(tiếp theo Lời Bạt)
Bạn tin Thánh
kinh là lời của Thượng đế, Jesus là con trai của Thượng Ðế và bạn tin rằng chỉ
những ai tin vào Jesus mới tìm được sự cứu rỗi sau khi chết đi. Là một người
Ki-tô giáo, bạn tin vào những tiền đề này không phải chỉ vì chúng làm cho bạn
cảm thấy tốt lành mà chính là vì bạn nghĩ rằng những tiền đề này đúng. Trước khi
tôi vạch ra những vấn nạn của các loại niềm tin này, tôi xin được minh xác rằng
có nhiều luận điểm mà tôi và quý bạn đồng ý. Thí dụ như, chúng mình đồng ý rằng
nếu như một trong hai chúng ta đúng, người kia ắt phải là sai. Cuốn Thánh kinh
hoặc chính là lời của Thượng đế hoặc không phải. Jesus là đấng mang đến cho con
người một con đường giải thoát duy nhất đúng (John 14:6) hoặc ông không phải là
một đấng như thế. Chúng ta đồng ý rằng để thành một người Ki-tô giáo chân chính
là phải tin tưởng một cách sâu sắc rằng tất cả các niềm tin khác là sai lầm. Nếu
Ki-tô giáo là đúng và tôi vẫn duy trì niềm tin riêng của tôi, thì tôi sẽ phải bị
đọa vào địa ngục khổ hình. Ghê gớm hơn, nếu tôi khuyến dụ người khác, và nhiều
người quanh tôi, chối từ ý tưởng thuần túy của Thượng đế, thì cả họ (những người
nghe theo tôi) sẽ sa vào “hỏa ngục đời đời” (Matthew 25:41). Nếu cái học thuyết
căn bản của Ki-tô là đúng, thì chính tôi đã làm hỏng đời mình trong một phương
cách thê thảm nhất có thể tưởng tượng ra được. Tôi phải nhận lấy sự tệ hại này
mà không hề được cảnh báo trước. Chính sự chối bỏ Ki-tô giáo công khai, liên tục
mà không gây cho mình một mảy may lo lắng nhỏ nào của tôi đã giúp bạn hiểu được
tôi đã coi những lý do khiến bạn trở nên một người Kitô giáo là không chính đáng
đến mức nào.
Dĩ nhiên, cũng
có những người Ki-tô giáo không đồng ý với cả hai chúng ta. Có những người Ki-tô
giáo nhìn nhận rằng những niềm tin khác cũng có các giá trị ngang nhau trong các
phương cách cứu rỗi con người. Có những người Ki-tô giáo không tin vào địa ngục
và sự sống lại của Jesus. Những người Ki-tô giáo này thường tự nhận mình như là
những người “Tự do tôn giáo” hay “Ôn hòa Tôn giáo”. Từ các góc nhìn của họ, cả
hai chúng ta đều hiểu sai về những ý nghĩa tạo nên một con người của đức tin.
Chúng ta được đảm bảo rằng, giữa những người vô thần và những người tôn giáo
chính thống có một khu vực bao la, đẹp đẽ mà những nhà tư tưởng thuộc Ki-tô giáo
đã lặng lẽ thám hiểm qua nhiều thế hệ. Ðức tin, theo những người tự do và những
người ôn hòa, là tình yêu thương, điều thần bí, có ý nghĩa và cùng chia xẻ. Quần
chúng tạo nên tôn giáo từ gấm vóc của đời sống chứ không phải chỉ từ những đức
tin thô thiển.
Tôi đã từng
viết ở một nơi khác về những vấn đề tôi nhìn ra từ những người tôn giáo tự do và
những người tôn giáo ôn hòa. Ở đây, chúng ta chỉ cần quan sát vấn đề đặt ra đơn
giản và cấp bách hơn là những điều mà những người tự do, ôn hoà tưởng. Thánh
kinh, chỉ là cuốn sách bình thường đã được viết nên bởi những người quá vãng,
hoặc không phải là như thế. Thiên chúa là đấng thiêng liêng, hoặc là ngược lại.
Nếu Thánh kinh là một cuốn sách thông thường và Thiên chúa là một con người
thông thường thì lịch sử thần học của Ki-tô giáo chỉ là câu chuyện của những nhà
mọt sách cùng phân tích một ảo tưởng chung. Nếu những tín điều cơ bản của Ki-tô
giáo là đúng, ắt phải có những ngạc nhiên không lay chuyển được từ những người
như chính tôi. Quý bạn hiểu được như thế. Tối thiểu có hơn một nửa dân chúng
châu Mỹ hiểu được như thế. Do đó, chúng ta hãy tự chân thật với chính mình rằng:
đến một lúc chín mùi, sẽ có một phe thật sự thắng cuộc tranh luận này và phía
bên kia thật sự phải thua.
NGHĨ XEM: Mỗi
người Hồi Giáo sùng tín đều có chung những lý lẽ như nhau về việc họ là nguời
Hồi Giáo, tương tự như những lý do chung mà quý bạn có về lý do vì sao bạn là
người Ki-tô giáo. Tuy rằng bạn không nhìn thấy sự thuyết phục của những lý lẽ
khác với mình. Kinh Koran lập đi lập lại rằng chính đấy mới là những lời toàn
thiện nhất của đấng tạo nên vũ trụ. Người Hồi Giáo tin tưởng mạnh mẽ vào điều
này như bạn tin tưởng vào chính giá trị của Thánh kinh vậy. Có rất nhiều áng văn
chương đã mô tả cuộc đời của Muhammad, theo quan niệm của Hồi Giáo, chứng minh
rằng ông ta mới là tiên tri của Thượng đế. Muhammad cũng đã đảm bảo với những
người tin theo mình rằng Jesus không phải là bậc thánh thần (Koran
5:71-75;19:30-38), và kẻ nào không tin vào điều ấy sẽ phải đọa vào địa ngục mãi
mãi. Người Hồi Giáo tin rằng ý kiến của Muhammad về sự việc này và các sự việc
khác là không thể sai lầm.
