 |
ngày 06 tháng 5, 2008 |
toàn tập:
1. Thắc mắc về Ca-tô Giáo Rô-ma
2. Thắc Mắc Về Chiến Tranh Việt Nam
3. Thắc Mắc Về Thời Sự: Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Trong khi nghiên cứu về tôn giáo, lịch sử và những vấn
đề linh tinh, tôi thường hay thắc mắc và đặt trong đầu những câu hỏi. Đối với
định chế Ca-Tô Giáo Rô-ma thì “thắc mắc” là một cái tội, vì con chiên thì không
có quyền thắc mắc, chỉ có quyền “quên mình trong vâng phục” và phải tuyệt đối
tin mọi điều “giáo hội, hay các “bề trên” dạy rằng…, bất kể là những gì mà tín
đồ nhìn thấy là đen mà giáo hội bảo là trắng thì cũng phải tin là trắng, như
Thánh Loyola, người sáng lập Dòng Tên, đã dạy. Nhưng tôi vốn là một con người,
không phải là một con chiên, lại là một con người được đào tạo trong ngành khoa
học Vật Lý, nên thắc mắc đối với giới khoa học chúng tôi là một đòi hỏi không
thể thiếu. Bởi vì, không thắc mắc thì không thể khám phá ra được điều gì mới
lạ. Những thời đại như “thời đại lý trí” (The age of reason), “thời đại khai
sáng” (The age of enlightenment), “thời đại phân tích” (The age of Analysis)
v..v.. đều phát triển là do những thắc mắc của con người, và đã làm cho Âu Châu
thoát ra khỏi thời đại hắc ám (The dark ages) kéo dài cả ngàn năm của Ca-Tô Giáo
Rô-ma ở Âu Châu. Những con chiên, con cừu, con dê v..v.., có lẽ vì không có khả
năng thắc mắc, nên cứ ngoan ngoãn theo những người chăn cừu, chăn dê đưa vào lò
sát sinh, làm chúng tê liệt đầu óc và trở thành những món ăn ngon cho giới chăn
chiên. Thật là tội nghiệp, cũng là một kiếp sống. Sau đây là một số thắc mắc
của tôi.

1.
Thắc mắc về Ca-tô Giáo Rô-ma:
a) Mẹ Chúa:
Mẹ Chúa có tên là Mary. Phúc Âm Matthew (Mã-Thi-Ơ) kể như sau,
Matthew 1: 18-24, xin đặc biệt chú ý những đoạn chữ đậm:
Sự sinh ra của Giê-su Ki Tô như sau: Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn
với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với
Thánh Linh.
Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục
trước công chúng, định kín đáo từ hôn…
Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một
thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có
sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh…”
Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng
không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt
tên là Giê su.
Tôi không có ý kiến về “huyền thoại thánh linh làm cho Mary mang thai” ở
trên, ai muốn tin cũng được, tôi chỉ muốn đưa ra một nhận xét đọc trong Tân
ước: Vì Joseph chỉ không giao hợp cùng Mary cho đến khi Mary sinh ra đứa con
đầu lòng là Giê-su, và Joseph với Mary ở với nhau như vợ chồng, ít ra là cho đến
khi Giê-su khôn lớn, cho nên Mary có sinh thêm 4 người con trai và ít nhất 2
người con gái nữa như Tân Ước đã viết rõ trong Mark 6: 3: “Đây có phải là anh
thợ mộc (Giê-su), con bà Mary, anh của James, Joses, Judas, và Simon?
Các em gái của hắn chẳng phải đang có mặt tại đây sao?” (Is this not the
carpenter, the son of Mary, and brother of James, Joses, Judas, and Simon? And
are not his sisters here with us?), và trong nhiều đoạn khác trong Tân ước có
ghi rõ James là em ruột Giê-su..
Đọc Tân Ước rõ ràng như vậy cho nên tôi thắc mắc: Tại sao Giáo hội Ca-Tô
Rô-ma lại đưa ra một tín lý bắt giáo dân phải tin rằng Mary còn
“Trinh nguyên vĩnh viễn” [Perpetual Virginity], nghĩa là, sau
khi sinh ra Giê-su Mary không hề có liên hệ tình dục với chồng là Joseph, và
không sinh thêm một đứa con nào khác [In Catholic tradition, Mary
is referred to as the Virgin Mary because of the doctrine of her perpetual
virginity: even after giving birth to Jesus she never had sexual relations with
her husband, Joseph, and never gave birth to more children.]. Tại sao
Giáo hội lại phải dựng ra chuyện này? Cái màng trinh của Mary quan trọng lắm
đối với giáo hội và giáo dân lắm hay sao? Tôi chờ sự giải thích của các bậc
lãnh đạo trong Ca-Tô Giáo Rô-ma để cất bỏ thắc mắc này của tôi. Tôi sẽ thảo
luận chi tiết về giáo lý “Trinh nguyên vĩnh viễn” của giáo hội Ca-Tô
trong Phần II viết về “Mary Ngoài Cuốn Kinh Của Ki Tô Giáo” [The
Unbiblical Mary], vì tôi tin rằng có chờ đến Tết Congo thì mới có sự giải đáp từ
các bậc chủ chăn Việt Nam. Xin nói trước, những luận điệu bào chữa của Giáo hội
như: đó là mấy người anh chị em họ của Giê-su, không phải là con của Mary, hoặc,
đó là những đứa con của người vợ trước của Joseph v..v.. đã bị các học giả
nghiên cứu Tân Ước dứt khoát bác bỏ, cho là không dựa trên bất cứ một bằng chứng
nào và hoàn toàn mâu thuẫn với những điều viết trong Tân ước.
b) Chúa:
Đọc Tân Ước chúng ta thấy rõ Giê-su khẳng định là ông ta sẽ trở lại trần
gian trong một tương lai rất gần, ngay trong thời điểm của Giê-su. Thí
dụ những đoạn sau đây đều được trích từ cuốn Thánh Kinh: Cựu Ước Và Tân
Ước, Hội Quốc Tế xuất bản, 1994; và Holy Bible: The New King James
Version, American Bible Society, New York, 1982:
Matthew 16: 27-28: “Ta (Con của Người: Giê-su) sẽ
trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của Cha ta để thưởng phạt mỗi người
tùy theo việc họ làm. Ta cho các con biết: một vài người đang đứng đây sẽ
còn sống cho đến khi nhìn thấy ta vào trong Nước ta”. (For the Son of
Man will come in the glory of His Father with His angels, and then He will
reward each according to his works. Assuredly, I say to you, there are some
standing here who shall not taste death till they see the Son of Man coming in
his kingdom.)
