(tiếp theo Chú Thích Gửi Độc Giả)
LỜI BẠT CHO ẤN BẢN CỦA VINTAGE BOOKS
NHÂN LOẠI đã
từng có thời gian dài hoang tưởng với sự hiến máu tế. Thực vậy, không có gì bất
thường cả trong việc một đứa trẻ sinh ra trong thế gian này để chỉ được thương
yêu và kiên trì dạy dỗ nuôi lớn từ những kẻ cuồng đạo, những kẻ tin rằng cách
tốt nhất để giữ mặt trời ở yên trong vòng quay hay để bảo đảm một vụ mùa sung
túc là âu yếm dắt đứa trẻ ra đồng hoặc lên núi để giết, chôn vùi hoặc thiêu sống
nó như một dâng hiến cho Thiên chúa vô hình. Vô số trẻ em đã bất hạnh sinh ra
trong thời kỳ quá đen tối, khi ngu dốt và hoang tưởng không thể tách bạch trong
kiến thức và khi tiếng trống của những kẻ cuồng tín tôn giáo thúc lên ăn khớp
với mỗi nhịp tim con người. Thực tế, hầu như không nền văn hóa nào đưọc miễn trừ
bởi loài quỷ này : người Sumerians, Phoenicans, Ai Cập, Do thái cổ, Canaaties,
Maya, Inca, Aztecs, Olmecs, Hy Lạp, Romans, Carthaginians, Teutons, Celts,
Druids, Vikings, Gauls, Hindus, Thái Lai, Tàu, Nhật bản, Maoris, Melanesians,
Tahitians, Hawaiians, Balinese, Thổ dân Úc, Iroquois, Huron, Cherokee và vô số
không đếm xuể những xã hội giết người đồng loại cho những lễ nghi tôn giáo vì họ
tin vào những nam nữ thánh vô hình thích ăn thịt người sống, để có thể nguôi
giận. Thực tế, nhiều nạn nhân của họ vốn có đồng quan điểm đã tự nguyện để bị
giết hại, hoàn toàn bị thuyết phục rằng cái chết của họ có thể thay đổi khí hậu,
hoặc cứu sống nhà vua khỏi các bệnh sinh dục, hoặc để xin tha cho đồng loại khỏi
các cơn giận của những đấng khuất mặt trong một số trường hợp khác.
Trong nhiều xã
hội, mỗi khi xây một tòa cao ốc, người ta đã từng nghĩ rằng cách khôn
ngoan duy nhất là làm thổ công nguôi giận bằng cách chôn sống trẻ con ngay dưới
bệ móng (đây chắc là cách thực hành đức tin ở những thế gian không có kỹ sư về
cấu trúc). Nhiều xã hội còn hy sinh các trinh nữ để ngăn ngừa lụt lội. Một số
nơi khác lại giết con so và ăn cả thịt chúng nữa, như là một phương cách để bảo
đảm người mẹ được mắn đẻ. Ở Ấn độ, trẻ thơ sống nhăn bị cúng hiến cho cá mập ở
cửa Grange cũng vì những mục đích này. Người Ấn độ thiêu sống các phụ nữ góa để
họ có thể đi theo chồng về thế giới bên kia. Và không để cái gì rơi vào may rủi,
người Ấn còn gieo xuống đồng ruộng mình thịt đàn ông tươi sống của một số đẳng
cấp được đặc biệt nuôi lớn cho mục đích này và chặt tay chân khi họ vẫn còn sống
nhăn, để bảo đảm rằng mọi vụ gặt turmenic sẽ được thắm đỏ đúng mức. Nước Anh đã
phải thực sự gây áp lực mạnh nhằm chấm dứt những hung bạo giả đạo đức này.
