Giáo Sư Nguyễn Mạnh Quang

Nạn Nhân Của Nền Đạo Lý Thiên La – Đắc Lộ

Trần Chung Ngọc

https://sachhiem.net/TCN/TCNdt/TCNdt056a.php

09-Dec-2011

1 2

NHỮNG TÀN PHÁ CỦA CHẤT ĐỘC DA CAM

Tác giả: Pierre Journoud

(Les Collections de L’Histoire, pp. 80-81)

 

Ngay lúc Hoa Kỳ tìm kiếm những vũ khí giết người hàng loạt ở Iraq,

một ấn phẩm đã được xuất bản, kết toán những độc hại của chất độc

da cam, chất khai quang đã được dùng một cách đại qui mô,

trong khoảng 1962-1971, bởi quân lực Mỹ ở Việt Nam.

Khoảng từ 2 đến 5 triệu thường dân có thể đã bị nhiễm độc.

[Au moment où les États-Unis recherchaient des armes
de destruction massive en Iraq était publié un nouveau bilan
des dégâts causés par l’agent Orange, ce défoliant massivement largué,
entre 1962 et 1971, par l’armée américaine au Vietnam.
Entre 2 et 5 millions de civils pourraient avoir été contaminés]

 Indochine

Năm 2000, nhiều nhà nghiên cứu Mỹ và Việt đã chính thức phối hợp những nỗ lực của họ để kết toán một cách chính xác những hệ quả tác hại của chất độc da cam đã trải trên miền Nam Việt Nam từ 1962 đến 1971. Từ đó, vì không có sự thôi thúc quyết định ở cấp các quốc gia (faute d’une impulsion décisive au niveau des états), những hi vọng chính đáng của những hứa hẹn đầu tiên mới chỉ được cất cánh lên một phần.

Nhưng sau một năm, vào tháng 4, 2003, nhiều khoa học gia ở Đại Học Columbia (Mỹ) đã tiết lộ những kết quả điều tra nghiên cứu của họ, bắt đầu từ những quyển ghi lịch trình các phi vụ của các phi công cộng với những kết quả nghiên cứu mới về sự truyền nhiễm chất độc da cam ở Việt Nam.

Điều ngạc nhiên chính là: cho tới ngày nay, những con số thống kê về số lượng chất độc khai quang đã trải trên Việt Nam, về dung lượng chất độc dioxin trong những thuốc khai quang, và số người bị nhiễm độc đều là những con số ước tính thấp.

Đối với Hoa kỳ, có một nguy cơ nghiêm trọng là phải thú nhận đã thi hành ở Việt Nam, theo nhận định của Đô Đốc Mỹ Elmo R. Zumwalt, chỉ huy các chiến dịch hải quân, một cuộc chiến tranh thí nghiệm hóa học lớn nhất chưa từng có (la plus grande guerre chimique expérimentale de tous les temps). Và có bổn phận phải đền bù về phương diện đạo đức cũng như tài chánh. (Et de devoir en payer le prix moral et financier). [Lẽ dĩ nhiên Mỹ không dám thú nhận. TCN]

Ngày 30 tháng 11, 1961. Chính thức là không còn chiến tranh Việt Nam. Từ những thỏa hiệp Genève vào năm 1954, nước Việt Nam bị chia đôi bởi vĩ tuyến 17. Ngoài Bắc là Cọng Sản Việt Nam. Trong Nam, một chính quyền độc tài toàn trị được nâng đỡ bởi Hoa Kỳ, nhưng phải đối diện với một cuộc nội chiến âm ỉ, chưa bùng nổ, từ ngày tổng thống Ngô Đình Diệm bác bỏ cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.

Trong bối cảnh như vậy, tổng thống John F. Kennedy đã chấp thuận chiến dịch “Ranch Hand”. Chương trình khai quang có một mục tiêu rõ ràng: khai quang những khu đất rậm rạp bao quanh các căn cứ đóng quân [của đồng minh] và những trục giao thông chính của kẻ thù ở Nam Việt Nam để cho Mỹ dễ bề hành động quân sự.

Năm sau, 1962, tổng thống Kennedy leo thang chiến tranh hóa học tuy rằng chịến tranh hóa học bị cấm bởi quy ước Genève năm 1925: ông ta cho phép hủy diệt hoa mầu ngũ cốc cung cấp thực phẩm cho những lực lượng địch.

Trong khoảng từ 1962 đến 1965, chỉ có vài chất sát trùng được dùng bởi quân đội Mỹ và quân đội Nam Việt Nam. Tên chất sát trùng được gọi theo màu sơn ngoài thùng chứa: hồng, xanh v..v..

Nhưng từ năm 1962, chiến tranh Việt Nam mở rộng. Lyndon B. Johnson, tiếp nối Kennedy làm tổng thống trong tòa Bạch Ốc năm 1963, gánh trách nhiệm một chiến dịch oanh tạc liên miên Bắc Việt và gửi đến Nam Việt Nam những thủy quân lục chiến đầu tiên. Ưu tiên dành cho việc xử dụng chất sát trùng độc hại nhất: chất độc da cam (l’agent orange). Đó là một hỗn hợp của hai thành tố hóa học: chất 2,4-D (acide dichloro-phénoxyacétique) và chất 2,4,5-T (acide thrichloro-phénoxyacétique ). Chất hỗn hợp này chứa một phó phẩm (sous-produit) rất độc: chất 2,3,7,8-TCDD, gọi là “dioxine” mà các khoa học gia nghi ngờ là sẽ vô cùng bền bỉ ở trong đất.

Trước mức độ trải chất độc trên miền Nam Việt Nam, một phong trào chống đối đã thành hình. Sự chống đối mạnh nhất là ở Mỹ - tháng 2, 1967, một bản kiến nghị chống đối ký bởi trên 5000 khoa học gia Hoa Kỳ, và rồi lan rộng thành một cuộc vận động thế giới chống chiến tranh Việt Nam.

Nhưng chính là do một cuộc nghiên cứu năm 1965 bởi Viện Ung Thư Quốc Gia mà những kết quả chỉ được tiết lộ vào mùa thu năm 1969, đã mang đến một đòn ân huệ (coup de grace) cho chiến dịch “Ranch Hand”. Cuộc nghiên cứu này chứng tỏ rằng một thành phần của chất độc da cam, chất 2,4,5-T, tác dụng trên những con chuột làm vật nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm, đã sinh ra những con quái chuột, chết yểu, và bị ung thư. Một cuộc nghiên cứu mới chứng tỏ rằng chính chất TCDD (dioxine) là nguồn gốc độc hại của chất độc da cam.