Matthew 24:34: “Ta quả quyết, thời đại này chưa chấm dứt,
các biến cố ấy đã xảy ra rồi” (Assuredly, I say to you, this generation will
by no means pass away till all these things are fulfilled)
Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Ta cho các con biết, một
vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy nước trời thiết lập
với uy quyền vĩ đại” (And He said to them, “Assuredly, I say to you
that there are some standing here who will not taste death till they see the
kingdom of God present with power.”)
Mark 13:30: “Ta quả quyết, thế hệ này chưa qua đi thì
các biến cố đó (các biến cố xung quanh ngày tận thế và trở lại của
Giê-su. TCN) đã xảy ra rồi”. (Assuredly, I say to you, this
generation will by no means pass away till all these things take place.)
Luke 21: 27, 32: “Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng
xuống trong mây trời với vinh quang và uy quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết: thế hệ
này chưa qua, các biến cố ấy đã xảy ra rồi”. (Then they will see
the Son of Man coming in a cloud with power and great glory.. Assuredly, I say
to you, this generation will by no means pass away till all these things are
fulfilled.)
John 14: 3: “Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con. Khi chuẩn
bị xong, ta sẽ trở lại đón các con về với ta để các con ở cùng ta mãi mãi.”
(And if I go and prepare a place for you, I will come again and receive you to
myself; that where I am, there you may be also).
Nhưng Giê-su đã chết cả 2000 năm nay rồi và không hề trở lại. Vậy thắc
mắc của tôi là: Bây giờ ông ấy ở đâu? Bến Hải hay Cà Mâu? Có phải là
ông ta đã nói láo, lừa bịp những người Do Thái tin ông ấy hay không? Tại sao
ông ấy không thực hiện bất cứ một lời nào mà ông ấy đã khẳng định và hứa hẹn như
được viết rõ ở trên trong Tân Ước.
Mặt khác, dù Tân Ước viết rằng Giê-su là con của “bà Mary”, một
điều mà các học giả trong Ki Tô Giáo ngày nay cho rằng cách gọi như vậy trong xã
hội Do Thái khi xưa chứng tỏ Giê-su chỉ là đứa con hoang, không phải là con của
Joseph, chồng bà Mary, nhưng trong Tân ước chúng ta lại thấy hai gia phả hoàn
toàn khác nhau của Giê-su ở trong Matthew và Luke, nhưng cùng có mục đích chứng
minh Giê-su thuộc giòng giõi Vua David, không phải là con của “thánh linh”.
Trong Thi Thiên (Psalm) 14: 1, Vua David phán: “Kẻ “điên dại” nói
trong đầu: “Không làm gì có Thiên Chúa”” [The “fool” has said in his heart,
“There is no God.”], một câu mà các tín đồ Ca-Tô rất hay trích
dẫn để nói những kẻ “vô thần”.
Nhưng chít chít của vua David là Giê-su lại phán: “Bất cứ người nào mà
nói người khác là “điên dại” thì người ấy sẽ bị đầy xuống hỏa ngục”
(Matthew 5: 22: But whoever says, “you fool!” shall be in danger of hell
fire]
Và tôi lại có thêm một thắc mắc: Có phải như vậy là Giê-su đã ném ông tổ
tổ David của hắn xuống hỏa ngục không, và những tín đồ Ca-Tô thích trích dẫn câu
của David có phải cùng chung số phận với David ở dưới hỏa ngục không?
Tôi xin chờ những sự giải thích của các bậc chủ chăn và trí thức trong
Ca-Tô Giáo Rô-ma trước những thắc mắc “rất trí thức” của tôi ở trên.
c) Giáo Hội Ca-Tô Rô-ma:
Chúng ta đều biết, các tín đồ Ca-tô được dạy kỹ rằng, và phải tin rằng,
Giáo hội Ca-Tô Rô-ma là một giáo hội do chính Chúa Giê-su thành lập, do đó có đủ
các thuộc tính như “thánh thiện”, “duy nhất”, “tông truyền”, là “ánh sáng của
nhân loại”, quán quân về “công bằng và bác ái”, được “thánh linh hướng dẫn” v…v…
Hãy bỏ qua chuyện chẳng có giáo hội nào do Chúa thành lập, như một số nhà thần
học nổi tiếng của Ca-Tô Giáo Rô-ma đã khẳng định, dựa trên những đoạn trích dẫn
ở trên từ Tân Ước: Giê-su thành lập giáo hội và trao chức vụ giáo hoàng chăn
dắt tín đồ cho Phê-rô để làm gì khi mà ông ta tin rằng ngày tận thế gần kề, ngay
trong thời của ông, khi một số môn đồ của ông còn sống?
Giả sử chúng ta cứ nhắm mắt tin bừa những điều giáo hội
dạy tín đồ như trên, nhưng khi đọc lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-ma thì tôi lại có một
thắc mắc:
Tại sao Giáo hội Ca-tô Rô-ma hữu thần
[tin có Thiên Chúa] lại có một lịch sử ô nhục đẫm máu nhất trên thế
gian, mang trên bờ vai trên dưới 200 triệu sinh mạng vô tội gồm già trẻ lớn bé,
qua những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại
như những cuộc Thập Ác Chinh, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, những cuộc săn lùng
và thiêu sống phù thủy, sử dụng những hình cụ tra tấn man rợ nhất trong lịch sử
loài người, với chính sách bách hại người Do Thái, kỳ thị phái nữ, làm tiên
phong hay theo gót thực dân để truyền đạo v.. v.. đến nỗi chính giáo hoàng John
Paul II đã phải xưng thú trước thế giới 7 núi tội ác của Ca-Tô Giáo Rô-ma đối
với nhân loại, trong khi các tôn giáo Đông Phương như Thích, Nho, Lão vô thần
[không tin có Thiên chúa], ra đời trước Ca-Tô Giáo cả 5,6 trăm năm
nhưng không hề làm đổ một giọt máu trong lịch sử truyền đạo của mình ??