Tại sao quý
bạn lại không thể mất ngủ để băn khoăn về việc cải đạo qua Hồi Giáo? Bạn có thể
chứng minh Allah không phải là đấng Thượng đế thực hay không? Bạn có thể chứng
minh được việc không hề có chuyện thiên sứ Gabriel đến thăm Muhammad trong hầm
của ông ấy không? Dĩ nhiên là không. Vả lại, bạn cũng không cần phải chứng minh
những điều như thế để chối từ niềm tin của người Hồi Giáo như những điều tầm
phào. Trách nhiệm là của chính những người theo Hồi Giáo phải minh chứng cho giá
trị niềm tin của họ vào Thượng đế và Muhammad. Nhưng người Hồi Giáo đã không hề
chứng minh gì. Họ không thể làm được. Ðơn giản là những người Hồi Giáo đã không
viện dẫn được gì từ thực tại vốn không thể minh chứng được gì cho họ. Ðiều này
là một sự rõ ràng hiển nhiên cho những ai đã không để mình bị mê hoặc bởi những
tín điều của Hồi Giáo.
Sự thật là,
bạn rất hiểu tại sao phải trở nên một người vô thần trước các niềm tin của người
Hồi Giáo. Thế chẳng hóa ra người Hồi Giáo khờ khạo cả hay sao? Thế chẳng hoá ra
những ai tin rằng cuốn Koran là lời thực của đấng sáng tạo nên vạn vật là những
người đã không đọc cuốn Koran đàng hoàng? Thế chẳng hoá ra học thuyết của Hồi
giáo chính là một trỏ ngại cho sự truy tìm chân lý ? Ðúng, những điều này thật
là hiển nhiên. Quý bạn nên hiểu rằng phương cách mà quý bạn nhìn về Hồi giáo
cũng chính xác là cách người sùng tín Hồi giáo nhìn về Ki-tô giáo. Và đó cũng là
phương cách mà tôi nhìn về các tôn giáo khác.
Sự thâm
thúy của Thánh kinh
Bạn tin Thánh
kinh là một cội nguồn vô địch cho các điều tốt lành của nhân loại. Bạn tin rằng
Jesus đã giảng dạy về các phẩm hạnh yêu thương, bác ái và vị tha hay hơn tất cả
những bậc thầy hằng sống trên thế gian. Bạn tin rằng cuốn Thánh kinh là một cuốn
sách sâu sắc nhất từng có, và nội dung của cuốn sách này đã được thử thách bởi
thời gian rằng nó chắc chắn đã được sáng tạo một cách thiêng liêng. Tất cả những
niềm tin này là sai lầm.
Vấn đề của đạo
đức là các vấn đề về hạnh phúc và khổ đau. Ðó là lý do vì sao mà tôi và bạn
không hề có trách nhiệm đạo đức đối với loài sỏi đá. Vấn đề đạo đức được đặt ra
tùy thuộc vào mức độ mà các hành vi của chúng ta ảnh hưởng tốt hay xấu đến các
sinh loài khác. Ý niệm rằng Thánh kinh là một cẩm nang tốt nhất cho đạo đức thật
đáng kinh ngạc, nếu căn cứ vào nội dung của cuốn sách này. Phải công nhận rằng
những lời khuyên của Thượng đế cho các bậc phụ huynh rất là thẳng thắn : Khi nào
trẻ đi ra ngoài khuôn phép, cần phải đánh bằng roi. (Proverbs 13:24, 20:30 và
23:13-14). Nếu chúng dám cãi lại, ta cần giết bỏ chúng đi (Lecviticus 20:9,
Deuteronomy 21:18-21, Mark 7:9-13 và Matthew 15:4-7). Chúng ta cũng cần phải ném
đá cho chết những ai phạm tội theo dị giáo, ngoại tình, đồng tính luyến ái, làm
việc vào ngày Sabbath, thờ phượng những ảnh tượng, hành nghề phù thủy và một
loạt các tội ác tưởng tượng khác. Dưới đây chỉ là một thí dụ về sự thông thái
muôn đời của Thiên chúa:
Nếu anh em
của ngươi, con trai của mẹ ngươi, hay con trai, con gái của ngươi, người vợ ôm
ấp của ngươi, bạn thân như chính bản thân mình của ngươi, bí mật lén lút cám dỗ
ngươi mà nói rằng “ Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần chúa khác”,… ngươi không
được ưng thuận, nghe lời hay nhường bước chúng nó, không được thương hại chúng,
không được tha thứ chúng, không được dấu giếm bao che chúng mà phải giết chúng
đi. Tay ngươi phải là bàn tay đầu tiên trước tất cả mọi người khác để giết chúng
chết đi. Nó phải chết bởi vì đã tìm cách lôi kéo ngươi xa khỏi đất Ai cập, rời
khỏi cảnh nô lệ… Nếu ngươi nghe thấy, nơi một trong những thành mà Thiên chúa đã
ban cho ngươi để ở, rằng có những kẻ phát xuất từ các ngươi và lôi kéo dân cư mà
bảo rằng “Mình hãy đi thờ phụng những thần chúa khác” những thần, chúa mà ngươi
không được biết thì các ngươi phải điều tra, xem xét, tra hỏi kỹ lưỡng để chắc
rằng đã có điều đáng ghê tởm như thế từng được thực hiện giữa các người, thì
chắc chắn rằng ngươi phải đặt những cư dân ấy dưới lưỡi gươm, hủy diệt đến tận
cùng, tất cả mọi người trong thành cùng nhà cửa dinh thự.
DEUTERONOMY
13:6,8-15
Nhiều người
Ki-tô giáo tin rằng Jesus đã bị giết chết với tất cả sự dã man như thế này trong
sự tàn bạo nhất có thể tưởng tượng được để mang lại một học thuyết về tình yêu
thưong thuần khiết và thứ tha. Không, Jesus đã không làm như thế. Mà thực sự là,
theo một số đoạn ghi trong Tân Ước, người đọc có thể nhìn ra Jesus đã ca tụng
toàn bộ luật pháp của thời Cựu ước.
