu đưa ra hình ảnh của một người xuống địa ngục, cái tội duy nhất của người này là giàu có; và một người khác lên thiên đường, đức tính duy nhất của người này là nghèo khổ. Sau đó Giêsu còn khẳng định là: "Người giàu vào Nước Trời thật khó. Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Trời." (Luke 18: 25) Ý định duy nhất của một giáo lý như vậy có thể là làm cho người nghèo khổ an phận nghèo khổ trong đời sống này trong hi vọng sẽ được đền bù tốt hơn trong đời sau. Có thật là tốt đẹp khi ta an phận với sự nghèo khó hay không? Có phải là tốt hơn nhiều nếu chúng ta tìm hiểu nguyên do của sự nghèo khổ để tìm cách giải quyết vấn đề hay ngăn chận đừng để cho sự nghèo khổ xảy ra hay không? [27]

Tất cả các quốc gia trên thế gian này đều cố gắng làm sao để cho dân giàu nước mạnh. Vậy có ai tin theo lời Chúa đâu? Điều hiển nhiên là những người nghèo khổ nhiều khi đến độ không có cơm ăn áo mặc. Cảnh tượng này xảy ra khắp nơi trên thế giới. Không có cơm ăn thì đói. Đối với những người này thì Giê-su dạy ra sao?

Luke 6: 21: "Phúc cho các con đang đói, rồi các con sẽ no"; Luke 6:25: "Khốn cho những kẻ đang no, Vì các ngươi sẽ bị đói"

Trên thế gian này, thật sự có ai muốn mình đói để được Giê-su ban phúc cho không? Chúng ta thấy trước mắt những cảnh đói khổ ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở những nơi như Ethiopia, Rwanda, Congo v..v.. Hàng triệu người đói này có ai cần đến cái "phúc" của Giê-su ban cho hay cần đến cơm gạo, bánh mì để sống còn? Giê-su chỉ hứa hão. Bao giờ no? Ông ta không hề khẳng định. Bình luận câu trên, Charles Bradlaugh viết:

Giêsu dạy những gì?. "Phúc cho các con đang đói, rồi các con sẽ no". Ông ta không nói bao giờ thì sẽ được no. Hiển nhiên là thời điểm sẽ no đã được hoãn lại cho đến khi con người không còn dạ dày đâu để mà đầy bụng. Không phải là trong đời sống này mà người đói sẽ no. [28]

Giê-su cũng còn dạy:

4. Luke 6: 21: "Phúc cho các con đang than khóc, rồi các con sẽ vui cười"; Luke 6:25: "Khốn cho những kẻ đang cười, vì các ngươi sẽ than khóc."

Thật vậy sao? Bao giờ thì cười? và bao giờ thì than khóc? Con người ai chẳng có những lúc vui, lúc buồn. Khi gặp chuyện mừng thì vui thì cười, khi gặp chuyên bất hạnh thì than thì khóc. Có ai cười mãi hay khóc mãi đâu? Những nạn nhân của Giáo hội Công giáo trong ngục tối, bị tra tấn dã man trong thời Trung Cổ vì không tin Chúa, tất nhiên phải than khóc rồi, họ có được "phúc" của Chúa hay không?

Thật tôi không hiểu trong những lời dạy trên của Giê-su hay ho ở chỗ nào mà các tín đồ Công giáo khen nức khen nở là bài giảng trên núi thật là tuyệt vời , nhất là đoạn nói về "Phúc thật tám mối".

Chẳng thế mà Charles Bradlaugh đã đưa ra nhận định:

Giêsu dạy: Những người nghèo, đói, khốn khổ, sẽ được ân sủng của Thiên Chúa, nhưng ân sủng này chỉ tới khi họ đã hết nghèo, hết đói, hết khốn khổ (nghĩa là đã chết. TCN). [29]

Trên đây chỉ là vài trích dẫn từ Thánh Kinh những "lời hay ý đẹp" điển hình của Giê-su. Dựa vào những tư tưởng có tính cách mạ lị đầu óc con người này, các nhà truyền giáo đi xâm lăng các nước chậm tiến cũng đưa ra luận điệu hứa hẹn lừa dối: "nghèo khổ là do ý Chúa", và khuyến khích các tín đồ hãy chịu khó an phận như dân Do Thái ngày xưa, cứ giữ niềm tin ở Chúa rồi sẽ có ngày Chúa sẽ đoái thương và sẽ được ân sủng của Chúa. Chẳng biết cái ân sủng này mặt mũi nó ra làm sao. vì từ xưa tới nay chưa có ai, kể cả Giê-su, từ cõi chết trở về để mà cho bàn dân thiên hạ biết cái ân sủng đó nó như thế nào.

Trong cuốn Tiếng Kêu Than Của Người Dân Penny Lernoux viết:

Những nhà truyền giáo ngoại quốc góp phần nhồi vào đầu óc dân bản xứ ý tưởng là họ nghèo và ngu dốt là do ý muốn của Thiên Chúa. Như Tổng Giám Mục ờ Lima bảo các thổ dân rằng: "Nghèo khổ là con đường chắc chắn nhất đi tới hạnh phúc." người thổ dân nào hay dân Phi Châu nào mà liều lĩnh nghi ngờ điều dạy khôn ngoan đó bằng cách chống lại hệ thống đều bị giết ngay... Giáo Hội Công giáo phải gánh rất nhiều trách nhiệm về tình trạng này. [30]

Chúng ta hãy tiếp tục xét đến lời dạy của Giê-su trong “Phúc thật tám mối” :

5. Luke 6: 22-23: Phúc cho các con khi bị người ta ghét, xua đuổi, nhục mạ, bêu xấu tên tuổi vì Ta. Ngày đó, các con hãy lấy đó làm điều mừng và vui mừng nhảy múa, vì sẽ được phần thưởng lớn dành sẵn trên trời. Ngày xưa các nhà tiên tri cũng từng bị đối xử như thế.

