Chân Dung "Người Việt Quốc Gia"

Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN12.php

bản in mục lục đăng ngày 08 tháng 6, 2008

Toàn tập: Dàn bài

CHƯƠNG 12

Hình Ảnh Của Người Việt Quốc Gia

Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

Trước 30 Tháng 4 Năm 1975

 

Trong Chương này:


A.- Sự Giống Nhau Về Những Hành Động Ngược Ngạo Của Giáo Hội La Mã Và Người Việt Quốc Gia

B.- Hình ảnh Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ Và Người Việt Quốc Gia ở Trong Nước Từ Ngày 5/6/1948 Đến Ngày 30/4/1975


 

Chính quyền Quốc Gia do Liên Minh Đế Quốc Xâm Lược Pháp – Vatican  và lá cờ vàng ba sọc đỏ được cho ra đời vào cùng một thời điểm là ngày 5/6/1948 (có sách ghi là ngày 2/6/1948), đều do Pháp và Vatican dựng nên  làm công cụ phục vụ cho nhu cầu đối phó với tình thế lúc bấy giờ. Kể từ đó,  những người tự nhận là người Việt Quốc Gia và lá cờ vàng ba sọc đỏ giống như bóng với hình, luôn luôn khắng khít dính liền nhau. Ở đâu có những người tự nhân là người Việt Quốc Gia là ở đó có lá cờ vàng ba sọc đỏ. Ngược lại, ở đâu có lác cờ vàng ba sọc đỏ là ở đó có một người hay một nhóm người tự nhận là người Việt Quốc Gia. Cũng cần nên biết là khi có một người hay một nhóm người trương cờ vàng ba sọc đỏ tự nói ra hay lớn tiếng tuyên bố rằng họ là “người Việt Quốc Gia”, thì phải hiểu rằng họ đang có ý định muốn khẳng định một cái gì, có thể là một việc làm hay họ đang hành động cho cái “lý tưởng Quốc Gia” của họ. Nói cho rõ hơn, khi họ khẳng định một cái gì hay làm  một việc gì  cho “cái lý tưởng Quốc Gia” của họ,  họ đều nhân danh là “người Việt Quốc Gia” và thường thường là có lá cờ vàng ba sọc đỏ ở bên cạnh họ. Cũng vì thế mà khi nói đến lá cờ vàng ba sọc đỏ và người Việt Quốc Gia là nói phải nói đến hình ảnh hay cảm nghĩ của người dân Việt ở trong nước cũng như ở hải ngoại và của người nước ngoài đối với nhóm người này  cũng như đối với lá cờ này.

Có một điều hết sức quái đản là ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 cần phải nói ra đây để mọi người biết rõ bộ mặt thật của những người Việt Quốc Gia, những đứa con đẻ của Liên Minh Xâm Lược Phap – Vatican và được Hoa Kỳ nuôi dưỡng cho đến ngày 30/4/1975. Sự thật đó là ông quan trong chính quyền  và quân đội của người Việt Quốc Gia,  đặc biệt là các  ông khóm trưởng, phường trường, quận trưởng,  các ông cảnh sát, mật vụ, công an và an ninh quân đội thường hay kiếm chuyện để moi tiền người dân thấp cổ bé miệng hoặc là nạt nộ, đánh đập nhân viên dưới quyền để làm oai lấy le với phụ nữ. Dưới đây là một vài chuyện điển hình:

1.-  Chuyện  các quan Người Việt Quốc Gia trong phường Cộng Hòa toa rập với các ông nhân dân tự vệ ở Khu Chung Cư  Nguyễn Thiện Thuật  hồi năm 1969-1971 cưỡng bách  nhân dân cư ngụ trong phương này trong đó có người viết phải nộp mỗi tháng 600 đồng tiền đóng góp cho  việc giữ gìn an ninh trong khu phố. (Lúc đó tiền lương hàng tháng của một người lính binh nhì chỉ xấp xỉ một ngàn đồng, và lương hàng tháng của một giáo viên Đệ Nhị Cấp hạng A chỉ số 470 chỉ có 12 ngàn đồng.) Người viết đã đem chuyện này trình lên quan Phường Trường Phường Cộng Hòa, thì được quan Phường Trường trả lời rằng:

Việc đóng góp 600 đồng cho việc giữ gìn an ninh là quy luật ở đây. Ai  ở vào tuổi 16 đên 60 cũng đều phải đóng như vậy cả. Nếu ông không muốn đóng góp khoản tiền này, ông có thể dọn nhà đi ở nơi khác. Tôi tin rằng ở nơi khác cũng vậy.

Đúng là  “chuyện con kiến đi kiện củ khoai”. Tại miền Nam Việt Nam, trong những năm 1954, ngoại trừ những ngày tháng từ 2/11/1963 cho đến ngày 19/5/1965, những ông lãnh đạo chính quyền trung ương như anh em  Ngô Đình Diệm [sử gia Alfred W. McCoy gọi là Triều Dại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu (Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits0]  và băng đảng quân nhân của  Nguyễn Văn Thiệu đều là những tay trùm buôn lậu nha phiến (như đã trình bày ở trên) và cũng là tay tổ tham nhũng, thì tất nhiên các chính quyền cấp dưới tại các địa phương làm sao lại không tham nhũng và tìm đủ mọi các để moi tiền của nhân dân? Bởi thế, người dân thấp cổ bé miệng mới thường xuyên bị chèn ép, bị ức hiếp  và bị moi tiền là chuyện đương nhiên không thể tránh được. Đi kiện hay trình thưa mà không có thế lực thì chỉ là mang họa thêm vào thân mà thôi. Câu chuyện trên đây của người viết có người bạn thân t là anh Nguyễn Chí Cường  biết rõ. [Anh Nguyễn Chí Cường cùng dạy học  với người viết dạy tại trường Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá và từ năm 1970 hay 1971 anh được đổi về  dạy tại  Trường Lê Quý Đôn (Trường Jean Jacques Rousseau cũ ?). Hiện nay, anh Nguyễn Chí Cường đang cư ngụ tại thành phố Toronto, đúng hơn là Markham, thuộc Ontario, Canada.]  Chế độ Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa Miền Nam  trong những năm 1954-1975 dân chủ và tự do là như thế đó!

2.- Năm 1974, quan quận trưởng  người Việt Quốc Gia, quận Tân Châu Hà Hữu Viện, một sĩ quan cấp tá, đến một phòng phiếu bất ngờ vào lúc nhân viên đang kiểm phiếu (trong kỳ bầu cử 1974). Có một nhân viên (vốn là giáo viên) không đứng dậy chào (giống như những người khác), ông quận trưởng liền nổi xung với nét mặt hầm hầm tiến đến tát mạnh vào mặt ông giáo viên này trước mặt mọi người ở trong phòng khoảng hơn 10 giáo viên khác trong đó có hơn một nừa là các nữ giáo viên. Danh dự của nhà giáo đã bị các ông quan người Việt Quốc Gia sỉ vả công khai trước công chúng..

Trên đây chỉ là hai chuyện  rất nhỏ trong hàng rừng chuyện cực kỳ ghê tởm của các ông quan người Việt Quốc Gia đã làm trong những năm từ ngày 5/6/1948 cho đến ngày 30/4/1975. Muốn biết thêm hơn nữa về tư cách và hành động của các ông quan Người Việt Quốc Gia, xin tìm đọc cuốn Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX, Đa Nguyên, 2004),  nơi các trang 135-160.

Đến như nhà giáo ở trong hai trường hợp trên đây còn bị các ông quan người Việt Quốc Gia đối xử tồi tệ như vậy, huống chi là những người dân thấp cổ bé miệng khác. Cũng vì thế mà hầu như toàn thể đại khối nhân dân bị trị ở miền Nam Việt Nam không thể nào khứng nổi được những cung cách hành xử vô giáo dục của họ trong những năm 1954-1975, chứ đừng nói chi đến chuyện họ gia nhập vào hàng ngũ Người Việt Quốc Gia dưới quyền lãnh đạo của ba tên Việt gian Ca-tô đầu sỏ Bảo Đai, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu.