Thật sự, ta
bảo các ngươi, cho đến khi thiên đàng và trần thế tan biến đi, không một dấm
chấm nhỏ trong lề luật có thể đưọc bỏ qua cho đến khi mọi sự được hoàn tất. Ai
nương nhẹ dù một điều nhỏ nhất trong những điều răn ấy và dạy bảo người khác làm
như thế, sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong nước thiên đàng. Ai làm theo và dạy bảo
người khác làm theo sẽ được gọi là lớn lao trong nước thiên đàng. Vì, ta bảo
ngươi, nếu ngươi không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisees, các
ngươi sẽ chả bao giờ được vào nước thiên đàng
MATTHEW
5:1, 8-20
Các tông đồ
cũng đã thường xuyên nhắc lại chủ đề này (thí dụ, xem 2 Timothy 3:16-17). Dĩ
nhiên quả đúng là Jesus có từng nói đến những điều sâu sắc về yêu thương, lòng
nhân hậu và thứ tha. Khuôn vàng Thước ngọc thực là một lời giáo huấn tuyệt vời.
Nhưng trước Jesus hàng nhiều trăm năm, có vô số những bậc thầy (Zoroaster,
Buddha, Confucius, Epictetus…) từng mang đến những hướng dẫn tương tự và biết
bao văn, kinh bản từng luận bàn về tình yêu thương tự cảm hóa rõ ràng, rành mạch
hơn cuốn Kinh thánh, vốn lại còn bị nhơ nhớp bởi sự tán dương một cách khiêu dâm
về sự tàn bạo mà chúng ta có thể tìm thấy đầy suốt các cuốn sách tân và cựu ước.
Nếu bạn quan niệm Ki-tô giáo là sự diễn đạt trung thực và trong sạch nhất của
tình yêu thương và lòng bác ái thì chính là bạn đã không biết gì nhiều về các
tôn giáo khác trên thế giới.
Hãy lấy giáo
phái Jainism làm một ví dụ. Những người theo đạo Jains đã rao giảng một học
thuyết về sự bất bạo động tuyệt đối. Tuy người đạo Jains tin vào nhiều điều
không thể có về vũ trụ, nhưng họ không tin vào các thứ đã khiến gây ra những
ngọn lửa thiêu của các tòa dị giáo. Có thể bạn cho rằng tòa dị giáo là một loại
xuyên tạc tinh thần “chính trực” của Ki-tô giáo. Có thể là như thế thật. Tuy
nhiên, vấn đề ở chỗ là, sự rao giảng của Thánh kinh đã quá lộn xộn và tự mâu
thuẫn đến mức tạo nên việc người Ki-tô giáo đã sung sướng nướng sống những người
dị giáo suốt năm thế kỷ dài. Ðã khiến cả các bậc giáo phụ trong nhà thờ, như
thánh Augustine, thánh Thomas Aquinas đi đến kết luận rằng những người dị giáo
thật đáng bị hành hạ (Augustine) hay giết ngay đi (Aquinas). Martin Luther và
John Calvin đã bào chữa cho việc tàn sát hàng loạt những người dị giáo, kẻ bỏ
đạo và các mụ phù thủy. Dĩ nhiên, bạn cũng có quyền tự do giải thích Thánh kinh
theo cách khác – Song le, tưởng không có gì đáng ngạc nhiên hơn, khi hầu hết các
tư tưởng gia có uy tín trong lịch sử đức tin của bạn thất bại thì bạn lại đang
thành công trong nhận thức sâu sắc về những gì thực sự được rao giảng của Ki-tô
giáo. Dĩ nhiên, nhiều người Ki-tô giáo tin rằng một con người không hại ai như
Martin Luther King Jr. là một minh chứng sáng ngời cho tôn giáo của mình. Nhưng
chuyện này đã mang lại một vấn nạn lớn, bởi vì học thuyết của đạo Jainism chính
thực là một hướng dẫn khách quan tốt để trở nên một con người như Martin Luther
King Jr. hơn là học thuyết của Ki-tô giáo. Dù Martin Luther King Jr. tự nhận
chắc chắn mình là một người Ki-tô sùng kính, thực ra ông đã thủ đắc được lòng
tận tụy của mình đối với tư tưởng bất bạo động chính yếu từ những bài viết của
Mohandas K. Ghandhi. Năm 1959, ông còn đến Ấn độ để học hỏi những nguyên tắc
phản kháng bất bạo động trực tiếp từ các môn đệ của Ghandhi. Ghandhi, một người
Ấn độ giáo đã có học thuyết bất bạo đông từ đâu? Ngài đã tìm được từ người
Jains.
Nếu bạn nghĩ
rằng Jesus đã chỉ dạy các Khuôn vàng Thước ngọc và tình yêu thương hàng xóm láng
giềng mình thì bạn nên đọc Tân Ước. Ðặc biệt chú ý đến cái đạo đức hiển lộ khi
Jesus trở lại thế gian trong các vầng mây của ánh hào quang :
Thượng đế
đã cho thấy để trả lại đau buồn cho những ai gây cho ngươi buồn đau… Khi chúa
Jesus hiện ra trên thiên đàng với các thiên thần hùng mạnh trong ánh lửa đỏ, để
trừng trị, báo thù những kẻ không biết đến thiên chúa và những kẻ không tuân
phục lời phúc âm của chúa Jesus. Chúng sẽ phải chịu sự trừng phạt bằng sự hủy
diệt đời đời và gạt bỏ chúng ra khỏi sự hiện diện của chúa và ánh hào quang sức
mạnh của người…
2
THESSALONIANS 1:6-9
Nếu người
nào không tuân phục ta, y sẽ bị ném bỏ như một cành cây và khô héo đi; cà những
nhánh cây khô ấy sẽ bị gom lại, bỏ vào lò lửa mà thiêu đi.
JOHN 15:6
Nếu chỉ lấy
một nửa tính cách của Jesus thôi, ta có thể đánh giá được các hành vi của Thánh
Francis của Assisi hoặc Martin Luther King Jr., lấy nửa còn lại kia có thể thanh
minh được cho các tòa dị giáo. Ai tin rằng Thánh kinh đem lại những chỉ hướng
tốt nhất cho chúng ta về các vấn đề đạo đức chắc phải có những ý tưởng rất lạ
lùng, kỳ quặc, hoặc về đạo đức hoặc về sự hướng đạo.
