LỊCH SỬ HOA KỲ (3 tác giả) Nguyễn Mạnh Quang dịch http://sachhiem.net/NMQ/LSHK/LSHK17.php | bản rời | « Xem Mục Lục » | 02 tháng 3, 2010 pypypy CHƯƠNG XVII TOÀN THỂ ĐẤT NƯỚC TRỞ NÊN DÂN CHỦ HƠN Trong ba chương vừa qua, các bạn đã hiểu rõ những thay đổi quan trọng ở các miền Đông Bắc, miền Nam cũng như miền Tây mới. Nhưng kể từ thời vị Tổng thống đầu tiên George Washington cho đến thập niên 1850 đã có những gì xảy ra? Các bạn đã biết rằng ngay từ những năm đầu, quốc gia trẻ trung này đã được thiết lập trên một nền tảng vững chắc và được nhiều quốc gia khác kính nể. Trong chương này các bạn sẽ thấy rằng trong nửa đầu thế kỷ thứ XIX có thêm nhiều người Hoa Kỳ gặp nhiều cơ hội tốt đẹp cho “cuộc sống, tự do và theo đuổi hạnh phúc”. Tư tưởng dân chủ đã được phổ biến và lan tràn khắp đất nước. Khi mà con số cử tri càng gia tăng thì lại càng có thêm nhiều người Hoa Kỳ tham dự và chú ý đến các cuộc vận động tranh cử. Nhiều người Hoa Kỳ lại quan tâm đến những người ít may mắn hơn họ. Người Hoa Kỳ trung bình tìm được những cơ hội tốt đẹp hơn để trao đổi học vấn và cải thiện cuộc sống. Kể từ thập niên 1830, những sự thay đổi đã bắt đầu mạnh hơn. Kết quả là những sự thay đổi này đã nối liền với tên tuổi ông Andrew Jackson, vị Tổng thống đương thời. Trong chương này chúng ta hãy tìm hiểu các vấn đề dưới đây: 1. Tại sao có nhiều người Hoa Kỳ cử hành lễ mừng kỳ bầu cử Tổng thống của ông Andrew Jackson? 2. Tổng thống Jackson đã thực hiện được những bước tiến quan trọng nào? 3. Làm thế nào để có nhiều người Hoa Kỳ được tham dự vào chính quyền. 4. Đời sống của dân chúng Hoa Kỳ được cải thiện như thế nào 5. Các chính đảng đã tranh đấu để lãnh đạo chính quyền ra sao? ¨ PHẦN MỘT TẠI SAO CÓ NHIỀU NGƯỜI HOA KỲ CỬ HÀNH MỪNG NGÀY BẦU CỬ TỔNG THỐNG ANDREW JACKSON? Khi mà có nhiều người tiến ra vùng biên cương để định cư lập nghiệp và khi mà có nhiều tiểu bang miền Tây gia nhập Cộng đồng Liên bang thì tư tưởng dân chủ của dân miền Tây hẳn phải có nhiều ảnh hưởng đến những vùng lãnh thổ khác của đất nước. Người đại diện cho tinh thần mới mẻ mộc mạc và sốt sắng của vùng biên cương là ông Andrew Jackson thuộc tiểu bang Tennessee. Ông Jackson là người đầu tiên của một tiểu bang miền Tây được đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ. Chúng ta hãy xem chuyện xảy ra như thế nào? - Các miền Bắc, Nam và Tây trở thành những vùng đối nghịch Chúng ta thấy rằng ba miền của đất nước đang phát triển theo những chiều hướng và phương cách khác nhau. Miền Bắc thì chú ý nhiều đến kỹ nghệ và đóng tàu. Miền Nam thì chuyên trồng một vài loại cây mùa, đặc biệt là trồng bông vải để xuất cảng. Sự bành trướng mau chóng ở miền Tây cần phải có đất đai rẻ cho dân định cư và hệ thống giao thông tốt để chuyển vận hàng hóa và sản phẩm. Quyền lợi riêng của các miền Bắc, miền Nam và miền Tây thường đối chọi nhau. Các vị dân biểu của mỗi miền thường quan tâm đến vấn đề hạnh phúc và xã hội của địa phương mình hơn là chú ý đến vấn đề hạnh phúc và xã hội của toàn thể đất nước. - Bốn năm nhiệm kỳ của Tổng thống John Quincy Adams là bốn năm bất hạnh ở Toà Bạch Ốc Trong kỳ bầu cử Tổng thống vào năm 1824, miền nào cũng muốn người đắc cử Tổng thống phải là người của họ để dễ dàng cho họ phát triển và bảo vệ quyền lợi của họ. Miền Tân Anh ủng hộ ông John Quincy Adams, con Tổng thống John Adams trước, và cũng là Tổng trưởng ngoại giao thời Tổng thống Monroe. Miền Nam ủng hộ ông William Crawford thuộc tiểu bang Georgia. Miền Tây có tới hai ứng cử viên, đó là ông Henry Clay, thuộc tiểu bang Kentucky và ông Andrew Jackson thuộc tiểu bang Tennessee. Tới khi kiểm phiếu thì kết quả cho thấy là không có ứng cử viên nào chiếm được đa số phiếu. Hiến pháp đã quy định rằng gặp trường hợp như vậy thì Hạ viện quyết định chọn người nào nhiều phiếu hơn. Ông Henry Clay, người được ít phiếu nhất trong 4 ứng cử viên (biết rằng mình sẽ không được Hạ viện chọn) liền yêu cầu các đại biểu cử tri ủng hộ ông hãy dồn phiếu cho ông Adams. Nhờ vậy mà Hạ viện đã tuyển chọn ông Adams làm Tổng thống. Ông John Quincy Adams là vị Tổng thống duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ mà trước đó thân phụ ông cũng là Tổng thống. Ông là người có thực tài và có nhiều thành tích phục vụ chính quyền. Vốn từng là Tổng trưởng ngoại giao, ông đã từng quyết định thực hiện nhiều việc quan trọng có ảnh hưởng lớn lao đến tương lai đất nước. Nhưng ông lại là người cứng nhắc, không chịu lướt bỏ nguyên tắc dù cho là làm như vậy sẽ có nhiều người không thích ông. Quốc hội cũng tranh chấp với ông và đã nhiều lần chống đối ông. Những năm trong nhiệm kỳ của ông là những năm thất vọng và đầy rắc rối. - Ông Andrew Jackson lên làm Tổng thống trong bầu không khí cuồng nhiệt vui mừng của quần chúng Khi Hạ viện chọn ông Adams làm Tổng thống, ông Jackson và bạn bè của ông rất lấy làm bất bình giận dữ. Vì rằng trong kỳ bầu cử Tổng thống thường lệ vào năm 1824, ông Jackson được nhiều phiếu hơn ông Adams, người ta đã rêu rao phàn nàn rằng ông Jackson đã bị cướp mất ghế Tổng thống, và rằng ý nguyện của nhân dân bị chà đạp. Ngay từ lúc đó họ đã hoạt động để bảo đảm chắc chắn cho ông Jackson sẽ được đắc cử Tổng thống vào năm 1828. họ đã làm việc đắc lực, và Tổng thống Adams lại càng làm mất lòng dân cho nên kỳ bầu cử Tổng thống vào năm 1828, ông Jackson đã thắng đối thủ của ông một cách quá dễ dàng. Ông Adams giã từ tòa Bạch Ốc với những thất vọng đắng cay. Những ngày sau đó, ông lại được nhân dân Massachusetts bầu ông làm dân biểu tại Hạ nghị viện, và ở đây ông đã tận tình hoạt động đắc lực trong nhiều năm. Ngày 4 tháng 3, năm 1829, thành phố thủ đô Hoa Thịnh Đốn chìm ngập trong rừng người reo mừng cuồng nhiệt. Đó là ngày ông Andrew Jackson nhậm chức Tổng thống. Ông Daniel Webster ghi lại rằng: “Tôi chưa bao giờ thấy như vậy, dân chúng đầy nghẹt trong thành