Tôi xin chờ câu trả lời từ Giáo hoàng đương nhiệm Benedict XVI, cho
tới các Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, Linh Mục và những tín đồ Ca Tô trí thức
Việt Nam trong “Hội Thánh” Ca-Tô.
d) Giáo hoàng:
Trên diễn đàn tiengnoigiaodan.net, trong bài Cơ chế tổ chức, quyền bính
và trách nhiệm của hàng giáo phẩm (Hierachy) trong Giáo Hội Công Giáo,
Linh mục Ngô Tôn Huấn viết như sau:
Theo giáo luật, thì hệ thống cai trị, quyền bính và
trách nhiệm trong Giáo Hội được tổ chức và phân chia như sau :
Ở thượng tầng cơ chế này thì Đức Giáo Hoàng là thủ
lãnh tối cao với quyền bính và trách nhiệm mà Chúa Ki tô đã trao trước hết cho
Thánh Phê rô, Tông Đồ trưởng, và các vị nối ngôi kế tục. (x. Mi 16:19;Ga
20:15-16). Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận và tuân phục Đức Giáo Hoàng La Mã là
vị Đại Diện (Vicar) duy nhất của Chúa Ki tô trên trần thế và là người
kế vị Thánh Phê rô trong nhiệm vụ chăn dắt toàn thể Giáo Hội.
Theo Linh mục Ngô Tôn Huấn giảng cho tín đồ thì “Đức Giáo Hoàng La Mã
là vị đại diện duy nhất của Chúa Ki Tô” cho nên chúng ta thường thấy các tín
đồ Ca-Tô xưng tụng giáo hoàng là “Đức Thánh Cha”, và giáo hội Ca-Tô Rô-ma tại
Việt Nam hoàn toàn vâng phục quyền bính và trách nhiệm mà Chúa Ki Tô đã trao cho
các đại diện của Ngài trên trần thế.
Nhưng đọc lịch sử các Giáo hoàng, chúng ta lại thấy nhiều chuyện lạ về các
đại diện duy nhất của Chúa Ki Tô. Thí dụ như, tôi xin trích dẫn một đoạn trong
cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh Kinh của Lloyd M.
Graham. Đây chỉ là một đoạn tóm tắt một số sự kiện liên quan đến chế độ giáo
hoàng. Chi tiết về những sự kiện này sẽ được bổ túc qua những tài liệu của các
vị có thẩm quyền trong giáo hội Ca Tô.
Chúng tôi thừa nhận rằng điều mà chúng tôi trình bày ở đây là chủ ý
đưa ra hình ảnh một mặt, mặt đen tối và ô nhục. Lý do để đưa ra mặt này
là vì hàng triệu linh hồn bị lạc dẫn đang sơn phết mặt kia và đưa cao nó lên như
là mặt duy nhất cho thế giới những kẻ nhẹ dạ, cả tin. Chúng tôi nghĩ rằng
chúng ta cần phải biết cả hai mặt, không chỉ vì lợi ích của sự thật mà còn là
cho những người đang sống trong sự nô lệ tâm linh cho một quyền lực lừa đảo.
Đối với những người này, một ngàn năm tội ác và đồi bại được làm nhẹ đi qua lời
giải thích hời hợt là “chỉ có vài giáo hoàng xấu”. Nếu những người giải thích
như vậy mà lương thiện, họ phải thừa nhận rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng
tốt.
Chúng tôi đã nói về sự bất lương của học thuật Công giáo. Không ở
đâu rõ ràng bằng luận điệu bào chữa, che đậy cho các giáo hoàng đồi bại.
Những tội ác của các giáo hoàng là do những người khác làm và “không
thể tránh được”, sự thiêu sống những kẻ dị giáo là một “điều cần thiết của thời
đại”, những sự trụy lạc của giáo hoàng chỉ là “yêu thích sự vui vẻ lành mạnh”.
Những hồ sơ ghi chép sự việc đương thời đã hoàn toàn phủ bác những luận điệu
trên, và những điều ghi chép này không phải là do những kẻ thù của giáo hội
viết, mà phần lớn là do những sử gia của chính giáo hội gồm có những giáo
hoàng và hồng y: giáo hoàng Victor II, Pius II, hồng y Baronius, giám mục
Liutprand, linh mục Salvianus, và các sử gia như Milman, Gerbert, Burchard,
Guicciardini, Vacandard, Draper, và nhiều người khác. Đây chính là những
người có đầy đủ thẩm quyền đưa ra cái mặt đen tối và ô nhục của giáo hội.
Những gì mà chúng tôi trình bày ở đây chỉ là lượm lặt trong thời gian 1500 năm,
nhưng chúng tôi nghĩ rằng cũng đủ để bác bỏ mọi điều tự nhận của giáo hội,
cho rằng giáo hoàng đã được thánh linh tuyển chọn và hướng dẫn..
Trong “thời đại tăm tối” (the dark ages) những
giáo hoàng được thánh linh hướng dẫn này đã giết nhau với nhịp độ 10 giáo hoàng
bị giết trong vòng 12 năm (891-903) và 40 trong vòng hơn
100 năm. Giáo hoàng Sergius III là một kẻ giết nhiều người; theo
hồng y Baronius và Vulgarius, ông ta đã giết hai vị giáo hoàng tiền nhiệm. Năm
708, Toto, một nhà quý tộc đứng đầu một đám thuộc hạ ô hợp, đã vận động để cho
anh hắn được bầu làm giáo hoàng. Đó là giáo hoàng Constantine II, người sau
đó bị Christopher, thủ tướng của ông ta, móc mắt ra. Rồi Christopher cùng con
của hắn âm mưu chống giáo hoàng Gregory và cũng cho người móc mắt Gregory.
Hai đứa cháu của giáo hoàng Leo III là Pascal và Campulus đều là linh mục.
Chúng toa rập với nhau mưu đồ thay thế Leo III, thuê một đám giết mướn để giết
Leo III khi ông ta đi dạo phố. Việc không thành, chúng đích thân ra tay, kéo
Leo III vào một tu viện và giết ông ta tại đó. Chắc độc giả cho rằng đó là
chuyện thuần túy giả tưởng, chỉ để phỉ báng. Nhưng không phải vậy, đó là dựa
theo những hồ sơ ghi lại sự việc của nhà viết tiểu sử các giáo hoàng.