Theo đúng lời Chúa không thể sai lầm như trên thì các tín đồ Ki Tô, Công giáo cũng như Tin Lành, nên mừng khi bị người ta ghét mới phải, vì đó chính là phúc của Chúa ban cho họ. Bị người ta ghét là con đường chắc chắn nhất để lên thiên đàng, lẽ dĩ nhiên, sau khi chết. Muốn được người ta ghét thì cũng dễ thôi, cứ tiếp tục đi theo con đường phi dân tộc, phản dân tộc như trong quá khứ, chỉ cần biết đến nước Chúa, không cần biết đến quốc gia dân tộc là gì. Tại sao mỗi khi có người nói hay viết những điều gì không hợp với những lời "giáo hội dạy rằng" thì các tín đồ Ki-Tô lại chụp lên đầu họ cái mũ thù ghét và chống Ki Tô Giáo? Các tín đồ Ki-Tô không biết rằng người ta thù ghét hay chống Ki Tô Giáo chính là để giúp cho họ được hưởng phúc của Chúa, giúp họ được phần thưởng lớn ở trên thiên đàng hay sao, nếu họ tin những lời của Chúa phải là đúng.

Để cho sự trình bày “giáo lý” tạm gọi là đầy đủ, chúng ta hãy xét đến vài lời giảng khác của Giê-su:

Chúng ta cũng phải hiểu rằng, khi Giê-su nói đến những đứa trẻ (little ones), không phải là ông ta nói đến những đứa trẻ ít tuổi thật, mà là để chỉ những người tin theo ông và phải trở thành như trẻ con như trong đoạn sau đây:

Matthew 18: 3: Đúng vậy, ta nói cho các ngươi biết, trừ phi các ngươi biến cải và trở thành như trẻ con, không có cách nào các ngươi có thể vào trong nước thiên đường.

Mark 10: 15: Đúng vậy, ta nói cho các ngươi biết, người nào mà không tiếp nhận nước Chúa như là một đứa trẻ thì sẽ không có cách nào vào đó được.

Trong Tân Ước chúng ta cũng còn thấy đoạn mô tả Giê-su cầu nguyện:

Matthew 11: 25: Hỡi Cha là Chúa của trời đất, tôi khen ngợi Cha, vì Cha đã che dấu những điều này đối với kẻ khôn ngoan, người sáng dạ; mà tỏ ra cho những con trẻ hay.

Như vậy, chúng ta thấy rằng, đạo Giê-su là đạo dành cho những người có đầu óc của trẻ con. Con trẻ, về thể chất cũng như tinh thần , đều chưa phát triển và trưởng thành, chưa có đủ khả năng suy nghĩ để phân biệt thật hay giả, đúng hay sai, cho nên ai nói gì cũng tin và hay làm theo, bắt chước. Nó giống như một con chiên (cừu), người chăn chiên dắt đi đâu thì đi đó. Vì vậy các tín đồ Công giáo Việt Nam còn được gọi là con chiên. Hiển nhiên là Chúa rất thành công với những người đầu óc như của con trẻ, còn đối với những người thông thái sáng dạ hay ít ra là có đôi chút đầu óc suy nghĩ thì Ngài lại hoàn toàn thất bại. Chúa cũng còn thành công với những người đầu óc bấn loạn, khủng khoảng tinh thần, cần bám vào một cặp nạng thần quyền để lê lết trong cuộc đời.

Cuối cùng chúng ta không thể bỏ qua những điều Giê-su hứa hão cho những người đầu óc không đội trời chung với lý trí:

Mark 11: 24: Vậy ta nói cho ngươi biết, khi các ngươi cầu nguyện, bất cứ cái gì mà các ngươi đòi hỏi, tin rằng các ngươi sẽ nhận được, và các ngươi sẽ có những cái đó.

Matthew 21:22: “Nếu các người tin, các người sẽ nhận được bất cứ điều gì các người yêu cầu trong cầu nguyện”

John 14:13-14: “Và Ta sẽ làm bất cứ điều gì các người yêu cầu nhân danh Ta… Các ngươi có thể yêu cầu bất cứ điều gì nhân danh ta, ta sẽ làm theo lời yêu cầu đó

Matthew 17: 20: Đúng vậy, ta nói cho ngươi biết, nếu ngươi có đức tin chỉ nhỏ bằng hạt cải, ngươi sẽ bảo trái núi này "Di chuyển từ chỗ này sang chỗ kia", nó sẽ di chuyển như vậy; và đối với ngươi không có gì mà làm không được.

Những màn “hiệp thông cầu nguyện” của giáo dân Việt Nam, nghe lời xúi dại của ông Tổng Kiệt nhục nhã, ở Tòa Khâm Sứ, Thái Hà hay Tam Tòa v…v… đều không thấy Chúa ở đâu để thực hiện những lời hứa trên, chứng tỏ Chúa chỉ hứa hão.

Trên đây là đại khái tất cả những gì chúng ta biết về cái gọi là “giáo lý” của Chúa Giê-su. Nhưng thực ra, đó chỉ là những hoa lá cành trang điểm cho thông điệp chính của Chúa. Thông điệp này như sau: “Hãy thống hối, vì nước Thiên đàng sắp tới” và nhất là: “Đứa nào tin Ta thì Ta cho lên Thiên đường, còn đứa nào không tin thì Ta cho nó xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng thiêu đốt nó”. Chấm hết. Và tất cả các tín đồ Ki Tô Giáo theo đạo Chúa cũng chỉ vì tin ở cái câu cuối này. Họ vẫn tin dù rằng Giáo hoàng John Paul II đã tuyên bố trước thế giới là “Chẳng làm gì có thiên đường trên các tầng mây, và cũng chẳng làm gì có hỏa ngục ở dưới lòng đất”.

Đối chiếu với những lời của Giê-su trong Tân Ước như trên, chúng ta có thể kể ra một số lời dạy của Đức Phật. Tuy nhiên. thật khó mà có thể đưa ra hết giáo lý của Đức Phật nằm trong ba Tạng Luật, Kinh và Luận của Phật Giáo. Chúng ta chỉ có thể nói một cách tổng quát rằng, từ Tam Học (Giới, Định, Tuệ) cho tới Tứ Diệu Đế, Tứ Niệm Xứ, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo v…v… và v… v… trong các Kinh điển Phật Giáo, tất cả những lời giảng dạy của Đức Phật đều nhất quán, chỉ có mục đích hướng dẫn con người tu tập, thăng tiến trí tuệ và từ đó có thể tự mình tỉnh thức, giác ngộ.