Đầu năm 1970, một ủy ban nghiên cứu những chất sát trùng được thành lập ở Hoa Kỳ. Kết luận của ủy ban là sự sử dụng những chất sát trùng này đã có sức tàn phá nhiều hơn là người ta thường tiên đoán: ½ rừng rú của miền Nam Việt Nam sẽ bị phá hại. Nghiêm trọng hơn nữa, chất dioxine tồn tại trong hoa mầu đất đai, cây cỏ có thể có nhiều hệ quả rất nghiêm trọng trên sức khỏe của dân chúng, qua đường thực phẩm: một số khá cao những cấu tạo bất bình thường của các trẻ sơ sinh và trẻ con chết yểu đã xảy ra ở trong những vùng bị nhiễm chất độc da cam.

Tháng 4, 1970, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ quyết định ngưng dùng chất độc da cam, nhưng vẫn tuyên bố là không có gì chứng minh là có sự liên hệ giữa chất độc da cam và những quái thai trong các vùng được trải. Quyết định ngưng dùng chỉ được thi hành vào năm 1971.

Để chứng tỏ thành tâm của Hoa Kỳ, tổng thống Gerald Ford ký nghị định - luật số 11850 vào tháng 4, 1975, theo đó thì Hoa Kỳ từ bỏ ý định là nước đầu tiên sẽ dùng những chất sát trùng cho mục đích quân sự. [par lequel le pays renonce à utiliser le premier des herbicides à des fins militaires (Nhưng đã dùng tràn ngập ở Việt Nam rồi. TCN)] Hoa Kỳ đã phá hủy những kho chất độc cuối cùng còn lại vào năm 1977.

Vào khoảng 77 triệu lít chất sát trùng đã được trải trên Nam Việt Nam từ 1961 đến 1971 – cao nhất là trong khoảng 1967-1969 – trên nhiều vùng rộng lớn; 65% là chất độc da cam, tối thiểu vào khoảng 365 ki-lô chất dioxine.

Ngày nay, chúng ta biết rằng chất dioxine, chất hóa học độc nhất mà loài người tạo ra (l’agent chimique le plus toxique que l’espèce humaine ait fabriqué), có thể làm con người nhiễm độc qua đường hô hấp, tiếp xúc và nhất là thực phẩm (tôm, cá, thịt, sữa). Về mức độ nghiêm trọng của ảnh hưởng chất độc da cam trên sức khỏe con người, cuộc tranh luận chưa dứt khoát giữa các chuyên gia, như chúng ta thấy trong hội nghị ở Stockholm về những ảnh hưởng của chiến tranh ở Cam-bod, Lào và Việt Nam (Tháng 7, 2002), nhưng người ta e rằng nó có những ảnh hưởng độc hại nhất.

Kết toán về ảnh hưởng độc hại của chiến dịch “Ranch Hand” khó mà có thể thiết lập một cách chính xác. Về phương diện môi sinh, chiến dịch này đã làm cho đất đai hết đi mầu mỡ, và không còn các loại sinh vật cũng như các loại cây cỏ trong các vùng mà ngày xưa chúng đã từng có rất nhiều. Nông nghiệp trong các vùng này bị nhiễu loạn trầm trọng.

Kết toán về sinh mạng con người cũng còn trong vòng bàn cãi. Nhưng công cuộc nghiên cứu của đại học Columbia (Mỹ) đã đưa ra những con số ở mức cao: hơn 3000 làng trực tiếp bị ảnh hưởng của chất độc da cam qua khoảng 10000 phi vụ trải thuốc độc khai quang, và như vậy, cộng với ảnh hưởng của gió, thì trong khoảng từ 2.1 đến 4.8 triệu người dân bị nhiễm độc trên một dân số được ước tính là 17 triệu ở miền Nam. Và để cho được đầy đủ, chúng ta phải thêm vào đó số nạn nhân ở Lào và Cam-bod mà cho đến ngày nay cũng chưa biết rõ, nhưng chắc chắn là ít hơn ở Việt Nam.

Trong số những người bị nhiễm độc của chất độc da cam, nhiều đứa trẻ bị dị tật bẩm sinh, thiếu một bộ phận trong thân thể, bị hội chứng Down, ung thư phát triển sớm, điếc, câm v..v..

Chỉ tới tháng 2, 2000, chính phủ Việt Nam mới quyết định trợ cấp, một cách tượng trưng, cho những nạn nhân chất độc da cam. Sự hầu như im lặng về vấn đề này của chính quyền có sự giải thích của họ: xét về mọi mặt, lợi ích mà Việt Nam có thể rút tỉa từ sự thân thiện với một cường quốc bậc nhất trên thế giới thì nhiều hơn là một sự bất hòa...Về phía chính phủ Washington, họ cho rằng họ không thể làm gì khi mà không có các bằng chứng y khoa bất khả phủ bác.

Người Việt Nam có một đồng minh ngay trên đất Mỹ: những cựu chiến binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến ở Việt Nam. Thật vậy, ở Hoa Kỳ, hơn 100000 (một trăm ngàn) cựu chiến binh bị ung thư vì nhiễm chất độc da cam, 3000 con cái họ bị dị tật bẩm sinh trầm trọng. Những cựu chiến binh này đã lên án những hãng của Mỹ sản xuất thuốc khai quang (Dow chemical, Mosanto) và các hãng này đã phải xuất ra, năm 1984, 180 triệu đô-la để đền bù cho khoảng 20000 nạn nhân.

Không đủ để đưa những người Mỹ đến chiến thắng (À défaut d’avoir conduit les Américains à la victoire), cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam ít ra cũng làm cho lương tâm thế giới thức tỉnh trước những ảnh hưởng của những loại vũ khí này. Từ sự thành lập một ủy ban đặc biệt của Liên Hiệp Quốc năm 1972 phụ trách vấn đề giải trừ vũ khí hóa học cho đến khi thành hình một tổ chức có nhiệm vụ ngăn cấm vũ khí hóa học, năm 1979, những sự tiến bộ đã rõ rệt.