Đó chỉ là chuyện thường tình của thời đại. Giáo hoàng Leo V bị một
người cũng tên là Christopher hạ bệ, rồi đến lượt tên này cũng bị hạ bệ và cái
tên sát nhân giết mấy giáo hoàng tiền nhiệm đã nói ở trên, Sergius III, lên
thay. Trong thời đại này, không phải là Thánh Linh tuyển chọn giáo hoàng mà
là, theo Hồng y Baronius, những cô gái điếm (scortas). Đó là
“luật lệ của những cô gái điếm hạng sang” (rule of the courtesans),
đôi khi còn được gọi là “chế độ điếm trị” (Pornocracy), hay là
triều đại của các cô gái điếm (reign of the whores). Trong số điếm
này có một người mà Baronius gọi là “con điếm vô liêm sỉ”, Theodora, và đứa con
gái vô liêm sỉ không kém là Marozia. Cả hai mẹ con đều có con với giáo hoàng
Sergius III, và cả hai đều đưa những đứa con hoang của mình lên ngai giáo hoàng
- John XI và John XII. John XI bị cầm tù và John XII đã “biến dinh
Lateran (nơi giáo hoàng ở, trong Vatican. TCN) thành một ổ điếm”.
Không có một tội ác nào mà John XII không làm - giết người, khai gian, thông
dâm, loạn luân với hai em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết trong tay
của một người chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm với
vợ người này.)
Theo sử liệu, hồng y Francone cho người thắt cổ giáo hoàng Benedict
VI, sau đó lên làm giáo hoàng Boniface VII, “một con quỷ khủng khiếp vượt mọi
con người về tội ác”, theo sử gia Gerbert. Hắn ta cũng chẳng tệ hơn gì giáo
hoàng Boniface VIII.. Thật vậy! Để chiếm được cái mũ tiara (mũ ba tầng của
giáo hoàng. TCN) hắn đã thủ tiêu giáo hoàng dở hơi Celestine V. Nhưng hắn
cũng chẳng hưởng được sự chiến thắng lâu dài vì ngay sau đó hắn bị những người
La Mã truất phế. Trong triều đại của một giáo hoàng kế vị, Clement V, sau
khi chết hắn còn bị mang ra xét xử và được xem là phạm mọi tội ác, kể cả tội
hành dâm với đồng nam (pederasty) và giết người. Và
khi Clement chết thì người kế vị hắn, John XXII, phanh phui ra rằng Clement đã
quá nhân từ (Tác giả chơi chữ: “Clement had been so very clement” vì clement
có nghĩa là nhân từ) nên đã cho người cháu một số tiền tương đương với 5
triệu đô-la, tiền của giáo hoàng. Vào thời gian này, triều đình của giáo hoàng
được chuyển đến Avignon, và thánh Phê-rô nay cùng lúc có hai người kế thừa, một
người ở Avignon và một người ở Rô-Ma. Nhưng vậy mà cũng chưa đủ vì có khi có
tới ba giáo hoàng cùng một lúc - Gregory XII, Alexander V, và John XXIII. Về
sau John XXIII bị từ khước, tên thánh bị hủy bỏ, và gần đây tên này (John XXIII)
được giáo hoàng kế vị Pius XII lấy lại.
Sự đồi bại của John XXIII lên đến độ mà Sigmund ở Hung Gia Lợi phải
triệu tập một hội đồng điều tra hắn ta. Kết quả của cuộc điều ta là đưa ra năm
mươi bốn (54) khoản mô tả John XXIII là “độc ác, không tôn trọng những điều
thiêng liêng, không trong trắng, nói láo, không tuân theo luật lệ và đầy những
thói xấu.” Khi còn là hồng y, John XXIII đã là người “vô nhân đạo, bất công và
tàn bạo.” Khi lên làm giáo hoàng, ông ta là “kẻ đàn áp người nghèo, khủng bố
công lý; là cột trụ của tội ác, hình tượng của những kẻ buôn bán chức tước và
thánh tích; ham mê trò quỷ thuật, cặn bã của thói xấu, đắm mình trong nhục dục;
là tấm gương của sự ô nhục, một kẻ phát minh ra những tội ác.”
Hắn giữ chắc ngôi vị giáo hoàng bằng “bạo lực và gian lận và bán chứng thư xá
tội, chức vụ, bí tích và những đồ ăn cướp được.” Hắn “xúc phạm thánh thần,
thông dâm, giết ngưòi, hiếp dâm và ăn cắp.”.. Một vài những giáo hoàng như
vậy vô đạo đức, tục tĩu đến độ phải đi đày. Ít nhất là có hai giáo hoàng bị
móc mắt và cắt lưỡi, rồi buộc vào đuôi lừa kéo lê ngoài đường phố. Một số khác
bị khinh ghét đến độ người ta quật xác chúng lên và ném xuống sông Tiber.
Sau một ngàn bốn trăm năm dưới quyền lực của Ki Tô Giáo, đạo đức xuống thấp đến
độ giáo hoàng Pius II than rằng “hiếm mà có một ông hoàng ở Ý không phải là đứa
con hoang.” Lời tuyên bố này cũng áp dụng cho những ông hoàng của giáo hội
(the princes of the church: nghĩa là những giáo hoàng, hồng y, giám mục v..v..)
như là của chính quyền dân sự.
Tệ hại như vậy nhưng sự tệ hại hơn còn chưa tới - với giòng họ Borgias,
đặc biệt là Rodrigo. Trong những giáo hoàng xấu xa độc ác thì hắn xứng đáng
đứng đầu. Bằng cách hối lộ 15 hồng y với số tiền tương đương với 3 triệu đô-la,
hắn chiếm được sự tuyển lựa một con người tệ hại nhất trong lịch sử - chính hắn,
lên làm giáo hoàng với tên Alexander VI. Sử gia Guicciardini mô tả hắn như sau:
“..có những thói quen cực kỳ tục tĩu, vô liêm sỉ và không có một ý thức nào về
sự thật, nuốt lời, không có tình cảm tôn giáo, tham lam vô độ, nhiệt tình tham
vọng, độc ác quá sự độc ác của những giống người man rợ, tham muốn đưa con lên
địa vị cao bằng mọi thủ đoạn: hắn có nhiều con, và một trong những đứa này -
cũng đáng ghê tởm như cha của nó.” Đó là con người nổi tiếng, Cesare Borgia,
người đã giết người anh rể là John, và hai hồng y khác để chiếm được cái áo hồng
y..