phố, hàng hàng lớp lớp người di chuyển, nối đuôi nhau dài hàng năm dặm để nhìn xem tướng Jackson, và hình như người ta cho rằng đất nước đã thật sự được cứu vãn khỏi cơn nguy hiểm ghê gớm”. Biển người đứng xem ông Jackson bước lên thềm điện Capitol tuyên thệ nhậm chức. Sau đó thì từng làn sóng người chen lấn xô nhau tới gần để bắt tay tân Tổng thống. Trong buổi tiếp tân tại tòa Bạch Ốc còn đông nghẹt và cuồng nhiệt hơn nữa. “Các ông bà quý phái, dân miền biên cương, các ông chính khách, những người chuyên nghề giữ chuồng ngựa, và các bà lộng lẫy cũng như các cô rửa chén, dân da trắng cũng như dân da đen chen chúc xô lấn nhau ở trong nhà cũng như ở ngoài sân. Dân chúng chen lấn nhau đến nỗi ly tách bể tung tóe, đồ đạc, bàn ghế lộn xộn tứ tung, thảm và ghế đầy những bùn”. - Ông Jackson là thần tượng của dân chúng Nguyên nhân nào đã đưa đến sự vui mừng cuồng nhiệt như vậy? Tổng thống Andrew Jackson là một người anh hùng được dân chúng yêu mến. Kỳ bầu cử Tổng thống của ông là chiến thắng lớn lao cho những người ủng hộ ông. Tuy nhiên, đã có một số người giật mình vì thái độ của những người dự lễ tuyên thệ nhậm chức này, vì họ tự nghĩ rằng với một người miền Tây “cộc cằn, thô lỗ” như vậy lên làm Tổng thống thì đất nước Hoa Kỳ này sẽ như thế nào? Cũng không có gì khó hiểu rằng tại sao ông Jackson lại trở thành thần tượng không những của riêng miền Tây mà còn là của toàn thể dân chúng trong khắp các vùng lãnh thổ của đất nước. Giống như nhiều người khác, ông Jackson xuất thân từ một gia đình khiêm tốn, và cũng như nhiều người khác, ông đã từng phải đương đầu với những hiểm nguy, cực nhọc và nghèo khó. Là con một gia đình gốc Tô Cách Ái Nhĩ Lan, ở vùng biên thùy Carolina, trong thời kỳ cách mạng, ông bị quân Anh bắt, lúc đó ông mới 14 tuổi. Viên sĩ quan này bắt ông đánh giày cho hắn. Ông từ chối và viên sĩ quan này đã dùng kiếm cắt má ông khiến cho ông phải nằm liệt trong nhiều ngày. Khi khỏi rồi, mặt ông còn mang thẹo. Lớn lên, ông di chuyển đến sinh sống ở Tennessee. Dù rằng ông đi học ít, nhưng thực ra ông đã theo đuổi và thực tập về ngành luật, và sau đó ông trở thành thẩm phán ở trong nhiều cộng đồng ở vùng biên cương. Sau khi Tennessee trở thành một tiểu bang, ông được dân chúng bầu làm dân biểu quốc hội tại Hạ nghị viện tại Hoa Thịnh Đốn. Là tướng lãnh trong quân đội, khi cầm quân đánh bại quân Anh tại New Orleans trong trận chiến 1812, ông đã được nhân dân toàn quốc biết đến. Khi lên làm Tổng thống ông đã 62 tuổi. Jackson được nhiều người mến chuộng không phải chỉ vì ông đã làm được những gì, mà vì ông còn là loại người tiêu biểu cho người ta mến chuộng. Là người can cường và dũng cảm, hình như ông yêu thích chiến đấu. Khi còn là cậu trai thưở thiếu thời, không khi nào ông chịu chấp nhận bị bại cuộc. Lớn lên, ông đã từng tham dự nhiều cuộc đấu súng tay đôi. Chưa bao giờ ông do dự để binh vực cho lẽ phải. Jackson là con người hành động và cũng là con người có cảm xúc mạnh. Ông hay nóng giận, và trong những cơn nóng giận, ông rất dễ dàng chống lại bất kỳ kẻ nào mà ông cho là thù địch. Sự hay nóng giận và sự thiếu kinh nghiệm học đường đôi khi đã khiến cho ông lầm lẫn. Tuy nhiên, ông là người thành thực và chịu khó làm việc. Ông rất trung thành với bạn bè và ghét cay ghét đắng kẻ thù. Tất cả mọi người dân Hoa Kỳ đều biết là ông thành thực tin tưởng ở chế độ dân chủ. ¨ PHẦN HAI TỔNG THỐNG JACKSON ĐÃ THỰC HIỆN ĐƯỢC NHỮNG BƯỚC TIẾN QUAN TRỌNG NÀO? - Ông Jackson có những ý niệm rõ rệt về quyền hành của một vị Tổng thống Ông Andrew Jackson là một loại Tổng thống mới. Ông là người sinh ra để làm lãnh tụ, cảm thấy có bổn phận phải thi hành ý nguyện của dân chúng đã bầu ông lên làm Tổng thống. Cho nên ngay từ đầu, ông đã nói với Tối cao Pháp viện và Quốc hội rằng là Tổng thống, hơn ai hết, ông hiểu rõ nhu cầu của đất nước. Chúng ta sẽ thấy rằng một vài hành động của ông đã gây ra nhiều đắng cay chua chát. Nhưng nhìn toàn diện, ông đã phục vụ đất nước một cách tận tình đắc lực. - Ông Jackson mở rộng hệ thống chia phần Ngay khi lên làm Tổng thống, ông Jackson cho một số lớn công chức nghỉ việc, đa số là các viên chức làm việc ở Bộ Bưu chính. Nhiều người đã làm việc từ nhiều năm, họ hy vọng là sẽ tiếp tục được làm việc cho tới già. Nhưng ông Jackson muốn cho các viên chức này nghỉ việc để bổ nhậm những người của đảng ông vào thay thế. Nhiều người mới được cho vào làm là những người đã cố gắng làm việc cực nhọc để hoạt động cho ông thắng cử. Khi một người đắc cử vào một chức vụ quan trọng rồi thưởng cho những người ủng hộ mình theo cách này thì được gọi là áp dụng hệ thống chia phần (spoils system). Nguyên gốc chữ này lấy từ câu tục ngữ “Chiến lợi phẩm thuộc về kẻ chiến thắng” (Chữ spoils dùng theo cách này có nghĩa là “phần thưởng”). Trước khi ông Jackson đắc cử Tổng thống, người ta đã áp dụng hệ thống chia phần để bổ dụng viên chức vào trong các cơ quan chính quyền ở tiểu bang một cách tự do hơn là ở các cơ quan trong chính phủ liên bang. Một số Tổng thống trước cũng đã bổ nhậm những người ủng hộ mình vào giữ những chức vụ quan trọng, nhưng ông Jackson là vị Tổng thống đầu tiên áp dụng hệ thống chia phần một cách rộng rãi. Đây không phải là một việc làm tốt đẹp. Các viên chức được tuyển dụng hầu hết là để thưởng công lao đã ủng hộ một người hay một đảng, chứ không phải họ là những người có khả năng, cho nên khả năng làm việc của họ thường rất kém. - South Carolina chống lại thuế mậu dịch cao Khi ông Jackson vừa lên làm Tổng thống thì lại xảy ra việc tranh chấp về thuế mậu dịch. Trong chương 14, chúng ta đã biết rằng các nhà kỹ nghệ ở miền Đông Bắc luôn luôn đòi đánh thuế cao vào các hàng hóa nhập cảng với hy vọng rằng hàng hóa kỹ nghệ của họ có thể bán được giá cao hơn. Nhưng dân chúng ở miền Nam là những nông dân sản xuất rất ít hàng hóa, họ phải mua rất nhiều hàng hóa kỹ nghệ, cho nên họ chống đối luật lệ đánh thuế nhập cảng, vì thuế này làm cho họ phải mua hàng hóa đắt hơn. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, Quốc hội cũng cho thông qua nhiều đạo luật về thuế mậu dịch vào những năm 1816, 1824 và 1828. Đạo luật về thuế mậu dịch thông qua vào năm 1828 đã không được bàn luận tính toán kỹ. Khi dân chúng South Carolina hay biết về luật này thì cơ quan lập pháp của tiểu bang này soạn thảo bản tuyên ngôn phản kháng Quốc hội về việc đã thông qua luật này. Phần lớn bản tuyên ngôn phản kháng này là do ông John C. Calhoun soạn thảo. Ông Calhoun là nhân vật có tiếng tăm, và lúc đó là Phó Tổng thống Hoa Kỳ. Trong bản phản kháng này, ông Calhoun tuyên bố rằng theo Hiến pháp thì Quốc hội không có quyền thông qua những luật lệ về thuế mậu dịch làm lợi cho một vùng lãnh thổ hay một nhóm người trên sự thiệt thòi của các vùng lãnh thổ khác hay của một nhóm người khác. Ông Calhoun nói rằng khi Quốc hội đi ra ngoài những quyền hành đã được ấn định rõ ràng trong Hiến pháp để thông qua một đạo luật thì bất cứ tiểu bang nào cũng có quyền hủy bỏ đạo luật đó (ý muốn nói rằng luật đó không được thi hành). Ý niệm mà một tiểu bang bỏ qua một đạo luật của Quốc hội gọi là sự hủy bỏ hay vô hiệu hóa. - South Carolina hăm dọa sẽ vô hiệu hóa các luật lệ của Quốc hội Lời phản kháng của ông Calhoun cho ta thấy rằng South Carolina đã suy nghĩ rất nhiều về thuế mậu dịch. Tuy nhiên, mãi cho tới năm 1832, khi Quốc hội đề nghị một đạo luật về thuế bảo vệ mậu dịch mới, tiểu bang Carolina cũng vẫn không làm gì khác hơn. Các vị dân biểu của miền Nam tại Quốc hội tranh đấu chống lại đạo luật này nhưng thất bại. Sau đó, cơ quan lập pháp tiểu bang South Carolina quyết định hành động. Tiểu bang này triệu tập một phiên họp đặc biệt và quyết định vô hiệu hóa các đạo luật mậu dịch năm 1828 và 1832. Các vị đại biểu dự cuộc họp cùng tuyên bố rằng nếu chính quyền trung ương có hành động nào cưỡng ép tiểu bang South Carolina tuân hành những đạo luật mậu dịch đáng ghét đó thì South Carolina sẽ tách rời khỏi Cộng đồng Quốc gia Hiệp chủng quốc. Khi hay tin South Carolina hành động như vậy, Tổng thống Andrew Jackson tức giận vô cùng. Ông yêu mến đất nước Hoa Kỳ hơn tất cả. Ông đã từng chiến đấu dưới ngọn cờ Hiệp chủng quốc. Ông đã long trọng thề phải thi hành luật nước. Ông nói: “Nếu phải mất một giọt máu vì việc South Carolina khinh thường luật pháp quốc gia Hoa Kỳ này thì tôi sẽ tìm bắt kẻ nào đầu tiên không tuân hành pháp luật để treo cổ nó lên ngọn cây”. Một vị thượng nghị sĩ của tiểu bang South Carolina nói với bạn của ông ta rằng, ông ta thắc mắc không biết Tổng thống Jackson có thực sự muốn nói những điều ông đã nói không? Người bạn của ông ta nói với ông ta rằng: “Tôi bảo anh rằng khi Jackson bắt đầu nói tới treo cổ thì người ta có thể bắt đầu đi tìm dây thừng”. - Đạo luật về thuế mậu dịch tương nhượng chấm dứt việc vô hiệu hóa của South Carolina Trong một bản tuyên ngôn khác, Tổng thống Jackson dùng những lời lẽ êm dịu hơn, nhưng ông vẫn cứng rắn. Ông viết: “Nói rằng một tiểu bang hứng chí lên là rút lui khỏi Cộng đồng Quốc gia có nghĩa là bảo rằng Hoa Kỳ không phải là một quốc gia”. Ông tuyên bố rằng ông sẽ thi hành những luật lệ về thuế mậu dịch, và ông kêu gọi nhân dân South Carolina hãy giúp ông để thi hành bổn phận. Trong khi đó, ông sửa soạn gửi một đạo quân đến South Carolina để thi hành luật pháp. Có thể chính vị cựu tướng lãnh này sẽ dẫn đoàn quân ấy tiến vào South Carolina. May mắn là ông Henry Clay thuộc tiểu bang Kentucky đề nghị một đạo luật về thuế mậu dịch có tính cách tương nhượng. Dự luật của ông Clay ấn định rằng thuế mậu dịch sẽ giảm lần trong một thời gian là 10 năm. Quốc hội thông qua dự luật này vào năm 1833. South Carolina từ bỏ ý định vô hiệu hóa các đạo luật thuế mậu dịch 1828 và 1832. Cả hai bên đều cảm thấy thắng cuộc. South Carolina cảm thấy hài lòng vì thuế mậu dịch sẽ được hạ thấp, và Tổng thống Jackson thì cho rằng ông đã chấm dứt được mối đe dọa phân ly. Tuy nhiên, việc này đã minh chứng rằng miền Nam, nếu cần, sẽ chiến đấu để bảo vệ quyền lợi của họ, dù rằng theo ý của Tổng thống Jackson thì ông đã thắng trong vụ này. Nhưng vấn đề là một tiểu bang có thể tách rời ra khỏi Cộng đồng Quốc gia hay không vẫn chưa được giải quyết dứt khoát. Chúng ta sẽ thấy vấn đề này sẽ tái diễn trong một trường hợp tranh chấp trầm trọng hơn giữa miền Nam và miền Bắc. - Tổng thống Jackson đóng cửa Nhà Ngân Hàng Hoa Kỳ thứ nhì Trong khi đó, Tổng thống Jackson bắt đầu công kích nhà Ngân hàng Hoa Kỳ. Nhà Ngân Hàng Hoa Kỳ thứ nhất được thành lập như là một phần trong kế hoạch tài chánh của ông Alexander Hamilton. Sau đó, Nhà Ngân Hàng thứ nhì được thành lập vào năm 1816. Vào khi ông Jackson lên làm Tổng thống thì nhà ngân hàng này trở nên rất giàu có và có thế lực. Chính vì vậy mà ông Jackson mất tin tưởng ở nhà ngân hàng này. Ông cho rằng nhân viên của nhà ngân hàng thế lực này có thể dùng ảnh hưởng để lôi cuốn các viên chức chính quyền để thông qua những đạo luật có lợi cho nhà ngân hàng. Ông cho rằng, trao quyền hành vào tay một thiểu số người giàu có thì thật là phi dân chủ. Cho nên ông quyết định đóng cửa nhà ngân hàng này. Nhà ngân hàng thứ hai đã được cấp giấy phép hoạt động cho đến năm 1836. Nếu lúc đó nhà ngân hàng này bị ngăn chặn không được cấp giấy phép nữa thì sẽ phải đóng cửa. Nhưng vào năm 1832, 4 năm trước khi giấy phép đặc quyền này hết hạn, những người bạn của nhà ngân hàng này thuyết phục quốc hội thông qua một dự luật khác cho nhà ngân hàng một giấy phép mới được đặc quyền tiếp tục hoạt động. Họ nghĩ rằng trước khi có bầu cử Tổng thống, thì Tổng thống Jackson sẽ không dám hành động. Mưu chước này đã thất bại. Tổng thống Jackson gửi trả dự luật này lại Quốc hội với ý kiến phủ quyết. Khi tái đắc cử vẻ vang vào năm 1832, ông cho rằng dân chúng đã đồng ý với những lời chỉ trích của ông đối với nhà ngân hàng này. Ông lại càng cương quyết hơn để diệt nhà băng này. Theo lệnh của Tổng thống Jackson, Tổng trưởng Tài chánh rút các khoản tiền của chính phủ đã gửi nhà băng này đem gửi vào một số nhà ngân hàng tiểu bang, có biệt hiệu là “những nhà ngân hàng cưng”. Khi giấy phép ban đặc quyền cho nhà Ngân hàng Hoa Kỳ thứ nhì hết hạn vào năm 1836, thì nhà ngân hàng này đóng cửa. Như vậy Tổng thống Andrew Jackson đã thắng trong cuộc tranh chấp với nhà ngân hàng, giống như ông đã thắng trong công cuộc tranh chấp về vấn đề tiểu bang South Carolina muốn vô hiệu hóa các đạo luật về thuế mậu dịch. ¨ PHẦN BA LÀM THẾ