Trong một số
nền văn hóa, mỗi khi có ai đáng kính trọng qua đời, nhiều người đàn ông, đàn bà
khác ttụ nguyện được chôn sống theo để phục vụ như những kẻ hầu cận cho đấng quá
cố ấy trong thế giới bên kia. Ở Rome thời cổ đại, trẻ con đôi khi bị giết đi để
người ta có thể đọc được tương lai trong ruột chúng. Một số người phi thường
Fijian đã sáng tạo ra một kiểu lễ ban phước rất quyền lực gọi là “Vakatoga”,
nghi lễ này cần một nạn nhân tự chứng kiến tứ chi của một mình bị chặt ra cho kẻ
khác ăn sống. Trong những giống người Iroquois, các tù binh bị bắt trong chinh
chiến thường được cho phép sống trong bộ lạc trong nhiều năm, ngay cả đưọc phép
cưói vợ, tất cả đã bị kết tội chết bằng cách lột da sống để làm lễ vật cúng cho
thần chiến tranh, các con trẻ mà họ sinh sản cũng bị giết hết theo trong lễ cúng
tế. Một số bộ lạc Phi châu có một lịch sử lâu dài về việc giết người để gửi đi
như một người đưa tin trong cuộc đối thoại một chiều với tổ tiên của họ hoặc đề
cải biến các bộ phận cơ thể của họ thành các loại bùa mê. Các loại giết người để
cúng tế như thế này vẫn còn ở nhiều xã hội Phi châu cho đến ngày nay. (1)
Thật rất cần
yếu để nhận ra rằng những lạm dụng mạng sống con người một cách ghê gớm đó là rõ
ràng từ tôn giáo. Chúng là sản phẩm của điều người ta nghĩ mình hiểu biết về các
nam nữ thần vô hình, và cái hiển nhiên không hề hay biết về sinh học, khí tượng
học, y học, vật lý học, và hàng tá các khoa học khác. Và đó là sự dạng chân của
loại lịch sử hung bạo tôn giáo đáng khinh và loại ngu dốt khoa học mà Ki tô giáo
vẫn đang có giá trị như một sự sùng bái vô ý thức và đáng khinh tởm. Ý niệm rằng
Jesus Christ đã chết vì tội lỗi của chúng ta và cái chết của người đã thành công
trong việc làm nguôi lòng Thiên Chúa “nhân từ” là sự thừa kế trực tiếp không che
dấu của những đổ máu mê tín dị đoan nhiễm dịch bệnh vào con người hoang mang dọc
suốt lịch sử.
Thiên chúa của
Abraham, dĩ nhiên không phải là người xa lạ đối với những sự giết hại để tế lễ.
Có khi, Người kết án việc tế thần ( Deuteronomy 12:31; Jeremiah 19:4; Ezekiel
16:20-21), ở những lúc khác, Người lại yêu cầu hoặc ban thưởng việc ấy ( Exodus
22:29-30; Judges 11:29-40; 1 Kings 13:1-2; 2 Kings 3:27; 2 Kings 23:20-25;
Numbers 31:40; Deuteronomy 13:13-19). Trong trường hợp Abraham, Thiên chúa đòi
ông phải hy sinh đến cả Issac, con trai của mình nhưng Ngài đã dừng tay giết vào
phút cuối (Genesis 22:1-18) mà không hề xem hành vi giết hại chính con của kẻ
khác là vô đạo đức. Ở những chỗ khác, Thượng đế thú nhận xúi dục sự hy sinh trẻ
con để làm ô uế người thực hành (Ezekiel 20:26) trong khi chính tự Người lại
hành động như thế trong việc giết hại các con so của người Ai Cập (Exodus 11:5).
Nghi thức cắt da quy đầu nảy sinh như một sự thay thế cho việc hiến tế trẻ con
(Exodus 4:24-26), và Thiên chúa dường như thường khuyến khích việc thay thế súc
vật cho con người. Thực thế, sự khát máu súc vật của Người cũng như sự chú tâm
của Người đến các tinh vi của việc giết hại và huỷ diệt chúng thì thật không còn
có thể phóng đại vào đâu được nữa.
Khi gặp Jesus
lần đầu, Thánh John, nghe đồn đã nói rằng “Ðây là chiên của Thiên chúa, Ðấng sẽ
xóa đi tội lỗi của thế gian” (John 1:29). Ðối với hầu hết người Ki-tô giáo, ý
kiến kỳ quặc này vẫn còn có giá trị và duy trì như cốt lõi đức tin của họ. Ðạo
Ki-tô gần như đồng nghĩa với sự xác định rằng sự đóng đinh của Jesus đại diện
cho những giọt máu cuối cùng và đủ để dâng lên Thiên chúa, Người dứt khoát cần
phải được như thế ( Hebrews 9:22-28). Ðạo Ki-tô chung qui là lời xác định rằng
chúng ta phải yêu thương và được yêu thương bởi một Thiên chúa vốn chấp nhận
việc tế chuộc, hành hạ và giết hại một con người-chính là con trai của Thiên
chúa - để đền bù cho những cư xử sai lầm, bị xem là tội lỗi của tất cả những
người khác.
Hãy để những
tin tốt lành được hiển lộ: chúng ta sống trong một vũ trụ, một cõi bao la đến
mức chúng ta chắc chắn không thể hình dung, ngay cả sơ sài trong tư tưởng chúng
ta, trên một hành tinh tràn ngập các sinh vật mà chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu
chúng thế nhưng cả một công trình đã đạt đến thành quả huy hoàng từ hai mươi thế
kỷ trước đó, sau khi một sinh vật linh trưởng (của chính chúng ta) leo xuống
khỏi những rừng cây, sáng tạo ra nông nghiệp và các dụng cụ bằng kim loại,
thoáng thấy (như thể qua lớp kính mờ tối), khả năng giữ cho phân của mình khỏi
vương vào thức ăn, rồi lựa ra một con trong số đó để đánh đập tàn bạo xong đóng
đinh lên một cây thập tự.