Từ mùa hè năm 1975, ở hải ngoại, có một số người mà phần lớn là tín đồ Ca-tô thường tụ tập với nhau, trương cờ vàng ba sọc đỏ, bầu bán chức vụ này chức vụ nọ, rồi tự xưng là  “Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia”. Nham nhở và ngược ngạo hơn nữa là họ tự phong (nhận vơ) là đại diện cho toàn thể người Việt ở tại địa phương đó, rồi hành xử như một chính quyền chuyên chính đối với mọi người Việt tại địa phương của họ. Nói cho rõ hơn, các cộng đồng quái đản này đã trở thành một quốc gia trong xã hội Hoa Kỳ.

Điểm đặc biệt là cung cách hành xử của cái cộng đồng người Việt này đối với người Việt trong cùng một địa phương giống y hệt như chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu đối với người dân Miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Họ ngang nhiên cưỡng bách các cửa tiêm, các chùa chiền của các nhà tu hành Phật Giáo phải treo cờ Vàng Ba Sọc Đỏ để tỏ ra là theo phe Người Việt Quốc Gia của họ. Nếu chùa nào không làm theo ý họ (không treo cờ vàng ba sọc đỏ), lập tức cả ngôi chùa và nhà sư đó  bị họ gán cho (chụp mũ) là “Cộng Sản”, rồi bị họ hãm hại bằng đủ mọi thủ đoạn hết sức lưu manh và cực kỳ là gian ác. Đây là chuyện thật 100% đã và đang xẩy ra ở Bắc Mỹ trong đó có một số ngôi chùa đã trở thành nạn nhân của họ vì không muốn treo cờ vàng. Phần trình bày phần chót của chương sách này chỉ là nói lên một phần nhỏ những tội ác của họ. 

 Ở Bắc Mỹ này, quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng được cả hiến pháp (hiến quyền) và luật pháp bảo vệ, nhưng các ông "quan" này luôn luôn muốn đứng trên pháp luật. Nhiều ông "người Việt Quốc Gia" vẫn còn  sống nhờ vào tiền trợ cấp xã hội, mỗi khi có việc gì cần phải tiếp xúc với người Mỹ còn cần phải có thông dịch viên. Những người này không có một chút quyền lực nào, ấy thế mà họ còn nham nhở và ngược ngạo như vậy! Chả trách nào, trước tháng 4/1975, những quân Việt gian này dựa vào họng súng của Pháp vào Mỹ che chở để tác oai tác quái với nhân dân ta chẳng khác nào những thằng lưu manh. Năm 1954, quân đội Pháp rút lui khỏi Việt Nam, Mỹ vào thay Pháp chiếm cứ miền Nam, họ đi theo Mỹ và sống nhờ sự che chở của Mỹ để tiếp tục tác oai tác quái với nhân đan miền Nạm Việt Nam.  Tháng 4/1975, Mỹ cuốn gói ra đi, họ cũng phải ra đi theo Mỹ. Sang đến Mỹ, ngựa quen  đường cũ, chứng nào tật ấy, họ lại có những hành động nham nhở, ngược ngạo và côn đồ như khi họ còn ở Việt Nam. 

Nói về những hành vi ghê tởm này của họ thì cả đến hàng trăm ngàn trang giấy cũng không nói hết. Nói chung, mỗi khi họ khẳng định hay làm một việc gì  cho cái “lý tưởng Quốc Gia” ghê tởm như vậy của họ đều có ảnh hưởng hay tác dụng đối với những người không nằm trong hàng ngũ của họ. Những hành động tụ tập với nhau thành một đám đông tự nhận là “người Việt Quốc Gia”,  trương cờ vàng ba sọc đỏ, cao rao “quyết tâm giữ vững lằn ranh Quốc – Cộng” rồi kéo nhau đi đến các cơ sở  văn hóa (trường học), tôn giáo (chùa chiền) truyền thông (Viet weekly)  nào mà không treo cờ vang ba sọc đỏ (trường hợp chủa chiền) hay treo cờ đỏ sao vàng (trường hợp trường USC ở California) để làm áp lực vơi người ta phải treo cờ vàng hay phải hạ cở đỏ sao vàng xuống để nhường chỗ cho cờ vàng ba sọ đỏ của họ. Trong khi họ hành xử nham nhở và ngược ngao vậy, nếu có người nào nói lên tiếng nói bất đồng chính kiến với họ hay phản đối việc làm  phản dân chủ, phản tự do, phản nhân quyền như vậy của họ, thì lập tức người đó sẽ trở thành nạn nhân  cho họ chiếu cố để chửi bới bằng những thứ ngôn từ thô bạo của những phường vô học, không khác gì những phường đá ca lăn dưa ở chợ Cầu Muối, Sàigòn trong những năm trước tháng 4/975. Những việc làm ghê tởm này đã tạo nên hình ảnh xấu xa về người Việt hải ngoại đối với người nước ngoài.

Với những hành động ghê tởm như vậy, quả thực, họ đã làm nhục lây cho người Việt Nam (sẻ được nói rõ ở phần sau trong chương sách này). Ở vào trường hợp này, thiết tưởng, nếu họ nhân danh là người Việt Ca-tô hay là dân Chúa, thì  danh dự người Việt Nam đỡ bị thương tổn được phần nào, vì rằng văn hóa Ca-tô là như vậy và nhân dân khắp mọi nơi trên thế giới đều biết như vậy.

 

A.- SỰ GIỐNG NHAU VỀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG

NGƯỢC NGẠO CỦA GIÁO HỘI LA MÃ

VÀ NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA

Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy những hành động tự phong hay nhận vơ là đại diện cho tập thể người Việt ở hải ngoại tại cùng một địa phương của các ông Người Việt Quốc Gia và cung cách hành xử của họ đối với những người Việt không theo phe của họ giống  y hệt như  Giáo Hội La Mã tự phong hay nhận vơ là đại diện duy nhất của Chúa ở trên trái đát này, rồi lại tự phong là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền” và tuyến bố rằng “Ngoài Giáo Hội không thể có sự cứu rỗi.” (Hors de l’ Église, point de salut).

Đối với những người có văn hiến, hành động nhận vơ này của Giáo Hội La Mã quả thật là cực kỳ nham nhở và cực kỳ vô liêm sỉ. Chính vì cái đặc tính này mà Giáo Hội La Mã đã gây ra những rặng núi tội ác chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua. Cũng vì thế mà văn hào Voltaire mới gọi đạo Ca-tô La Mã là “cái tôn giáo ác ôn” và học giả Henri Guillemin mới giọi là “Giáo Hội Khốn Nan”.

Những người tự nhận là người Việt Quốc Gia nhân danh là các Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia đã hành xử đối với người Việt không theo phe của họ y hệt như Giáo Hội La Mã đã hành xử đối với nhân dân dưới quyền  không phải là tín đô Ca-tô từ thế kỷ 4 cho đến ngày nay,  và giống như các chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu đối xử với nhân dân miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975.

Giáo Hội La Mã  không những khinh rẻ và gọi người không phải là tín đồ  Ca-tô là “tà giáo”, là ”man di”, là “mọi rợ” là “dã man” bất kể là họ theo tín ngưỡng nào, rồi phát động những cuộc chiến thập tự, thiết lập những Tòa Án  Dị Giáo (Inquisitions) để tàn sát họ rồi, cướp đoạt tài  sản và của cải của họ. Tại những địa phương mà quyền lực vừa mới vươn tới, Giáo Hội cho thiết lập  chế độ đạo phiệt Ca-tô rồi tiến hành “kế hoạch Ki-tô hóa”  bằng bạo lực vừa để cưỡng bách họ phải theo đạo Ki-tô vừa để tàn sát họ nếu họ không chịu cúi đầu khuất phục. Tương tự như vậy, các tổ chức cộng đồng Người Việt Quốc Gia cũng gọi những người Việt hải ngoại không đứng trong hàng ngũ với họ là Cộng Sản, là Cộng Sản nằm vùng, là Việt gian Cộng Sản, rồi rồi hãm hại họ bằng đủ mọi thủ đoạn lưu manh  nhất và đê tiện nhất.