NÀO ĐÃ CÓ NHIỀU NGƯỜI HOA KỲ Vào khoảng giữa thế kỷ thứ XIX, dân chúng Hoa Kỳ được tham dự vào chính quyền nhiều hơn trước. Chuyện xảy ra như thế nào? - Điều kiện bầu cử trở nên dân chủ hơn Trước hết là có sự thay đổi quan trọng về luật pháp. Luật lệ ấn định rõ ràng là ai có quyền đi bầu. Khi chính phủ trung ương được thành lập thì không phải tất cả mọi công dân đều được đi bầu. Trong 13 tiểu bang nguyên thủy, chỉ những người làm chủ một số tài sản mới có quyền đi bầu [10]. Tuy nhiên, ở các vùng biên cương, tinh thần dân chủ và bình đẳng được phát triển mạnh. Cho nên ở 3 tiểu bang mới được thành lập – Vermont, Kentucky và Tennessee- những điều kiện bầu cử có tính cách dân chủ hơn. Vermont và Kentucky không đòi hỏi nam công dân phải làm chủ một số tài sản mới được đi bầu. Các tiểu bang này cho tất cả nam công dân da trắng trên 21 tuổi đều được quyền đi bầu. Mặc dầu Tennessee không tiến xa như vậy, nhưng tiểu bang này cũng ban hành nhiều tự do trong việc bầu cử hơn các tiểu bang cũ ở miền Đông. Sau này nhiều tiểu bang khác được thành lập ở miền Tây cũng theo gương Vermont và Kentucky cho toàn thể nam công dân da trắng trưởng thành được đi bầu. Dần dần, các tiểu bang cũ cũng bỏ điều kiện phải làm chủ tài sản mới được đi bầu. Vào năm 1860, trong tất cả mọi tiểu bang, tất cả các nam công dân tự do da trắng đều có thể đi bầu. - Việc bầu cử trở nên dân chủ hơn Bằng nhiều cách khác, dân chúng cũng có thể tham dự vào chính quyền nhiều hơn. Thí dụ như nhiều luật lệ đã được sửa đổi để một số viên chức chính quyền ngày xưa do cấp trên bổ nhậm thì bây giờ được sửa lại là do các cử tri tuyển chọn qua các cuộc bầu cử. Phương cách tuyển chọn Tổng thống cũng trở nên dân chủ hơn. Lúc đầu các vị thượng nghị sĩ và dân biểu thuộc các chính đảng đề cử ứng cử viên Tổng thống. Nhưng vào năm 1840 thì được sửa lại là các hội nghị đảng tuyển chọn ứng cử viên Tổng thống giống như ngày nay vậy. Hội nghị đảng gồm các đại biểu do dân chúng bầu lên. Như vậy dân chúng đã được hưởng thêm nhiều quyền trong việc quyết định ứng cử viên ra tranh cử Tổng thống. Theo Hiến pháp thì đại diện cử tri bầu Tổng thống, giờ đây dân chúng được phép tuyển chọn đại diện cử tri để bầu Tổng thống. Dù rằng ngay từ khi quốc gia Hoa Kỳ mới được thành lập cũng đã có những sự sửa đổi này rồi, nhưng tới kỳ bầu cử của Tổng thống Andrew Jackson, những sửa đổi này mới được tiến hành mạnh hơn. Suốt trong thời kỳ tại chức, Tổng thống Jackson đã cố gắng hoạt động để cho dân chúng được tham dự vào chính quyền nhiều hơn. Miền Tây có lý do tự hào về ông, vì ông là một người Hoa Kỳ xuất sắc vào thời đó. ¨ PHẦN BỐN ĐỜI SỐNG DÂN CHÚNG HOA KỲ ĐÃ ĐƯỢC CẢI THIỆN NHƯ THẾ NÀO? ¨ CÁC NHÀ CẢI CÁCH TÌM CÁCH CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG SINH SỐNG Trong một chế độ dân chủ như nước Hoa Kỳ thì việc dân chúng có quyền bầu cử và ứng cử vào việc làm tại các cơ quan công quyền là một điều rất quan trọng. Nhưng từ khi ông Jackson lên làm Tổng thống thì có nhiều người Hoa Kỳ cho rằng thế cũng chưa đủ. Họ nghĩ rằng dân chúng cũng cần phải có cơ hội để sống cuộc đời hữu dụng và hạnh phúc. Vào thời kỳ này, số người biết đọc, biết viết gia tăng nhiều hơn và cũng có thêm nhiều sách báo, tạp chí khiến cho người ta dễ dàng nghiền ngẫm suy tư. Người ta đọc và suy tư về nhiều vấn đề, đặc biệt nhất là người ta suy nghĩ về những lời lẽ trong bản tuyên ngôn độc lập rằng mọi người sinh ra được trời phú cho “quyền sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc”. Nhìn lại họ thấy rằng đất nước trẻ trung giàu có của họ có biết bao cơ hội tốt đẹp cho hết thảy mọi người. Song lẽ, họ lại thấy rằng ở bất cứ nơi nào trong đất nước cũng còn có rất nhiều người không được may mắn đang phải sống cuộc đời đầy cơ cực lầm than khổ sở. Những người này, thường thì cá nhân họ không có tội lỗi gì cả, nhưng họ vẫn không được sống đầy đủ tự do và sung sướng. - Các nhà cải cách cố gắng thay đổi tình trạng sinh sống của những người nghèo khó Nhiều thanh niên cũng như phụ nữ khắp trong đất nước đều muốn rằng cần phải thực hiện một vài điều để cải thiện tình trạng sinh sống này. Những người này gọi là những người cải cách. Khi những người cải cách thấy rằng những tình trạng sinh sống mà họ cho rằng tội lỗi hay phi dân chủ thì họ cố gắng thay đổi hay cải cách. Họ viết sách, báo nói rõ những gì mà họ cho là lầm lẫn, và những gì mà họ cho rằng cần phải sửa đổi. Họ tổ chức những buổi họp và dân chúng tấp nập đến nghe họ nói chuyện, diễn thuyết. Họ soạn thảo những dự luật mới và cố gắng hoạt động để Quốc hội thông qua dự luật này. Những điều kiện sinh sống nào mà các nhà cải cách muốn cải thiện? - Các nhà cải cách ở miền Bắc cố gắng hoạt động để hủy bỏ chế độ nô lệ Một nhóm các nhà cải cách miền Bắc cho rằng một người mà làm chủ một người khác thì thật là một điều lầm lẫn và tội lỗi, và họ khẳng định rằng cần phải hủy bỏ chế độ nô lệ. Những người này được gọi là những người chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ. Một trong những người chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ hăng say nhất là một thanh niên người vùng Tân Anh tên là William Lloyd