ÐỂ TRUY CẬP
vào sự thâm thúy đạo đức của Thánh kinh, sẽ rất bổ ích nếu chúng ta xem xét đến
các câu hỏi về đạo đức đã từng được giải đáp vốn thỏa mãn nhiều người. Cả thế
giới văn minh ngày nay đồng ý rằng nô lệ là một điều đáng kinh tởm. Vậy, hãy xem
loại hướng dẫn đạo đức nào mà chúng ta có thể học được từ Thiên chúa của
Abraham? Tham khảo Thánh kinh, bạn sẽ tìm thấy rằng đấng tạo ra vũ trụ này thật
sự muốn chúng ta giữ nô lệ :
Ðối với các
nô lệ nam cũng như nữ mà các ngươi sẽ có: ngươi có thể mua
nô lệ nam,
nữ từ những nước lân bang chung quanh ngươi. Ngươi cũng có thể
mua từ
trong những kẻ lạ tạm trú cùng ngươi và từ gia đình của chúng đang ở cùng ngươi,
những kẻ có thể đã sinh ra trong cùng đất đai với ngươi, và chúng sẽ là tài sản
sở hữu của ngươi. Ngươi có thể để lại cho con trai ngươi, có thể thừa kế như một
tài sản vĩnh viễn của mình; các ngươi có thể tạo chúng thành nô lệ, nhưng trong
trong vòng đồng hữu dân Do thái ngươi không được thống trị hà khắc.
LEVITICUS
25:44-46
Cuốn Thánh
kinh cũng chỉ rõ rằng mọi người – khi có hội đủ một số điều kiện đúng đắn - đều
được tự do bán con gái của chính mình vào vòng nô lệ tình dục:
Khi một
người bán con gái của mình làm nữ nô, y thị không được đi ra ngoài như những kẻ
nô lệ nam. Nếu y thị không làm vừa lòng chủ, người đã chỉ định y cho chính mình,
thì người chủ này sẽ để cho y được chuộc; người chủ này không được bán y cho
người ngoại quốc, vì như thế là người ấy đã cư xử vô tín với y thị. Nếu người ấy
muốn dành y thị cho con trai mình, y sẽ cư xử với y thị như đối với con gái
mình. Nếu người ấy lấy thêm một người vợ khá, người ấy không được giảm đi lương
thực, y trang, và quyền làm vợ của người vợ trước. Và nếu người ấy không thực
hiện được ba điều trên, y thị có thể ra đi không phải trả lại tiền bạc gì.
EXODUS
21:7-11
Sự kiềm chế
duy nhất của Thiên chúa trong việc dạy dỗ về nô lệ là chúng ta không được đánh
đập nô lệ quá đáng đến nỗi hỏng mắt hoặc gãy răng họ (Exodus 21). Ðây quả thật
không phải là loại đạo đức sáng suốt vốn đưa đến sự cáo chung chế độ nô lệ ở
nước Mỹ.
Không có một
chỗ nào trong sách Tân ước cho thấy Jesus chống lại việc thực hành nô lệ. Thánh
Paul còn răn dạy các nô lệ phục vụ người chủ cho tốt, và phục vụ người chủ Ki-tô
giáo của họ tốt hơn thế:
Nô lệ, các
ngươi hãy tuân lời người chủ của ngươi trên thế gian với sự run sợ, trong toàn
tâm ý, như đối với Ki tô vậy …
EPHESIANS
6:5
Hãy để cho
chúng, những kẻ đang trong ách gông của nô lệ, trông đến người
chủ của
chúng bằng tất cả danh dự, để cho danh Chúa và những lời giảng dậy không bị phỉ
báng. Còn những kẻ đang có chủ là người tín hữu, thì đừng vì họ là người anh em
mà xem thường, đáng lẽ họ phải phục vụ chủ tốt hơn bởi vì họ phục vụ những tín
hữu và được yêu quý. Nếu ai dạy điều gì khác và không đồng ý với những lời lành
mạnh của Chúa Jesus và những giảng dạy phù hợp với lòng ngoan đạo, kẻ ấy vênh
váo kiêu căng, kẻ ấy không biết gì cả, kẻ ấy chỉ mang bệnh thích tranh luận và
cãi chữ nghĩa, khiến sanh ganh tị, bất đồng quan điểm, vu khống, nghi hoặc…
1 TIMOTHY
6:1-4
Những chương
đoạn này cho thấy rõ, trong khi những người theo chủ nghĩa bãi nô ở thế kỷ mười
chín đã có được một nền đạo đức đúng đắn, thì chính là họ đang ở vào phía thua
trong cuộc tranh luận thần học. Như đức cha Richard Fuller đã phát biểu năm 1845
“Những gì Thượng đế trừng phạt trong Cựu ước, để rồi lại cho phép trong Tân ước
thì không thể là tội lỗi”. Ðức cha lòng lành đang vững vàng quan điểm ở đây.
Không có gì trong thần học Ki-tô cứu chữa được những khiếm khuyết kinh khủng của
Thánh kinh về những vấn nạn đạo đức có lẽ lớn nhất- và dễ nhất- mà xã hội chúng
ta từng phải đối diện.
Ðể đáp trả,
người Ki-tô quý bạn thường chỉ ra rằng những người theo chủ thuyết bãi nô đã rút
ra được rất nhiều gợi ý từ Thánh kinh. Dĩ nhiên là họ đã rút ra được như vậy.
Quần chúng đã lựa lọc từ Thánh kinh trong nhiều thiên niên kỷ để biện minh cho
từng động cơ đạo đức hay vô đạo đức của họ. Tuy vậy, điều ấy không có nghĩa là
chấp nhận cuốn kinh thánh như lời của Thượng đế là phương cách tốt nhất để hiểu
ra rằng việc bắt cóc và nô lệ hóa hàng triệu con người, nam, nữ, trẻ em vô tội
là một sai lầm về đạo đức. Sự kiện những người chủ trương bãi nô đã xử dụng đến
một phần kinh thánh để chối từ đi các phần khác không cho thấy rằng cuốn Thánh
kinh là một chỉ đạo tốt cho đạo đức. Nó cũng không đề ra được rằng nhân loại cần
phải nên tham khảo một cuốn sách để mà giải quyết các vấn đề đạo đức các loại.