 Lịch sử cho thấy rằng, những dân tộc mà Giáo Hội gán cho là dân bán khai, dân man di, dân mọi rợ, dân thờ tà thần thì lại là các dân tộc có văn hiến và đã sản xuất ra không biết bao nhiêu là những vĩ nhân và danh nhân trên thế giới. Những vĩ nhân và danh nhân như Khổng Tử (551 BC- 479 BC),  Mạnh Tử (372 BC – 289 BC), Lão Tử (604 BC – 531 BC), Đức Phật (563 BC - 483 BC), Socrates (470 BC – 399 BC), Aristocles tức Plato (427 BC – 347 BC), Vương An Thạch (1021 – 1086), Tô Hiến Thành (? – 1179), Trần Hưng Đạo (1228-1300), Chu Văn An (1292-1370), Nguyễn Trãi (1380-1442), Vương Thủ Nhân tức (Vương Dương Minh (1619-1692), Galileo Gallilei (1564-1642), John Lock (1632-1704),  Voltaire (1694-1778),  Dennis Diderot (1713-1784), Montesquieu (1689-1755) Jean Jacques Rousseau (1712-1788), Karl Marx (1818-1883) Frederick Engels (1820-1895), Victor Hugo (1802-1885), Thomas Paine (1737-1809, Thomas  Jefferson (1743-1826), Mahatma Gandhi (1869-1948), Charles Robert Darwin (1809-1882), Nguyễn Thiếp La Sơn Phu Tử (1723-1804), Quang Trung (1752-1792), Ngô Thời Nhậm (1746-1803), Hồ Chí Minh (1890-1969), Võ Nguyên Giáp (1912- ), v.v… đều là những người không phải là tín đồ Ca-tô trong đó có một số là nạn nhân khốn khổ của Giáo Hội La Mã.

Trong khi đó thì, Giáo Hội tự  phong là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền”, các giáo hoàng tự phong là  “đại diện Chúa”  (vicars of Christ) rồi lại tự xưng là “không bao giờ lầm lẫn”, nhưng lại cưỡng bách tín đồ phải gọi là “Đức Thánh Cha”. Thế cũng chưa đủ, Vatican tự phong cho tất cả các tu sĩ từ giáo hoàng xuống tới linh mục đểu là  “những người mang chức thánh và là đại diện Chúa ở bất  kỳ nơi nào họ có mặt và vào bất cứ giờ giấc nào”. Còn nữa, Giáo Hội vơ vào lòng tất cả những gì là thánh, là thiện, là tuyệt vời,  là cao cả, và tất cả cái gi không phải của Giáo Hội hay không thuộc về Giáo Hội đều xấu xa, đều tội ác.

Trong khi bộ máy tuyên truyền luôn luôn lớn tiếng tô hồng chuốt lục cho Giáo Hội và các ngài tu sĩ trong Giáo Hội từ giáo Hoàng cho xuống đến các ông linh mục bạch đinh đều là thánh thiện tuyệt vời và có thánh linh soi sáng và cái gì thuộc về Giáo Hội cũng tốt đẹp tuốt luốt, thì lịch sử cũng như trong thục tếi cho thấy rằng không biết bao nhiêu giáo hoàng và tu sĩ đã hành xử như là những thằng ác quỷ, mất dạy, loạn dâm, loạn luân, làm tình cả với mẹ ruột, làm tình với cả con gái ruột, làm tình với cả chị em gái ruột và giết người không gớm tay, đốt đuốc cũng không tìm ra thấy chỗ nào là lương tâm của họ. Sách Gia Tô Thực Dân Sử Liệu (The Documented History of Catholic Colonialism) viết:

"Giáo Hoàng Felix III (483-492)  trong thời gian là giáo hoàng có tới 3 người con (3 người con này đều chết cả…)" (tr. 103), "Giáo Hoàng Adrian II (867-872) sống chung với vợ và con gái ở điện Lateran." (tr. 105), "Giáo Hoàng Sergius III (904-911) vốn là một giám-mục có người vợ, tên là Mazouzia và đã có một người con trai với bà này. Tới năm 904, khi lên ngôi Giáo Hoàng, ông ta mới lấy hiệu là Sergius III. Nhờ  sẵn có thế lực của cha mẹ, mấy chục năm sau, người con trai này trở thành Giáo Hoàng John XI (931-936)" (tr.105-106), "Giáo Hoàng John XII (955-963) đã từng loạn luân với em gái và bị chết vào ngày 14-5-964 khi đang … với một cô nhân tình..." (tr. 108-109), "Giáo Hoàng Leo VIII (963-964)  chết đột ngột vì bị máu xâm trong lúc đang phạm tội thông dâm." (tr. 110), "Giáo Hoàng Benedict IX (1032-1044) lên ngôi lúc 12 tuổi, đã từng giết người, thông dâm ngay giữa ban ngày, cướp bóc tiền bạc của những người hành hương  mộ thánh tử đạo… bị dân La Mã tống xuất khỏi La Mã…" (tr.113) "Giáo Hoàng Pius II (1458-1464) có hai người con hoang, từng công khai nói chuyện về các phương pháp dụ dỗ đàn bà." (tr. 122), "Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) loạn luân với bà chị ruột và có một người con trai với bà này..." (tr. 123-126)  "Giáo Hoàng Innocent VIII (1484-1492) có tới bẩy hay tám người con trai với nhiều bà khác nhau. Nhiều vợ và nhiều con quá, ông phải tìm cách tăng thêm 26 chức vụ thư ký trong giáo triều để bán với giá mỗi chức là 62,400 đồng duca." (tr. 127),  "Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) tên thật là Borgia, một con quỷ đã công khai loạn luân với hai người em gái và loạn luân luôn với cả con gái ruột tên là Lucretia (that monster who lived in public incest with his two sisters and his own daughter from whom he got a child). Đặc biệt hơn nữa,  ngày 31-10-1501, ông cho tổ chức một bữa tiệc cực kỳ dâm loạn ở ngay trong điện Vatican với  50 cô gái trẻ đẹp khiêu vũ  khỏa thân để mua vui cho thực khách. (tr.139-174)” [1]

Riêng về đời sống phóng đãng và loạn luân của Giáo Hoàng John XII (955-963), cuốn sách trên đây (trang 108-110) ghi lại như sau:

"Giáo Hoàng La Mã thứ 131 John XII (955-963). Tên thật là Octavian con của Alberic, cháu nội bà Marozia. "năm 955, đứa cháu trai của cô gái điếm Marozia, sau vài trận đổ máu với các đối thủ, hắn lên kế nghiệp ngôi Giáo Hoàng dưới tên là John XII."  (In the years 955, the grandson of the prostitute Marozia, after several bloody encounters with his opponents, succeeded in taking possession of the pontifical throne under name of John XII.)

 John XII lên ngôi Giáo Hoàng khi mới 18 tuổi, được mô tả như một kẻ vô đạo  thất học (a heathen). "... ông đã từng loạn luân với em gái ông. " [...he committed incest with his sisters..  ],

 Hành vi dâm loạn của Giáo Hoàng John XII đã được Giám-mục  Luitprand mô tả như sau:

 "Không có cô gái lương thiện nào dám xuất hiện nơi công cộng vì Giáo Hoàng John (XII) không từ bất cứ một ai, kể cả các cô gái độc thân, những bà có chồng hay các góa phụ, chắc chắn đều bị Giáo Hoàng cưỡng hiếp ngay trên mộ các Thánh Tông Đồ, Peter và Paul.”  (No honest lady dared to show herself in public, for Pope John had no respect either for single girls, married women, or widows - they were sure to be defiled by him, even on the tombs of the holy apostles, Peter and Paul.)",

 Vì thế nên người đương thời đã "kết án Giáo Hoàng John (XII) can các tội bất kính với Thánh Thần, buôn bán chức Thánh, lời thề giả đối, giết người, thông dâm và loạn luân..." “John was accused of sacrilege, simmony, perjury, murder, adulter, and incest...)"

Sách Catholic Encyclpedia miêu tả Giáo Hoàng John XII như là: "Một người đàn ông lỗ mãng, vô đạo đức, sống trong tòa lâu đài Lateran được dư luận xem như một nhà thổ. Ông là loại ký sinh trùng trong hành vi thông dâm." [A coarse, immoral man whose life was such that "the Lateran was spoken of as a brothel." He was striken with paralysis in the act of adultery]"

 Cũng vì trác táng nên Giáo Hoàng John XII chỉ ở ngôi được có 8 năm 4 tháng (lên ngôi ngày 16/12/955, chết ngày 14/5/964)  "... Giáo Hoàng John (XII) bị chết, người ta nói ông bị cảm liệt trong khi viếng thăm cô nhân tình của ông. Ông chết vào ngày 14/5/964, không xưng tội, không chịu phép bí tích.”  (John was dead, it was said he was struck with paralysis while visiting his mistress. He died on 14 May, 964 without confession or receiving the sacrements.)