Garrison. Ông Garrison đi Baltimore thuộc tiểu bang Maryland để trợ lực, quản trị tờ báo chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ. Tại đây, ông đem hết cố gắng ra thuyết phục dân chúng rằng chế độ nô lệ là tội lỗi và lầm lẫn. Tờ báo này không thành công nhưng trong số báo chót, ông Garrison viết: “Khi mà hai triệu đồng bào của tôi còn mang gông cùm xiềng xích nô lệ thì tôi nhất định không thể ngừng viết cũng như không ai có thể đàn áp được tiếng nói của tôi, và tim tôi còn rướm máu…” Garrison trở về Massachusetts vào ngày mùng một tháng một năm 1831, ông cho xuất bản tờ báo giải phóng. Trong tờ báo này, ông hét lên rằng “Tôi thành thật- tôi không nói mập mờ nước đôi – và người ta sẽ nghe tôi nói”. Những lời lẽ giận dữ của ông Garrison chống lại chế độ nô lệ đã gây căm thù ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Và hậu quả là ông bị dân chúng đánh đập ở ngoài đường phố ở Boston. Dù sao đi nữa, ông vẫn cương quyết chiến đấu chống lại chế độ nô lệ bằng mọi cách qua báo chí, truyền đơn, bạn bè, diễn thuyết và hội thảo. Một vị lãnh tụ chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ khác là ông Theodore D. Weld, một thanh niên rất đứng đắn, nghiêm nghị, từ nhỏ đã muốn trở thành mục sư. Ông Weld và một số bạn bè đi lang thang từ làng này đến làng khác ở Ohio để giảng thuyết về chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ. Lúc đầu, dân chúng không thích vậy. Người ta chen chúc đến đầy phòng và gây ồn ào dữ dội đến nỗi không ai có thể nghe được ông Weld nói gì. Người ta ném đá và trứng vào ông. Nhưng ông Weld cũng như bạn bè của ông đều không nản lòng như ông Garrison. Họ xuất bản báo chí và thành lập nhiều hội đoàn chống chế độ nô lệ. Trong ít năm, kết quả công trình của các ông Garrison, Weld và những người theo chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ đã trở thành một nhóm người có thế lực hoạt động ở miền Bắc. Phong trào chống chế độ nô lệ khởi đầu chỉ là một trong nhiều hình thức cải cách. Nhưng sau đó nó đã gây xúc động và mạnh hơn bất kỳ phong trào cải cách nào khác. Trong chương XIX, chúng ta sẽ thấy chính phong trào này đã ảnh hưởng đến cuộc chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam. - Những nhà cải cách muốn cải thiện đời sống của những người tù tội và bịnh hoạn thần kinh Vào đầu thế kỷ thứ XIX, dù ai mắc phải tội không đáng kể cũng bị bắt bỏ tù. Những người ở trong tù bị đối xử rất tàn ác. Mãi tới khi mãn hạn tù người ta mới chịu giúp đỡ những người này một chút ít để hoàn thiện và giúp họ trở nên người hữu ích cho xã hội. Tình trạng sinh sống ở trong chốn lao tù thường rất tệ. Nhà tù thì bẩn thỉu, dơ dáy, các tù nhân thì không được ăn uống sạch sẽ, thiếu thuốc men. Họ không phải làm gì, và cũng không có gì để cho họ giải trí. Nhiều thanh niên phụ nữ trẻ tuổi chỉ mắc một lỗi lầm nhỏ nhặt cũng bị bắt nhốt chung với những tội nhân lão luyện. Nhiều người trước kia không quá tệ, nhưng khi mãn hạn tù ra lại trở thành những người quá ư xấu xa tệ hại. Những người bị bịnh tinh thần cũng bị đối xử khắt khe và tàn ác. Ngày nay, chúng ta cho rằng tình trạng mất trí là một bệnh thần kinh. Chúng ta nghĩ rằng những người bị bệnh thần kinh, mất trí khôn này không có gì đáng trách giống như những người bị bệnh tật về thể xác. Nhưng ngày xưa, tình trạng mất trí bị coi như là một sự ô nhục. Những người bị bịnh mất trí thường bị giam giữ trong một khu vực riêng rất tồi tệ. Đôi khi họ bị xiềng xích. Thân hình họ thì dơ dáy, quần áo tả tơi, không được cho ăn uống đầy đủ. Những người trông coi khu vực này thường chế nhạo họ và đối xử với họ rất tàn nhẫn. Một số những nhà nhân đạo đã suy nghĩ rất nhiều và chú ý đến nỗi đau khổ của tù nhân và của những người mất trí này. Nổi tiếng nhất trong những người giàu lòng bác ái này là một phụ nữ ở Massachusetts tên là Dorothea Dix. Cô Dix đi diễn thuyết và viết sách báo, nói rõ về tình cảnh khốn khổ của tù nhân và những người bị mắc bịnh mất trí. Nhờ những cố gắng hoạt động của cô mà có nhiều hội đoàn được thành lập để nghiên cứu những biện pháp đối xử với những tù nhân và những người mất trí cho được tốt đẹp hơn. Sự trừng phạt đối với tội nhân trở nên ít tàn ác hơn. Người ta cho xây nhiều nhà thương điên cho những người bị bịnh mất trí. Từ đó, công trình do cô Dix khởi xướng được tiếp tục thực hiện cho đến ngày nay. - Giúp đỡ những người mù Ông Samuel Howe cũng là một người rất thích giúp đỡ những người kém may mắn. Tình trạng của những người mù khiến cho ông rất xúc động. Ông ước mong họ phải được dạy dỗ và rèn luyện để cho họ có thể nhờ đó mà kiếm kế sinh nhai, và có thể sống được cuộc đời hữu ích cho đời. Đầu thập niên 1830, ông Howe cổ động gây quỹ để bắt đầu hoạt động cho công việc này. Ông khởi lập viện Perkins cho những người mù ở Boston, và tại viện này có hàng ngàn người mù được săn sóc và huấn luyện về những cách trao đổi. Từ đó, có thêm nhiều tổ chức giúp đỡ người mù. - Những nhà lãnh tụ tiết độ hoạt động chống uống rượu Nhiều người cũng chú ý đến bệnh uống rượu. Những nạn nhân của bịnh rượu thường mất công ăn việc làm và nhiều khi họ còn can phạm nhiều tội trạng. Người nghiện rượu thường mang đau khổ lại cho gia đình và bị chính gia đình họ ghét bỏ. Lúc bấy giờ, nhiều hội đoàn tiết độ được thành lập để bài trừ tình trạng tệ hại này. Những hội đoàn này tích cực dạy cho dân chúng hiểu rõ cái hậu quả tai hại của rượu, và cố gắng thuyết phục họ bỏ uống rượu. Một số người chủ trương tiết độ còn đi xa hơn nữa bằng cách tìm cách để các cơ quan lập pháp của các tiểu bang thông qua các đạo luật về bán rượu. Năm 1846, tiểu bang Maine thông qua luật cấm bán rượu và sau đó nhiều tiểu bang cũng theo gương tiểu bang Maine. - Phụ nữ tranh đấu đòi quyền bình đẳng cũng như nam công dân Trong số những người tham gia phong trào tiết độ và các phong trào cải cách