Cái khoảnh khắc mà một con người nhận ra rằng kẻ nô lệ cũng là một con người như
chính mình, có được cái năng lực như mình về hạnh phúc và khổ đau, người ấy ắt
phải hiểu ra rằng việc sở hữu nô lệ và coi họ như những nông cụ là một tội ác
hiển nhiên. Thật là hết sức dễ dàng cho một con người đi đến được sự tỉnh thức
này, nhưng trải dài suốt thời nội chiến nam bắc, và đối với nhiều người Ki-tô
giáo đạo đức giả mà đất nước này từng biết đến thì sự tỉnh thức đơn giản ấy đã
phải phổ biến bằng mũi dao găm nhọn .
MƯỜI ÐIỀU RĂN
của Chúa cũng là những điều đáng suy bàn trong nội dung này, khi mà dường như
như hầu hết người Mỹ đều cho rằng đó là những điều không thể thiếu được cả về
mặt pháp lý lẫn đạo đức. Trong khi hiến pháp Hoa kỳ không hề chứa đựng một đề
cập nào, và đã làm giảm giá trị của Thiên Chúa đi rất nhiều vào thời điểm soạn
thảo hiến pháp nhưng nhiều người Mỹ tin rằng đất nước họ đã xây dựng trên một
“nền tảng Judeo-Ki-tô giáo”. Lạ lùng thay, Mười điều răn của Chúa lại thường
được viện dẫn như những chứng cớ không thể chối cãi về sự việc này. Trong khi sự
thích ứng của chúng đối với lịch sử Hoa Kỳ còn là một điều đáng nghi ngờ thì sự
sùng kính của chúng ta đối với những điều răn không phải là chuyện tình cờ.
Những điều răn này, là những đoạn văn duy nhất trong kinh thánh, sâu sắc đến nỗi
đấng tạo dựng nên vũ trụ phải đích thân mình viết lên và chạm khắc vào đá cứng.
Như vậy, ai cũng tưởng rằng đấy là những dòng vĩ đại từng được viết ra, trên tất
cả mọi chủ đề, bằng bất kỳ ngôn ngữ nào. Những dòng ấy như thế này đây. Xin hãy
chuẩn bị đón nhận …
1. Ngươi
không được có chúa, cha nào khác trước ta.
2. Ngươi
không đươc tự tạo cho mình ảnh tượng thờ riêng.
3. Ngươi
không được mang, kêu tên Chúa ra trong sự vô nghĩa
4. Phải nhớ
ngày Sabbath, giữa ngày ấy được thiêng liêng.
5. Ngưoi
phải phụng thờ cha mẹ ngươi.
6. Ngươi
không được giết người.
7. Ngươi
không được ngoại tình.
8. Ngươi
không được ăn cắp.
9. Ngươi
không được làm chứng gian.
10. Ngươi
không được thèm muốn nhà cửa của người láng giềng, đầy tớ trai, gái, trâu, bò,
lừa, hoặc bất cứ cái gì của họ.
Bốn điều huấn
thị đầu chẳng có ăn nhập gì với đạo đức. Ðúng như nguyên văn, chúng có nghĩa
ngăn cấm việc đi theo bất kỳ tôn giáo nào khác (như Ấn độ giáo chẳng hạn), tất
cả các nghệ thuật tôn giáo khác, hoặc lầm bầm những câu như “God damn it!”, hoặc
làm những việc thông thường trong ngày Sabbath - đều đáng tội chết. Chúng
ta hẳn phải rất băn khoăn là làm sao mà những điều luật này có thể sống còn
trong khi duy trì nền văn minh.
Ðiều răn 5 đến
9 thật có hướng vào đạo đức, mặc dù nó thật đáng nên hỏi là bao nhiêu người từng
thực sự kính trọng cha mẹ, không sát nhân, ngoại tình, trộm cắp hoặc khai man
nhờ vào những lời răn này. Những khuyên răn đại loại như thế có thề tìm được hầu
như ở trong tất cả các nền văn hóa xuyên qua ghi chép của lịch sử. Chẳng có sự
thuyết phục đặc biệt gì hơn về sự trình bày của những điều này trong Thánh kinh.
Có nhiều nguyên nhân sinh học hiển nhiên cho thấy tại sao con người có khuynh
hướng cư xử tốt với cha mẹ mình và cho những hành vi sát nhân, ngoại tình,trộm
cắp, dối trá là những điều xấu. Ðó chính là một dữ kiện có tính khoa học- như
cảm giác về sự công bằng, oán ghét hoặc tàn nhẫn- đã có trước cả Thánh kinh.
Thật vậy, các nghiên cứu về tính cách cư xử của loài vượn người cho thấy rằng
những tình cảm này (trong một số dạng thức) tự chúng đã có trước nhân tính. Tất
cả các anh em họ hàng loài vượn người của chúng ta thường thương yêu họ hàng của
chúng hơn và thường không tha thứ cho việc giết hại và trộm cắp. Chúng cũng có
khuynh hướng không ưa sự lừa dối hay phản bội về dục tình lắm. Ðặc biệt, loài
vượn, hiển thị rất nhiều những quan tâm có tính xã hội phức tạp mà bạn mong muốn
nhìn thấy trong mối quan hệ ruột thịt của chúng ta trong đòi sống tự nhiên. Do
vậy, có lẽ rằng không có gì cho thấy rằng người Mỹ trung bình sẽ nhận được những
lời giáo huấn đạo đức này khi họ đọc được những ý niệm này chạm khắc trên đá khi
họ đến những tòa pháp đình. Và, chúng ta làm sao để hiểu được rằng, để đem luận
thuyết của mình vào được sân trong nhà thờ, đấng sáng tạo nên vũ trũ đã nghĩ
rằng không có những quan tâm con người nào thúc bách hơn, lâu bền hơn các việc
hoán chuyển tôi tớ và gia súc?