Chỉ còn lại vấn đề là, cho phép dùng những vũ khí hóa học một cách bừa bãi ở Việt Nam, cơ quan Hành Pháp Mỹ không thể không biết là họ đã tạo ra một tiền lệ nguy hiểm. [En s’autorisant au Vietnam un usage massif d’armes chimiques extremement novices, l’exécutif américain ne pouvait pas ignorer qu’il créait un dangereux précédent.]

 Tôi nghĩ từng đó cũng đủ để cho đọc giả thấy rõ con người, kiến thức và mánh mưu của Thuy Dang trong bài Thuy Dang phê bình bài NGÔ ĐÌNH DIỆM: CON NGƯỜI VÀ TỘI ÁC của Giáo sư Sử Nguyễn Mạnh Quang. Điều rõ ràng là Thuy Dang đã dựa vào những thiếu sót trong sự hiểu biết của mình, đại khái là “cuồng tín, hàm hồ, đần đần, phi lý trí” [từ của Thuy Dang], để phê bình mà không phải là phê bình giáo sư Nguyễn Mạnh Quang. Cho nên tôi có thể ngưng ở đây, không cần thiết phải phê bình thêm nữa, vì bất cứ trong lãnh vực nào, nhất là về chính đạo Da-tô, kiến thức của Thuy Dang cũng không thể gọi là kiến thức. Những câu hỏi của Thuy Dang cho giáo sư Quang về Da-tô Giáo chứng tỏ là Thuy Dang chẳng biết gì về lịch sử Da-tô Giáo và tất nhiên Thuy Dang cũng chưa bao giờ mở đến cuốn Thánh Kinh, có lẽ chỉ cầm nó trong khi cầu nguyện, cho nên không biết trong đó viết những gì về Giê-su.

Tôi muốn thêm vào bài viết này vài tài liệu trong phần Phụ Lục để đọc giả có thể thấy rõ thêm một vài sự thật về người Mỹ vào Việt Nam như thế nào và đã làm gì ở Việt Nam. Và chúng ta, những người yêu nước yêu dân tộc, đừng có đổ thừa cho là yêu Cộng sản, sẽ nghĩ lại và phán xét lịch sử sao cho hợp tình hợp lý. Đối tượng của tôi là đa số những người có đầu óc, hiểu biết, can đảm chấp nhận sự thật, chứ không phải là thiểu số những kẻ cuồng tín, muốn tiếp nối cuộc thánh chiến chống Cộng, chống Cộng cho Chúa, hay chủ trương giết Cộng đến người cuối cùng.▪

 


PHỤ LỤC

Ngày nay, những sự thật về cuộc chiến tranh Việt Nam đã rõ, từ những tác phẩm nghiên cứu hậu chiến của các chuyên gia có uy tín trong lãnh vực học thuật cho đến những hồ sơ đã được giải mật của chính quyền Mỹ v…v…. Trước những tài liệu nghiên cứu nghiêm chỉnh của các trí thức Tây phương mà không có lý do gì để chúng ta cho rằng họ chống Mỹ hay thân Cộng, chúng ta phải có can đảm nhìn lại lịch sử như nó là như vậy dù có làm cho chúng ta đau lòng đến mấy, chúng ta không có quyền vì cảm tính phe phái, tôn giáo, hay vì thù hận mà xuyên tạc lịch sử. Hơn nữa, sự thù hận một chiều vì thiếu ý thức chính trị và lịch sử này đã đưa đến sự chia rẽ, phân hóa trầm trọng trong cộng đồng hải ngoại, và nhiều khi phản tác dụng.

Hiện nay chúng ta có rất nhiều tài liệu về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua, gồm cuộc chiến chống Pháp và cuộc chiến chống Mỹ, nhiều đến độ có lẽ không bao giờ chúng ta có thể biết hết và đọc hết. Người Việt Quốc Gia thường cho Nam Việt Nam là đồng minh trước hết là của Pháp, rồi sau là của Mỹ, trong cuộc thánh chiến chống Cộng. Nhưng sự thật khá đau lòng, trong cả hai cuộc chiến, Nam Việt Nam chỉ là tay sai, con cờ của Pháp và Mỹ. Pháp chưa bao giờ coi “thành phần quốc gia” là “đồng minh” của họ. Mỹ còn tệ hơn nữa vì là ông chủ chi tiền, cho nên quyết định mọi việc, và khi thấy không cần nữa thì bỏ. Hiệp Định Geneva năm 1954 được ký kết giữa Việt Minh và Pháp. Hiệp Định Paris năm 1973 trên thực tế được ký kết giữa Bắc Việt và Mỹ, giúp cho Mỹ “rút lui trong danh dự” và xóa sổ Nam Việt Nam, theo đúng “kế hoạch mầu nhiệm” của Thiên Chúa (wondreous plan of God) đã được an bài để hợp với lòng dân người Việt..

Như trên đã nói: Trong thời điểm đó, hơn ¼ thế giới theo Cộng Sản, Cuba ở ngay sát nách Mỹ là Cộng Sản, toàn thể Đông Âu theo Cộng Sản, và hai Cộng Sản gộc là Nga và Tàu, tại sao Mỹ không chống ở những nơi đó mà lại đi chống ở một nước nghèo, nhỏ, xa xôi như Việt Nam, vừa mới giành được độc lập sau một cuộc chiến đấu gian khổ dài 9 năm, nhân dân mệt mỏi, tài nguyên kiệt quệ, và nhất là không có khả năng gây bất cứ sự nguy hại nào cho Mỹ? Ngày nay chúng ta đã có câu trả lời.

Vietnam crisisTrong cuốn Việt Nam: Sự Khủng Khoảng của Lương Tri (Vietnam: Crisis of Conscience, Association Press, N.Y., 1967) viết bởi ba giới chức tôn giáo: Mục sư Tin Lành Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn Giáo Học, đại học Stanford; Linh mục Michael Novak, Giáo sư về Nhân Bản Học, đại học Stanford; và Tu sĩ Do Thái Abraham J. Heschel, giáo sư về đạo đức và huyền nhiệm Do Thái tại trường Thần Học Do Thái ở Mỹ, Mục Sư Tin Lành Robert McAfee Brown viết, trang 79:

Thật là khôi hài, ngay khi mà chúng ta nói rằng chúng ta phải “chặn đứng Cộng Sản” ở Việt Nam, thì ở những nơi khác chúng ta lại sống chung với Cộng Sản, soạn thảo những hiệp ước với Nga Sô, mở rộng giao thương với Đông Âu, ủng hộ Tito ở Nam Tư. Ở những nơi khác, chúng ta rõ ràng quyết định là sống chung hòa bình với Cộng Sản, và khuyến khích những xã hội Cộng Sản độc lập mà càng ngày càng tự do, không cần đến sự liên kết với nhau. (11)

Ngày nay chúng ta biết rằng Mỹ can thiệp vào Việt Nam không phải là giúp Việt Nam tranh đấu cho những giá trị tự do và dân chủ theo đúng nghĩa của tự do và dân chủ. Bản chất của hai chế độ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu nói rõ hơn gì hết sự thật này. Mỹ can thiệp vào Việt Nam vì quan niệm chính trị và thống trị của Mỹ sau Đệ Nhị Thế Chiến, ngoài những mục đích kinh tế của giới tài phiệt.