Phép linh Mình
Thánh Chúa, một biểu tượng của tục ăn thịt người đã được thêm thắt vào thần
thoại khốn khổ chung quanh cái chết của một con người bị hành hạ - khổ hình của
Chúa- Xin lỗi bạn, tôi dùng chữ “biểu tưọng “. Vì theo Vatican phép Mình Thánh
Chúa dứt khoát không phải là một biểu tượng. Thực thế, phán quyết của công đồng
Trent vẫn còn hiệu lực như sau :
Tôi cũng
công bố rằng trong Thánh lễ, một sự hy sinh thực sự đúng đắn làm
nguôi giận
đã dâng lên Thiên chúa thay cho những người sống và kẻ chết, và
rằng thân
xác cùng máu huyết cùng linh hồn và thần thánh của chúa Jesus
chúng ta đã
thực sự, đúng như thế chứ không hề tưởng tưọng đã dâng hiến
trong một
sự thiêng liêng nhất của phép Mình thánh chúa, và phép ấy mang ý
nghĩa một
sự hoán đổi của chất bánh mì thành thân xác, và toàn thể rượu đỏ
thành máu,
và sự này nhà thờ công giáo gọi là sự hóa thể. Tôi cũng công bố
rằng tất cả
và toàn bộ Chúa Jesus cùng bánh và rượu lễ đã được tiếp
nhận trong
từng hình dạng riêng.
Lẽ tất nhiên,
Công giáo đã thực hiện một số lý thuyết rất tích cực và rất không thuyết phục về
lãnh vực này, trong nỗ lực hợp lý hòa sự việc làm thế nào mà họ có thể thực sự
ăn được thịt của Jesus, chứ không phải chỉ là bánh chùm trong chiếc áo ẩn dụ, và
thực đã uống máu của ông ấy mà không phải là một giáo phái ăn thịt người. Tuy
vậy, cũng đủ để cho rằng, cái thế giới quan của hình dung rõ nét về “sự hy sinh
làm nguôi giận thay cho người sống và kẻ chết” đang khó bảo vệ được vào năm
2007. Nhưng điều này vẫn không hề ngăn cản được những bậc trí thức khác và những
người có chủ ý trong việc bảo vệ thế giới quan ấy.
Ngày nay,
chúng ta được biết rằng ngay cả mẹ Theresa, nhân vật tiểu biểu nổi tiếng nhất
của chủ nghĩa giáo điều này trong suốt thế kỷ, đã không ngừng hoài nghi về sự
hiện diện của Chúa, của thiên đàng và ngay cả sự hiện hữu của thượng đế như
trong phép Mình thánh Chúa :
Lạy chúa,
con là ai mà Người nên tha thứ cho? Đấng con của người – mà giờ
đây đang
trở nên kẻ bị ghét bỏ nhất – duy nhất – Người đã ném bỏ đi như kẻ
không cần
đến nữa, không yêu thương nữa – Con gọi, con bám víu, con cầu
cạnh –
nhưng không có Ai đáp lời – Không một Ai trong những Người con
con bám víu
– không, Không đấng nào. Cô độc … đức tin của con ở đâu rồi
– ngay cả
nơi sâu thẳm dưới kia cũng không có gì ngoài bóng tối và rỗng
không –
Chúa ơi - thật đau đớn làm sao cho nỗi đau chưa từng biết đến này –
con không
còn Đức tin – con không dám thốt ra những lời nói và ý tưỏng
đang tràn
ngập lòng mình – và khiến con đau đớn một nỗi đau không hề được
chỉ dạy.
Biết bao
nhiêu tra vấn không được giải đáp sống bên trong e rằng sẽ phải bày
tỏ ra ngoài
– bởi vì sự báng bổ - Nếu như có Thượng đế - xin hãy tha thứ cho
con – Khi
con muốn dâng ý nghĩ của mình đến Thiên đàng - chỉ có sự trống
không như
kết án dội lại như dao nhọn làm đau đớn chính linh hồn con. – Con
được dạy
rằng Thiên chúa thương yêu mình – nhưng sao thực tại lạnh lẽo
trống không
quá lớn đến nỗi không còn gì chạm đến linh hồn con được. Có
phải con đã
nhầm lẫn khi mù lòa quy phục vào lời gọi của đấng thiêng liêng
hay không?