Khi còn là hồng y, cái kẻ chơi bời phóng đãng và sát nhân này đã
biến chỗ ở của mình trong Vatican thành một ổ điếm. Theo sử gia đương thời là
Burchard, hắn đắm mình trong những cuộc hoan lạc trong những phòng của hắn, ngay
trên phòng của giáo hoàng, và những cô gái điếm hạng sang “nhảy múa trần truồng
trước những tôi tớ của Chúa [các hồng y, giám mục, linh mục] và vị đại
diện của Chúa (giáo hoàng. TCN).”.. Đó là sự hoan lạc được giải thích
như là “lòng yêu thích sự vui vẻ lành mạnh.”
Đó là những ông hoàng của giáo hội trong những ngày đó. Trong thời
Trung Cổ, tập thể các hồng y cũng đồi bại như là một tập thể mà người ta có
thể kiếm được trong suốt giòng lịch sử. Chiếm được một ngôi vị hồng y
chỉ là vấn đề có tiền và ảnh hưởng quen thuộc. Đức tính, sự hiểu biết,
và khả năng không dự phần nào trong đó. Thật vậy, những đứa trẻ mười bốn
mười lăm tuổi đôi khi cũng được đưa lên ngôi vị hồng y. Giáo hoàng Paul III
cho hai đứa cháu (gọi Paul III bằng ông) làm hồng y.. Paul IV cũng cho một
đứa cháu gọi Paul IV bằng bác lên làm hồng y tuy chính ông ta nói “cánh tay của
nó ngập máu đến tận khuỷu tay.”
Vậy mà đó là những người, với sự trợ giúp của Thánh Linh, tuyển chọn
giáo hoàng..
Tại sao cái lịch sử ô nhục này không được tín đồ biết đến như là
lịch sử các giáo hoàng mà họ cho là tốt? Tại sao các tín đồ Công giáo không
được dạy rằng chính những con người như trên đã đưa đến sự cải cách chứ không
phải là do “con quỷ Luther đó.”? Giáo phái Tin Lành nổi giậy không chỉ vì
Luther mà vì sự phản đối tội ác và sự đồi bại của giáo hội Công giáo trong nhiều
thế kỷ. Tên Sa-Tăng Phê-rô đã xúc phạm đến toàn thể Âu Châu..
[Lloyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, pp. 463-468:
What we offer here is admittedly and intentionally a one-sided picture, the dark
and shameful side. Our reason for so presenting it is that millions of
misguided souls are painting the other side and holding it up to a credulous
world as the only side. We think both sides should be known, not only in the
interest of truth but also for those who are living in spiritual bondage to a
fraudulent authority. For these, a thousand years of crime and corruption are
glossed over with the statement, “There were a few bad popes.” Were their
informers honest they would admit there were a few good. We have spoken of the dishonesty of Catholic scholarship. Nowhere it is
more evident than in its whitewash of wicked popes. Their crimes were all done
by others and “unavoidable,” their burning of heretics, a “necessity of the
times,” their debaucheries, but “love of godd cheer.”. Contemporary records
completely refute these claims, and the records were not written by the Church’s
enemies, but mainly by its own historians, popes and cardinals: Victor II, Pius
II, Cardinal Baronius, Bishop Liutprand, Father Salvianus, and historians,
Milman, Gerbert, Burchard, Guicciardini, Vacandard, Draper, and others. These
are the authority for the dark and shameful side. What we offer here is but a
hop, skip and jump over some 1500 years, but sufficient, we think, to disprove
any claim to divine selection and guidance.
During the Dark Ages these divinely guided popes murdered one another at
such a rate there were ten in twelve years (891-903) and forty in little more
than one hundred. Sergius III was a wholesaler; according to Cardinal Baronius
and also Vulgarius, he murdered his two predecessors. In 708 Toto, a noble at
the head of a rabble following, had his brother apointed pope. This was
Constantine II whose eyes were put out by Christopher, his chief official. Then
Christopher and his son plotted against Pope Gregory for they too had their eyes
put out. The two nephews of Leo III, Pascal and Campulus, themselves clerics,
conspired to replace Leo and set a band of paid assassins upon him as he rode
through the streets. When the hirelings failed, the two nephews dragged the
pope into a monastery and complete the work. Pure fiction, downright slander,
you say. But no, it is from the record of the papal biographer.
This was the order of the day. Pope Leo the V was deposed by another
Christopher, who was in turn deposed and succeeded by the aforesaid criminal
Sergius III, who murdered his predecessors. At this time it was not the Holy
Ghost that selected the popes but what cardinal Baronius called scortas,
whores. This was the “rule of the courtesans,” sometimes called Pornocracy, or
reign of the whores. Among them was one Baronius called the “shameless whore,”
Theodora, and her equally shameless daughter Marozia. Both had sons by Sergius
III, and both put their illegitimates on the papal throne - John XI and John
XII. The first was imprisoned, the second “turned the Lateran Palace into a
brothel.” There was no crime he didn’t commit - murder, perjury, adultery,
incest with his two sisters, bleeding and castrating his enemies, etc. He died,
we are told, at the hand of an outraged husband.
According to the record, Cardinal Francone had Benedict VI strangled,
after which he became Boniface VII, “a horrid monster surpassing all other
mortals in wickedness,” according to Gerbert. He was no worse however than
Boniface VIII.. Yes indeed! To gain his tiara he had the halfwit Celestine V
disposed of. He did not long enjoy his victory for soon he was driven out by
the Romans. Under a successor, Clement V, he was tried posthumously and found
guilty of every crime including pederasty and murder. And when Clement died,
his successor, John XXII, revealed that Clement had been so very clement he had
given his nephew the equivalent of five million dollars of papal money. It was
at this time the papal court was moved to Avignon, and now St. Peter had two
successors, one at Avignon and one at Rome. But even this was not enough; there
were at one time three - Grogory XII, Alexander V, and John XXIII. Later, John
XXIII was repudiated, the title was annulled and recently assumed by the
successor of Pius XII.