Xưa kia, chúng ta thường tin rằng, người Mỹ đến Việt Nam để giúp miền Nam chống lại Cộng sản, tạo cơ hội cho miền Nam trở thành một quốc gia tự do dân chủ. Những tài liệu lịch sử mà chúng ta có ngày nay chứng tỏ rằng, mục đích chính của Mỹ can thiệp vào Việt Nam không phải là để tạo nên một miền Nam dân chủ tự do mà là dựa vào cường quyền thắng công lý để thực hiện một mưu đồ đế quốc. Nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta thấy cuộc can thiệp của Mỹ vào Nam Việt Nam có nguồn gốc từ chính nền văn hóa của Mỹ. Sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam là sự hội tụ của 3 yếu tố: chính trị, thần học Ki-tô Giáo, và kinh tế. Những yếu tố này đan quyện với nhau tạo thành chính sách và hành động của Mỹ, không riêng gì ở Việt Nam mà còn ở trên khắp thế giới. Người Mỹ không có thực tâm, không có ý tốt giúp Việt Nam, cũng như ngày nay không có thực tâm, ý tốt giúp Iraq, Afghanistan, Ai Cập, Syria, Libya v…v…. Người nào tin rằng Mỹ thực tâm giúp Nam Việt Nam để bảo vệ những giá trị tự do dân chủ cho người dân Nam Việt Nam là đang nằm mơ. Hãy xét đến thực chất của các chính quyền Ngô Đình Diệm và “Diệm không Diệm” của Nguyễn Văn Thiệu. Hãy xét đến những chiến dịch quân sự dã man nhất của Mỹ ở Việt Nam đối với người dân trong cuộc chiến. Hãy xét đến những nhận định kiêu căng trịch thượng và ngu dốt về người dân Việt Nam của Tổng thống Johnson, của những người lính Mỹ. Trên thực tế, Mỹ không có bất cứ lý do nào để can thiệp vào Việt Nam.

Giáo sư Mortimer T. Cohen viết trong cuốn From Prologue To Epilogue In Vietnam, Publisher Retriever Bookshop, N.Y., 1979, trang 208:

Trong 21 năm bị lôi cuốn vào Đông Dương, Chính Phủ Mỹ đã đưa ra những “lý do” về những hành động của mình. Những lý do này vô giá trị. Lý do duy nhất mà Mỹ vào Đông Dương là để ngăn chận vùng này khỏi rơi vào tay Cộng Sản bằng một cuộc bầu cử, một cuộc cách mạng nội bộ... Và đó cũng đủ là lý do.

Thêm nhiều lý do. Và thêm nhiều lý do nữa. Chúng mọc lên như măng tháng 5. Trước khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, những lý do có thể chứa đầy một cuốn sách. Không lý do nào hợp lý. (12)

Như vậy, nếu Mỹ không có lý do chính đáng nào để can thiệp vào Việt Nam thì bản chất sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam là gì?

Chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975 nhưng 27 năm sau Daniel Ellsberg còn viết trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255, về cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam:

“Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ”.

(In terms of the UN Charter and our own avowed ideals, it was a war of foreign agression, American aggression.)

 Endless war

Và trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991), hai Giáo sư ở đại học Iowa, John Carlos Rowe và Rick Berg, viết, trang 28-29:

Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức dấn thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954, dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm… Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương. (13)

Noam Chomsky viết trong cuốn The Chomsky Reader, Edited by James Peck, năm 1984, dưới đầu đề Cuộc Xâm Lược Nam Việt Nam [The Invasion of South Vietnam]:

Cuộc xâm lược của Mỹ vào Nam Việt Nam là tiếp theo sự ủng hộ của chúng ta trong toan tính của Pháp tái chinh phục thuộc địa cũ, sự phá “quá trình hòa bình” năm 1954 [Hiệp định Geneva] của chúng ta, và một cuộc chiến tranh khủng bố chống dân chúng Nam Việt Nam.

Có một sự dàn xếp chính trị vào năm 1954, Hiệp định Geneva… Chúng ta tiến ngay vào việc phá ngầm Hiệp định, đặt ở Nam Việt Nam một chế độ hung bạo, khủng bố, lẽ dĩ nhiên là bác bỏ (với sự ủng hộ của chúng ta) cuộc tổng tuyển cử đã được dự phóng. Rồi chế độ đó trở thành một cuộc tấn công khủng bố chống dân chúng ở Nam Việt Nam, đặc biệt đối với lực lượng kháng chiến chống Pháp mà chúng ta gọi là Việt Cộng. Chế độ đó đã giết có thể vào khoảng 80000 người khi mà John F. Kennedy lên làm Tổng Thống năm 1961.

Trong những năm 1961 và 1962 Kennedy khởi sự một cuộc chiến chống Nam Việt Nam. Có nghĩa là, trong 1961 và 1962 , không lực Mỹ bắt đầu bỏ bom và trải thuốc khai quang rộng rãi ở Nam Việt Nam, nhắm trước hết vào những vùng nông thôn mà 80% dân chúng sống trong đó. Đây là một phần của chương trình lùa nhiều triệu người dân vào trong những trại tập trung mà chúng ta gọi là “ấp chiến lược” nơi đó họ bị bao vây bởi các lính canh gác và giây thép gai, được “bảo vệ”, như chúng ta nói vậy, trước quân du kích mà chúng ta thừa nhận rằng người dân tự nguyện ủng hộ. Đây là điều mà chúng ta gọi là “xâm lược” hay “tấn công bằng vũ khí” khi một nước nào đó làm như vậy. Chúng ta gọi đó là “bảo vệ” khi chúng ta làm như vậy. (14)

Trở lại vấn đề “Chất độc da cam”, và cũng để kết luận, sau đây là vài tài liệu điển hình:

1. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong Lời Mở Đầu của George Wald trong cuốn Defoliation, A Ballantine Book, New York, 1970, tác giả = Thomas Whiteside.