(Xưng tội
lên chúa Jesus theo đề nghị của một cha giải tội-
không ghi
ngày tháng)
Những thư từ
của Mẹ Theresa được xuất bản gần đây đã tiết lộ một tâm hồn bị xé nát bởi hoài
nghi (như vốn phải là như thế). Những lá thư cũng lộ ra một người phụ nữ chắc
chắn đã khổ đau từ những chán nản cùng cực, mặc dù giới phê bình thế tục đã bắt
đầu lịch sự che đậy sự thực này trong màu sắc thánh thần và tử đạo. Câu trả lời
của Mẹ Theresa cho nỗi hoang mang và giả đạo đức (ý của bà) của chính mình đã hé
lộ ra đức tin tôn giáo giống như một vùng cát lầy lún như thế nào. Những hoài
nghi của bà về hiện hữu của Thiên chúa được diễn dịch từ người bà xưng tội như
dấu hiệu rằng bà đang chia xẻ nỗi giằng xé của Chúa trên thập giá; sự tán dương
này về dao động đức tin của bà đã cho phép bà “được yêu bóng tối” mà bà chứng
nghiệm về sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên chúa. Đó là một thiên tài không thể
giả mạo được. Chúng ta có thể nhìn thấy nguyên tắc tương tự trong hàng ngũ những
người Công giáo như bà. Các hoài nghi của mẹ Theresa đã chỉ làm tăng thêm tầm
vóc của bà dưới mắt Giáo Hội, được diễn giải như một khẳng định hơn nữa về ơn
huệ của Thiên chúa. Hãy tự hỏi chính bạn, khi ngay cả những hoài nghi của các
bậc chuyên gia được mang ra để xác định một chủ thuyết, thì còn có thể phủ định
cái gì được nữa ?
Đã hơn một năm
trôi qua kể từ khi Thư gửi một quốc gia Ki tô giáo được xuất bản,
cuốn sách vẫn còn gây ra những nóng giận. Nhiều lời chỉ trích nhằm vào cuốn sách
này đã được gom cùng với các công kích về cuốn đầu tiên của tôi, Tận Cùng
của Ðức Tin, và vào những người vô thần khác có các tác phẩm bán chạy,
đặc biệt là cuốn Breaking the Spell của Dan Dennett, cuốn The God Delusion
của Richard Dawkins và cuốn God is not Great của Christopher Hitchens. Thực
tế, tôi, Dennett, Dawkins và Hitchens đã thường xuyên bị tấn công như thể chúng
tôi là một người có bốn đầu. Những lời kết án và tranh luận chống lại chúng tôi
luôn luôn giống nhau và luôn luôn sai trật. Thật thế, cái ngạc nhiên nhất của sự
tranh luận về đức tin là sự ít ngạc nhiên của nó.
Vấn đề với tôn
giáo ôn hòa
Bất cứ khi nào
những người không tin đạo giáo như cá nhân tôi phê bình người Ki-tô giáo về việc
tin vào sự sắp trở lại của Chúa, hay người Hồi giáo về việc tin vào sự tử vì
đạo, thì những người ôn hòa công bố rằng chúng tôi xuyên tạc Ki-tô giáo và Hồi
giáo, mang những “người cực đoan” ra để đại diện cho những tôn giáo “vĩ đại”
này, hoặc không nhìn được cả một đại dương lung linh sắc màu. Chúng tôi luôn
luôn được bảo rằng sự hiểu biết chín chắn về đức tin từ thánh kinh tuyệt đối phù
hợp với lẽ phải, do đó, sự công kích tôn giáo của chúng tôi là sự “đơn giản
hóa”, “ giáo điều” và, ngay cả “ Chính thống”.
Nhưng quả có
một số vấn đề với lối bảo vệ tôn giáo như thế. Trước tiên, nhiều người ôn hòa
(ngay cả một số người theo chủ nghĩa thế tục) cho rằng “chủ nghĩa cực đoan” tôn
giáo thì hiếm có, do đó, không phải tất cả đều là hậu quả từ đấy ra. Nhưng thực
tế, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo không hiếm, do vậy, hậu quả của nó thực sự rất
nặng nề. Hiện nay Hoa kỳ là nhà ở của 300 triệu con người, có ảnh hưởng nhiều
hơn đến công chúng trong lịch sử nhân loại, trong số này, 240 triệu người tin
rằng Jesus sẽ trở lại thế gian, sẽ thu xếp việc chấm dứt thế gian này bằng quyền
hạn thần thông của Người. Nỗi khao khát được tha tội, một cách thiêng liêng, đạo
giáo đã trở nên quá khích trong mọi ý nghĩa của nó – đó là sự tận cùng của hiểm
nguy , ngớ ngẩn và đáng phỉ báng - chứ không phài sự tận cùng trong ý nghĩa nào
của sự ít ỏi, hiếm hoi. Tất nhiên những người ôn hòa có thể cũng băn khoăn, nghi
hoặc như những người tin tôn giáo đang băn khoăn, nghi hoặc. Thực tế, nhiều
người vô thần đã tin tưởng rằng các thăm dò ý kiến của chúng tôi không chính xác
vì nhiều người thực sự cho rằng chuyện tâm linh của họ là việc riêng tư không
cần phải bày tỏ với ai. Nhưng thực không còn nghi ngờ gì rằng hầu hết người Mỹ
khẳng định một cách chắc chắn niềm tin vào những điều lố bịch ngớ ngẩn, và những
khẳng định này tự chúng đã thực sự tổn thương đến tiến trình chính trị, chính
sách công chúng và uy tín của chúng ta trên thế giói.