Sau đây chúng hãy sang đề mục cuối của bài này:

IV. Đạo Phật và Đạo Chúa đã mang lại những phúc lợi gì cho nhân loại.

Về phương diện hành trì giáo lý thì chúng ta đã biết lịch sử của Công giáo đã mang tới bao nhiêu bất hạnh cho nhân loại qua 1000 năm của thời kỳ đen tối (Dark Ages) ở Âu Châu với 9 cuộc Thánh Chiến, 400 năm của các tòa án xử dị giáo, bách hại dân Do Thái, làm tiền phong hay đồng hành với những đế quốc thực dân Tây phương xâm chiếm các nước kém mở mang ở Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh, Nam Mỹ, Á Châu .. để truyền đạo với những sách lược như dựa vào quyền thế vua chúa, dựa vào những thế lực thực dân hay dùng bả vật chất để cưỡng ép những người ngoại đạo phải vào đạo, cùng phá hủy chùa chiền, miếu mạo của những người dân bản xứ. Cái lịch sử ô nhục đầy máu và nước mắt này đã được giáo hoàng chính thức cáo thú cùng thế giới một cách đại cương vào ngày 12 tháng 3 năm 2000 tại tòa thánh Vatican. Cả thế giới đều biết trừ những tín đồ sống trong bóng tối nên vẫn tin rằng giáo hội Công giáo là một hội thánh "thánh thiện".

Những danh nhân trí thức đã nhận định như thế nào về đạo Phật và đạo Chúa. Trước đây tôi đã sưu tầm 100 nhận định về đạo Chúa và 100 nhận định về đạo Phật của các bậc thức giả trong thế giới Tây phương, trong đó có cả một số bậc lãnh đạo trong đạo Chúa. Độc giả có thể đọc những nhận định này trên https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN56a.php.

Ở đây tôi chỉ đối chiếu hai tài liệu điển hình về bản chất của đạo Phật và đạo Chúa, từ đó chúng ta có thể hiểu tại sao đạo Chúa lại gây quá nhiều tác hại cho nhân loại trong khi đạo Phật được cả thế giới công nhận là đạo từ bi, hòa bình.

1. Mục sư Ernie Bringas trong cuốn Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Bởi (Tin Vào) Quyền Năng Của Cuốn Thánh Kinh [Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority, p.17]:

"Trải qua nhiều thế kỷ, sự sùng tín Thánh Kinh đã dẫn tín đồ Ki Tô trong một niềm tin mù quáng, trong sự khủng bố, ngược đãi người Do Thái và những người phi-Ki-Tô, giết hại và khủng bố, áp bức phái nữ, đè nén dục tính, kiểm duyệt, tạo tâm lý sùng tín, và nhiều lầm lạc khác. Những mô thức hành xử có tính cách hủy diệt này, người ta có thể thấy dễ dàng là chúng bắt nguồn từ sự tin vào quyền năng tuyệt đối của những điều viết trong Thánh Kinh." [31]

2. Robert G. Ingersoll trong cuốn Ingersoll, Con Người Phi Thường [Ingersoll, The Magnificient, p. 117.]

" Nhân danh Chúa Ki Tô hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông thái nhất, giỏi nhất.

Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng cả ngàn năm… Phúc âm của hắn chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người. Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra." [32]

Để đối chiếu, chúng ta biết rằng, lịch sử Phật Giáo đã chứng tỏ trong sự bành trướng của Phật Giáo trên thế giới từ 25 thế kỷ trước, qua phương pháp truyền đạo hòa bình và chuyển hóa, Phật Giáo không hề làm đổ một giọt máu của một người nào vì lý do họ theo một đạo khác, và cũng chưa từng cưỡng ép bất cứ ai phải theo Phật Giáo.. Chúng ta hãy kể hai nhận định điển hình về Phật Giáo:

1. Joseph L. Daleiden, một học giả Công giáo, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition), xuất bản năm 1994, sau khi phân tích và đánh giá cái gia tài Do Thái - Ki Tô (A Critical and Evaluation of the Judeo-Christian Legacy), đã đề nghị những Tín Ngưỡng Khác Thay Cho Thần Giáo (Alternatives to Theism). Về Phật Giáo tác giả viết, trang 424:

Lời giới thiệu hay nhất về Phật Giáo là, giống như Khổng giáo, hệ thống tín ngưỡng này đã hiện hữu trong 25 thế kỷ mà không hề có một cuộc Thánh Chiến, một Tòa Án Xử Dị Giáo, hay một toan tính đế quốc nào nhằm xâm chiếm và phá hủy nền văn hóa của một dân tộc khác. (Những núi tội ác của Giáo hội Công giáo mà Giáo Hoàng John Paul II đã xưng thú cùng thế giới Giáo. TCN) [33]

2. Giáo sư P. V. Bapat trong cuốn “2500 Phật Giáo” (2500 years of Buddhism):

Không có một trang lịch sử nào của Phật giáo khủng khiếp bởi ánh sáng của ngọn lửa của tòa án dị giáo, hay bị làm đen bởi làn khói đốt cháy dị giáo hay các thị tứ dân gian, hay bị nhuộm đỏ với máu của các nạn nhân vô tội vì hận thù tôn giáo. Phật giáo chỉ dùng một thanh gươm, đó là gươm Trí tuệ và chỉ biết một kẻ thù, đó là Vô minh. Ðó là chứng tích của lịch sử không thể chối cãi được. [34]

 

V. Kết Luận:

Đây là bản “đối chiếu” giữa thực chất của Phật Giáo và Ki Tô Giáo chứ không phải để “so sánh” vì về căn bản tín ngưỡng tôn giáo, về tư cách của Đức Phật và của Chúa Giê-su, chúng ta không có cách nào có thể so sánh Phật Giáo với Ki Tô Giáo được. Lý do rất đơn giản, vì Phật Giáo là tôn giáo của trí tuệ , mà trí tuệ thì không thể tách rời “Lý Trí” [Reason]. Đại Học Vạn Hạnh trước đây có “motto”: Duy Tuệ Thị Nghiệp’. Còn Ki Tô Giáo thì ai cũng biết đó là tôn giáo của Đức Tin [Faith]. Vậy thì trước hết chúng ta cần phải biết định nghĩa của Đức Tin và của Lý Trí.