khác, có nhiều người là phụ nữ. Nhưng các bà thấy rằng dân chúng không chịu nghe theo lời thuyết phục của các bà. Dù rằng càng ngày càng có nhiều thiếu nữ và các bà làm việc trong các xưởng máy và xí nghiệp, nhưng đa số dân chúng vẫn còn cho rằng công việc của các bà là ở trong gia đình. Phụ nữ vẫn còn không được hưởng các quyền tự do như thanh niên. Phụ nữ không thể học cao được và không được phép làm một số lớn công việc. Phụ nữ không được đi bầu. Khi một người phụ nữ có chồng thì người chồng được quyền điều hành tất cả tài sản của người vợ. Khi một người phụ nữ tích cực hoạt động ở các nơi công cộng, hay trình bày tư tưởng của họ với dân chúng thì dân chúng bực bội cằn nhằn. Khi các bà phụ nữ tham gia phong trào cải cách này hay phong trào cải cách nào khác thì các bà cũng lo tranh đấu cho chính các bà cũng như cho những chị em phụ nữ khác được thêm quyền tự do. Năm 1848, hội nghị tranh đấu cho quyền tự do của phụ nữ nhóm họp tại Seneca Falls, thuộc tiểu bang New York. Đại biểu phái đoàn soạn thảo một bản tuyên ngôn đòi quyền được hưởng tất cả đặc quyền của công dân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, phải mất nhiều năm nữa phụ nữ Hoa Kỳ mới được hưởng quyền bình đẳng như đàn ông. ¨ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐƯỢC ĐẶT LÊN HÀNG ĐẦU Chúng ta thấy rằng từ thời Tổng thống Andrew Jackson trở về sau, nhiều nhà trí giả thấy rằng có nhiều vấn đề cần phải được cải thiện. Một trong những vấn đề này mà nhiều người hằng quan tâm đến nhiều nhất là vấn đề giáo dục. Vấn đề giáo dục rất quan trọng trong chế độ dân chủ. Vì rằng tất cả mọi người đều có quyền đi bầu và tham dự vào chính quyền thì tất cả mọi người phải biết đọc, biết viết và thông hiểu mọi tin tức cần thiết đối với chính quyền cũng như đối với đời sống hàng ngày. - Giáo dục công lập từ từ khởi tiến Vào đầu thế kỷ thứ XIX, người ta rất ít có cơ hội để học hỏi. Điều đó dĩ nhiên là một sự thật, và từ lâu, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề giáo dục và đã không ngừng tìm cách để cải cách. Các bạn còn nhớ là những người mới đến định cư lúc đầu ở đất nước này đã thiết lập nhiều loại trường học. Sau này sắc lệnh Tây Bắc được ban hành, sắc lệnh này định rằng kiến thức rất cần thiết cho một chính quyền tốt và cho hạnh phúc con người. Sắc luật này cũng định rằng trong các lãnh thổ miền Tây Bắc “trường học và các phương tiện giáo dục phải luôn luôn được khuyến khích”. Tại Virginia ông Thomas Jefferson cố gắng khởi lập một hệ thống học đường có thể giúp các con em gia đình nghèo. Tư tưởng về giáo dục của ông Jefferson đã tiến xa và quá nhanh so với thời đại của ông. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân cho nên không có một kế hoạch nào dự trù việc học vấn cho những người học hành tiến bộ. Ở miền Tây, nhiều gia đình phải vật lộn tranh đấu trong hoàn cảnh khó khăn để tạo dựng nhà cửa cho nên họ không có thời giờ để suy nghĩ về vấn đề học hành. Ở miền Nam, chỉ có những người con nhà giàu có mới được đi học nhiều. Như các bạn đã biết ở miền Bắc, đặc biệt là ở miền Tân Anh đã thiết lập được nhiều trường công lập. Nhưng trong thời gian chiến tranh cách mạng và những năm bất ổn sau đó đã gây nhiều hậu quả tai hại cho những trường học này. Các vị phụ huynh có khả năng cho con đi học lại thì lại cho con đi học ở các trường tư thục. Nhiều tiểu bang lại đòi hỏi các phụ huynh phải đóng góp các phí tổn trong việc điều hành các trường học công lập. Các vị phụ huynh nghèo khó chỉ có thể gửi con em đi học ở các trường hoc này nếu họ bằng lòng chấp nhận những lời tuyên thệ của người nghèo khó. Họ phải tuyên bố rằng vì họ quá nghèo nên không thể nào trả được một phần nào chi phí cho việc học con em của họ. Chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy có nhiều người nghèo thà để con em họ không theo học ở các trường này còn hơn là họ phải tuyên thệ như vậy. Trong thập niên 1830, dân chúng bắt đầu đòi hỏi phải dùng tiền thuế để trang trải cho chi phí về giáo dục. Giai cấp công nhân cho rằng con cái họ phải được học hành. Họ nghĩ rằng việc học hành cũng như việc bầu cử phải được tất cả mọi người tham dự. - Thiết lập các trường công lập miễn phí Nhà lãnh tụ tranh đấu hăng say nhất cho việc cải thiện giáo dục là ông Horace Mann. Với tư cách là bộ trưởng giáo dục của tiểu bang Massachusetts, ông Mann khẳng định rằng phải có các trường công lập miễn phí cho tất cả học sinh con nhà giàu cũng như con nhà nghèo. Không phải là tất cả mọi người đều đồng ý với ông Mann. Lúc đầu, những người giàu có nói rằng: “Tại sao chúng ta lại phải đóng thuế để trả chi phí học hành cho con em những người nghèo khó?” Nhưng dần dần về sau ý kiến về vấn đề giáo dục của ông Mann được những người đóng thuế ủng hộ và chấp nhận. Đồng thời, ông Mann cũng cho lập nhiều trường sư phạm để huấn luyện giáo chức. Các nhà lãnh đạo ở các tiểu bang khác cũng cố gắng hoạt động để cải thiện giáo dục trong tiểu bang của họ. Thời gian học được kéo dài hơn, nhiều môn học mới được thêm vào chương trình, đồng thời sách giáo khoa cũng được cải thiện. Vào năm 1850, hầu hết các tiểu bang miền Bắc đều sử dụng tiền thuế để tài trợ cho vấn đề giáo dục bậc tiểu học. Mục đích chính của công cuộc tranh đấu cho giáo dục miễn phí là nhằm vào bậc tiểu học. Tuy nhiên, cũng vào trong thời kỳ này, nhiều trẻ em cũng được giúp đỡ để tiếp tục đi học thêm. Boston đã thiết lập trường trung học đầu tiên vào năm 1851, và sau đó, các tỉnh khác ở miền Bắc cũng theo gương Boston mà thiết lập các trường trung học. Rồi người ta thành lập thêm đại học. Tại các trường đại học, thay vì chỉ chuẩn bị cho sinh viên trở thành các mục sư thì bây giờ người ta thêm vào chương trình những môn học như môn sử và môn luật. Hơn nữa, các em thiếu nữ cũng thấy rằng họ được dễ dàng hơn trong việc theo đuổi học hành. Trước kia, người ta