Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?

Trần Thanh Lưu dịch cuốn

“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan

bản rời || Mục Lục | 15 tháng 10, 2009

 

Chương 13

Vatican Cố Ngăn Chận Hòa Bình

Giáo Hoàng John XXIII Bác Bỏ Hiệp Định Geneva Trong Khi Một Tổng Thống Ca-tô Hoa Kỳ Theo Đuổi "Việc Cam Kết Vô Giới Hạn."


Việt Minh làm rối tung Giáo Hội Công Giáo Hiệp định Geneva là lời nguyền rủa cho Vatican Tại sao Vatican khuyến khích Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam Tại sao Diệm từ chối tổ chức một cuộc bầu cử "tự do" Tại sao Bắc Việt muốn có một cuộc bầu cử "tự do" Một Thượng Nghị Sĩ Mỹ đã nói gì về vụ này Ông Hồng Y dùng phi cơ quân sự của Mỹ Quân Mỹ là "lính của Chúa Ki-tô" Việt Nam được dâng cho Mẹ Mary Đồng Trinh Giáo hoàng thành lập một Giáo phận trong nước Việt Nam cộng sản Giáo Hoàng John XXIII Chủ thuyết Hợp nhất Giáo hội-đối chọi với-Chủ nghĩa Hiện thực Mafia Ca-tô Việt Nam và ba anh em Kennedy leo thang chiến tranh Cam kết "vô giới hạn" tại Việt Nam


Khi người Pháp bắt đầu tan rã dưới những đòn giáng dồn dập của quân Cộng sản Đông Dương,  Giáo Hội Ca-tô hoan nghênh sự can thiệp của Hoa Kỳ kỳ vọng rằng sự hiện diện của Hoa Kỳ sẽ giúp thúc đẩy việc chinh phục toàn vùng. Giáo Hội đã có mặt trên trận tiền chiến đấu một chiến dịch thụt lùi chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản.

Sự thành công về ý thức hệ và quân sự của Việt-Minh, và chính nghĩa của họ càng ngày càng được quần chúng ủng hộ đã làm đảo lộn những hy vọng của Vatican.  Nó đã dẫn đến điều mà Vatican đã luôn luôn chống đối, kể cả việc chia đôi đất nước Việt Nam thành hai nửa – miền Bắc và miền Nam. Hiệp định Geneva đã thừa nhận việc chia cắt ấy, do đó đã trở thành lời nguyền rũa đối với những nhà chiến lược Vatican cũng như đối với các kẻ ủng hộ nó tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong khi Hoa Kỳ đành chấp nhận sự phân chia theo các điều khoản quân sự và chính trị, dù tạm thời, nhưng Vatican không bao giờ chịu như thế. Nó xem sự phân chia như là một sự thất bại nặng nề chẳng khác gì sự bại trận Pháp.

Tuy vậy, trong khi Vatican không chấp nhận sự phân chia đất nước, nó vẫn tiếp tục hợp tác và thực sự khuyến khích một sự can thiệp sâu rộng hơn của Hoa Kỳ, hay nhất là sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự của Mỹ để thúc đẩy một Việt Nam thống nhất, nơi mà một khi thắng trận thì cuối cùng là Giáo Hội cai trị ở ngôi tối cao.

Vatican không bao giờ chấp nhận sự phân chia Việt Nam, như dự kiến của Hiệp Định Geneva, vì tính kiên trì của các chiến lược chung của nó. Điều này có thể được xác định với việc theo đuổi bốn mục tiêu chính: (1) duy trì sự thống nhất của Việt Nam; (2) hoàn toàn loại bỏ chủ nghĩa cộng sản; (3) Ca-tô hóa cả nước; (4) tạo dựng nên một nhà nước Ca-tô toàn trị, để đạt được và duy trì ba mục tiêu trên.

Các bước này đã được thi hành trước khi xảy ra sự phân cắt để cụ thể hóa của một chính sách như vậy. Như chúng ta đã thấy, đó là Vatican, với sự tiếp tay của bộ phận vận động hành lang của Ca-tô Hoa Kỳ cầm đầu bởi Hồng Y Spellman, mà khởi điểm là đẩy Diệm lên cầm quyền. Bộ ba đầy quyền lực, được kể là Pius XII, Hồng Y Spellman và John Foster Dulles, đã đứng phía sau việc thiết lập của một chế độ bán-toàn trị ở Nam Việt Nam từ trong trứng nước. Chính bọn họ, trên thực tế, đã khuyên Diệm nên thách thức Hiệp định Geneva; từ chối mở các cuộc bầu cử như đã hứa với nhân dân Việt Nam, để xem nhân dân Việt Nam có muốn thống nhất đất nước hay không.