Theo H. L. Mencken thì “Đức tin có thể định nghĩa ngắn gọn như là một niềm tin phi lý vào những gì không chắc chắn xảy ra (Faith may be defined briefly as an illogical belief in the occurrence of the improbable.) Còn theo Tự Điển thì “Đức Tin là sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực” [Faith is the firm belief in something for which there is no proof]

Trong tự điển có 2 định nghĩa của Lý Trí: “khả năng có những tư tưởng hợp lý, suy lý hoặc phân biệt” (The capacity of rational thought, inderence, or discrimination), và “suy xét đúng, phán đoán hợp lý” (Good judgment, sound sense).

Vì vậy, trong cuốn “The Final Superstition”, Joseph L. Dalaiden, một học giả Công Giáo, đã để nguyên một chương để thảo luận về “Lý Trí đối với Đức Tin” và đưa ra kết luận: “Lý Trí đối với Đức Tin: con đường đi tới hiểu biết, con đường đi tới mê tín” [Reason versus Faith: A Path to Knowledge, a Path to Superstition.]

Nếu chúng ta không thể so sánh về căn bản tín ngưỡng của Phật Giáo và Ki Tô Giáo thì chúng ta có thể đối chiếu được một số phương diện nào của hai tôn giáo trên không? Từ trước tới nay, tôi không có ý định làm việc này, nhưng nay vì những hành động hung hăng truyền đạo láo xược của đạo Chúa ở Việt Nam để đầu độc người dân bằng những chuyện hoang đường mà Tây phương đang dần dần phế thải, tôi nghĩ ngày nay người dân Việt Nam cũng nên biết rõ về bản chất của hai tôn giáo chính ở Việt Nam như trên.

Việt Nam có hai tôn giáo có nhiều tín đồ nhất là Phật Giáo và Công Giáo. Công Giáo chiếm tối đa vào khoảng 7% dân số. Còn Phật Giáo thì chúng ta thực sự không biết rõ tỷ lệ là bao nhiêu, vì không phải chỉ có những người quy y Tam Bảo mới kể là theo Phật Giáo. Tôi có rất nhiều bà con thân thuộc và bạn bè rất ít khi hay chẳng bao giờ đi Chùa, và cũng chẳng quy y Tam Bảo, nhưng nhà nào cũng có tượng Phật, hay ảnh Phật, và kinh sách Phật v..v.. Ngay trong gia đình tôi, chỉ có mình tôi là đã quy y Tam Bảo, còn tiện nội cũng không quy y, nhưng cũng thường đi Chùa lễ Phật và đọc kinh sách Phật Giáo. Cho nên, tôi nghĩ người theo đạo Phật, dưới hình thức này hay hình thức khác, tất nhiên phải là tuyệt đại đa số. Lịch sử đã viết rằng: “Thiên hạ Lý Trần bán vi Tăng” [Trong những triều đại Lý, Trần một nửa bàn dân thiên hạ sống như các vị Tăng Phật Giáo]. Còn tuyệt đại đa số người dân khi đó sống không ít thì nhiều đều có ảnh hưởng của Phật Giáo. Đây cũng là những triều đại mà xã hội hiền hòa nhất trong lịch sử Việt Nam.

Muốn đối chiếu hai tôn giáo, chúng ta không thể lấy vài câu lạc lõng giống nhau trong kinh điển của mỗi tôn giáo để so sánh và cho là có sự tương đồng, mà phải nghiên cứu về mọi khía cạnh của mỗi tôn giáo, ít ra là về Bản chất, Tư Cách Giáo Chủ, Giáo Lý, Lịch sử truyền đạo của mỗi tôn giáo. Đây là một công việc vừa có tính hàn lâm vừa rất trí thức, tốn rất nhiều thì giờ và phải sử dụng rất nhiều tài liệu, khoan nói là phải biết ít nhiều về nội dung Kinh điển cũng như lịch sử của mỗi tôn giáo. Do đó tôi chỉ có thể thu hẹp sự đối chiếu trong bốn đề mục ở trên. Tuy nhiên rất có thể khi đưa ra những sự thực về tôn giáo, chúng ta có thể bị ngộ nhận, thậm chí có khi bị lên án sai lầm, là chống tôn giáo hay phê bình chỉ trích tôn giáo.

Thật vậy, có nhiều người đưa ra luận cứ là tôn giáo nào cũng dạy cho con người có đạo đức, làm lành tránh ác, bản chất đều giống nhau, do đó không nên phê bình chỉ trích tôn giáo. Điều này thường là luận điệu chống đỡ của những tôn giáo bị nhân loại phê bình, chỉ trích những khía cạnh tiêu cực của tôn giáo đó mà vô phương biện cãi bằng lý luận. Bertrand Russell cũng đã đưa ra nhận định: “Người ta thường nói tấn công tôn giáo là điều rất sai lầm vì tôn giáo làm cho con người có đạo đức. Người ta nói với tôi như vậy; (nhưng) tôi không nhận thấy như vậy..” [One is often told that it is a very wrong thing to attack religion, because religion makes men virtuous. So I am told; I have not noticed it..]. Thật vậy, luận cứ trên không đứng vững vì “dạy con người làm lành tránh ác” là sự phát triển của tri thức con người và chung cho dân gian chứ không chỉ nằm trong tôn giáo. Chẳng có cha mẹ nào, dù họ là người vô thần hay vô tôn giáo lại dạy con cái “làm ác tránh lành”. Đạo Khổng thực sự không phải là một tôn giáo, nhưng Đức Khổng Tử đã dạy con người một số những tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội mà cả thế giới ngày nay đều tán thán. Mặt khác, Bertrand Russell nói như trên vì ông ta đã biết rõ lịch sử Công giáo dạy “làm lành tránh ác” như thế nào, hiển nhiên không phải là “Ki Tô Giáo làm cho con người đạo đức..” mà trái lại. Thật vậy, chúng ta không thể cứ nhắm mắt tin bừa vào những lời khoa trương trống rỗng như “Thiên Chúa lòng lành” hay “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian”, hay “Chúa Giê-su yêu bạn” mà phải tìm hiểu xem trong cuốn Kinh Thánh, Thiên Chúa đã “lòng lành” như thế nào, và Chúa Giê-su đã yêu những người không tin ông ta như thế nào? Cũng vậy, chúng ta không thể nào tin vào những lời tự khoa trương của giáo dân như “sống đạo, tốt đời” mà phải tìm hiểu xem trong giòng lịch sử, giáo dân đã “sống đạo, tốt đời” như thế nào.