Cái chết của Giáo Hoàng John XII sau này được minh bạch: Trong lúc  Giáo Hoàng John đang thông dâm với một con chiên nữ  ngoan đạo bị ông chồng bà ta bắt quả tang tại trận:

 "Chính Giáo Hoàng John XII đã bị một đàn ông quý tộc giết ngay lập tức khi ông ta khám phá ra Giáo Hoàng thông dâm với vợ ông ta." (That same John XII, was instantly killed by  a gentleman, who found him committing the act of adultery  with his wife.)

 Phê bình  các đời sống của các Giáo Hoàng La Mã, sách  Liber Pontificalis viết về  Giáo Hoàng John XII: "Suốt đời ông toàn sống trong cảnh thông dâm." (He spent his entire life inadultery.)” [2]

Trong lịch sử Giáo Hội La Mã, không phải chỉ có John XII (955-963), Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) và các giáo hoàng khác đã nêu đích danh trên đây mới có những hành động bạo ngược, dã man, loạn luân và dâm loàn như vậy. Các nhà viết sử tính ra  gần như hầu hết  232 giáo hoàng thời Giáo Hội La Mã (tính từ năm 325 trở về sau)  đều  phạm những trọng tội bạo ngược chống lại nhân quyền, và luôn luôn có những thái độ và hành động xấc xược, ngược ngạo, lươn lẹo, lật lọng, tàn bạo, loạn luân, dâm loàn, tham lam, gian ác vượt lên trên tất cả những tên bạo chúa lừng danh trong lịch sử nhân loại.

Còn rất nhiều chuyện động trời khác nữa. Vấn đề này đã được trình bày rõ ràng tiểu mục Sai Lầm số 5 Chương 11 ở trên và  nhiều hơn nữa ở trong bộ sách Lịch sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã, Phần II,  Mục V (gồm 3 chương sách nói về 3 đề tài: Tệ nạn tham nhũng, đời sống phóng đãng loạn luân dâm loàn của các giáo hoàng và các tu sĩ cao cấp trong Giáo Hội, và tình trạng tàn sát lẫn nhau trong Tòa Thánh Vatican để giành giật ngôi vị giáo hoàng). 

NÊU những nạn nhân bị Giáo Hội La Mã dùng đủ mọi thứ từ ngữ hàm chứa đủ mọi thứ xấu để gán cho những người thuộc các tôn giáo khác rồi tìm đù mọi thủ đoạn và phương cách dã man nhất và khốn nạn nhất để hãm hại hay giết hại họ, THÌ bọn tín đồ Ca-tô người Việt dưới danh nghĩa là người Việt Quốc Gia ở trong nước và ở hải ngoại cũng dùng đủ mọi thứ từ ngữ hàm chứa đủ mọi thứ xấu để gán cho những người Việt hải ngoại bất đồng chính kiến với hay không theo phe với chúng,  rồi chúng  tìm đù mọi thủ đoạn và phương cách dã man nhất và khốn nạn nhất để hãm hại hay giết hại họ. Điểm đặc biệt là, kể từ ngày 5/6/1946,  mỗi khi lại có những hành động khốn nạn như trên, tín đồ Ca-tô và bọn lưu manh xu thời theo chúng đều tư xưng là người Việt Quốc Gia mang theo lá cờ vàng ba sọc đỏ và lớn tiếng rêu rao là “giữ vững lằn ranh Quốc – Cộng” và chiêu bài “giữ vừng lá cờ vàng ba sọc đỏ”

NẾU tất cả nạn nhân của Giáo Hội La Mã bị nhục mạ, bị  rủa xả và bị sát hại  chỉ vì  cái tội không phải là tín đồ của Giáo Hội, THI nạn nhân của những người Việt tự nhận là người Việt Quốc Gia bị nhục mạ, bị rủa xả, bị bao vây kinh tế, bị hãm hãi đủ điều và bị sát hại cũng chỉ vì cái tội không theo phe hay không vào hùa với chúng để làm những chuyện vô liêm sỉ và làm trò hề cho thiên hạ cười chê.

NẾU có rẩt nhiều nạn  nhân của Giáo Hội La Mã là những vĩ nhân và danh nhân trong lịch sử nhân loại, THI có rất nhiều nạn nhân của bọn người tự nhận là những người Việt Quốc Gia ở hải ngoại là những trí thức chuyên nghiệp có nhiều công trình nghiên cứu làm cho nền văn học Việt Nam trở nên thêm phần phong phú. Đó là các nhà trí thức như Bác-si Nguyễn Văn Thọ, học giả Charlie Nguyên,  Tiến-sĩ Cao Huy Thuần, Tiến-sĩ Trần Chung Ngọc, nhà khoa học Nguyễn Văn Tuấn, v.v…

 NẾU Giáo Hội La Mã có quá nhiều phần tử xấu xa  đầy mình tội ác mà vẫn nắm giữ chức vụ giáo hoàng lãnh đạo Giáo Hội, THÌ trong đám người Việt Quốc Gia cũng có những hạng người xấu xa mang đầy mình tội ác nắm giữ vai trò lãnh đạo hay chức vụ chỉ huy các tập thể này.

Có điều hết sức khôi hài là trong khi các ông Người Việt Quốc Gia gọi những người Việt hải ngoại không theo phe với chúng là “Việt gian”, thì chính bản thân chúng hay ông cha chúng đã từng và đang   là Việt gian chính tông, đã liên tục  bán nước cho Liên Minh Đế Quốc Xâm Lược Pháp – Vatican và liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thập niên 1780 cho đến ngày 30/4/1975, và mấy thằng lãnh tụ đầu sỏ của chúng đều là Việt  gian cả, trong đó có thằng bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm.

Nếu văn hào Voltaire đã gọi đạo Ca-tô Lâ Mã là “cái tôn giáo ác ôn” và học giả Henri Guillemin gọi Giáo Hội La Mã là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn”, thì chúng ta có nên  theo gương văn hào Voltaire  và  học giả Henri Guillemin để gọi các Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia là cái “cộng đồng ác ôn”, hoặc là “các cộng đồng khốn nạn” hay không?

Vấn đề này hoàn toàn nằm trong cái nhìn của người Việt hải ngoại nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của chúng. Những nạn nhân trực tiếp của chứng sẽ được nói rõ nơi chương 13 ở sau. Những nạn nhân gián tiếp của chúng là những người Việt Nam bị nhục lây vì những hành động ác ôn cồn đồ, làm xấu người Việt Nam đối với người nước ngoài. 

Vì lý do trên đây, chương sách này mới có nhan đề là “Chân Dung Người Việt Quốc Gia  Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ”. Đây là hình ảnh thực sự của bọn người này và cùng là hình ảnh thực sự của lá cờ vàng ba sọc đỏ  ở trong nước từ đầu tháng 6 năm 1948 cho đến ngày 30/4/1975 và ở hải ngoại từ mùa hè năm 1975 cho đến ngày nay. Phần dưới đây sẽ nói rõ vấn đề này.

 

B.- HÌNH ẢNH LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ

VÀ NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA Ở TRONG NƯỚC

TỪ NGÀY 5/61948 ĐẾN NGÀY 30/4/1975

 

Đây là những hình ảnh  của những sự kiện  đã ghi sâu vào trong lòng người dân Việt  và đã thể hiện ra trong các sách sử cũng như trong các cuốn hồi ký của những chứng nhân đã kinh qua những biến cố lịch sử từ đầu năm 1945 cho đến ngày nay. Người viết xin ghi lại những sự kiện này đại lược như sau:

1.- Tất cả những người đã từng sống ở  Đông Dương trong những năm 1945-1975  đều biết rằng lá cờ vàng ba sọc đỏ và những người Việt Quốc Gia luôn luôn kế cạnh nhau như hình với bóng, và những người thấu hiểu  lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại đều khẳng định rằng cụm từ người Việt Quốc Gia bắt nguồn từ các chính đảng tự nhận là các đảng phái Quốc Gia.