cho rằng phụ nữ không cần phải học cao hơn bậc tiểu học. Bây giờ các trường tư thục sẵn sàng thu nhận nữ học sinh, và một số trường đại học thâu nhận nữ sinh viên. ¨ CƠ HỘI ĐỌC SÁCH GIA TĂNG Cũng trong thời kỳ mà trẻ em Hoa Kỳ thấy rằng có thêm nhiều cơ hội để đi học thì những em lớn tuổi hơn lại thấy rằng có nhiều cơ hội để đọc sách báo. Số giờ làm việc trong một ngày của đa số dân miền Bắc cũng như ở miền Nam không còn quá dài nên họ có thêm thời giờ để đọc sách báo. Phương cách sử dụng đèn thắp sáng cũng được hoàn hảo tốt đẹp hơn đã làm cho việc đọc sách báo trong những buổi chiều tối được dễ dàng hơn. Điều quan trọng hơn cả là có nhiều thứ để đọc. - Các nhà văn Hoa Kỳ tạo nên nền tảng văn chương Hoa Kỳ Sử gia, văn sĩ Hoa Kỳ bắt đầu viết về lịch sử Hoa Kỳ cũng như về đời sống của người dân Hoa Kỳ. Vì rằng người Hoa Kỳ rất hãnh diện về đời sống của họ, cho nên có rất nhiều người ham đọc những tác phẩm này. Một số trong những tác phẩm đầu tiên do Washington Irving và James Fenimore Cooper viết, cả hai ông đều là người New York. Chuyện “Thung lũng ngũ và Rip Van Winkle” của ông Irving không những là chuyện thích thú mà còn nói lên được đời sống ở vùng thung lũng sông Hudson như thế nào. Cooper viết những chuyện thích thú về người da đỏ và những người sinh sống ở vùng biên cương. Cho tới ngày nay thiếu niên Hoa Kỳ còn đọc chuyện “The last of the Mohicans” và chuyện “Deerslayer”. Một văn sĩ của miền Nam là ông William Gilmore Simms thuộc tiểu bang South Carolina viết rất nhiều tiểu thuyết nói về cách sinh hoạt của dân miền Nam. Ông Edgar Allan Poe, một người sinh ra và lớn lên ở Virginia, sáng tác những bài thơ buồn và đẹp. Dân chúng ngày nay vẫn còn đọc những bài thơ “The Raven và Annabel Lee”. Ông Poe cũng nổi tiếng viết về những chuyện ngắn định mệnh cũng như các chuyện “The tell Tale Heart” và những chuyện trinh thám đầu tiên như là chuyện “The gold Bug”. Nhiều văn thi sĩ nổi tiếng lúc bấy giờ cư ngụ ở gần Boston. Ông Henry Wadsworth Longfellow là một trong những người cư ngụ ở thành phố Boston. Những bài thơ của ông như bài “Hiawatha, Evangeline, Paul Revere’s Ride” (bài thơ này đã trích dẫn một phần ở chương VIII) và bài “ The Courtship of Miles Standish”, đã làm cho độc giả vô cùng thích thú. Ông John Greenlear Whittier không những là tác giả những bài thơ ca tụng vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn có biệt tài khởi động tinh thần chống chế độ nô lệ cũng như chống chiến tranh. Ông được mệnh danh là nhà thơ chủ trương hủy bỏ nô lệ. Nathaniel Hawthorne viết về đời sống thời thuộc địa ở miền Tân Anh. Oliver Wendell Holmes được kể như là người viết những bài hài hước trong đó ông bông đùa, chế nhạo những nhân vật và những biến cố xấu xa trong thời đó. Có lẽ nhà văn nổi tiếng nhất ở vùng Tân Anh là ông Ralph Waldo Emerson. Emerson không viết tiểu thuyết hay truyện ngắn. Ông là một tư tưởng gia phân tách những điều hay điều dở trong đời sống Hoa Kỳ. Ông cho rằng mọi người đều có khả năng để sống một đời sống đáng sống. Ông rất tin tưởng vào tương lai của Hoa Kỳ. - Việc ấn hành báo chí rẻ tiền Đầu thập niên năm 1830, đã có nhiều người Hoa Kỳ có thể hiểu biết rõ những gì xảy ra hàng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Nhưng tờ báo lúc đầu giá quá mắc cho nên bán không được nhiều. Năm 1833, nhóm New York Sun cho xuất bản một nhật báo đem bán khắp các góc đường với giá một xu một tờ. Tờ báo này rất thành công khiến cho nhiều tờ báo khác cũng xuất bản hàng ngày và hạ giá xuống còn có một xu. Khi điện tín được sử dụng thì tin tức từ những nơi xa xôi được gửi về rất mau chóng. Người ta lại phát minh ra cách thức ấn loát mới hữu hiệu hơn. Vì những thay đổi này mà một người dân trung bình mỗi ngày có thể mua báo đọc và hiểu biết nhiều tin tức hơn là các vị vua chúa ngày xưa, dù là các ông này có đủ khả năng để cai trị một quốc gia cũng không hiểu biết nhiều bằng người dân trung bình Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Những công cuộc cải tiến và cải cách này cho ta thấy những đặc tính của Hoa Kỳ bắt đầu thay đổi. Dù rằng người Hoa Kỳ còn phải bận rộn trong công việc kiếm kế sinh nhai, nhưng họ cũng dành nhiều thời giờ cho việc khác. Họ có thì giờ đọc sách báo và tìm kiếm trường học cho con em của họ. Người Hoa Kỳ cũng bắt đầu cảm thấy có trách nhiệm đối với những người không được may mắn lại bị đối xử bất công. Họ muốn cứu giúp những người tàn tật, bệnh hoạn và yếu ớt. ¨ PHẦN NĂM CÁC CHÍNH ĐẢNG TRANH ĐẤU ĐỂ GIÀNH QUYỀN KIỂM SOÁT CHÍNH QUYỀN NHƯ THẾ NÀO? - Hai chính đảng mới phát triển Song song với những sự thay đổi trong đời sống Hoa Kỳ như vừa mới nói ở trên đây là sự thay đổi trong các đảng phái chính trị. Sau khi ông Monroe lên làm Tổng thống, đảng Liên bang kể như là không còn nữa. Trong thời gian mấy năm sau đó chỉ có một đảng chính trị. Đó là đảng Cộng Hòa Dân chủ, gọi tắt là đảng Cộng Hòa. Tuy nhiên, sau khi ông Monroe rời khỏi chức vụ Tổng thống thì đảng Cộng Hòa Dân chủ bị phân hóa làm hai phái. Trong thời kỳ thập niên 1830, người ta thấy những người bạn và những người ủng hộ ông Andrew Jackson kết hợp thành một nhóm gọi là đảng Dân chủ. Có nhiều người đã từng trước kia ủng hộ ông Thomas Jefferson bây giờ trở thành đảng viên đảng Dân chủ. Đảng này chủ trương giảm hạ thuế nhập cảng, tranh đấu để tăng quyền cho các tiểu bang và chống lại chính phủ trung ương mạnh. Nhiều người miền Nam và nhiều người miền Tây gia nhập đảng Dân chủ. Những người không thích “Vua Andrew I” (Họ gọi ông Andrew Jackson như vậy) thành lập một chính đảng chống lại ông và chủ trương của ông. Đảng này lúc đầu gọi là đảng Cộng Hòa Quốc gia nhưng sau này người ta gọi là đảng Tự do. Đảng này chủ trương nâng cao thuế mậu dịch và tranh đấu cho chính quyền Liên bang mạnh. Nhiều cựu đảng viên đảng liên bang và những người có cùng chủ trương