Nam Việt Nam là một nước nghèo. Hầu hết dân chúng là nông dân, làm lụng chân tay trên đất đai chỉ để đủ sống. Chiến tranh đã phá vỡ cuộc sống này một cách đáng sợ. Đây không chỉ là một cuộc chiến hủy diệt rất bất bình thường, được tiến hành trong phần lớn đồng quê không được bảo vệ. Nhiều thanh niên bị lôi ra khỏi đồng ruộng để đi chiến đấu trong quân đội trong nhiều năm. Làng mạc bị phá hủy – bị dội bom, nhà cửa bị thiêu rụi, cơ sở bị triệt hạ (bulldozed). Trong những vùng oanh kích tự do, mọi vật di động, người cũng như súc vật, đề bị bắn hạ. Trên phần lớn những đồng ruộng có chi chít những hố bom B-52.

Như vậy cũng chưa đủ, chúng ta đã tham gia vào một chương trình phá hủy mùa màng một cách có hệ thống, được nói trẹo ra là chỉ nhắm vào Việt Cộng. Nam Việt Nam, trước là nước xuất cảng nhiều gạo, nay phải nhập cảng gạo của Mỹ. Tiến sĩ Jean Mayer, giáo sư sinh lý học và khoa học dinh dưỡng ở đại học Harvard, vạch rõ ra rằng, tuy các phương tiện chiến đấu khác trong cuộc chiến không tránh được việc gây ra những nạn nhân là thường dân, nhưng sự phá hủy mùa màng thì hầu hết nhắm vào dân thường, nhưng thường dân không có sự giúp đỡ nào. Vấn đề thật là đơn giản. Nếu thực phẩm trở nên hiếm hoi thì binh sĩ là những người đầu tiên chiếm cứ các thực phẩm còn sót lại, Chỉ những người không có vũ khí trong tay, những người yếu ớt không thể tự lực cánh sainh là không có thực phẩm – những người già yếu, người đau ốm, phụ nữ mang thai, và nhất là các trẻ em.

Tôi không có kết luận nào khác là ở Nam Việt Nam chúng ta đang hủy diệt một quốc gia và dân tộc ở đó – quốc gia mà chúng ta nói là chúng ta đang chiến đấu để bảo vệ. Chúng ta làm như vậy với sự đồng lõa, thường là do đề nghị của chính phủ của họ - một chế độ độc tài quân phiệt tham nhũng, hối lộ, mà chúng ta bảo trợ và chính quyền của chúng ta cam kết duy trì. Nhân mạng, súc vật, cây cối, hoa màu – tất cả đều bị tàn phá; trong những cánh đồng mà người nông dân làm lụng chân tay qua nhiều thế hệ, từ bờ này đến bờ kia, nay có đầy những hố bom B-52.

Tại sao chúng ta lại làm như vậy? Toàn bộ đều được che dấu dưới sự đạo đức giả, những lời khoa trương bất tận, và những lời nói hoa mỹ.. Vì quốc gia chúng ta là nước chủ chốt đề nghị cấm chiến tranh hóa học và vi trùng cho Nghị định Geneva năm 1925 – mà chúng ta vẫn chưa phê chuẩn – do đó chúng ta đã tham dự nhiều trong việc thiết lập những nguyên tắc của tòa xử ở Nuremberg mà chúng ta đã chính thức chấp nhận và nay là một phần của Luật Quốc tế. Những tội ác chiến tranh gồm có “giết người, ngược đãi hay trục xuất – thường dân của hay ở trong vùng chiếm đóng – cố ý hủy diệt thành thị, hay làng mạc, hay phá hại mà không biện minh được là vì sự cần thiết quân sự. Trong những tội ác chống nhân loại là những hành động chống thường dân.

Những phương thức chúng ta dùng ngày nay ở Việt Nam gồm có chiến dịch chống thường dân thì gần như là diệt chủng chứ không phải là phương thức tiến hành chiến tranh như người Mỹ thường hiểu trước đây mà các quốc gia văn minh đã chấp nhận và ghi trong Luật Quốc Tế. Sự sử dụng bừa bãi và rộng lớn hơi cay, chất trừ sâu và chất khai quang là phần lớn trong những phương thức đó. (15)

2. Trong cuốn “Ecocide in Indochina: The Ecology of War”, Barry Weisberg, Canfield Press, San Francisco, 1970: Part 2; Overview. Chúng ta có thể đọc một đoạn trong bài của triết gia Jean Paul Sartre về “Tội Diệt Chủng” [Article #2: On Genocide] :

EcocideinIndochinaNay chúng ta có thể nhận ra trong những linh hồn tăm tối và bị lạc dẫn đó sự thật về chiến tranh Việt Nam: nó có những tất cả những đặc điểm của Hitler. Hitler giết người Do Thái chỉ vì họ là người Do Thái. Quân đội Mỹ tra tấn và giết đàn ông, đàn bà và trẻ con ở Việt Nam chỉ vì họ là người Việt Nam. Chúng thường nói với nhau, “Chỉ có người Việt Nam chết mới là người Việt Nam tốt”, hoặc cùng ý như vậy, “Một người Việt Nam chết là một Việt Cộng.”

Chính phủ Mỹ có tội đã ưa, và còn đang ưa, một chính sách chiến tranh và xâm lược với mục đích diệt chủng thay vì một chính sách hòa bình, chính sách duy nhất có thể thực sự thay thế cho chính sách hiếu chiến..

Những cái nút buộc về “Một Thế Giới” mà Mỹ muốn áp đặt quyền bá chủ của mình, càng ngày càng xiết chặt. Vì lý do này, như người Mỹ biết rõ, chính sách diệt chủng hiện thời được quan niệm như là để đáp lại cuộc chiến tranh nhân dân và gây ra ở Việt Nam không chỉ chống nhân dân Việt Nam, mà là chống cả nhân loại.