Những người ôn
hòa tôn giáo còn có khuynh hướng tưởng tượng ra rằng thực có một đường kẻ rõ
ràng phân ranh giữa tôn giáo cực đoan và ôn hòa. Những thật là không hề có một
đường phân ranh như thế. Văn bản kinh thánh tự nó vẫn còn là cỗ máy bất diệt của
chủ nghĩa cực đoan: Bởi vì, mặc dù Thiên chúa có thể là nhiều thứ khác nhưng
Thiên chúa trong Kinh Thánh và kinh Koran không thể là môt đấng ôn hòa. Đọc kỹ
kinh bản, người ta sẽ không thấy các lý lẽ để trở nên một tôn giáo ôn hòa. Người
ta sẽ tìm thấy đủ lý lẽ để trở nên một người điên cuồng tôn giáo đích thực -
những người sợ lửa thiêu của địa ngục, phỉ báng những ai không có đạo, kết án
những kẻ đồng tính luyến ái v.v… Lẽ tất nhiên, người ta có thể lọc lựa từ kinh
bản để tìm được những lý lẽ cho việc yêu thương kẻ láng giềng và chìa má bên kia
ra. Nhưng càng đặt lòng tin vào kinh sách chừng nào, người ta càng tin rằng
những kẻ dị giáo, phản đạo, chống đạo đáng bị nghiền nát ra thành phân tử trong
cỗ máy công lý yêu thương của Thiên chúa.
Những người
theo tôn giáo ôn hòa luôn khẳng định rằng họ “thông thái” hơn người chính thống
(và người vô thần). Nhưng làm sao một người có thể là người theo đạo một cách
thông thái khi chỉ cần nhìn vào những mập mờ đáng nghi hoặc trong kinh sách để
từ đó mà đọc cho kỹ càng hơn, sơ lược hoá những đoạn cần phải sơ lược hoá, để
cho những xác quyết về thực tại của kinh sách bị xáo trộn liên tục bởi những
hiểu biết mới lạ - một cách khoa học (“Bạn muốn nói rằng trái đất này không phải
6000 năm tuổi? Được thôi”), một cách y học (“ Tôi nên mang con gái mình đến một
bác sĩ thần kinh chứ không mang đến một kẻ bị quỷ ám ? Có vẻ hợp lý…”), và một
cách đạo đức (“Hừm, tôi không đánh đập nô lệ của mình, ngay cả không được giữ nô
lệ nữa hay sao ?). Có một loại khuôn mẫu không thể chối từ được ở đây. Ôn hòa
tôn giáo là kết quả trực tiếp của sự việc đọc hiểu kinh bản không đủ và không
nghiêm chỉnh. Vậy tại sao vẫn cứ đọc không đủ nghiêm chỉnh ? Tại sao không thú
nhận rằng cuốn Thánh kinh chỉ là một sưu tập của nhiều cuốn sách không hoàn hảo
viết nên bởi những con người đầy sai sót ?
Một vấn nạn
khác nữa với sự ôn hòa trong tôn giáo là nó đại biểu chính xác cho cách suy luận
rằng nó sẽ ngăn ngừa được cái tinh thần hợp lý không giáo phái khỏi nổi dậy
trong thế giới của chúng ta. Bất chấp sự thực của chúng tôi là gì, tinh thần hay
luân lý, cần phải được khám phá ngay bay giờ. Bởi hậu quả là, sẽ chẳng
tạo nên một ý nghĩa gì khi cứ có một đời sống tinh thần của ai đó đóng cọc vào
những phép lạ của thời cổ đại. Cái chúng ta cần là sự tranh luận về các chứng
nghiệm luân lý và tinh thần vốn không bị cưỡng ép bởi sự ngu xuẩn cổ đại như các
tranh luận khoa học đã từng có. Khoa học thực đã vượt quá được tính đỏng đảnh
của văn hóa” Không hề có những thứ đại loại như khoa học “của Nhật” khác với
khoa học “của Pháp”; chúng ta không nói về “sinh học Ấn độ” hay “Hóa học Do
Thái”. Hãy tưởng tượng một thế giới mà chúng ta có thể có một cuộc bàn luận thực
sự chân thật và cởi mở về nơi chốn của chúng ta trong vũ trụ, về khả năng làm
phong phú kiến thức tự hiểu của chúng ta, các thông thái luận lý và lòng bác ái.
Những người ôn hòa tôn giáo, bằng cách cứ sống như thể các thước đo của mê tín
đạo giáo vẫn còn quan yếu đến hạnh phúc của nhân loại, thì chính họ thực đang
cản ngăn một cuộc đối thoại như thế khiến không thể hình thành được.