Cựu Linh mục dòng Tên Peter Doeswyck đã nhận định, và lịch sử cũng đã chứng tỏ như vậy, là:

“Toàn thể cấu trúc của Giáo hội Công giáo La-mã được xây dựng trên những ngụy tạo, những lá thư tông đồ giả mạo, những bài giảng giả mạo, những phép lạ giả mạo, những di tích (của các Thánh) giả mạo, những công đồng giả mạo, và những sắc lệnh giả mạo của các giáo hoàng.” [35]

Như vậy thật ra người theo đạo Chúa tin ở cái gì? Câu trả lời nằm trong câu hỏi. Tuy nhiên, các tín đồ đạo Chúa vẫn có thể tin rằng những điều Linh mục Peter Doeswyck nói trên đã, hay sẽ mang lại cho họ niềm hi vọng lớn lao nhất trong đời họ, đó là có cuộc sống đời đời sau khi chết. Thực tình tôi cảm thấy rất thương hại và tội nghiệp cho họ.

Tất cả những gì trình bày trong bài này đều nằm trong lãnh vực học thuật để mở mang đầu óc của người dân bình thường không có cơ hội và/hoặc khả năng tìm hiểu. Giúp cho họ hiểu biết đúng là một món quà vô giá mà chúng ta có thể tặng cho họ.

Đây là điều rất cần thiết trong thời đại ngày nay. Trong 14 Điều Phật Dạy thì điều thứ 13 nói rằng: “Khiếm khuyết nhất của đời người là kém hiểu biết.” Vì kém hiểu biết nên chúng ta thường đi lạc đường, tin vào những điều không thể tin được, đắm mình trong ma đạo, và từ đó đã có những hành động phi dân tộc, phản tổ quốc..

Với sự phân tích và đối chiếu bốn đề mục trên, nay chúng ta đã có thể nhận ra chân giá trị của đạo Phật và đạo Chúa nằm ở đâu. Với tất cả sự lương thiện trí thức, chúng ta hãy tự hỏi, đạo nào đã mang phúc lợi đến cho nhân loại và đạo nào đã gây tổn hại cho nhân loại. Chúng ta có thể không tin theo những giáo lý của Đức Phật vì căn trí giới hạn của chúng ta, nhưng chúng ta không thể phủ nhận là, trong rừng Kinh điển Phật Giáo, chúng ta không thể tìm thấy một lời nói hay một hành động nào của Đức Phật mà chúng ta có thể chê trách, theo tiêu chuẩn luân lý đạo đức của mọi xã hội, xưa cũng như nay. Nói đến Đức Phật là chúng ta nói đến từ bi, từ bi không chỉ đối với con người mà còn đối với tất cả chúng sinh.

Trong thế giới Tây Phương, Giê-su là một khuôn mặt tôn giáo được dân chúng biết đến nhiều nhất, và đạo Chúa thường vẫn cho rằng Giê-su là một ngôi Thiên Chúa, cao vượt hẳn những khuôn mặt tôn giáo khác. Điều này không còn đúng nữa, và trước chân giá trị của Phật Giáo cũng như vị thế cao cả của Đức Phật về đủ mọi phương diện, một số học giả Ki-tô, và ngay cả một số lãnh đạo Ki-tô Giáo, đã thay đổi quan niệm. Ngày nay nhiều người Tây phương, nhất là giới trí thức, đã thấy rõ bản chất của đạo truyền thống Tây phương và đi tìm giá trị tâm linh trong các tôn giáo Á đông, đặc biệt là Phật Giáo. Họ đến Phật Giáo để tìm những giá trị tâm linh khác với những giá trị tâm linh truyền thống của họ mà họ thấy rằng không còn phù hợp với thời đại ngày nay, với sự tiến bộ trí thức của nhân loại. Nhưng thật đáng buồn, ở một vài nơi, họ lại được dạy để quay về với những điều mê tín hoang đường đã không còn giá trị, thí dụ như:

- Đức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Đế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống.

- Chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài.

- Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng Đế…

- Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở trong nội tâm mình.

- Khi chúng ta theo dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu,

chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của Thượng Đế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng Đế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài.

Những tài liệu nghiên cứu của các học giả Tây phương về Thượng đế, về Chúa Giê-su trình bày trong bài đối chiếu giữa đạo Phật và đạo Chúa ở trên đã bác bỏ hoàn toàn những điều thuộc về “đức tin” trên. Những huyền thoại về Thượng đế và về Chúa Giê-su nay đã không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết. Trong cuốn Những Phê Bình về Thiên Chúa (Critiques of God), biên tập bởi Peter A. Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận thần học của Ki Tô Giáo Critiques of God, trang xiii, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây:

Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến khỏi nền văn hóa của chúng ta. Bất cứ sự tin chắc toàn bộ nào về Thiên Chúa cũng đang trở thành mờ nhạt trong nền văn hóa của chúng ta. Thiên Chúa đã mất đi trụ xứ trong không gian như là một nước trên Thiên đàng. Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô. Không phải là Thiên Chúa bị đẩy ra một vùng xa lắc xa lơ. Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô thân thể (không nam không nữ), mà vì chúng ta nhận thức ra rằng chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà nói tới. [36]

Và Giám Mục Tin Lành John Shelby Spong cũng đã đưa ra những nhận định:

“Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.”

Sự sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết. Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ.

Giáo hội Công giáo vẫn duy trì chính sách che dấu tín đồ về những sự thực không lấy gì làm đẹp cho bộ mặt “thánh thiện”, “duy nhất”, “tông truyền” của Giáo hội mà Giáo hội đã thành công cấy vào đầu các tín đồ thấp kém ở dưới. Nhưng ngay cả những bí mật trong cung đình Vatican cũng đã lộ ra dần dần. Tôi chợt nhớ đến hai câu trong trang cuối của cuốn “The Lost Symbol” của Dan Brown, tác giả cuốn “The Da Vinci Code” nổi tiếng trước đây:

Không có gì che dấu mà rồi người ta không biết; không có gì bí mật mà rồi không bị phanh phui ra ánh sáng [Nothing is hidden that will not be made known; noting is secret that will not come to light]

 


Chú Thích

[1] John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, p. 4: The words of the Apostles' Creed, and its later expansion known as the Nicene Creed, were fashioned inside a worldview that no longer exists. Indeed, it is quite alien to the world in which I live. The way reality was perceived when the Christian creeds were formulated has been obliterated by the expansion of knowledge..