Khi một nông dân ngã xuống trong ruộng lúa, bị quạt bởi súng máy, mọi người chúng ta cũng đều bị bắn trúng. Người Việt Nam chiến đấu cho mọi người chúng ta, và quân đội Mỹ chống lại tất cả chúng ta. Đây không phải là nói một cách bóng bẩy hay trừu tượng. Và không chỉ vì diệt chủng là một tội ác mà Luật Quốc Tế lên án khắp nơi, mà vì từng bước một, cả nhân loại sẽ bị hăm dọa diệt chủng chồng lên sự hăm dọa về vũ khí nguyên tử, nghĩa là một cuộc chiến tranh tuyệt đối, toàn diện.

Tội ác này, diễn ra trước mắt thế giới hàng ngày, làm cho những người không tố cáo nó trở thành đồng lõa với những kẻ phạm tội, cho nên ngày nay chúng ta đang thoái hóa cho tương lai nô lệ của chúng ta..

Theo nghĩa này, tội diệt chủng của đế quốc có thể trở thành trọn vẹn. Cái nhóm mà Mỹ muốn hăm dọa và khủng bố qua những hành động ở Việt Nam là cả nhân loại. (16)

Quý đọc giả có thể đọc thêm bài CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ VÀ DIỆT CHỦNG DÂN TỘC VIỆT NAM CỦA MỸ 1945 – 1974, [https://www.sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts25.php] được dịch từ bài “American Terrorism and Genocide of the Vietnamese People, 1945-1974” trên
https://www.intellnet.org/resources/american_terrorism/Vietnamesevictims.html

Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt 36 năm rồi. Khi chúng ta không biết những sự thật xung quanh cuộc chiến, chúng ta có một quan niệm khác. Nhưng nay, trước những tài liệu khả tín về cuộc chiến như trên, và đây chỉ là một số nhỏ, rất nhỏ, chúng ta không thể tự cho phép để tiếp tục tin vào những điều không thể tin được. Lẽ dĩ nhiên, những bài viết về lịch sử của tôi như nó đúng là như vậy, thường dựa trên rất nhiều tài liệu khả tín, trong đó không có một tài liệu nào của Cộng sản hay của Phật Giáo, có thể không làm hài lòng những người muốn tiếp tục cuộc thánh chiến chống Cộng. Cho nên họ vẫn chụp lên đầu tôi mấy cái mũ thân Cộng hay bênh Cộng. Thật là không thể hiểu nổi những đầu óc như vậy. Họ muốn tôi cũng phải xuyên tạc lịch sử, diễn giải mọi vụ việc ở Việt Nam theo chiều hướng tiêu cực để chống Cộng như họ, thí dụ như những đề nghị xây dựng đất nước của người dân phải được diễn giải như là thái độ của người dân chống chế độ, mọi tệ đoan xã hội đều phải đổ lên đầu chính quyền, những hành động vô cương vô pháp của Công giáo phải được diễn giải là tranh đấu cho tự do, dân chủ, trong khi bản chất của Công giáo là phi tự do, phi dân chủ. Làm gì có tự do dân chủ giữa người chăn chiên và con chiên?

Người Mỹ đã làm những gì ở Việt Nam để giúp Nam Việt Nam?

Nhiều lắm ! Đại cương là tàn phá đất nước Việt Nam, về sinh mạng cũng như về vật chất, nói là để cứu Nam Việt Nam. Trong khi có nhiều tác giả ngoại quốc, nhất là Mỹ, viết về sự kiện này, thì điều lạ là chúng ta không hề thấy những người hăng say chống Cộng, cho Chúa cũng như cho “lý tưởng quốc gia”, nếu chúng ta có thể gọi “chống Cộng” là “lý tưởng quốc gia”, đả động đến khía cạnh này của cuộc chiến, vậy thực ra là họ chống Cộng hay chống quốc gia Việt Nam?

Tôi đã trở thành một công dân Mỹ gốc Việt 31 năm nay rồi. Nhân danh là một công dân Mỹ, những gì tôi viết về Mỹ, chẳng phải là để chống Mỹ, mà chỉ là những sự thật về Mỹ, từ những tài liệu của chính người Mỹ. Cũng vậy, những gì tôi viết về Công giáo chẳng phải là tôi chống Công giáo, mà chỉ là những sự thật về Công giáo, từ những tài liệu nghiên cứu về Công giáo của các học giả Âu Mỹ, ở trong cũng như ở ngoài Công giáo.. Những người không ở trong lãnh vực nghiên cứu học thuật trí thức thì khó mà có thể hiểu được những điều này.

Kiến thức thu thập được từ những tài liệu có giá trị về cuộc chiến, về tôn giáo, tôi cho đây chính là sự đền bù lớn lao đối với tôi, về phương diện tri thức, để bù đắp lại sự mất mát do quyết định của tôi, tự bắt buộc phải rời quê hương mấy ngày trước ngày 30 tháng Tư, 1975.▪

 


Chú Thích:

1. During the Vietnam War, between 1962 and 1971, the United States military sprayed nearly 20,000,000 US gallons (75,700,000 L) of chemical herbicides and defoliants in Vietnam, eastern Laos and parts of Cambodia, as part of Operation Ranch Hand. The program's goal was to defoliate forested and rural land, depriving guerrillas of cover; another goal was to induce forced draft urbanization, destroying the ability of peasants to support themselves in the countryside, and forcing them to flee to the U.S. dominated cities, thus depriving the guerrillas of their rural support base and food supply.

The US began to target food crops in October 1961, primarily using Agent Blue. In 1965, 42 percent of all herbicide spraying was dedicated to food crops.)

Soldiers were told they were destroying crops because they were going to be used to feed guerrillas. They later discovered nearly all of the food they had been destroying was not being produced for guerrillas; it was, in reality, only being grown to support the local civilian population. For example, in Quang Ngai province, 85% of the crop lands were scheduled to be destroyed in 1970 alone. Widespread famine occurred as a result, leaving hundreds of thousands of people malnourished or starving.

2. Late in 1961, a high-level Defense Department official was making his first trip to South Vietnam. The defoliation program, aimed at destroying jungle used by the Viet Cong for cover, had begun in October and the official planned to take a first-hand look. He later gave a briefing to President Ngo Dinh Diem. Diem “pulled out a tremendous map and began to give me a briefing on how much land the Viet Cong controlled in the South”, the official recalled. “I found out later it probably was a standard briefing he gave to all visiting officials. Diem’s point was that the use of defoliants to deny the enemy jungle cover was well and good, but to really effective the chemicals had to be used against the Viet Cong’s crops. “This wasn’t what we wanted,” the Pentagon official said, “but we started using the stuff for crop killing. At first I insisted a Vietnamese officer go along to identify the target a Viet Cong-controlled, but this eventually was prostituted.