Chúng ta đã thấy những hậu quả thảm khốc do sự từ chối này đã báo trước cho Việt Nam và cả chính Hoa Kỳ. Các nỗ lực về sau để đạt được một số hình thức thông cảm với miền Bắc đã bị Tổng thống Diệm kiên trì thọc gậy bánh xe, theo sự cố vấn trực tiếp của Vatican và Washington. Trong tháng Bảy, 1955, theo Hiệp định Geneva, Diệm dự trù sẽ bắt đầu các cuộc tham khảo cho các cuộc bầu cử đã được định cho năm 1956: "Hội nghị tuyên bố rằng, riêng cho Việt Nam, việc dàn xếp những vấn đề chính trị trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập... cuộc bầu cử toàn quốc sẽ được tổ chức trong tháng bảy, 1956 dưới sự giám sát của một Ủy Ban Quốc tế... "

Cộng hòa miền Bắc đã đưa ra đề nghị với Diệm rằng các cuộc hội nghị tham khảo tiền bầu cử nên được tổ chức. Những lời đề ghị đã được chuyển đến trong tháng năm và tháng sáu, 1956, tháng bảy, 1957, tháng năm, 1958 và một lần nữa trong tháng bảy, 1959. Lời đề nghị là mọi chuyện nên được thương thảo giữa miền Bắc và Nam Việt Nam, trên cơ sở "những cuộc bầu cử phổ thông tự do bằng phiếu kín." Tất cả các đề nghị như vậy đều bị khước từ. Diệm từ chối để có cuộc bầu cử đã được ghi trong Điều 7 của Lời Tuyên Bố của Hiệp định Geneva. Hoa Kỳ hỗ trợ ông ta hết mình. Kết quả của việc từ chối như vậy đã đưa đến một cuộc nội chiến thảm khốc. Thượng nghị sĩ Mỹ Ernest Gruening, trong một diễn văn đọc tại Thượng Viện Hoa Kỳ ngày 9 tháng tư năm 1965, đã có điều này nói về nó. "Cuộc nội chiến ấy đã bắt đầu... khi chế độ Diệm – bởi sự thúc giục của chúng ta – đã từ chối thực hiện một điều khoản trong Hiệp định Geneva để tổ chức những cuộc bầu cử cho sự thống nhất của Việt Nam." Sự lên án của vị Thượng nghị sĩ này là chính xác. Tuy nhiên những gì ông ta đã không nói đầy đủ cho Thượng Viện, và như thế cho cả toàn dân Hoa Kỳ biết, thực tế là những thủ phạm chính chịu trách nhiệm đối với các vi phạm về lời cam kết đã không được đề cập đến. Lý do đơn giản là bọn họ vẫn còn tích cực, hoạt động đằng sau, trong các hành lang của một cuộc ngoại giao bí mật, vượt ngoài tầm với của chính phủ.

Nó không thể nào khác được, một khi cuộc ngoại giao bí mật là con đẻ tư duy của một Giáo Hội từng theo đuổi những mục tiêu ý thức hệ để rốt ráo phóng đại mình lên trong lĩnh vực tôn giáo. Do đó, cách tốt hơn để chỉ đạo các chính sách của mình là nó phải biến một trong những đại diện của mình thành một chính trị gia xão quyệt tàn nhẫn, kẻ dù không bao giờ được bầu ra bởi bất kỳ cử tri người Mỹ nào, vậy mà đã có thể gây ảnh hưởng nhiều hơn bất kỳ cá nhân nào trong Hạ Viện, Thượng Viện, hay ngay cả chính phủ Hoa Kỳ trong việc điều khiển nền ngoại giao của Mỹ. Tên của một người như vậy là Hồng Y Spellman.