Nếu chúng ta
muốn nghĩ đến Thiên chúa từ cuốn thánh kinh một cách nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ
phải thừa nhận rằng Ngài chưa bao giờ cho chúng ta được quyền tự do tuân thủ
theo những điều răn nào chúng ta thích và lờ đi những điều còn lại. Người cũng
không nói rằng khi vi phạm giới răn chúng ta có thể được giảm nhẹ các hình phạt
mà Người đã đặt ra.
Nếu quý bạn
nghĩ rằng sẽ khó có thể tốt đẹp hơn được nếu không có Mười điều răn như một
khẳng định của đạo đức thì quý bạn nên cần phải đọc thêm nhiều kinh, sách khác.
Một lần nữa, bạn không phải nhìn đâu xa ngoài chủ thuyết của Jains: những nhà
sáng lập Jains đã vượt trội hơn cái đạo đức của Thánh kinh chỉ bằng một câu đơn
giản: “Không được gây thưong tích, quấy nhiễu, đàn áp, nô dịch hóa, lăng nhục,
gây đau đớn, hành hạ, hoặc giết hại bất kỳ sinh vật, sinh mạng nào.” Hãy thử
tưởng tượng thế giới của chúng ta sẽ khác đi như thế nào nếu như Thánh kinh đã
chứa đựng một nội dung như thế như là một lời giáo huấn chính. Nhân danh Thiên
chúa, Ki-tô giáo đã quấy nhiễu, đàn áp và giết hại quần chúng trong nhiều thế
kỷ, dựa trên căn bản của việc hiểu một cách bào chữa được bằng thần học từ cuốn
Thánh kinh. Trung thành với những nguyên tắc của chủ thuyết Jain thì không thể
hành xử như thế được. Vậy thì, làm sao quý bạn có thể tranh cãi rằng Thánh kinh
mang đến những khẳng định trong sáng nhất cho đạo đức như cả thế giới đã từng
thấy ?
Chân đạo
đức
Bạn cho rằng
nếu như cuốn thánh kinh không được coi là lời của Thiên chúa thì sẽ không có
được một tiêu chuẩn chung cho đạo đức. Nhưng chúng tôi có thể dễ dàng nghĩ ra
những cội nguồn khách quan của hệ thống đạo đức mà không hề cần đến sự hiện hữu
của đấng Thiên chúa để ban hành pháp luật. Bởi lẽ để có thể trở thành những chân
lý đạo đức khách quan đáng được biết đến, chỉ cần biết cái hạnh phúc trên thế
gian ấy đã đạt được bằng các phương cách tốt đẹp hay xấu xa.
Nếu như có một
thứ lề luật tâm lý nào có thể khống chế được hạnh phúc của con người thì kiến
thức của các luật lệ này đã có thể mang lại được căn bản lâu dài cho nền đạo đức
khách quan. Dù chúng ta chưa có được cái gọi là hiểu biết khoa học và cuối cùng
của đạo đức con người nhưng có lẽ không thể sai khi bảo rằng hãm hiếp và giết
hại láng giềng không thể là một trong những yếu tố chính của căn bản đạo đức ấy.
Tất cả những gì thuộc kinh nghiệm của con người đã chỉ ra rằng yêu thương dẫn
đến hạnh phúc nhiều hơn là oán ghét. Đây là một sự thật khách quan về tinh thần
con người, tính năng động của các mối quan hệ xã hội và về trật tự đạo đức của
thế giới chúng ta. Thất là hiển nhiên và rõ ràng để nói rằng Hitler đã sai lầm
về các phạm trù đạo đức mà không cần phải tham cứu vào kinh sách gì.
Trong khi yêu
thương kẻ khác chắc chắn là nguồn gốc lớn nhất cho hạnh phúc của chúng ta, chúng
còn dẫn đến mối quan tâm sâu xa đến hạnh phúc và khổ đau của người mình thương
yêu. Do vậy, sự kiếm tìm hạnh phúc của mình, mang lại nhân tố căn bản cho việc
hy sinh và quên mình. Không còn phải nghi ngờ gì nữa rằng, hết lòng hy sinh cho
sự tốt lành của tha nhân chính là yếu tố cần thiết để chính mình cảm thấy an vui
sâu sắc hơn. Ai cũng có thể thành tựu được những quan hệ như thế mà không cần
phải tin vào những bằng chứng vốn thiếu sót. Nhiều điểm trong sách Phúc âm,
Jesus rõ ràng bảo ban chúng ta rằng tình yêu thương có thể chuyển hóa đời sống
con người. Chúng ta không cần phải tin rằng người đã được sinh ra từ một trinh
nữ, hoặc người sẽ trở lại trần gian như một siêu nhân để thẩm thấu lời bảo ban
này của Người vào lòng mình.
Một trong
những ảnh hưởng nguy hại nhất của tôn giáo chính ở chỗ là tôn giáo có khuynh
hướng ly dị đạo đức khỏi thực tại đau khổ của con người và vạn vật. Tôn giáo cho
phép con người tưởng rằng các quan tâm của mình là đạo đức dù chúng thực không
phải như thế – có nghĩa là, chúng không hề có quan hệ gì đến sự an ủi và khổ
đau. Hơn nữa, tôn giáo còn cho phép con người tưởng rằng các quan tâm của mình
là đạo đức trong khi chúng thật sự là hết sức vô đạo đức- nghĩa là, khi việc bám
chặt vào những quan tâm ấy của họ đã gây nên những khổ đau kinh hoàng không cần
thiết lên nhân loại vô tội. Điều này giải thích lý do tại sao những Ki-tô hữu
như quý bạn đã dùng nhiều năng lực “đạo đức” để chống phá thai hơn là nạn diệt
chủng. Chính điều này giải thích nguyên nhân vì sao quý bạn quan tâm đến phôi
thai con người hơn là các triển vọng cứu người từ các khảo cứu về stem-cell. Và,
giải thích được lý do vì sao quý bạn cầu nguyện nhằm chống lại việc xử dụng bao
cao su ở ngoại ô Saharan Phi Châu dù hàng triệu người đang chết vì AIDS ở đấy
mỗi năm.