Early in February, 1962, the Soviet Union accused the United States of waging chemical warfare in South Vietnam. Izvestia reported that “the Pentagon has marked the beginning of the new year by an unprecedented action: the use of chemical weapons”. It said US airplaines were defoliating jungles and added: “The Air Force even started to destroy by poisonous gas the crops on the peasants’ fields in the regions where dissatisfaction is spreading.”

By the end of November 1961, according to Newsweek magazine, American special war troops had begun teaching Vietnamese fliers haw to “spray “Communist-held areas with a chemical that turns the rice fields, yellow, killing any crop being grown in rebel strongholds.” And by early 1963, according to United Press International and the Minnealpolis Tribune, the Vietnamese Air Force helicopters and planes were regularly using defoliants and herbicides to destroy crops in Viet Cong territory...

In September 1966, twenty-two scientists and doctors, including seven Nobel Prize winners, wrote a public letter to Johnson urging him to order an end to the use of chemical agents in Vietnam. The document was then sent to universities and scientist around the nation; by February, 1967, more than 5,000 U.S. scientists, now including 17 Nobel prize winners and 129 members of the the prestigious National Academy of Sciences, had signed. The remarkable collection was bound and sent to President Johnson on February 14 after a news conference that put the protest on the front pages of newspapers across the nation…

The American use of gas brought condemnation from around the world: a Frankfurt newspaper published a cartoon showing the Statue of Liberty wearing a gas mask; Mainichi Shimbun, one of Japan’s leading newspaper, carried a cartoon of Adolf Hitler’s hovering over Vietnam with a bag labeled “Vietnam” in his right hand. In New York, trhe Times published a sharply critiacl editorial noting that “in Vietnam, gas was supplied and sanctioned by white men against Asians. This is something that no Asian, Communist or not, will forget. No other country has employed such weapon in recent warfare.)

3. As the apparently inexorable advance of defoliation in South Vietnam continued, a number of scientists in the US began to protest the military use of the herbicides, contending that Vietnam was being used, in effect, as a proving ground for chemical and biological warfare. Early in 1966, a group of 29 scientists, under the leadership of Dr. John Edsall, a professor of biochemistry at Harvard, appealed to President Johnson to prohibit the use of defoliants and crop-destroying herbicides, and called the use of these substances in Vietnam “barbarous because they are indiscriminate” In the late 1966, this protest was followed by a letter of petition to President Johnson from 22 scientists, including 7 Nobel laureates. The petition pointed out that the large-scale use of anticrop and ‘non-lethal’ antipersonal chemical weapon in Vietnam” constituted “a dangerous precedent” on chemical and biological warfare, and it asked the President to order it stopped. Before the end of that year, Dr. Edsall and Dr. Matthew S. Meselson, a Harvard professor of biology, obtained the signatures of 5000 scientists to co-sponsor the petition.

4. Resolution Passed by the Council of the American Association for the Advancement of Science: December 30, 1969, Boston Massachusetts:

- Whereas, recent studies commissioned by the National Cancer Institute have shown that 2,4,5-T and 2,4-D cause birth malformations in experimental manimals, and

- Whereas, the above studies conclude that 2,4,5-T ia probably dangerous to man, and that 2,4-D is potentially dangerous to man, and

- Whereas, 2,4,5-T and 2,4-D are widely used for military defoliation in Vietnam in amount (20 to 30 lbs/acre) that are much greater than those used in civilian operations, and

- Whereas, there is a possibility that the use of herbicides in Vietnam is causing birth malformations among of infants of exposed mothers;

Therefore, be it resolved the Council of AAAS urge that the US Department of Defense immediately cease all use of 2,4-D and 2,4,5-T in Vietnam.

5. As if it were better to be “dead than red”, in the decade after 1964 the U.S. used in all some 15,724,000 tons of explosives (about half bombs, and half other munitions) in Vietnam, in all the seeming equivalent of over 700 Hiroshima-style atomic bombs. These dry figures encompass the use of some 400,000 tons of napalm, and some 19,114,000 gallons of herbicide (11,220,000 gallons of which was the notorious Agent Orange, and an estimated 170 kg of which were deadly dioxin), and left over 25 million craters in an area about the size of California. Most of the bombs (some 3,621,000 tons) and virtually all of the munitions and defoliants were unloaded on South Vietnam, over half of whose forests were heavily damaged…

At that point, terror was obviously far more apt to come from the sky than from the Communists. The American sociologist Philip Slater put it this way: to argue that the U.S. was trying to stop “Communist terror” is “a little like saying that when an elephant steps on a mouse, the mouse is an aggressor when it bites the elephant’s foot.”

6. When we (military scientists) initiated the herbicide program in the 1960s, we were aware of the potential for damage due to dioxin contamination in the herbicide. We were even aware that the 'military' formulation had a higher dioxin concentration than the 'civilian' version due to the lower cost and speed of manufacture. However, because the material was to be used on the 'enemy,' none of us were overly concerned. We never considered a scenario in which our own personnel would become contaminated with the herbicide.

7. In 1983, a Long Island federal district judge released damaging Dow Chemical Company documents.

Dow – the largest supplier of napalm and Ogent Orange to the government during the war – knew as early as the middle 1960s (1964) of evidence that exposure to dioxin might cause people to become seriously ill and even die. However, the company withheld its concern from the government and continued to sell herbicides contaminated by dioxin to the army, according to the documents.

8. The US justice department had urged the federal judge to dismiss the lawsuit.

In a brief filed in January, it said opening the courts to cases brought by former enemies would be a dangerous threat to presidential powers to wage war.

9. U.S. Urges Judge to Dismiss Suit on Chemical Use in Vietnam War

By WILLIAM GLABERSON
Published: February 28, 2005

The Justice Department is urging a federal judge in Brooklyn to dismiss a lawsuit aimed at forcing a re-examination of one of the most contentious issues of the Vietnam War, the use of the defoliant Agent Orange.

The civil suit, filed last year on behalf of millions of Vietnamese, claimed that American chemical companies committed war crimes by supplying the military with Agent Orange, which contained dioxin, a highly toxic substance.

The suit seeks what could be billions of dollars of damages from the companies and the environmental cleanup of Vietnam.