[2] Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, New York, 1997, Front Cover. The Last Supper, the Virgin Birth, the Resurrection: one by one the great beams of Christianity are being tested. Biblical scholars – once the guardians of Christian theology – are now using the tools of archaeology, anthropology, linguistics, computer science, and even particle physics to probe the question “Who was Jesus?” The result is a radical revision of the Gospel story that is both surprisingly vivid and to some people, deeply shocking... Most important, the author tells of the impact the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth.

..The work of the Jesus Seminar, and of all contemporary Jesus researchers, in Funk’s view, represents a shift on the part of biblical scholars away from the tyranny of the church and toward cultural honesty. As far as Funk is concerned, scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.

[3] Cross, Colin, Who Was Jesus?, Barnes & Nobles Books, New York, 1993, Introduction: Viewed from a distance and considered as a whole, Jesus of Nazareth is a reasonably tangible historical figure. But too close an examination of any individual detail of him causes him to blur...The reason for uncertainty about Jesus is the simplest possible. It is just that there is no record at all, of any kind, about the greater part of his life. He wrote no book. Even what he looked like is unknown. There is not a word of independent proof that he ever even existed. The records that do exist, the gospels, cover only a fraction of Jesus' life and are written from a cultic and ritualistic point of view and not as ordinary history. There are the gravest inconsistencies in the gospel accounts and also many blatant improbabilities.

[4] Ernie Bringas, Going By The Book: Past And Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Pub., Co. VA., 1996, p. 191: The consensus today is that the historical Jesus - the words and actions of Jesus and the real events surrounding his life - cannot be determined with precision. While we know how the author of a Gospel regarded Jesus by what he reported (and how he reported it), it is not always possible to penetrate beyond the Gospel portrayals of Jesus to Jesus himself. We cannot determine with certainty what Gospel statements about his life and career are genuine.

[5] Ranke-Heinemann, Uta, Putting Away Childish Things, Harper-Collins., San Francisco, 1995, p. 2: We encounter this truth in the person of Jesus. We know neither when and where he was born, nor when he died: He is a man without a biography. We don’t know how long his public activity as a peacher lasted or where exactly it took place. Strictly speaking, we don’t know a whole lot more than that he was born, that there were people who followed him as his disciples, and that he was executed on the cross – the Roman version of the gallows – and thus came the wretched end... This Jesus lies burried not only in Jerusalem, but also beneath a mountain of kitsch, tall tales, and church phraseology.

[6] Harvey, Andrew, Son of Man: The Mystical Path to Christ, Jeremy P. Tarcher / Putnam,New York, 1998, p. 4.: Historical criticism has proved, conclusively, that the Gospels are to be read not as Spirit-inspired, faithful eye-witness accounts of Jesus’ life but as carefully sculpted versions of that life, arranged to suit or promote different spiritual interests, personalities, and factions within the dramatic years of early Christianity. The Gospels are neither directly inspired divine documents nor straight-forward historical records; neither divine revelations directly inspired by God nor eye-witness accounts written by people who had known Jesus and wanted to report clearly what they had experienced with him. Written in the last third of the first century, they express and condense the traditions of different early Cristian communities and were put into their current form slowly over a period of three hundred years.

[7] Spong, John Shelby, Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, Harper, San Francisco, 1992, p. 35. Jesus was interpreted by the early Christians in terms of their assumed and unquestioned concepts of God, modeled after the image of a heavenly king. The focus was on the exalted Jesus seated at the right hand of the heavenly throne. The image reflected the popular mythic understanding of the universe as a kingdom.. But he was “born of a woman”.. His origins were equally as scandalous as his means of death. He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.

[8] Gruber, Elmar R. & Kersten, Holger, The Original Jesus: The Buddhist Sources of Christianity, Element Books, Inc., Rockport, MA, 1995, pp. 3-4.: Hardly any other theme has caused such a stir in the Western world as the person of “Jesus of Nazareth”; hardly any other theme has led to the writing of so many books, or such animated and passionate discussions. And yet the personality of the historical Jesus is veiled in profound darkness. For a millennium and a half there were only accounts depicting Jesus in accordance with official Church theology, written with the objective of strengthening Christians’ faith or inducing other to turn to Christianity... During the nineteenth century the New Testament was subjected to scholarly investigation for the first time. It was the beginning of systematic research into the life of Jesus.. In 1835 David Friedrich Strauss published his influential book The Life of Jesus (Das Leben Jesus). Armed with uncompromisingly critical rational views, he bluntly rejected the historical factuality of the Gospels. For Strauss they were nothing but legends and pious stories about the figure of Jesus, inspired by the Old Testament. Such opposition went further at the mid-nineteenth century. Bruno Bauer completely banned the figure of Jesus from historical research, simply declaring that the central figure in the New Testament was a mythical invention. Jesus and Paul were said to be nothing but literary fictions; and Christianity was seen as having been created by a fanatical group which concocted the faith around those two invented figures out of Jewish, Greek, and Roman religious traditions... Today there are well over 80000 monographs on Jesus, but their impact in terms of illuminating the historical figure is modest in the extreme. Who was Jesus? When he was born? What did he look like? When he was crucified? When how, and where did he died? Finding answers to those questions soon turned out to be an insoluble problem. In the books written during the first two centuries AD there is hardly any mention of Jesus as a real human being. The later sources are almost exclusively theological writings, which take for granted a belief in Jesus Christ as the Messiah and Son of God. So truly impartial written testimony is practically non-existent, and scholarship in thus not in a position, even today, to say in which year Jesus was born... Hardly any attention is paid in the canonical Gospels of Jesus’ childhood and youth, a phase of life of such importance for the formation of a person’s character. Even in the accounts of the brief period of his public impact there is only very sparse biographical information about him. It seems as if he was almost completely unknown to the historians of his time, or at least not worth mentioning. How is it possible that they paid no attention to the amazing miracles and extraordinary events recorded in the Gospels.