Tính lương
thiện trí thức
Tôn giáo từng
mang đến lời giải đáp cho nhiều câu hỏi mà ngày nay đã phải nhường lại cho khoa
học. Tiến trình lấn chiếm và tước đoạt tôn giáo của khoa học là một tiến trình
không thương xót, một tiến trình có định hướng và hoàn toàn có thể tiên liệu
được. Khi đi vào thực tiễn, kiến thức chân chính vừa có giá trị vừa có thể tái
kiểm nghiệm thông qua các nền văn hóa, và là phương thuốc duy nhất chữa trị được
mối bất hoà tôn giáo. Chẳng hạn như Hồi giáo, Ki-tô giáo không thể bất đồng với
nhau về nguyên nhân gây bệnh dịch tả, bởi vì bất kể truyền thống của họ nói gì
về căn bệnh di truyền này, thì một hiểu biết chân chính về bệnh dịch tả đã đến
từ nguồn thông tin khác. Khoa dịch tễ học (rốt cuộc) đã tráo đổi được mê tín tôn
giáo, nhất là khi con người phải chứng kiến con cái mình chết vì tật bệnh. Ðấy
chính là nơi mang chứa niềm hy vọng của chúng ta cho một tương lai thực sự không
thuộc về giáo phái: khi sự việc gây ra tác động, người ta có khuynh hướng muốn
hiểu được điều gì thực sự xảy ra trên thế giới. Khoa học cung ứng sự hiểu biết
này trong một dòng chảy xiết mạnh, khoa học cũng cung ứng sự giám định chân thực
trong giới hạn hiện thời của nó. Tôn giáo thất bại với cả hai mong đợi như vậy.
Hy vọng hòa
giải được đức tin của mình với các hiểu biết đang tăng trưởng của khoa học về
thế giới, nhiều người tin đạo giáo tìm được chỗ nương náu trong công thức phản
bội của Stephen J. Gould về “thẩm quyền không chồng tréo” – Cái ý tưởng cho rằng
khoa học và tôn giáo, khi được phân tích, hiểu đúng đắn, không thể đối nghịch
được, bởi vì cả hai đại diện cho sự tinh thông của hai phạm trù khác nhau. Chúng
ta hãy thử xem điều này tác động ra sao: Trong lúc khoa học là một thẩm quyền
cao nhất về các công trình của thế giới vật chất, thì tôn giáo là thẩm quyền cao
nhất về …chính xác về cái gì ? Về thế giới không vật chất? Chắc là không thể.
Thế còn về ý nghĩa, giá trị, luân lý và đời sống tốt lành ? Thật không may là,
hầu hết mọi người - ngay cả các khoa học gia và những người thế tục - đã nhường
những bộ phận quan trọng này của hạnh phúc con người cho sự chăm sóc của các nhà
thần học và các nhà biện giải tôn giáo mà không hề tranh cãi gì. Chính điều này
đã giữ cho tôn giáo một vị trí tốt ngay cả quyền lực của tôn giáo đã bị tấn
công, bị vô hiệu trên mọi mặt.
Nhưng cái khả
năng đặc biệt nào khiến một linh mục, một thầy tế Hồi giáo, một giáo sĩ Do Thái
có thể đánh giá cái ngụ ý luân lý của việc nghiên cứu tế bào phôi, kế hoạch hóa
gia đình, hoặc các ngăn ngừa chiến tranh? Sự thật ở chỗ là cái kiến thức về các
truyền thồng kinh sách của một con người thì chẳng còn liên quan gì với luân lý
cũng như chiêm tinh học. Ðại biểu của các tôn giáo trên thế giới có thể nói với
chúng ta về các giáo đoàn của họ tin vào điều gì trên một lãnh vực rộng
rãi các chủ đề khác nhau (và thường là tin dựa trên những chứng cứ tồi), họ có
thể nói cho chúng ta biết các kinh sách của họ đã dạy gì mà người ta nên tin
theo để thoát khỏi lửa hỏa ngục; nhưng điều họ không thể làm-hoặc không thể làm
tốt hơn những người xẻ thịt, người làm bánh, người làm đèn cầy là mang lại được
một cứ điểm cho thấy tại sao những địa vị chính thống này là hợp đạo đức. Có đạo
đức không khi giết một người muốn đổi đạo của mình? Tôi sẽ đánh đổi mạng sống
của mình cho câu trả lời “Không”. Nhưng, theo một cuộc thăm dò gần đây, 36 phần
trăm người Hồi giáo Anh (tuổi từ 16-24) không đồng ý với tôi. Như sự thăm dò chỉ
ra, các tín đồ Hồi giáo Anh này thuộc một lập trường cứng nhắc của thần học: vì
trong khi kinh Koran không rõ ràng đòi hỏi việc giết bỏ những người bội giáo,
chính tài liệu thiêng liêng của hadith đã lập đi lập lại, không lập lờ
một đòi hỏi như thế. Chỉ dụ này có hợp đạo đức không? Có thích hợp với một xã
hội thường dân hay không? Có phải sự tín nhiệm vào một quyền lực đã mang lại sự
man rợ này qua nhiều thế hệ ngay cả nó rất ít liên quan đến khoa học?