2.- Vatican chộp lấy cụm từ “người Việt Quốc Gia” để khoác cho người Việt Ca-tô và tất cả những người Việt thuộc các tôn giáo làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican, rồi chế ra lá cờ vàng ba sọc đỏ và bảo rằng  đó là biểu tượng cho “người Việt Quốc Gia” để tranh đấu cho cái gọi là “lý tưởng quốc gia của họ” mà thực sự là tranh đấu để phục vụ cho Vatican. Cũng vì thế mà các linh mục Việt Nam luôn luôn cổ võ và hô hào các con chiên phải bảo vệ cở vàng ba sọc đỏ và coi là cờ này như là biểu tượng để bảo vệ Thánh Kinh của họ. Đoạn văn dước đây của Linh-mục Trần Văn Kiệm nói lên sự thực này:

Tóm lại, tôi lên tiếng phản kháng chỉ vì muốn bảo vệ Giáo Hội Roma, mà không cầu được danh lợi, tiền của gì hết. Chỉ có thể mang hoạ vào thân mà thôi. Nhưng "Lạy Chúa, này con đây! Ngày chịu chức linh mục con đã nằm dài trước bàn thờ để dâng cả hồn cả xác con lên cho Chúa. Về già ngày ngày con vẫn dâng mình lại như thế. Xin Chúa thương nhận, mà nhận cả các tội lỗi lớn nhỏ của con, và đặc biệt là cái com-pút-ơ mắc dịch của con. Nó là võ khí con dùng để bảo vệ Thánh Kinh. Thánh Kinh vào thời điểm này lại được lá cờ vàng của dân Việt Nam tản mác khắp thế giới yểm trợ  khiến cho mặt trận Công giáo còn mở rộng thêm sang các tôn giáo bạn (không kể nhóm quốc doanh đâu nhé!)". Nhân tiện con xin cảm tạ Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, vì có Ngài lên tiếng thì bóng cờ vàng mới tung bay ngạo nghễ hơn bao giờ hết kể từ ngày 30 tháng tư năm 1975 cho đến bây giờ. và rồi đây nó sẽ phất phới từ Ài Nam quan xuống Cà Mâu vòng sang mấy hải đảo bị Bắc phương chiếm đoạt.”[3] 

Từ những sự kiện này, ta có thể nói là:

a.- Nhìn thấy là lá cờ vàng ba sọc đỏ là nhớ đến những người tự nhận là người Việt Quốc Gia mà thực chất chỉ là những người phản quốc bán nước cho Liên Xâm Lược Pháp – Vatican trong thời 1885-1954 và bán nước cho Liên Minh Xâm Lược Mỹ Vatican trong những năm 1954-1975 mà hầu hết là tín đồ Ca-tô.

b.- Nói đến người Việt Quốc Gia là nhớ đến các chính đảng tự nhận là các Chính Đảng Quốc Gia. 

c.- Nói đến các chính đảng Quốc Gia là nhớ đến hình ảnh các ông lãnh tụ và đảng viên các đảng Việt Quốc và Việt Cách lếch thếch núp bóng các đạo quân  thổ phỉ Quốc Quân Trung Hoa trên đường từ Van Nam và Lạng Sơn về Hà Nội vừa di chuyển, vừa ăn cướp và hà hiếp nhân dân địa phương trên tuyến đường tiến sâu vào nội địa Việt Nam trong những ngày đầu tháng 9/1945.

d.- Nói đến các chính đảng Quốc Gia là nhớ đến cái hình ảnh ghê tởm này đối với người dân Việt Nam quả thật là không thể nào quên được. Đó là hình ảnh của hành động ỷ thế mạnh gây áp lực với chính quyền Việt Nam ta phải cung phụng cho chúng đủ thứ. Không những thế, chúng còn coi như:

Chúng đến một nơi không có chính quyền. Chúng tự cho chúng có quyền trị an trong thành phố (Hà Nội). Chúng quy định giá tri của tiền Quan kim, tiền Quốc tệ, những tứ tiền từ lâu đã trở thành mớ giấy lộn. Chúng đề ra cả những quy định để kiểm soát xe cộ đi lại trong thành phố.”[4]

Hơn thế nữa, trong thời gian từ tháng 9/1945 cho đến  tháng 6/1946,  ra công thi nhau tự tung tự tác, hà hiếp, đánh đâp, hành hạ,  cướp bóc và hãm hiếp đàn bà con gái, gây nên không biết bao nhiêu thống khổ đau thương cho dân ta trong vùng chúng trú đóng từ biên giới Việt - Hoa  cho đến vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng).

e.- Nói đến những hành động thổ phỉ trên đây của 180 ngàn Quốc Quân Trung Hoa  ở Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc là nhớ đến những hình ảnh của hai đảng Việt Quốc và Việt Cách kề vai sát cánh với 180 ngàn quân Tầu thổ phỉ này giống y như tín đồ Ca-tô người Việt kề vai sát cánh với Liên Quân Xâm Lược Pháp – Vatican trong những năm 1858-1954.  

3.- Ngày 5/6/1948, Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican chính thức cho ra đời chính quyền Quốc Gia do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng cùng với lá cờ vàng ba sọc đỏ để làm bức bình phong che đậy cho chính sách chia để trị, dùng người Việt đánh người Việt, dùng tín đồ Ca-tô để cai trị đại khối người Việt theo các tín ngưỡng khác mà đại đa số là tam giáo cổ truyền. Kể từ đó cho đến mùa thu năm 1954, lá cờ vàng ba sọc đồ luôn luôn được trương lên cùng với cờ tam tài vào những khi Liên quân Pháp – Vatican có đạo quân lính đạo Việt Nam đi theo trong các cuộc hành quân tấn công vào các làng xóm của người dân lương. Lá cờ này cùng với lá cờ Pháp đã chứng kiến không biết bao nhiều cảnh quân lính Pháp và lính đạo đốt nhà, phá hủy đình, chùa,  miếu, đền, tàn sát lương dân và hãm hiếp đàn bà con gái.

Có lẽ vì biết rõ như vậy,  cho nên khi nhắm mắt đi vào cõi chết, chính bản thân ông Bảo Đại đã nhận thức được rằng lá cờ vàng ba sọc đỏ  không những đã không mang lại một chút gì vinh quang hay hãnh diện cho chính cá nhân ông và cho gia đình của ông ta, mà  nó còn là biểu tượng cho một  vết nhơ  của một thời mà ông ta đã phạm tội phản quốc bán nước cho quân cướp ngoại thù và gây ra không biết bao nhiêu đau thương tang tóc cho người dân Việt. Đây là nguyên nhân TẠI SAO khi tổ chức đám táng,  thân nhân của ông ta  lại không dùng cờ vàng ba sọc đỏ  phủ lên quan tài,  mà lại dùng lá cờ tam tài của mẫu quốc.

4.- Tất cả các đồn đóng quân của đạo quân lính đạo Phát Diệm dưới quyền chỉ huy của linh mục Hoàng Quỳnh đều có trương cờ vàng ba sọc đỏ. Khi  ba thanh niên ở một làng Lương gần kế bên Giáo Khu Phát Diệm bị chúng bắt được tình nghi là Việt Minh, bị trói và bị điệu về một trong những đồn lính đạo này. Cả ba nạn nhân này đều bị tra tấn suốt cả đêm hôm đó, rồi sáng hôm sau  đều bị trói và bị điệu ra sân chợ  bên cạnh đồn (có trương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ). Cả ba nạn nhân cùng bị đánh đập tàn nhẫn. Một trong ba nạn nhân này bị mấy tên lính đạo mổ bụng, phanh ngực, lấy mật đem hòa  với rượu, lấy gan đem nướng, rồi cùng ngồi nhậu rượu hòa với mật và gan người nướng một cách ngon lành dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ này. Hai người còn lại bị bắn chết. Cả ba nạn nhân này cùng bị chặt đầu.  Ba cái đầu người này được xâu vào ba cái sào tre cắm ở đầu làng đạo này. Tất nhiên là làng đạo này cũng có treo cờ vàng ba sọc đỏ để chứng tỏ cho nhân dân ta biết rằng này theo chính quyền Quốc Gia do ông Bảo Đại là quốc trưởng.[5]

Như vậy đối với người dân Lương ở bên cạnh vùng Phát Diệm, là cờ vàng  ba sọc đỏ là biểu tượng cho những hành động cực kỳ dã man của đạo quân lính đạo Giáo Khu Phát Diệm.