Quý bạn tin
rằng tôn giáo của mình quan tâm đến tình dục, với tất cả sự bao la buồn chán của
dục tình, có cái gì đó liên quan đến đạo đức. Thực tế, các nỗ lực ngăn chặn hành
vi tính dục của việc ngoại tình- ngay cả việc can ngăn con cái bạn không được
quan hệ thân xác trước hôn phối- cũng chưa từng bao giờ hướng đến việc giảm
thiểu đau khổ của con người. Thực tại còn cho thấy, việc giảm thiểu đau khổ của
con người đứng hàng khá thấp trong các ưu tiên của bạn. Trông có vẻ như ưu tiên
hàng đầu của bạn chính là về việc đấng tạo dựng ra vũ trụ bị mếch lòng về những
chuyện mà con người thực hiện trong khi trần truồng. Sự quan tâm với bộ tịch
đoan trang kiểu cách này của bạn đã đóng góp thường nhật vào nỗi khốn khổ của
nhân loại .
Thí dụ như,
thử nghĩ về bệnh dịch HPV (Human papillomavirus). Hiện nay HPV là căn bệnh dễ
lây lan nhất qua đường giao hợp ở nưóc Mỹ. Virus bệnh này lây nhiễm hơn nửa dân
số Hoa kỳ, gây tử vong cho hơn năm nghìn phụ nữ qua bệnh ung thư cổ tử cung; hơn
hai trăm ngàn người chết hàng năm theo ước tính của Trung tâm Kiểm soát Tật bệnh
(Center for Disease Control). Hiện nay, chúng ta có thuốc chủng ngừa bệnh HPV
hiệu quả và an toàn. Hơn sáu ngàn phụ nữ qua vòng thí nghiệm dùng thử đã cho kết
quả miễn nhiễm đến 100%. Thế nhưng, những người Ki-tô giáo bảo thủ trong chính
phủ của chúng ta đã phản đối chương trình chủng ngừa với lập luận rằng HPV là
một ngăn cản có giá trị cho việc liên hệ xác thịt trước hôn nhân. Quý ông bà đạo
đức giả này muốn bảo quản bệnh ung thư cổ tử cung để thúc đẩy việc kiêng cữ,
ngay cả có phải hy sinh đến mạng sống của hàng ngàn phụ nữ hàng năm.
Không có gì là
sai trái khi khuyến bảo các cô gái mới lớn nên tránh đừng quan hệ tình dục.
Nhưng chúng ta biết rõ và không còn nghi ngờ gì nữa rằng chỉ dạy dỗ việc kiêng
cữ không thôi thì không đủ để ngăn ngừa việc thiếu niên có thai, hoặc ngăn chặn
các bệnh lây lan qua đường giao hợp. Thực tế là, những thiếu niên vốn chỉ được
dạy dỗ sự kiêng cữ thuần túy đã trở nên ít hiểu biết đến việc xữ dụng thuốc ngừa
thai khi chúng thực muốn quan hệ xác thịt, như nhiều thiếu niên đã không thể
tránh khỏi. Một nghiên cứu đã cho thấy rằng trung bình, thiếu nữ “nguyện giữ
trinh tiết” đã giữ được việc giao tiếp thân xác thêm mười tám tháng – trong thời
gian đó, các thiếu nữ trinh tiết này có nhiều khả năng tham dự vào các gần gũi
thân xác qua miệng và hậu môn hơn các thiếu nữ khác. Thiếu nữ vị thành niên ở Mỹ
tham dự vào tình dục cũng nhiều như các thiếu nữ vị thành niên ở các nước phát
triển khác, nhưng các thiếu nữ Mỹ có nhiều khả năng mang bầu, sinh con hoặc phá
thai nhiều hơn. Giới trẽ Mỹ nhiễm HIV và các bệnh lây lan qua tình dục nhiều
hơn. Giới thiếu niên ở Mỹ có tỉ lệ bệnh lậu bảy lần nhiều hơn đối với các thiếu
niên ở Netherland và Pháp. Chắc chắn những việc này có liên quan đến việc 30
phần trăm chương trình giáo dục giới tính của chúng ta chỉ dậy dỗ sự kiêng cữ
xuông không thôi.
Vấn để không
phải ở chỗ là vì những người Ki-tô như bạn không đặt nặng quan tâm đến sự việc
thiếu niên mang thai sớm và sự truyền nhiễm lây bệnh. Vấn đề ở chỗ là bạn không
lo lắng đến những khổ đau gây ra bởi tình dục mà bạn lo lắng về chính tình dục.
Nếu như sự kiện này cần thêm bằng chứng: Reginald Finger, một nhà truyền giáo,
thành viên của Uỷ ban cố vấn CDC về Thực hiện chủng ngừa, gần đây đã thông báo
rằng ông có thể tính đến việc chống lại chủng ngừa HIV – nghĩa là kết án tử đến
hàng triệu người lẽ ra không phải chết hàng năm vì bệnh AIDS - bởi vì một loại
chủng ngừa như thế sẽ khuyến khích các quan hệ giao hợp truớc hôn nhân vì đã làm
cho chúng trở nên bớt nguy hại. Ðây là một trong nhiều quan điểm mà niềm tin tôn
giáo của bạn đã trở thành sự giết người chân thật.
Nỗi băn khoăn
của các bạn về việc nghiên cứu phát triển tế bào phôi thai là một sự bẩn thỉu
tương tự. Đây là những sự thật: nghiên cứu về tế bào phôi thai là một trong
những phát triển hứa hẹn nhất trong thế kỷ vừa qua về y học. Nghiên cứu này mang
lại bước đột phá trong việc điều trị nhiều chứng bệnh hoặc thương tích mà nhân
loại đang phải chịu đựng- bởi lý do đơn giản là tế bào phôi tủy sống có thể trở
thành bất kỳ cơ phận nào trong cơ thể con người. Nghiên cứu này còn là một yếu
tố cần thiết cho hiểu biết của chúng ta về bệnh ung thư, song song với những rối
loạn của sự phát triển đa dạng. Dựa vào những thực tế này, thật là không thể có
được sự thổng phồng cường điệu quá đáng về các hứa hẹn của việc nghiên cứu tế
bào phôi thai tủy sống. Dĩ nhiên, đúng là sự nghiên cứu như thế này đã dẫn đến
việc hủy hoại các tế bào ba ngày tuổi của con người. Đây chính là điều làm quý
vị lo lắng.