Lẽ tất nhiên,
thật cũng đúng, một cách bình thường, không đáng kể, rằng tôn giáo và khoa học
có tương thích với nhau bởi vì một số nhà khoa học là (hoặc đưọc kể là) những
người có đạo. Nhưng nói như thế chẳng khác gì bảo rằng khoa học và dốt nát là có
liên quan bởi vì nhiều nhà khoa học đã thoải mái thú nhận sự ngu dốt rộng rãi
của mình trong rất nhiều chủ đề. Ðể làm rõ ràng những vấn đề này, rất hữu ích
nếu chúng ta tự nhắc mình rằng cả tôn giáo và khoa học đều cấu thành bởi niềm
tin và sự minh chứng hoặc thiếu minh chứng của các niềm tin ấy. Có sự đối chọi
nào giữa một niềm tin được minh chứng và một niềm tin không được minh chứng
không ? Dĩ nhiên đó là con số không. Cho rằng đức tin ấy nói chung chỉ là một sự
cho phép mà người có đạo này ban cho người có đạo khác để mà mạnh tin vào điều
gì vốn không có chứng cứ, thì sự mâu thuẫn giữa tôn giáo và khoa học thật không
thể tránh khỏi.
Tôn giáo và
khoa học cũng mâu thuẫn bởi vì không có cách gì gỡ rối đưọc những sự thật được
khẳng định bởi tôn giáo và khoa học: niềm tin rằng Jesus được sinh ra từ sự đồng
trinh có thể là một trọng điểm của Ki-tô giáo, nhưng đấy cũng là một một khẳng
định rõ ràng về sinh học; niềm tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian bằng xương
bằng thịt trong một tương lai đưa đến nhiều khẳng định khác nhau về lịch sử, con
người sống lại từ sự chết, và, hiển nhiên là, một cỗ máy của con người bay lên
mà không có sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật. Ðã đến lúc tất cả những người có
lý trí nhận ra rằng ở đâu có dính dáng đến các khẳng định về bản chất của thực
tại, thì ở đấy chỉ có một huấn quyền bất di bất dịch.
Cuộc Ðánh Cược
rỗng tuếch
Vấn đề quan
yếu của tôn giáo là ở chỗ tôn giáo đã xây dựng trên sự dối trá ở một mức độ đáng
chú ý. Tôi không chỉ nhắc đến hai mươi megaton trưng bày về đạo đức giả, khi các
nhà rao giảng Phúc âm bị bắt gặp xử dụng thuốc ảo giác hoặc các điếm nam. Hơn
thế, tôi muốn nhắc đến sự thất bại ở mọi nơi chốn hàng ngày của những người sùng
đạo nhất đã thú nhận là những khẳng định an toàn nhất của họ về đức tin đã trở
nên đáng nghi một cách sâu sắc. Bà mẹ khẳng định rằng ông bà đã đi thẳng lên
thiên đàng sau khi chết. Nhưng bà mẹ ấy không thực sự biết là như thế. Sự thực
là, bà mẹ đã nói dối - hoặc với chính mình hoặc với con cái mình- và hầu hết
chúng ta đều xem hành vi này thật là bình thường. Thay vì dạy con cái chúng ta
đau buồn rồi nên vui mặc dù với thực tại của cái chết, chúng ta đã nuôi dưỡng
con cái chúng ta bằng sự tự lừa dối.
Cái việc Jesus
thực đã sinh ra từ một trinh nữ, đã sống lại sau khi chết, để sẽ trở lại thế
gian này bằng chính thân xác mình vào một ngày nào đó trong tương lai thực sự là
như thế nào ? Tin vào các móc xích của phép lạ như thế trên căn bản của các
khẳng định từ sách Phúc âm, là chuyện có lý hay không? Những học thuyết này nhận
đưọc bao nhiêu ủng hộ từ chứng nghiệm của những người Ki-tô giáo trung bình
trong nhà thờ? Các câu trả lời chân thật cho những câu hỏi này chắc sẽ nổi lên
một cơn sóng thần của sự hoài nghi. Tôi không biết chắc rằng cái gì sẽ là “Ki-tô
giáo” đối với bất kỳ người Ki-tô giáo nào còn trụ lại.
Nhiều độc giả
của Thư gửi một Quốc gia Ki-tô giáo đã cảm hứng từ Blaise Pascal và đã
tranh cãi rằng chứng cứ chính ở ngay bên cạnh vấn đề và rằng những người theo
đạo đơn giản đã khôn ngoan hơn trong việc chọn phần chắc ăn: nếu người theo đạo
sai lầm về Thiên Chúa, sẽ chẳng có tổn thất gì nhiều cho y hay ai khác, nhưng
nếu như đúng, y sẽ thắng được một hạnh phúc đời đời; tuy nhiên, nếu người vô
thần sai, hắn sẽ được dành cho cuộc đời vĩnh viễn trong địa ngục. Căn cứ vào
quan niệm này, vô thần là hình ảnh của sự ngu xuẩn liều lĩnh.