Vì thế Hồng Y Spellman đã được đồng hóa với Cuộc Chiến Việt Nam sau khi ông ta đã xuất hiện công khai trước khi giấu mặt trong nhiều năm cho những hoạt động thúc đẩy, ông đã trở thành hình mẫu quen thuộc của chính cuộc chiến tranh đến độ cuối cùng cuộc chiến Việt Nam đã được dán nhãn hiệu Cuộc Chiến Spellman. Điều này không phải là một tính từ khinh miệt. Nó là mẫu mực bằng lời của một vấn đề cụ thể. Hồng Y Spellman, ban đầu là phương tiện riêng của chiến lược đôi Vatican-Mỹ, dần bắt đầu đại diện cho chính sách lược Công Giáo Mỹ. Để đạt được hiệu quả ông được ủy cho chức quyền tượng trưng. Ông ta là đại diện quân đội-tôn giáo của cả hai quyền lực Ca-tô và quân đội vì ông đại diện cả hai, nên được mang danh là Tổng Tuyên Úy của Quân Lực Hoa Kỳ. Ông luôn bay trong phi cơ quân sự của Mỹ, thường xuyên thăm viếng quân nhân Hoa Kỳ tại Việt Nam, và nhiều lần tuyên bố, với sự chấp thuận riêng của cả Pius XII và J.F. Dulles, rằng quân Mỹ tại Nam Việt Nam là: "lính của Chúa Kitô." Mà trong bối cảnh đó, đang là Hồng Y của Giáo Hội Công Giáo, có nghĩa là chiến sĩ của Giáo Hội Công Giáo.

Trong thời kỳ xung đột, trong khi phía Bắc đã cố gắng đạt được một số hình thức thỏa thuận với miền Nam, Vatican liền can thiệp hết lần này đến lần khác để ngăn chặn bất kỳ hình thức cảm thông nào giữa hai miền. Nó đã làm điều này qua việc sử dụng tôn giáo trắng trợn nhất. Chẳng hạn, trong kỳ Đại hội Mẹ Maria năm 1959 được tổ chức tại Sài Gòn, nó dâng toàn cõi Việt Nam cho Mẹ Đồng Trinh. Vụ hiến dâng đã được gợi hứng từ La-mã.

Điều này đã đóng kín vĩnh viễn bất kỳ khả năng hòa bình hợp tác giữa Bắc và Nam Việt Nam, sau khi hàng triệu dân Ca-tô đã tháo chạy, vụ dâng hiến toàn cõi Việt Nam cho Mẹ Đồng Trinh đã có những ẩn ý chính trị tệ hại nhất. Với họ nó có nghĩa một điều là: không hợp tác với miền Bắc. Năm kế tiếp, Vatican đã đi xa hơn nữa và ngay cả tiến một bước nghiêm trọng hơn. Đó là một nước cờ có tính toán, mà mặc dù bề ngoài thì có tính cách giáo vụ, nhưng vẫn có ẩn ý chính trị sâu xa nhất. Vào ngày 8 tháng Chạp năm 1960, Giáo hoàng đã thiết lập "một đẳng cấp mục vụ bình thường cho toàn cõi Việt Nam." Qua đó, ông đã làm thêm một bước gan lì hơn, ông đã tạo ra một giáo phận ở ngay thủ đô của Cộng sản Bắc Việt.

Điều thực hiện này không phải do Giáo hoàng Pope Pius XII, kẻ thù không đội trời chung với Cộng sản và là nhà thiết kế chiến lược tôn giáo-chính trị gốc cho Việt Nam, lúc đó đã qua đời vào năm 1958, mà lại do kẻ kế nhiệm là Giáo hoàng John XXIII, người khởi xướng chủ thuyết hợp nhất với Giáo Hội Ca-tô và thiện ý cho mọi người. Hậu ý Vatican xem toàn cõi Việt Nam không thể chia cắt, trong bối cảnh đó có nghĩa là miền Bắc phải được kết hợp với miền Nam, và được cai trị bởi một đứa con trai cưng của Giáo Hội.