[9] Martin, Michael, The Case Against Christianity, Temple University Press, Philadelphia, 1991, p. 37: Modern critical methods of biblical scholarship have called into question the historical accuracy of the Bible and, in particular, the New Testament. In the light of this critical approach to the New Testament many theologians have argued that not much is known about Jesus. For example, W. Trilling argues that “not a single date of his life” can be established with certainty and J. Kahl maintains that the only thing that is known about him is that he “existed at a date and place which can be established approximately”. Other scholars argue that the quest for the historical Jesus is hopeless...The most respected contemporary critic of the historicity of Jesus is G. A. Wells... Wells stresses that his skepticism concerning the historicity of Jesus is based in large part on the views of Christian theologians and biblical scholars who admit that the canonical Gospels were written by unknown authors not personally acquainted with Jesus, between 40 and 80 years after Jesus’ supposed lifetime. According to Wells they also admit that there is much in these accounts that is legend and that the Gospel stories are shaped by the writers’ theological motives. Furthermore, the evidence provided by the Gospels is exclusively Christian..

[10] A religion of enlightenment improves our spiritual wisdom or our moral behavior by some teaching. A salvational religion converts our life by leading us to live our lives in another.

...When the great teacher dies, his teaching may well live on...He may have a teaching like the Noble Eightfold Path, which perpetuates his special wisdom. Even if the teacher leaves no teaching but only the example of an inquisitive mind and the ideal of the Good, like Socrates, the example of the teacher remains to be emulated by later students. All of those means of continuing "the life of the teacher" are eminently sensible and as broadly practiced as the planet is covered with talkers. But that scenario is not the New Testament line. It isn't the teacher's teaching that lives on, it is the "teacher". But if that how it is, it is no "teacher" but "savior".

...Salvational religion depends, then, on "conversion", "resurrection", "radical change" on the basis of a life lived with another.

...In a salvational religion, one does not attain spiritual 10 by learning about some truth, fact, or person. All that is teacherly and noble, but it is not part of a salvational scenario. In a sin and salvation story, one comes to a new state by living with another.

...Does Jesus conform to the pattern of the great spiritual masters? He does not. The norm for spiritual masterhood is that one be a great teacher of enlightenment, spiritual wisdom, or the tranquil mind. Jesus is not a teacher, he is a savior.

Consider a great teacher. Socrates is a good example. Socrates is a master of spiritual enlightenment...He claims to know nothing; he only asks a few tricky questions...Socrates wants to make sure that the pupil is attached to the truth, not to Socrates.

Buddha is an examplar of a great "religious" teacher under the same Socratic self discipline.

Buddha is not a savior, He is the Enlightened One. He has seen the truths of human life, and he offers the Noble Eightfold Path as a guide to similar enlightenment and release from suffering..

In contrast to these great teachers, one would have to say that Jesus evidently misunderstands how teaching is played out. Jesus doesn't have students, he has disciples. And not accidentally. Jesus says, "he who believes in ME shall never die." Not who believes in my teaching, but who believes in ME. What Jesus "knows" is not enlightenment; he knows the Father. "Only the Son knows the Father. He who knows ME knows the Father. Only through ME can one come to the Father.

Whatever else Christianity may be, it seems on its face clearly to be a religion which preaches salvation and a savior. Before one becomes instantly bored with that idea, it is important to note that most other significanr spiritual contenders not only don't preach salvation, in some cases they positively dislike it. Islam is a case in point. Muslims find the Christian notion of a savior demeaning both to the saver and the saved.

...For enlightenment and morality one needs teachers, not saviors. The distinction is crucial. On the whole, religions of morality or enlightenment are much more palatable to contemporary American taste. They have two distinct advantages over the Biblical tradition. In the first place they appear to be do-it-yourself spiritualities. This conforms to an American taste for independence and self-reliance. Although great teachers are valuable in these traditions, they are also dispensable, and one can be self-taught. One cannot be self-saved in the Biblical story. The second advantage of religions of enlightenment and morality is that they can dispense of most theological machinery. If there are Gods at all - and in Buddhism there appear to be none - then their role is either as helpful (but dispensable) teachers or as ideals and examplars. The truth is in the teaching, not in the teacher-savior.

[11] I cannot myself feel that either in the matter of wisdom or in the matter of virtue Christ stands as high as some other people known to history - I think I should put Buddha and Socrates above him in those respects.

[12] There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrowed-minded, vindictive, and even hypocritical.

Spong, John Shelby, Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, Harper, San Francisco, 1992, p. 35. Jesus was interpreted by the early Christians in terms of their assumed and unquestioned concepts of God, modeled after the image of a heavenly king. The focus was on the exalted Jesus seated at the right hand of the heavenly throne. The image reflected the popular mythic understanding of the universe as a kingdom.. But he was “born of a woman”.. His origins were equally as scandalous as his means of death. He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition

Ibid., pp. 21,24: Are we drawn to a Lord who would destroy a herd of pigs in order to exorcise a demon? Are we impressed when the one we call Lord curses a fig tree because it did not bear fruit out of season?... A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less worship.

[13] Buddha in a different language called men to self-forgetfulness five hundred years before Christ. In some ways he was nearer to us and our needs. Buddha was more lucid upon our individual importance in service than Christ, and less ambiguous upon the queation of personal immortality. You see clearly a man, simple, devout, lonely, battling for light, a vivid human personality, not a myth.

[14] Lord Buddha could be very easily singled out as the one person known to man who received homage from the greatest number of mankind.

[15] He gave expression to truths of everlasting value and advanced the ethics not of India alone but of humanity. Buddha was one of the greatest ethical men of genius ever bestowed upon the world.

[16] The Buddha and his philosophy seemed logically and ethically superior to the Christ and the teachings of the New Testament. Unlike the crude eternal bliss and eternal damnation of the Christian Church, the doctrine of Karma seemed in harmony with such assumptions of modern science as the universality of causation and the persistence of force.

[17] Buddha was the embodiment of all virtues he preached. During his successful and eventful ministry of 45 years he translated all his words into action; and in no place did he give vent to any human frailty, or any base passion. The Buddhas moral code is the most perfect which the world has ever known.

[18] If you desire to see the most noble of mankind, look at the king in beggar’s clothing; it is he whose sanctity is great among men.