So corrupt was the latter, Sigmund of Hungary called a council to
investigate him. The result was fifty-four articles described him as “wicked,
irreverend, unchaste, a liar, disobedient and infected with many vices.” As a
cardinal he had been “inhuman, unjust and cruel.” As pope he was “an oppressor
of the poor, persecutor of justice, pillar of the wicked, statue of the
simoniacs, addicted to magic, the dregs of vice..wholly given to sleep and
carnal desires, a mirror of infamy, a profound inventor of wickedness.” He
secured the Papacy by “violence and fraud and sold indulgences, benefices,
sacraments and bulls.” He practiced “sacrilege, adultery, murder, rape and
theft.”.. Some of these popes so outraged decency they were exiled. At least
two of them had their eyes and tongue cut out, then were dragged through the
streets tied to the tail of an ass. Still others were so despised their corpses
were exhumed and thrown into the Tiber. After fourteen hundred years of
Christianity morals had sunk so low that Pius II tells us: “scarcely a prince in
Italy had been born in wedlock.” A statement as applicable to the princes of
the church as of the states.
Bad as all this was, the worst was yet to come - the Borgias, particularly
Rodrigo. Of all the wicked popes he deserves the crown. By bribing fifteen
cardinals with the equivalent of three million dollars he secured the election
of one of the worst men in history - himself, Alexander VI. Guicciardini, the
historian, describes him thus: “..private habits of the utmost obscenity, no
shame or sense of truth, no fidelity to his engagements, no religious
sentiments, insatiable avarice, unbridled ambition, cruelty beyond the cruelty
of barbarous races, burning desire to elevate his sons by any means: of whom
there were many, and among them one - not any less detestable than his father.”
This was the notorious Cesare Borgia who to gain a cardinalate murdered his
brother John, his sister’s husband, and two cardinals..
While still a cardinal this rake and murderer turned his quarters in the
Vatican into a brothel. According to Burchard, the papal historian at the time,
he indulged in nightly revels in his rooms above the pope’s, and courtesans
“danced naked before the servants of the Lord and the Vicar of Christ.” And his
sister, Lucrezia, distributed prized to those who “had a carnal intercourse with
courtesans the largest number of times.” This is the gaiety explained as “love
of dood cheer.”
Such were the Princes of the Church in those days. During the Middle Ages
the College of cardinals was as corrupt a body as could be found in all
history. Securing a cardinalate was but a matter of money and influence.
Neither character, learning nor aptitude played any part in it. Indeed boys of
fouteen and fifteen were sometimes invested with the office. Paul III appointed
two of his teen-age grand children to this high office.. Paul IV made his nephew
a cardinal, though, as he said, “his arm is dyed in blood to the elbow.”
Yet these were the men who, with the help of the Holy Ghost, selected the
popes..
Now why isn’t this disgraceful record known as well as that of the the
good popes? Why aren’t Catholics told it was such men as these that caused the
Reformation and not “that devil Luther?” Protestantism sprang not from Luther
exclusively but from centuries of protestation against the crime and corruption
of the Catholic Church. Satan Peter had outraged all Europe..]
|
Đó là lịch sử một số “đại diện của Chúa Ki Tô trên trần thế” khi xưa, các
“Đức Thánh Cha” của tín đồ Ca-Tô Việt Nam, độc giả có thể bổ túc kiến thức về
những chuyện này trong cuốn sách mới xuất bản của Nigel Cawthorne: “Đời Sống
Tình Dục Của Các Giáo Hoàng” [Sex Lives of the Popes, Barnes & Noble, Inc.,
2008]. Ngày nay, hai giáo hoàng gần đây, tuy không đồi bại như một số giáo
hoàng khi xưa, nhưng cũng chẳng thể nói là có đạo đức tôn giáo: Giáo hoàng John
Paul II đã gọi các nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ là những “con chó sói
đói mồi đến cướp đi tín đồ của ông ta” và viết cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa
Hi Vọng” xuyên tạc Phật Giáo và các tôn giáo khác. Còn Benedict XVI thì đã
từng phê bình Phật Giáo bằng một câu rất “vô giáo dục” : “Buddhism is a sort of
spiritual auto-eroticism” và đã từng ra văn thư mật cho các giám mục trên thế
giới phải giữ bí mật các vụ linh mục loạn dâm để bao che họ và ngăn cản công lý
[obstruction of justice] mà tờ Observer trước đây đã phanh phui ra.
Đọc về lịch sử một số giáo hoàng, xưa cũng như nay, và đây chỉ là một phần
nhỏ sự thật về các giáo hoàng, tôi không khỏi không có một thắc mắc:
Giáo hoàng là đại diện duy nhất của Chúa Ki Tô trên trần thế, nghĩa là
thay mặt Chúa Ki Tô để nói năng thay Chúa, thi hành những trách nhiệm mà Chúa
Ki Tô đã trao cho, với quyền bính là vị đại diện của Chúa Ki Tô, nhưng tại sao
lại có những giáo hoàng có những hành động ác ôn, côn đồ, vô giáo dục, phạm đủ
mọi thứ tội ghê tởm trên dân gian như giết người, đấu tố xác chết, loạn dâm,
loạn luân, trụy lạc, sa đọa, phỉ báng tôn giáo khác, ngăn cản công lý v..v..
Vậy có thật các giáo hoàng là “đại diện duy nhất của Chúa Ki-Tô trên
trần thế” không và tại sao các tín đồ Ca-tô Việt Nam luôn luôn xưng tụng
giáo hoàng là “Đức Thánh Cha”? Tôi xin chờ lời giải thích của các bậc lãnh đạo
cũng như của các tín đồ trong Ca-Tô Giáo Rô-ma về vai trò và nhiệm vụ của vị đại
diện duy nhất của Chúa Ki Tô trên trần thế. Tôi xin nhắc để quý vị nhớ rằng,
Giáo hoàng không phải là người thường như mọi người chúng ta, mà là “đại diện
duy nhất của Chúa Ki Tô trên trần thế” đã được Thánh Linh tuyển chọn qua
Hồng Y đoàn, cho nên Ngài cũng như Chúa, không thể phạm những tội còn hơn là
người thường nữa.
e) Linh Mục:
Trên tiengnoigiaodan.net, Linh mục Vũ Đức ở Detroit có
giảng cho tín đồ:
“LINH MỤC là ai? Trả lời một cách ngắn gọn và đầy
đủ Ngài là CHÚA KITÔ THỨ HAI (Alter Christus) như thế thưa Cha mới [vừa mới được
phong linh mục]: từ nay Cha là Chúa KITÔ.”
Tôi xin bỏ qua những nhận định sau đây về Linh
Mục của một số nhân vật danh tiếng ở Âu Mỹ:
Hugo Grotius (1583-1645), Học giả Hòa Lan:
Người nào đọc lịch sử giới Linh mục không đọc gì khác ngoài sự gian giảo
và điên rồ của các giám mục và linh mục. (He who reads eccleciastical history
reads nothing but the roguery and folly of bishops and churhmen.)