Đúng mô tả thực tế phải là những đứa con trai, vì miền Nam Việt Nam bấy giờ đã trở thành lãnh địa chính trị của một gia đình, mà các thành viên đã chia chát đất đai và bộ máy chính quyến thành những phần trấn giữ để từ đó thiết đặt cái gông cùm Ca-tô lên một quần chúng không ưng thuận.  Tổng thống Diệm không phải chỉ là thủ lãnh chính thức của chính quyền, mà ông còn cầm đầu một băng đảng thân thuộc bao gồm những giáo dân Ca-tô hăng say khác thường, nắm giữ độc quyền các phủ bộ quan trọng nhất của chính quyền. Một người em, Ngô Đình Luyện, cai trị phần đất của người thiểu số Chăm, một người em khác Ngô Đình Cẩn, thống lãnh miền Trung Việt Nam, như là một sứ quân từ thành phố Huế - trung tâm của Phật Giáo. Một người anh, Ngô Đình Thục, làm tổng giám mục Ca-tô ở Thừa Thiên. Lại nữa người em khác Ngô Đình Nhu, một lãnh đạo công đoàn, nắm Phong trào Cần Lao nửa bí mật, và giam đốc sở mật vụ kinh khiếp. Vợ của y, Bà Nhu được biết đến như là Con Rồng Cái. Cha của y thị đã trở thành đại sứ Hoa Kỳ. Rồi lại có cả hàng loạt cháu trai cháu gái và những kẻ khác - tất cả đều là giáo dân Ca-tô cuồng tín. Ngoài ra còn có bạn bè, sĩ quan quân đội, các quan tòa, các quan chức dân sự, tất cả đều là giáo dân Ca-tô, hành động nhịp nhàng với Giáo Hội Công Giáo và mục tiêu của nó. Bởi thế, nhìn từ góc độ này, các động thái của Vatican đều đáng kể nhất trong các lĩnh vực tôn giáo và chính trị.

John F. Kennedy, tổng thống Ca-tô đầu tiên của Hoa Kỳ, khi còn là Thượng nghị sĩ, Kennedy là một thành phần của toán vận động hành lang Ca-tô, đã thúc đẩy cho việc dựng lên một tổng thống Ca-tô ở Nam Việt Nam. Từ đầu 1954-55 ông ta đã hô hào sự can thiệp quân sự để giúp Pháp chận đứng sự tiên quân của Cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Ông là công cụ trong việc đặt Ngô Đình Diệm vào chức Thủ tướng Chính phủ. Khi Kennedy trở thành Tổng thống, ông đã nhanh chóng leo thang sự dính líu quân sự của Mỹ trong việc hỗ trợ cho chế độ Ca-tô của Diệm. Về sau khi sự đàn áp Phật giáo đồ của Diệm bắt đầu bị dư luận thế giới lên án, Kennedy đã phải lựa chọn giữa việc hỗ trợ nỗ lực của Giáo hội mình hay thúc đẩy sự nghiệp chính trị của riêng mình. Ông đã phải chọn áp lực với Diệm làm giảm nhẹ việc đàn áp. Các tướng lãnh Phật tử của Diệm đã nhân cơ hội ám sát Diệm. Ba tuần sau đó Kennedy cũng ngã gục bi một viên đạn của kẻ sát thủ.

Điều này đã xảy ra như thế, không chỉ vì tình hình ở Việt Nam như một tổng thể, và ở miền Nam nói riêng, nhưng tương đương vì một sự cố không kém điều gỡ đã xảy ra đồng thời, ở ngay chính Hoa Kỳ. Chính phủ Kennedy đã kế nhiệm Tổng thống Eisenhower. Kennedy, nhà vận động và ủng hộ nồng nhiệt của Diệm, ra sức thúc đẩy chính sách mà ông đã hô hào khá lâu khi vẫn còn một Thượng nghị sĩ. Không phải là một sự ngẫu nhiên rằng ngay sau khi ông vào trong Nhà Trắng, Kennedy đã leo thang sự dính líu của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1961, 30 ngàn người Mỹ đã được gửi đến Việt Nam để tham chiến, và do đó gián tiếp giúp giáo dân Diệm và chế độ Ca-tô của ông ta. Một sự khác biệt quá xa từ vỏn vẹn 1000 cố vấn Mỹ đã được gửi đi một cách ngần ngại bởi kẻ tiền nhiệm, Eisenhower. Kết quả là ván bài " rủi ro hạn chế " của Tổng thống Eisenhower đã được đột ngột chuyển qua thành "cam kết vô giới hạn" bởi kẻ đở đầu giáo dân Diệm, Tổng thống Ca-tô Kennedy. Đó là khởi đầu của sự dính líu thảm khốc của Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam.

 

xem phiên bản Anh ngữ

Tác giả: Avro Manhattan

Người Dịch: Trần Thanh Lưu

Còn nữa: Chương 14 - Những Cuộc Đàn Áp Tôn Giáo và Những Cuộc Tự Thiêu

 


Trang Sách Nước Ngoài