gia nhập đảng này. Đảng Tự Do rất mạnh ở miền Đông. - Ông Martin Van Buren lên làm Tổng thống kế tiếp ông Andrew Jackson Khi gần mãn nhiệm kỳ Tổng thống thứ hai, ông Jackson cho đảng Dân chủ hay ông mong muốn vị Phó Tổng thống của ông là ông Martin Van Buren thuộc tiểu bang New York lên làm Tổng thống kế tiếp ông. Năm 1836, các đảng viên đảng Dân chủ bầu ông Van Buren làm Tổng thống một cách dễ dàng. Mặc dầu ông Van Buren là một chính trị gia giỏi, nhưng thời gian nhiệm kỳ Tổng thống của ông là thời gian bất hạnh. Thật là ít khi xảy ra, nhưng ông đã nhậm chức đúng vào lúc quốc gia đang gặp phải cuộc khủng hoảng về tài chánh. Đất nước đang sống trong khó khăn và lo sợ. - Quốc gia Hoa Kỳ phồn thịnh vào đầu thập niên 1830 Tại Hoa Kỳ, theo sau thời gian phồn thịnh là thời kỳ khủng hoảng. Tại miền Tây, có một thời có một phong trào mua đất của chính phủ. Nhiều người mua đất đai không có ý định trồng trọt hay canh tác, họ chỉ mua đất để rồi sau này lại bán lại để kiếm lời. Những người buôn bán như vậy gọi là những người đầu cơ. Không có tiền, họ phải đi vay tiền giấy do các nhà ngân hàng miền Tây phát hành để trả tiền đất. Tuy nhiên, có nhiều nhà ngân hàng này mệnh danh là những nhà ngân hàng mèo rừng (Wildcat banks) đã phát hành tiền giấy mà không có đủ vàng bạc để bảo đảm. Vào khi mà mọi sự việc xảy ra đều tốt đẹp, giá đất đai ở miền Tây lên cao, họ kiếm được rất nhiều tiền lời. Ở miền Nam người ta càng ngày càng trồng nhiều bông hơn và như vậy càng ngày họ càng có thể bán được nhiều bông cho các xưởng kỹ nghệ Anh. Thế có nghĩa là miền Nam rất là trù phú và thịnh vượng. Nông dân miền Tây bán được rất nhiều nông phẩm cho miền Nam và cũng trở nên giàu có. Sẵn tiền, dân miền Nam và miền Tây tiêu thụ nhiều hàng hóa kỹ nghệ của miền Đông. Nhiều xí nghiệp mới được thiết lập. Lúc đó, khắp nơi trong toàn quốc đều trở nên sầm uất, trù phú. Ngay cả Anh quốc cũng ảnh hưởng đến sự phồn thịnh này, vì rằng người Hoa Kỳ mua rất nhiều đồ xa xỉ và các loại hàng hóa khác của các thương gia người Anh. - Sự thịnh vượng chấm dứt vào thời kỳ khủng hoảng trong năm 1837 Thời kỳ thịnh vượng bỗng nhiên chấm dứt, và tiếp theo đó là cuộc khủng hoảng tài chánh. Một trong những nguyên nhân cho cuộc khủng hoảng này là do Tổng thống Jackson trước khi rời tòa Bạch Ốc gây ra. Ông loan báo rằng những người mua đất ở miền Tây của chính phủ liên bang phải trả bằng vàng hay bằng bạc chứ không được trả bằng tiền giấy nữa. Khi những người đầu cơ đất đến các ngân hàng mèo rừng để vay vàng hay bạc thì không vay được. Vì thế cho nên những người đầu cơ đất bắt đầu bán đất đai của họ, và giá đất hạ xuống ghê gớm. Đồng thời, dân chúng trở nên lo sợ khi họ thấy rằng chính phủ không tin tưởng ở tiền giấy do các nhà ngân hàng miền Tây phát hành. Người ta đổ xô đến các nhà ngân hàng để đổi tiền giấy lấy vàng hay bạc. Không bao lâu mối lo sợ này lan tràn sang miền Đông. Khắp mọi nơi ở đâu dân chúng cũng đòi tiền bằng vàng hay bằng bạc. Các nhà ngân hàng miền Tây phải đóng cửa vì họ không thể trả bằng vàng hay bạc cho dân chúng để thâu hồi tiền giấy. - Thời kỳ khó khăn lan rộng Các thương gia và các kỹ nghệ gia người Anh phải chịu thiệt hại vì không thể thâu hồi các khoản tiền nợ do các nhà kinh doanh Hoa Kỳ còn thiếu. Các kỹ nghệ gia Hoa Kỳ phải đóng cửa các xí nghiệp vì dân chúng không thể mua hàng hóa của họ được nữa. Xí nghiệp đóng cửa thì công nhân và nhiều người khác mất công ăn việc làm. Các nhà chuyên trồng bông cũng bị thiệt hại nặng nề vì rằng các kỹ nghệ gia người Anh không còn mua bông của họ được nữa. Nông dân miền Tây cũng trở nên nghèo khó, vì rằng miền Nam không còn mua sản phẩm của họ nữa. - Đảng Whig (Tự Do) bầu ông Harrison và Tyler vào liên danh ứng cử Tổng thống Nhiều người đã quy trách nhiệm về cuộc khủng hoảng vào năm 1837 cho ông Martin Van Buren bất hạnh, nhất là đảng Whig. Cuộc bầu cử Tổng thống vào năm 1840, đảng Whig đề cử ông William Henry Harrison, người Ohio, làm ứng cử viên Tổng thống, và ông John Tyler, người Virginia làm ứng cử viên Phó Tổng thống. Lúc đó ông Harrison đã được 67 tuổi, ông đã nổi tiếng khi ông còn là một tướng lãnh trong quân đội. Năm 1811, ông chỉ huy đạo quân đánh bại quân da đỏ tại sông Tippecanoe ở Indiana. Ông cũng đã chiến đấu rất hăng và rất giỏi trong trận chiến tranh 1812. Đảng Whig đề cao thành tích quân sự và biệt hiệu của “Old Tippecanoe”. Đảng này mở một chiến dịch ồn ào với những cuộc diễu hành rầm rộ và hăng say cổ võ trong các cuộc diễn thuyết ở nơi công cộng. Họ hô lớn khẩu hiệu: “Tippecanoe và Tyler nữa”, liền theo đó những tiếng la của họ là những tiếng reo hò chiến thắng của họ trong cuộc bầu cử này. Ông William Henry Harrison là vị Tổng thống đầu tiên do đảng Whig bầu lên. Ông cũng là vị Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ chết khi còn tại chức. Vì quá mệt nhọc trong kỳ vận động tranh cử cho nên sau ngày tuyên thệ nhậm chức được một tháng thì ông từ trần. Phó Tổng thống John Tyler lên thay thế. Nhưng ông Tyler lại là người không vững tin vào đường lối chủ trương của đảng Whig. Ông được đề cử vào chức vụ Phó Tổng thống chỉ vì để chiếm phiếu trong đám cử tri miền Nam, nếu không thì dân miền Nam sẽ không dồn phiếu cho ông Harrison. Ông Tyler tranh chấp dữ dội với các lãnh tụ đảng Whig cũng như với Quốc hội. Sự tranh chấp ở trong đảng Whig gây ra hậu quả tai hại là đảng Whig bị đánh bại trong cuộc bầu cử vào năm 1844. Bốn năm sau đó, ứng cử viên khác của đảng Whig đắc cử Tổng thống, nhưng vào thập niên 1850, đảng này biến mất. Trong khi đó thì đảng Dân chủ vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Chú thích: [10] Chúng ta nên nhớ rằng vào thời kỳ Hoa Kỳ mới lập quốc, vì đất đai rẻ cho nên người ta dễ dàng có đất, vì thế mà những điều kiện bầu cử này cũng không quá khó khăn. (xem tiếp : Chương XVIII) Trang Lịch Sử |