10. Not content with using explosives and napalm on civilians, millions of gallons of agent orange were sprayed on Vietnam’s land during America’s war on the Vietnamese. This environmental and humanitarian disaster killed about 400,000 persons and caused about 500,000 birth defects. Dioxin is persistent and its direct effects continue to the present time. Dioxin also damages human DNA so that its effects will persist in the Vietnamese population indefinitely.

No other country has ever before done such things to another.

11. It is ironic that at precisely the moment we are saying that we must “halt communism” in Vietnam, we are coming to terms with it elsewhere, working out new treaty agreements with Russia, extending trade in Eastern Europe, giving support to Tito in Yougoslavia. Elsewhere, we have clearly decide to coexist with communism, and to encourage independent Communist societies that will be increasingly free of the need for alliance with one another.

12. During the course of its 21 years of involvement in Indochina, the United States Government offfered “reasons” for its actions. These reasons were worthless. The only reason for the American being in Indochina was to prevent the area from going Communist by an election, by an internal revolution... And this was reason enough...

More reasons. And more reasons. They sprouted like asparagus in May. Before the Indochina War came to an end, a book could have filled with reasons. None of them were valid.

13. When France withdrew, the US dedicated itself at once to subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south a terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking resistance which, from 1959, was supported from the northern half of the country temporarily divided by the Geneva settlement that the US had undermined… In short, the US invaded South Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression with numerous and quite appalling crimes against humanity throughout Indochina.

14. The direct U.S. invasion of South Vietnam followed our support for the French attempt to reconquer their former colony, our disruption of the 1954 “peace process”, and a terrorist war against the South Vietnamese population.. (p. 224)

There was a political settlement, the Geneva Accords, in 1954… We immediately proceeded to undermine them, installing in South Vietnam a violent, terrorist regime, which of course rejected (with our support) the elections which were projected. Then the regime turned to a terrorist attack against the population, particularly against the anti-French resistance, which we called the Vietcong, in South Vietnam. The regime had probably killed about 80,000 people (that means we had killed, through our arms and mercenaries) by the time John F. Keenedy took over in 1961… [p. 323]

In 1961 and 1962 Kennedy simply launched a war against South Vietnam. That is, in 1961 and 1962 the U.S. Air Force began extensive bombing and defoliation in South Vietnam, aimed primarily against the rural areas where 80% of the population lived. This was part of a program designed to drive several million people in concentration camps, which we called “strategic hamlets” where they would be surrounded by armed guards and barbed wire, “protected”, as we put it, from the guerrillas whom, we conceded, they were willingly supporting. That what we call “aggression’ or “armed attack” when some other country does it. We call it “defense” when we do it.

15. South Vietnam is a poor country. Most of its people are peasants, managing a subsistence economy through hard work on the land. The war has disrupted this frightfully. Not only has it been a quite unusually destructive war, carried out largely on an undefended countryside. Large numbers of young men for years have been taken from the farms to fight in the armies. Villages have been destroyed – bombed, burned out, bulldozed. In the free-fire zones everything that moves is fired on – people and farm animals. Enormous stretches of open rice paddies are pitted with an almost indecrible density of B-52 bomb craters.

As though all that were not enough, we have engaged in a systematic program of crop destruction, said euphemistically to be directed only agains the Viet Cong. South Vietnam, which used to export large amount of rice, now imports rice from the US. Dr. Jean Mayer, Professor of Physiology and Nutrition at the Harvard school of Public Health, has pointed out that though other means of warfare inevitably include civilians among the victims, crop destruction is almost exclusively directed against civilians, and indeed the most helpless civilians. The point is the simply enough. When food is short, soldiers get whatever food there is. It is the unarmed, helpless and feeble that go without – the old, the ill, pregnant women, and most of all, children.

I see no way to escape the conclusion that in South Vietnam we are systematically destroying a country and its people – the very country that we say we are fighting to preserve. We do that with the connivance of, often at the behest of, their own government – a venal, corrupt military dictatorship that we have sponsored and the the presevation of which our present Administration is committed. People, animals, trees, crops – all are being devastated; in great stretches of open fiels, that peasant families had tended by hand over many generations, the B-52 craters lie often edge to edge.

Why do we do it? The whole operation is smothered in hypocrisy, endless rhetoric, and fine language.

Just as our country was the prime mover in proposing the Geneva Protocol of 1925 banning gas and bacteriology warfare – which we still have not ratified – so our country had most to do with establishing the Nuremberg Priciples, which we have formally accepted, and which are now part of International Law. Among the war crimes are included “murder, ill-treatment or deportation – of civilian population of or in occupied territory – wanton destruction of cities, towns, or villages, or devastation not justified by military necessity>”Among the crimes against humanity are “inhumane acts done against any civilian population.

Our present procedures in Vietnam include operation against the civilian population that come closer to genocide than to waging of war as Americans have understood in the past, as generally accepted by civilized nations and embodied in International Law. The wide and indiscriminate use of tear gases, herbicides and defoliants looms large among those procedures.

16. Now we can recognize in those dark and misled souls the truth of the Vietnam war: it meets all of Hitler’s specifications. Hitler killed the Jews because they are Jews. The armed forces of the US torture and kill men, women and children in Vietnam merely because they are Vietnamese. [They often say themselves, “The only good Vietnamese is a dead Vietnamese”, or what amount to the same thing, “A dead Vietnamese is a Viet Cong”..

The American government is guilty of having preferred, and of still preferring, a policy of war and agression aimed at total negocide to a policy of peace, the only policy which can really replace the former…

The ties of the “One World”, on which the US wants to impose its hegemony, have grown tighter and tighter. For this reason, as the American very well knows, the current genocide is conceived as an answer to people’s war and perpetrated in Vietnam not against the Vietnamese alone, but against humanity.

When a peasant falls in the rice paddy, mowed down by machine gun, every one of us hit. The Vietnamese fight for all men and the American forces against all. Neither figuratively nor abstractly. And not only because genocide would be a crime universally condemned by International Law, but because little by little the whole human race is being subjected to genocidal blackmail piled on top of atomic blackmail, that is, to absolute, total war. This crime, carried out every day before the eyes of the world, renders who do not denounce it accomplices of those who commit it, so that we are being degraded today for our future enslavement..

In this sense, imperrialist genocide can only become more complete. The group which the US wants to intimidate and terrorize by way of the Vietnamese nation is the human group in its entirely. ▪

 

Trần Chung Ngọc

Grayslake, Illinois

Cuối Năm 2011