[19] The most striking thing about the Buddha is almost a unique combination of a cool scientific head and profound sympathy of a warm and loving heart. The world today turns more and more towards the Buddha, for he alone represents the consience of humanity.

The Buddha was a pioneer as a lover of men, and a philosophic genius rolled into a single vigorous and radiant personality. He had things to say that no man or woman, after 2500 years of bustling and hustling and chattering round the fountain of knowledge, can afford to ignore. Greater perhaps than his wisdom was the example he set.

[20] I feel more and more that Sakyamuni is the nearest in character and effect to Him who is the Way, the Truth, and The Life.

[21] There is very little, if anything, that is original in the teaching attributed to Jesus. Like the myth of Jesus itself, the sentiments he expresses are a hodgepodge of aphorisms and moral convictions that can be found in the ancient Egyptian, Babylonian, Persian, Greek, Buddhist, Confucian, and Hindu religions... But one thing is certain: Christianity, a late-comer in the history of religion, merely plagiarized sentiments from Judaism and the so called pagan religions. In his book Sources of Morality in the Gospels, Joseph McCabe quoted the moral views attributed to Jesus in the gospels and in parallel columns gave exact moral equivalents from Jewish and pagan writers.

[22] All his sayings, his teachings, his sermons culminated in a single word: "I"

[23] What belongs to the preaching of Jesus is clearly recognized. It is contained in two phrases of identical meaning, “Repent, and believe the Gospel,” or, as it is put elsewhere, “Repent, for the Kingdom of Heaven is at hand”.

[24] Joseph L. Daleiden, The Final Superstition, p.179: That human act savagely is in large part a function of their cultural ethic. The ethic of the New Testament was vengeance on any who rejected Christianity. Although on one hand the New Testament writers have Jesus preaching forgiveness, He espouses an extremely intolerant attitude toward those who do not accept Him as their Savior.

[25] Davis, Kenneth C., Don't Know Much About The Bible: Everything You Need to Know About the Good Book But Never Learned, p. 374: One of the centerpieces of Jesus' teaching is an extensive talk that Augustin labeled the "Sermon on the Mount." The "Sermon on the Mount" appears its entirely in Matthew (more than one hundred verses long) and in a somewhat abbreviated version in Luke. In Luke this teaching session is similar, though shorter (about thirty verses), and is delivered "on a level place" after Jesus comes downs from the mountain where he had been praying.

The differences between the two versions have led scholars to contend that the version in Matthew represents a compilation of many of Jesus' teachings compressed into one long and memorable discourse. In other words, while it faithfully captures the words and teachings of Jesus, the sermon was a "Best of Jesus", edited into a single speech.

[26] Charles Bradlaugh, The Freethought Web, (Is poverty of spirit the chief amongst virtues, that Jesus gives it prime place in his teachings? Is it even a virtue at all? Surely not. Manliness of spirit, honesty of spirit, fullness of rightful purpose, these are virtues; poverty of spirit is a crime...

[27] Charles Bradlaugh, Ibid., Jesus pictures one in hell, whose only related vice is that in life he is rich; and another in heaven, whose only related virtue is that in life he is poor. He affirms it is more difficult for a rich man to get into heaven, than for a camel to go through the eye of a needle (Luke 18: 25). The only intent of such teaching could be to induce the poor to remain content in this life with the want and misery of their wretched state in the hope of higher recompense in some future life. Is it good to be content with poverty? Is it not far better to investigate the causes of poverty, with a view to its cure and prevention?

[28] Charles Bradlaugh, Ibid., What does Jesus teach? "Blessed are you who hunger now, for you shall be filled" (Luke 6: 21). He does not say when the filling shall take place. The date is evidently posponed until men will have no stomachs to replenish. It is not in this life that the hunger is to be sated..

[29] Charles Bradlaugh, Ibid., Jesus teaches that the poor, the hungry, and the wretched shall be blessed. But blessing only comes when they cease to be poor, hungry, and wretched...

[30] Penny Lernoux, Cry of The People, p. 16: Foreign missionaries helped drum these ideas into the native's heads by claiming that it was God's will that they should be poor and ignorant. As the Archbishop of Lima told his Indians: "Poverty is the most certain road to felicity." Any Indian or African who had the temerity to doubt such wisdom by rebelling against the system was promptly put to death...The Catholic Church must accept a lot of the blame for this situation.

[31] Over the past centuries, bibliolatry has led Christians in bigotry, the persecution of Jews and other non-Christians, murder and terrorism, the oppression of women, the suppression of sexuality, censorship, cult mentality, and other aberrations. The destructive behavior patterns can be easily traced to the unchallenged authority accorded biblical writing.

[32] (In Christ name millions and millions of men and women have been imprisoned, tortured and killed. In his name millions and millions have been enslaved. In his name the thinkers, the investigators, have been branded as criminals, and his followers have shed the blood of the wisest and the best. In his name the progress of many nations was stayed for a thousand years. His gospel filled the world with hatred and revenge, made intellectual honesty a crime, made happiness here the road to hell, denounced love as base and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of man.

It would be far better had the New Testament never been written - far better had the theological Christ never lived.

[33] The best recommendation for Buddhism is that, like Confucianism, this belief system has existed for twenty-five centuries without a single Crusade, Inquisition, or imperialist attempt to invade and destroy the culture of another people.

[34] Not a single page of Buddhist history has ever been lurid with the light of inquisitorial fires, or darkened with the smoke of heretic or heathen cities ablaze, or red with blood of the guiltless victims of religious hatred. Buddhism wields only one sword, the sword of wisdom, and recognises only one enemy = ignorance. This is the testimony of history, and is not to be gain-said.

[35] Ex-Jesuit Priest, Peter Doeswyck : The entire structure of the Roman Church is built on forgeries, spurious epistles, spurious sermons, spurious miracles, spurious relics, spurious councils, and spurious papal bulls.

[36] Beliefs in supernatural beings have vanished from our culture. Any general serious belief in God is fading in our culture. God has lost his spatial location as a monarch in heaven. He has lost his temporal precedence to the universe as its Creator ex nihilo. It is not God is being relegated to a remote region. It is not that God has become a bodiless abstraction (a sexist It). It is te realization that there is no God to which to relate.


Các bài tôn giáo cùng tác giả

Trang Trần Chung Ngọc