Dù Pascal xứng
đáng với danh tiếng của ông là một nhà toán học xuất sắc, sự đánh cuộc của ông
chẳng có gì khác hơn là một phép loại suy đáng yêu (và sai lầm) mà thôi. Như
nhiều ý tưởng duyên dáng khác trong triết học, dễ nhớ và thường được lập lại, ý
tưởng này đã vay mượn cho mình một diện mạo không xứng đáng của sự sâu sắc. Một
suy nghĩ thoáng qua hé lộ rằng, nếu cuộc đánh cược đó có giá trị, nó sẽ thẩm
định được bất kỳ hệ thống niềm tin nào, bất kể nó phản nghịch và lố lăng như thế
nào đối với Ki-tô giáo, Một vấn nạn khác của sự đánh cược này- và chính là vấn
nạn đã nhiễm bệnh vào các suy nghĩ đạo giáo nói chung- là nó cho rằng một người
có lý trí có thể tự cho phép mình tin vào một xác nhận mà kẻ ấy không hề có một
chứng cứ nào. Một người có thể bày tỏ bất kỳ tín ngưỡng nào mình thích, dĩ
nhiên, nhưng để thực sự tin tín ngưỡng ấy, người đó phải tin rằng tín ngưỡng ấy
đúng. Chẳng hạn như, để tin rằng có một Thượng đế, nghĩa là tin rằng mình không
đang tự lừa phỉnh mình; nghĩa là tin rằng mình đang đứng trên một số liên hệ với
sự hiện hữu của Thượng đế như thế, nếu như Người không hiện hữu, mình không thể
tin vào Người. Cái đánh cược của Pascal lọt vừa vào trong hệ thống này như thế
nào? Nó thật không thể lọt vừa được.
Các nguyên
nhân để nghi ngờ hiện hữu của Thiên Chúa được đặt trong một bối cảnh dễ hiểu để
mọi người cùng nhìn vào: mọi người đều thấy rằng cuốn Thánh kinh không phải là
những ngôn từ hoàn chỉnh của một đấng toàn trí; mọi người đều thấy rằng không hề
có bằng chứng gì về một Thiên Chúa từng đáp lại lời cầu xin của chúng ta, rằng
bất kỳ Thiên Chúa nào từng ban phát các giải vô địch túc cầu cho những người cầu
xin, để chỉ nhỏ từng giọt ra cho chứng ung thư hoặc tai nạn xe cộ đến những trẻ
em nam nữ, thì Thiên Chúa ấy không xứng đáng với sự dâng hiến của chúng ta. Mọi
người có mắt để nhìn có thể nhìn thấy rằng nếu Thiên chúa của Abraham hiện hữu,
Người là một kẻ bệnh thần kinh nặng và Thượng đế của thiên nhiên cũng thế. Nếu
bạn không thể nhìn thấy những việc này chỉ bằng cách quan sát mà thôi, thì đơn
giản bạn là người đang nhắm nghiền mắt đối vói các thực tiễn của thế giới chúng
ta.
Tôi không hề
nghi ngờ gì về việc nhiều người Ki-tô giáo tìm được niềm an ủi lớn lao từ đức
tin của mình. Nhưng đức tin không phải là cội nguồn tốt nhất cho an ủi. Ðức tin
giống như một tên móc túi cho người ta vay món nợ bằng chính đồng tiền của người
ấy với các điều kiện rộng rãi. Lòng biết ơn của nạn nhân thì hoàn toàn có thể
hiểu được nhưng dứt khoát là không đúng chỗ. Chúng ta là cội nguồn của tình yêu
thương mà các linh mục, mục sư quy là do bởi Thiên chúa (chúng ta có cảm thấy
cách nào khác không?) Ý thức của chúng ta là căn nguyên, là cốt lõi của bất kỳ
chứng nghiệm nào bạn có thể muốn cho là “linh hồn” hay “thần bí”. Nhận thức được
như vậy, nhu cầu khả thi nào ở đấy để phải giả vờ như mình thực biết chắc về
những phép màu cổ đại ?
Tháng 9 2007-Nữu Ước
MƯỜI TÁC
PHẨM NÊN ÐỌC (THEO SAM HARRIS):
1. The
God Dellusion của Richard Dawkins.
2.
Breaking the Spell của Daniel C. Dennett.
3.
Misquoting Jesus của Bart D. Ehrman.
4.
Kingdom Coming của Michelle Goldberg.
5. The
End of Days của Gershom Gorenberg.
6.
Freethinkers của Susan Jacoby.
7.
Extraodinary Popular Delusion and the Madness of Crowds của Charles Mackay.
8. Why
I am not a Christian của Bertrand Russell.
9.
God, the Devil, and Darwin của Niall Shanks.
10.
Atheism: The Case Against God của George H. Smith.
(xem "Thư cho một quốc gia Ki-tô giáo")
1. Ðể biết
thêm về lịch sử của hy sinh nhân loại, xem N.Davies, Human Sacrifies : In
History and Today. Dorset.