John Milton (1608-1674), Thi sĩ Anh:
Ca Tô Giáo La Mã là một tôn giáo không gì hơn là sự chuyên chế của giới
linh mục, những người trang bị với những bổng lộc của quyền lực dân sự, với
chiêu bài tôn giáo, đã chiếm lấy quyền của Chúa (Romanism is less a religion
than a priestly tyranny armed with the spoils of civil power which, on the
pretext of religion, it hath seized against the command of Chist himself.)
Daniel Defoe (1660-1731), Tiểu thuyết gia Anh:
Trong tất cả những tai họa mà nhân loại phải chịu đựng, sự độc đoán của giới
Linh mục là tệ hại nhất (Of all the plagues with which mankind are
cursed, Ecclesiastic tyranny’s the worst.)
Lady Mary Wortley Montagu (1689-1762), Văn sĩ Anh:
Trên khắp thế giới, các linh mục có thể nói láo, và các tín đồ tin,
(Priests can lie, and the mob believe, all over the world).
Đại Văn Hào Voltaire (1694-1778): Lời
của Chúa là lời của các linh mục; sự vinh quang của Chúa là sự hãnh diện
của các linh mục; ý của Chúa là ý của các linh mục; xúc phạm Chúa
là xúc phạm các linh mục; tin vào Chúa là tin vào mọi điều linh mục
nói (The word of God is the word of the priests; the glory of god is the
pride of the priests; the will of god is the will of the priests; to offend god
is to offend the priests; to believe in god is to believe in all that the
priests tell us.)
Edward Gibbon (1737-1794), Sử gia Anh:
Đối với cái nhìn triết lý, những thói xấu của các Linh Mục thì ít nguy
hại hơn những đức tính của họ rất nhiều (To a philosophic eye, the vices of
the clergy are far less dangerous than their virtues.)
Thomas Jefferson (1743-1826), Tổng Thống Mỹ:
Trong mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục đều đã thù nghịch
đối với tự do.(In every country and in every age, the priest has been
hostile to liberty).
James Madison (1751-1836), Tổng Thống Mỹ:
Trong gần 15 thế kỷ, cơ sở hợp pháp của Ki Tô giáo đã được phán xét. Hoa
trái của Ki Tô giáo là gì? Ở khắp nơi, không nhiều thì ít, sự lười biếng và
hãnh diện của giới Linh mục, sự ngu tối và quỵ lụy của giới tín đồ; sự mê
tín, cố chấp và bạo hành trong cả hai giới (During almost 15 centuries has
the legal establishment of Christianity been on trial. What has been its
fruits? More or less in all places, pride and indolence in the clergy;
ignorance and servility in the laity; in both, superstition, bigotry, and
persecution.)
Napoleon Bonaparte (1769-1821), Hoàng đế Pháp:
Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm
(Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood)
Arthur Schopenhauer (1788-1860), Triết gia Đức:
Ca Tô giáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền
toái để tự mình đạt được. Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường
(The Catholic religion is an order to obtain heaven by begging, because it would
be too troublesome to earn it. The priest are the brokers for it)
Victor Hugo (1802-1885), Văn hào Pháp: Trong
mỗi làng đều có một ngọn đuốc soi sáng: người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó
đuốc đó: ông linh mục xứ (There is in every village a torch: the
schoolmaster - and an extinguisher: the parson.)
Giuseppe Garibaldi (1807-1882), Nhà lãnh đạo Ý
(Người đã tiến quân và thu hẹp lãnh thổ của Công Giáo, chỉ còn lại Vatican ngày
nay): Linh mục là hiện thân của sự sai lầm (The priest is the
personification of falsehood.)
Robert G. Ingersoll (1833-1899), Học giả Mỹ:
Một thầy giáo giỏi có giá trị bằng1000 linh mục (One good schoolmaster is
worth a thousand priests.)
William E. H. Lecky (1838-1903), Sử gia Ai Nhĩ
Lan: Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Linh mục Ca Tô hay Mục
sư Tin Lành, đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành
(Whenever the clergy were at the elbow of the civil arm, no matter whether they
were Catholic or Protestant, persecution is the result.)
Émile Zola (1840-1902), Văn hào Pháp:
Nền văn minh sẽ không đi đến tột đỉnh cho đến khi phiến đá cuối cùng từ cái nhà
thờ cuối cùng rơi đè lên tên linh mục cuối cùng (Civilization will
not attain to its perfection until the last stone from the last church falls on
the last priest.)
Trước hết, về các “Chúa Ki Tô thứ hai” của LM Vũ Đức
thì chúng ta chắc ai cũng đã biết, trừ LM Vũ Đức:
Chuyện các Linh Mục cưỡng hiếp nữ tu Ca-Tô trong 23 quốc gia trên thế
giới, còn bắt họ đi phá thai, đã được phổ biến rộng rãi trên các diễn đàn truyền
thông. Và ngày nay, chúng ta đã biết nguyên trên nước Mỹ đã có tới khoảng
5000 Linh mục bị truy tố ra tòa về tội loạn dâm: cưỡng hiếp nữ tu, và
cưỡng bách tình dục hàng ngàn trẻ em phụ tế, Giáo hội đã phải bỏ ra hơn 2 tỷ
đô-la để bồi thường cho những nạn dân tình dục của Giáo hội, nạn nhân của những
người mang chức “thánh” trong giáo hội. Tài liệu trên Internet cho biết:
https://en.wikipedia.org/wiki/Roman_Catholic_sex_abuse_cases_by_country, tình
trạng linh mục loạn dâm đã xẩy ra trên 17 quốc gia, và tình trạng này ở Úc cũng
nghiêm trọng không kém gì ở Mỹ.
[AUSTRALIA
Sydney Morning Herald
A support group for victims of church-related sexual abuse is demanding an
apology from Pope Benedict XVI when he visits Australia for World Youth Day in
July.
The call follows the Pope's attempt during a recent visit to the United States
to heal the wounds caused by church sex scandals.
The Broken Rites group says the sexual abuse was worse in Australia than the
US, and the victims of priests feel they are owed an apology by the Catholic
church.]