Chúng ta hãy
nhìn vào các chi tiết. Một cái thai con người được ba ngày tuổi là một tập hợp
của 150 tế bào được gọi là một blastocyst. Để tiện so sánh, có hơn 100.000 tế
bào trong não bộ của một con ruồi. Cái phôi thai con người được ba ngày tuổi bị
hủy diệt trong các nghiên cứu chưa hề có não bộ hoặc ngay cả chưa có tủy. Thành
ra, không có lý do gì để có thể tin rằng chúng có thể đau đớn vì bị huỷ diệt. Ở
đây, trong phân tích này, cũng thích đáng để nhớ rằng khi não bộ của một con
người bị chết, hiện nay chúng ta cho rằng có thể giữ lại, xử dụng được các cơ
phận của người ấy (nếu như người ấy đã đồng ý cống hiến) và chôn kẻ ấy đi. Do
đó, nếu cư xử với một con người có não bộ đã chết bằng một cung cách không như
một người đang sống có thể chấp nhận được thì chúng ta cũng có thể đối xử với
một blastocyst như thế. Nếu bạn lo lắng về những đau đớn trong vũ trụ này thì
chỉ việc giết một con ruồi có thể khiến bạn vi phạm đạo đức hơn là giết hại một
blastocyst.
Có thể bạn cho
rằng, cái khác biệt chính yếu giữa con ruồi và cái phôi thai người là ở sự việc
cái phôi thai có thể mang tiềm năng phát triển đầy đủ để thành một con người.
Thế nhưng, hầu như tế bào nào trong cơ thể của bạn cũng là một tiềm năng con
người nếu như ta nhìn vào những nghiên cứu gần đây về kỹ thuật gen. Mỗi khi gãi
mũi, bạn đã phạm tội diệt chủng đối với các tiềm năng con người. Đây là một sự
thực. Cuộc tranh cãi về tiềm năng của tế bào dứt khoát sẽ không đi đến đâu.
Nhưng ngay lúc
này, chúng ta hãy thử thừa nhận rằng, mỗi phôi thai ba ngày tuổi có một linh hồn
xứng đáng cho mối quan tâm đạo đức của chúng ta. Phôi thai ở thời kỳ này, đôi
khi có thể chia ra, trở thành hai con con người (sinh đôi giống nhau). Thế có
ngĩa là một linh hồn chia ra làm hai linh hồn hay sao ? Hai phôi thai đôi khi
nối thành một, gọi là chimera. Có thể bạn hay người quen biết nào đó đã phát
triển từ phương cách này. Không ngạc nhiên tại sao cho đến hiện nay, các nhà
thần học vẫn còn vất vả để xác định xem cái gì đã trở thành một linh hồn nữa
trong trường hợp như vậy.
Có phải đã đến
lúc để chúng ta nhận ra rằng các bài toán để tính linh hồn này thực chẳng có ý
nghĩa gì nữa không? Ý tưởng ngây thơ về linh hồn như trong trường hợp đĩa Peril
không thể bào chữa được gì nữa về tri thức. Nó cũng không thể bào chữa được gì
về mặt đạo đức khi mà ngày nay ý tưởng ngây thơ này đang đứng giữa con đường
phát triển của những nghiên cứu hứa hẹn nhất trong lịch sử y học. Ngay vào thời
điểm này, những niềm tin vào linh hồn của các bạn chỉ kéo dài thêm những thảm
kịch khốn khổ của hàng triệu triệu con người.
Bạn tin rằng
“sự sống bắt đầu ngay từ lúc thụ thai”. Bạn tin rằng có những linh hồn trong mỗi
một phôi thai này và tin rằng các quyền lợi của một linh hồn- linh hồn của một
bé gái đã bị phỏng hơn 75% thân thể - nghĩa là – không thể tráo với các quyền
lợi của một linh hồn khác, ngay cả linh hồn ấy tình cờ đang sống bên trong một
cái đĩa Peril. Chấp nhận những điều chỉnh mà chúng ta đã thực hiện về những căn
bản đức tin phi lý trong những bài luận thuyết trước công chúng của chúng ta,
ngay cả từ những người ủng hộ nghiên cứu về stem-cell, đã thưòng chỉ ra rằng vai
trò của bạn trong vấn đề này có vấn đề đối với luật pháp về đạo đức. Nói đúng
nhất, sự phản đối của bạn về các nghiên cứu stem-cell chính là sự dốt nát, thiếu
học. Thực tế, không có nguyên nhân đạo đức nào cho sự thiếu thiện chí của chính
phủ liên bang chúng ta trong việc tài trợ các nghiên cứu này. Chúng ta cần đổ ra
nhiều tài nguyên vào việc nghiên cứu stem-cell và chúng ta cần phải hành động
ngay. Bởi vì những gì người Ki-tô các bạn tin về linh hồn mà các bạn không chịu
làm việc này. Thực tế, có nhiều tiểu bang còn coi công việc đó là bất hợp pháp.
Thí dụ như nếu ai thực hiện một cuộc thí nghiệm về phôi thai ở tiểu bang South
Dakota, người ấy sẽ phải vào tù.
Ở đây, sự thật
đạo đức rất rõ ràng: bất kỳ ai thương cảm cho một cái phôi thai đã thực có một
cảm quan đạo đức bị mù lòa bởi các ảo tưởng tôn giáo để vứt bỏ đi quyền sống của
một đứa trẻ bị tổn thương cột sống. Mối dính giữa tôn giáo và “đạo đức”- cái rất
thường được công bố nhưng rất ít được chứng minh- thì thật là tương phản ở đây,
như nó vẫn luôn được làm ngược lại như thế mỗi khi tôn giáo vứt bỏ đi cái lẽ
phải đạo đức và tình bác ái.
(xem tiếp đoạn kế: Làm tốt vì Thiên Chúa)