5.- Khi ông Ca-tô Ngô Đình Diệm vừa mới được  Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican đưa lên cầm quyền, ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị đặc biệt cho ông Ngô Đình Diệm, hồ hởi tuyên bố rằng:

Tôi có cả một chương trình đã bàn tính kỹ với Đức Giám Mục  sẽ lần hồi tiến đến chỗ mà Hội Truyền Giáo hoạt động cả một thế kỷ mới đạt tới, còn chúng ta chỉ cần quyền mười năm là cả miền Nam này sẽ theo đạo Công Giáo hết.”[6]

Vì có chủ trương “biến toàn thể nhân dân miền Nam Việt Nam trong mười năm thành những người theo đạo Công Giáo hết” đã hoạch đĩnh sẵn như trên, cho nên chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm phải dồn hết nỗ lực vào việc theo đuổi chủ trương bất chính này bằng tất cả thủ đoạn gian manh ác độc nhất được che đậy bằng “Những chiến dịch Tố Cộng qua Luật số 10/59”  với những “Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt” và hàng trăm ngàn vụ thủ tiêu những thành phần bị gán cho là “ngoan cố” không chịu khuất phục theo đạo Ca-tô do các tổ chức công an, cảnh sát, mật vụ và an ninh quân đội như thiên la địa võng của chế độ.[7]

Theo các tài liệu sử, trong những chiến dịch “làm sáng danh Chúa” dưới chiêu bài Tố Cộng trong thời kỳ từ năm 1955 cho đến tháng 11 năm 1963, chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm đã sát hại tới hơn 300 ngàn người.[8]

Dĩ nhiên là tất cả mọi việc làm đại gian đại ác này đều được thực thì dưới ngọn cờ vàng ba sọc đỏ.

Như vậy, khi nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ này, hơn ba trăm ngàn oan hồn bị sát hại  trong những chiến dịch làm sáng danh Chúa trong những năm 1955-1963 và hàng triệu thân nhân của họ không thể nào lại không nhớ đến những ngày đau thương thảm thiết của chính họ và gia đình họ.

6.- Từ đầu năm 1962 cho đến năm 1971, khi quân đội Mỹ rải 77 triệu lít chất độc da cam xuống rừng cây, đồng ruộng và thôn ấp của nhân dân miền Nam vĩ tuyến 17. Tất nhiên là hành động cực kỳ dã man này cũng nhân danh chính quyền Quốc Gia với danh xưng mới là Việt Nam Cộng Hòa và cũng đều có trương lá cờ vàng ba sọc đỏ cùng với lá cờ sao sọc của Hoa Kỳ. Như vậy, là lá cờ vàng ba sọc đỏ là hình ảnh của 77 lít chất độc da cam rài xuống lãnh thổ Việt Nam và đã “gây ảnh hưởng và tác hại đến môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn ấp.[9]

Với những nạn nhân của chất độc da cam trên đây, tất nhiên là mỗi khi nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ này, người dân Việt Nam sẽ không thể nào không nhớ tới  thằng bạo chúa phản thần tam đại Việt gian họ Ngô đã hồ hởi để cho quân đội Mỹ làm cái việc cực kỳ dã man trên đây.

7.- Ngày 8/5/1963, khi đoàn thiết giáp mang tên người Quốc Gia Ca-tô Ngô Đình Khôi trương cờ vàng vàng ba sọc đỏ dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Ca-tô Đặng Sĩ, Phó Tỉnh Trưởng Nội An tỉnh Thừa Thiên tiến đến xả súng và quăng lựu đạn vào hàng ngàn người  dân Huế đang tụ tập  ở cửa đài phát thanh Huế để chờ nghe bài nói chuyện của Thượng Tọa Thích Trí Quang nói về ngày Phật Đản. Vụ đàn áp dã man này được nhà viết sử Chính Đạo ghi nhận như sau:

Tối 8/5 (1963), một biến cố đẫm máu đột ngột xẩy ra. Giữa lúc hàng ngàn Phật tử   tụ họp trước Đài Phát Thanh Huế để nghe chương trình phát thanh đặc biệt Phật Đản, Thiếu Tá Đặng Sỹ, Phó Tỉnh Trưởng Nội An, cho lực lượng an ninh đến giải tán. Theo nguồn tin của chính phủ, một quả lựu đạn của quân khủng bố nổ làm 9 người chết và 4 người bị thương, vì lực lượng chính phủ được lệnh bắn chỉ thiên hoặc đạn mã tử. Nhưng theo nhân viên tình báo Mỹ, bạo động đã xẩy ra sau khi một nhóm thanh niên Ki-tô giật cờ Phật Giáo tại một cổng chào, rồi đập phá lễ đài. Thanh niên, học sinh Phật tử phản công. Sỹ bèn cho cảnh sát, được tăng cường bằng tuần xa [blinder] của Bảo An Đoàn, bắn vào đám đông. 7 người bị bắn chết và một số bị thương. Ngoài ra, còn hai thiếu niên bị tuần xa cán chết.

Sau khi đám đông bị đảy lui, viên chức chính phủ mang 9 xác chết tới bệnh viện thị xã Huế. Y sĩ Lê Khắc Quyến, Giám Đốc Y Tế miền Trung, được lệnh phải ghi vào giấy chứng tử là các nạn nhân “chết vì lựu đạn do khủng bố Việt Cộng ném”. Quyến không đồng ý. Diệm cách chức Quyến, gọi vào Sàigòn đợi lệnh. Thị Trưởng (Nguyễn Văn) Đằng cũng cách chức Sỹ, và viết thư phản đối lênh chính phủ.

Những ngày kế tiếp, tình hình Huế cực kỳ sôi động. Mật vụ của (Ngô Đình) Cẩn lùng bắt các Phật tử và cô lập hàng ngàn người biểu tình trong hàng rào kẽm gai.”[10]

Ở đây, chúng ta thấy, lá cờ vàng ba sọc đỏ thực sự là biểu tượng cho chế độ đạo phiệt Ca-tô bạo ngược của anh em nhà Ngô và nhóm thiểu số tín đồ Ca-tô “thà mất nước chứ không thà mất Chúa”. Chắc chắn là Phật tử Việt Nam, đặc biệt là Phật tử Huế không bao giờ quên được là cờ vàng ba sọc đỏ được trương lên trên những chiếc xe tuần xa mang tên người Việt Quốc Gia Ca-tô Ngô Đình Khôi đã xả súng bắn vào hàng ngàn Phật tử đang tụ tập ở trước đài Phát Thanh Huế và đã cán chết hai Phật tử ở đây vào đêm ngày 5/6/1963. Lá cờ này cũng được trương lên ở sở mật vụ của Ngô Đình Cẩn, nơi đã tung bọn lâu la đi truy lùng Phật tử. Kể từ dó, mỗi khi nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ, Phật tử Việt Nam nói riêng,  Phật tử và nhân dân thế giới nói chung, không thể nào quên được những hành đông cực kỳ dã man trong chính sách bách hại Phật giáo miền Nam  ròng rã chín năm trời dưới chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm.

8.- Đêm ngày 20/8/1963, chính quyền Ngô Đình ra lệnh thiết quân luật. Ngay sau đó Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu ra lệnh cho Lực Lượng Đặc Biệt với là cờ  vàng ba sọc đỏ  dưới quyền chỉ huy của tên Đại Tá Ca-tô Lê Quang Tung, tấn công các chùa chiền ở Sàigòn và ở nhiều thành phố lớn, lùng bắt các sư sãi,  tăng ni và Phật tử. Sự kiện này được sách sử ghi nhận như sau:

Thư Tư 21/8/1963: SÀIGÒN, 01G00: Nhu sử dụng Lực Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát mặc giả quân phục tấn công các chùa chiền, bắt giữ tăng ni. Lê Quang Tung và Nguyễn [Trần] Văn Tư, Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành chỉ huy.

Tại chùa Xá Lợi (Sàigòn), (Hòa Thượng) Tịnh Khiết, (Thượng Tọa) Tâm Châu cùng  Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo đều bị bắt. Hơn 30 người bị thương, 2 người khác bị mất tích. (Gravel. II:210: Tâm Châu 1994:19).

Hai tăng sĩ chạy được qua USOM, gần Xá Lợi (Không có Thượng Tọa Tri Quang)

[Xem thêm Phạm Trọng Nhân, “Cuốn sổ tay của một nhân viên ngoại giao nhân vụ tấn công chùa Xá Lợi.” Bách Khoa Số 169(15/1/1964), tr. 31-43, và số 170 (1/2/1964), tr. 21-31.]