Vậy mà cho tới giờ này, các Linh mục Mít nhà ta, thí dụ như LM Vũ Đức ở
Detroit, vẫn dạy tín đồ Linh Mục là Chúa Ki Tô thứ hai. Thật là vô cùng
nhảm nhí mà không biết ngượng, mấy Linh mục này còn không biết ngượng hơn cả con
chiên Nguyễn Văn Lục nữa.
Vậy thì, những thắc mắc của tôi như sau:
Sự kiện là, CHÚA THỨ NHẤT đã chết cách đây gần 2000
năm rồi VÀ CHƯA BAO GIỜ TRỞ LẠI DÙ ÔNG TA HỨA HẸN VỚI MỘT SỐ TÍN ĐỒ LÀ SẼ TRỞ
LẠI NGAY KHI HỌ CÒN SỐNG [Chắc Linh Mục Vũ Đức cũng đã đọc những đoạn này trong
Tân Ước mà tôi trích dẫn trong một đoạn trên], vậy ngày nay giáo hội Ca-tô Rô-ma
chỉ còn những CHÚA KITÔ THỨ HAI, rất nhiều CHÚA KITÔ THỨ HAI trên thế giới.
Nhiệm vụ của Chúa là “cứu chuộc” hay “cứu rỗi” gì gì đó,
nhưng tại sao lại có các CHÚA KITÔ THỨ HAI đi hiếp dâm các “sơ (nữ tỳ) của Chúa”
trong 23 quốc gia trên thế giới, có nơi còn bắt họ đi phá thai, và nguyên trên
nước Mỹ đã có tới 5000 CHÚA KITÔ THỨ HAI bị truy tố về tội cưỡng bức tình dục
trẻ em và nữ tín đồ. Có nhiều CHÚA KITÔ THỨ HAI đang ngồi tù, và tất cả vẫn còn
mang chức linh mục trên người, và các giáo hội địa phương đã phải bỏ ra từ 2 đến
3 tỷ Mỹ kim để bồi thường cho những nạn nhân tình dục của các CHÚA KITÔ THỨ HAI
hay chính là CHÚA KI TÔ.
Vậy không biết Tam Đoạn Luận sau đây có đúng hay không?
Người hiếp dâm các sơ và trẻ con là Linh Mục.
Mà Linh Mục là Chúa Ki Tô. [Theo LM Vũ Đức: từ nay Cha
là Chúa KITÔ.”]
Vậy thì chính Chúa Ki Tô đã hiếp dâm.
Vậy Chúa nào đi hiếp dâm? Chúa thứ nhất hay Chúa thứ
hai hay cùng là một Chúa?
Tôi chờ câu trả lời từ linh mục Vũ Đức hay từ bất cứ tín đồ Ca-Tô nào
trên thế giới. Tôi lại xin nhắc để quý vị nhớ rằng, linh mục không phải
là người thường như mọi người chúng ta, mà là “Chúa Ki Tô thứ hai” hay chính
là “Chúa Ki Tô”, nên các Ngài cũng như Chúa, không thể phạm những tội còn
hơn là người thường nữa.
f) Con Chiên Việt Nam:
Đọc Tân Ước và qua các công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh của các học giả
ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo, và lịch sử truyền đạo vào Việt Nam, tôi có
thể chứng minh rằng:
1. Giáo hội Ca-Tô Rô-ma tuyệt đối không phải do Chúa Giê-su thành lập, vì
Giê-su tin rằng ngày tận thế đã gần kề, cho nên giáo hội Ca-Tô Rô-ma và mọi
quyền lực của Giáo hoàng cũng như của giới chăn chiên chỉ là tự tạo, tự phong,
không có căn bản trong Tân Ước.
2. Tân Ước viết rất rõ, Giê-su sinh ra chỉ là để thi hành luật của một vị
Thần của Do Thái trong Cựu Ước vì Giê-su tự cho mình là con của vị Thần đó, có
nhiệm vụ cứu dân Do Thái, và chỉ dân Do Thái mà thôi. Những người không phải là
dân Do Thái, lẽ dĩ nhiên trong số này có người Việt Nam, không thể được Giê-su
cứu chuộc hay cứu rỗi vì Giê-su đã khẳng định như vậy trong Tân Ước.
3. “Trí tuệ và đạo đức của Giê-su không có gì đáng để chúng ta kính
ngưỡng, khoan nói đến chuyện đáng để cho chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa”. Đây là
kết quả nghiên cứu của nhiều chuyên gia học giả ở trong cũng như ở ngoài các
giáo hội Ki-Tô, dựa trên chính những điều viết về Giê-su trong Tân ước.
4. Cuốn Thánh Kinh chỉ là một cuốn sách về lịch sử của dân Do Thái cách
đây vài ngàn năm, viết bởi những người Do Thái theo cái hiểu của họ về vũ trụ
nhân sinh trong thời đó, và những quan niệm về đạo lý qui Thần của họ, và chứa
những điều phi luân vô đạo đức không ai có thể chấp nhận được trong thời đại
ngày nay, cho nên không thể thích hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam.
5. Lịch sử Giáo hội Ca-Tô Rô-ma là một lịch sử ô nhục và đẫm máu nhất
trong nhân loại, và một số không nhỏ các vị chủ chăn, từ các giáo hoàng cho tới
các linh mục, là những con người cực kỳ tội lỗi, độc ác, tàn bạo, vô đạo đức
v..v.. chưa từng thấy trong bất cứ tôn giáo nào khác.
6. Vì bị huyễn hoặc bởi một cái bánh vẽ trên trời do các thừa sai rao
giảng bịp bợm cho nên các tín đồ Ca-Tô ở Việt Nam đã đi vào con đường phản bội
quốc gia như lịch sử đã ghi rõ.
Ai có thể phủ nhận những điều viết trong Tân ước trên và những sự kiện
lịch sử về Ca-Tô Giáo Rô-ma cùng đạo đức của giới chăn chiên Ca-Tô như trên, xin
mời lên tiếng.
Vậy thì, từ những kết quả nghiên cứu trên, tôi lại có một thắc mắc:
NGƯỜI VIỆT NAM THEO ĐẠO CA-TÔ RÔ-MA LÀ VÌ CÁI GÌ?
Tôi xin chờ câu trả lời từ các bậc Hồng Y, Tổng Giám
Mục, Giám Mục, Linh Mục xuống tới mọi tầng lớp con chiên Việt Nam.
Các bài về tôn giáo cùng tác giả