Chỉ riêng tại Sàigòn, số tăng ni Phật tử bị bắt lên tới 2,000 người. Ngoại trừ (Hòa Thượng) Tịnh Khiết được phóng thích ngay, hầu hết các lãnh tụ tăng ni  tranh đấu đều bị bắt. Họ bị giữ tại những sà lan nổi trên sông Sàigòn. [Xem 25/8/1963].

Tại Huế, khoảng 3 giờ đêm, tiếng mõ tiếng chuông, tiếng kêu cầu cứu vang lên khắp nơi. Đồng bào quanh chùa đánh mõ, gõ thùng thiếc báo nguy. Đợt tấn công đầu, cảnh sát bị đẩy lui. Sau đó, Đỗ Cao Trí (Tư Lệnh Vùng 1) cho lệnh nổ súng.

Những giáo sư, sinh viên học sinh tranh đấu cũng bị bắt giữ.” (Nguyễn Ngu Í 1964b: 37-44).[11]

Cựu Đại Sứ Federick E. Nolting từ Hawaii đánh điện mắng nhiếc ông Diệm là tên phản trằc. Lời mắng nhiếc này được sách John F. Kennedy và Chiến Tranh Việt Nam ghi nhận với nguyên văn như sau:

Lúc bấy giờ Nolting cùng Lodge và Hilsman đang có mặt tại Honolulu, cảm thấy choáng váng vì biến chuyển tại Sàigòn. Ông liền đánh điện trách ông Diệm rằng: “Đây là lần đầu tiên Tổng Thống đã tự phản bội với những lời hứa trước mặt tôi”. Hilsman mô tả giây phút Nolting trố mắt nhìn dòng chữ từ từ hiện ra trên máy viễn ấn ký như sau:

“Tôi nghe có tiếng chửi đổng lúc chúng tôi đọc từng chữ trên máy. Cuộc tấn công được sắp xếp giữa thời gian hai đại sứ cũ và mới thay đổi công việc. Ông Diệm cả gan bội ước và không dành một hành động nào để cứu vãn danh dự cho Hoa Kỳ. Ông ta đã đặt chúng ta trước một chuyện đã rồi mà ông ta biết rõ nó sẽ làm tổn thương đến tinh thần thượng võ và sự công minh của chúng ta, và ông ta  đã có những hành động kiêu căng, ngạo mạn vì cho rằng chúng ta sẽ phải ngậm  đắng nuốt cay như chúng ta đã từng chịu đựng trong quá khứ. Lúc ấy nét đau khổ lộ hẳn trên khuôn mặt Nolting.

Tuy nhiên, lần này Hilsman sẽ cố làm sao để không phải nuốt viên thuốc đắng nào hết.” [12]

Trong trường hợp này, lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng cho bạo lực với những đạo quân Ca-tô thập ác hung hăng dữ tơn tấn công các chùa chiến phá hủy bàn thờ Phật, đánh đập và bắt giữ tăng ni, rồi xông xáo khắp mọi nơi để truy lùng giết hại  Phật giáo đồ.

Ngày nay, khi nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ, Phật tử Việt Nam không thể nào không nhớ đến những cảnh tượng kinh hoàng của những ngày tháng sống dưới ách thống trị bạo tàn của tên bạo chúa Ca-tô Ngô Đình Diệm  với những cuộc tấn công chùa chiến, đập phá tượng Phật, truy lùng, bắt giam tra tấn, hành hạ,  sát hại và đày đọa hàng ngàn tăng ni và Phật tử bằng cách bằng đủ mọi thứ tra tấn chuyên nghiệp lất từ kinh nghiệm tra tấn của các Tòa Án Dị Giáo trong thời Trung Cổ. Một trong những cách  hành hạ và đầy đọa nạn nhân của quân thập ác này là  giam giữ họ “tại những sà lan nổi trên sông Sàigòn”.

9.- Ngày 25/8/1963: Hành động xua quân thập ác tổng tấn công các chùa chiền lùng bắt hàng ngàn các sư sãi và Phật tử, và mở chiến dịch đại quy mô lùng bắt học sinh, sinh viên tạo nên những phản ứng chống đối mãnh liệt chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm cả ở quốc ngoại và quốc nội.

 Về phía quốc ngoại, chúng ta thấy:

a.- Rất nhiều chính phủ khác trên thế giới như Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên, Trung Hoa, Liên Xô, Pháp, Ba Lan, Tiệp Khắc, Cuba, Hoa Kỳ,  v. v… lên án nặng nề, đặc biệt là chính quyền Hoa Kỳ đã quyết định phải có biện pháp trừng phạt anh em nhà Ngô và chính quyền Ngô Định Diệm. Sự kiện này được sách sử ghi lại như sau:

Phnom Penh: Chính phủ oàng Gia Cambode ra tuyên cáo phản đối Diệm đàn áp Phật giáo: Chính phủ Hoàng Gia Cam-bốt kinh hoàng đón nhận tin chính phủ Sàigòn đàn áp man rợ các tăng ni và Phật tử Nam Việt Nam vào rạng sáng ngày 21/8/1963. Việc tấn công các chùa bằng lực lượng tinh nhuệ của chính phủ, việc tàn sát tăng ni, việc bắt giữ, việc phong tỏa các nơi thờ tự đang diễn ra tại thủ đô Sàigòn là một sự thách thức với thế giới văn minh. Trong lịch sử hiện đại chỉ có chế độ Hitler mới dám vi phạm những tội ác chống lại quyền tối thượng của con người như thế.”

Tiếp đó, chính phủ Sihanouk kêu gọi các quốc gia tố cáo và ngăn chặn tội ác đàn áp Phật giáo của chính phủ Diệm. Phnom Penh còn kêu gọi các lãnh tụ Ki-tô giáo tại Vatican ra lệnh chính quyền Diệm và tín đồ Ki-tô phải theo đúng nguyên tắc cao cả của Ki-tô giáo. (CĐ số 896, ngày 23/8/963. Phnom Penh gửi Paris: : CLV.SV.d. 17.”

HONOLULU: Tin quân đội tấn công chùa chiền và bắt giữ tăng ni được coi như sự phản bội của Diệm đối vơi Nolting nói riêng và Mỹ nói chung.

WASHINGTON, DC, 19G56 [8G56 ngày 23/8/1963]: Roger Hilsman chỉ thị chỉ thị cho (Đại-sứ) Lodge:

Chính sách về Phật giáo không thay đổi, tìm cách giảm quyền lực Nhu (FRUS, 1961-1965, III: 605).”[13]

b.- Nhân dân thế giới tại các thành phố lớn trong rất nhiều quốc gia tổ chức biểu tình tố cáo và lên án chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm về những hành động tội ác bách hại Phật Giáo một cách cực kỳ tàn ngược, hết sức dã man, lên án Hoa Kỳ đã dựng nên và bao che cho chế độ đạo phiệt Ca-tô bạo ngược khốn nạn như vậy, và đòi hỏi chính quyền Hoa Kỳ phải có trách nhiệm trừng trị đưa con mà chính Hoa Kỳ đã sinh đẻ ra nó. Trong những thành phố này, có Washington D.C. New York, San Francisco, London, Paris, Bekgrade, New Delhi; Bắc Kinh, Hanoi, Colombo, Pnom Penh v.v…

c.- Trên trang nhất (front page) các báo chí nước ngoài đều đồng loạt đăng những bài viết lên án chỉ trích thậm tệ chính quyền Diệm bằng những lời lẽ hết sức nặng nề. Sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 ghi nhận sự kiện này như sau:

Dư luận báo chí Mỹ sôi nổi về việc đàn áp Phật giáo. Hầu hết các cơ quan ngôn luận đều yêu cầu chính phủ phải có thái độ tức khắc. Tờ New York Herald Tribune nhắc lại tuyên cáo của Bộ Ngoại Giao vào tháng 4/1960, khi chính phủ Nam Hàn đàn áp và giết chết sinh viên, đưa đến sự sụp đổ chính phủ Lý Thừa Vãn. Tuy nhiên, nhiều người viết bình luận cho tờ báo này nghĩ rằng chính phủ Kennedy cần tiếp tục yểm trợ chính phủ Diệm  trước hiểm họa Cộng Sản.

Ngược lại, tờ New York Times kịch liệt lên án chính phủ Diệm, mà sự mất lòng dân, độc tài  và tàn bạo biểu lộ qua cuộc đàn áp Phật  giáo. Báo này cũng chỉ trích chính phủ Kennedy đã không sử dụng áp lực chính đáng đối với Diệm và chậm trễ trong khi cần minh định thái độ. (CĐ số 4879’83, Đại sử ở Mỹ gửi BNG: CLV, SV, 17:29)”[14]

 Về phía quốc nội, chúng ta thấy:

a.- Ngoại Trưởng của chính quyền Ngô Đình Diệm là ông Vũ Văn Mẫu tuyên bố từ chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao và cao trọc đầu để phản đối chính quyền đã xua quân thập ác tấn công các chùa chiền, truy lùng, tra tấn, sát hại và giam cầm các tăng ni và Phật tử như đã nói trên.

b.- Ngày 25/8/1963: Phật tử, học sinh, sinh viên và giáo sư trong các trường trung học và đại học ở Sàigòn và nhiều thành phố lớn tổ chức biểu tình chống chính quyền Ngô Đình Diệm về việc xua quân tấn công chùa chiền, truy lùng, bắt giam, sát hại và hành hạ sư sãi và Phật tử trong đêm 20/8/1963 và mấy ngày tiếp theo đó. Chính quyền dùng cảnh sát và quân đội đàn áp, đánh đâp bắt giam và đánh đập những người biểu tình rất dã man. Nhà Viết sử Chính Đạo ghi nhận:

Chủ Nhật, 25/8/1963: SÀIGÒN: Hàng ngàn sinh viên biểu tình trước chợ Bến Thành, Sở Thú, bến Bạch Đằng, v.v… Một nữ học sinh tên Quách Thị Trang bị bắn  trọng thương, sau đó, chết trong Tổng Y Viện Cộng Hòa. Khoảng 500 sinh viên học sinh bị bắt. Đó là kết quả sơ khởi của cuộc biểu tình sáng Chủ Nhật tại Sàigòn. Quân đội cảnh sát đã tham sự cuộc đàn áp. Hơn 200 xe đạp và xe gắn máy mà học sinh, sinh viên đã sử dụng để kéo đến chỗ biểu tình bị bỏ rơi gần các khuôn viên đại học vào xế trưa.

Từ đêm trước các đơn vị quân đội, có cả tuần thám xa, đã kéo về thành phố ngăn chặn các ngả đường. Các công sự phòng thủ, kẽm gai được giăng ra tại nhiều ngã tư và dọc đường từ Bộ Ngoại Giao tới Trường Luật, nơi cựu Ngoại Trưởng Mẫu dự định đến hội thảo.”[15]

Những sự kiện trên đây chứng tỏ lá cờ vàng ba sọc đỏ biểu tượng cho chế độ đạo phiệt Ca-tô cực kỳ bạo ngược, cực kỳ dã man dưới quyền lãnh đạo của tên bạo chúa Ca-tô Ngô Đình Diệm. Chính quyền này do Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican dựng nên để phục cho quyền lợi của hai thế lực này. Vì Ngô Đình Diệm là một tín đồ Ca-tô siêu cuồng tín muốn biến toàn thể nhân dân Việt Nam thành Công Giáo hết trong vòng mười năm (như đã nói ở trên), cho nên mới có những hành động đàn áp và bách hại Phật Giáo nói riêng, và nhân dân miền Nam nói chung, một cách dã man như vậy.

Ngày nay, mỗi khi nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ, người dân miền Nam Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại, không thể nào lại không rùng mình nhớ đến những thảm cảnh hết sức kinh hoàng của dân ta trong những ngày này, ngoại trừ những tín đồ Ca-tô và bọn người xu thời lưu manh đón gió trở cờ.

10.- Ngày 27/8/1964: Xế trưa ngày này, trong lúc trong Bộ Tổng Tham Mưu đang có cuộc họp để dàn xếp phân chia quyền hành giữa các Tướng Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm, Linh mục Mai Ngọc Khuê, quản nhiệm họ đạo Tân Sa Châu (Tân Sơn Hòa, Tân Bình Gia Định) cùng với Linh-mục Hoàng Quỳnh và tên giáo dân cuồng tín Nguyễn Gia Hiến (anh ruột Nguyễn Gia Kiểng, tác giả cuốn Tổ Quốc Ăn Năn) huy động hàng ngàn giáo dân Bắc Kỳ di cư từ họ đạo Tân Sa Châu và từ các trại định ở quanh vùng Sàigòn, Gia Định, Biên Hòa, Long Khánh đến trương cờ vàng ba sọc đỏ  tụ tập biểu tỉnh ở sát bên hông hàng rào trước cổng trước Bộ Tổng Tham Mưu với đích làm áp lực  phải để cho người của đảng Cần Lao Công Giáo nắm quyền. Điều đặc biệt trong đám giáo dân biểu tình ở đây là họ hô lớn khẩu hiệu “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa””. Sự kiện này được ông Chu Văn Trinh ghi lại trong cuốn Văn Sử Địa như sau:

Ngày 27/8/1964, Tướng Khánh đã triệu tập Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng bầu “Tam Đầu Chế” gồm: Đại Tướng Nguyễn Khánh làm  thủ tướng VNCH, Đại Tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch chính phủ VNCH (thực chất là bù nhìn cho bù nhìn), Đại Tướng Trần Thiện Khiêm làm chủ tịch Hội Đồng Quân Đội VNCH.

Trong khi các tướng đang họp ở Bộ Tổng Tham Mưu, thì ở ngoài hàng rào Bộ Tổng Tham Mưu, Nguyễn Khánh giật dây Linh-mục Hoàng Quỳnh (Tổng Quỳnh) xách động các phần tử cuồng tín từ các trại định cư: Xóm Mới, Hố Nai, Gia Kiệm, Bùi Môn biểu tình trước Bộ Tổng Tham Mưu, yêu sách phục quyền cho các phần tử Cần Lao với khẩu hiệu:

“Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”

“Đả đảo Dương Văn Minh”.[16]

Như vậy, ở đây, chúng ta thấy lá cờ vàng là biểu tượng tranh đấu cho nhóm thiểu số Ca-tô “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”. Cũng có thể nói, lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”.

11.- Trong cuốn Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004), sử gia Nigel Cawthorne dành trọn vẹn hai trang 167-168  để nói về tiểu sử Ngô Đình Diệm được quan thày ngoại bang cho nhẩy lên bàn độc nắm quyền  chính trị và nói tổng lược những việc làm tàn ngược của y đối với người dân miền Nam Việt Nam để khẳng định rằng thằng phản thần tam đại Việt gian họ Ngô này là một trong số 100 tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại.

Cũng nên biết rằng, trong suốt thời gian tên bạo chúa này cầm quyền từ ngày 7/7/1954 cho đến 1:30 chiều ngày 1/1/1963, lá cờ vàng ba sọc đỏ được dùng làm biểu tượng cho cái chế độ khốn nạn của thằng bạo chúa này. Trong thời gian này, mỗi khi thằng bạo chúa  họ Ngô bước chân ra khỏi Dinh Độc Lập và Dinh Gia Long để đi tham quan ở bất cứ nơi nào, thì (1)  trên chiếc xe của nó đều có cắm cờ vàng ba sọc đỏ, (2) ở  nơi trên đường đi đến địa đỉa nó tham quan đều có có lá vàng ba sọc đỏ được trương  lên la liệt. Như vậy là lá cờ này là hình ảnh của tên bạo chúa Ngô Đình Diệm. Do đó, mỗi khi người Việt Nam nhìn thấy là cờ vàng ba sọc đỏ, không thể nào lại không nhớ đến những năm tháng nhân dân miền Nam Việt Nam quằn quái dưới ách thống trị bạo tàn của tên bạo chúa ác độc này trong số 100 tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại.

12.- Trong cuộc chiến 1954-1975, Hoa Kỳ đã đem 7 triệu tấn bom và đạn đại bác oanh tạc  với mục đích để tàn phá tài nguyên cùng  tài sản, giết hại nhân dân ta  và biến miền Bắc Việt Nam than tro tàn gach vụn, giống như thời đồ đá. Người viết không biết những khi dội bom và bắn đại bác để tàn phá đất nước Việt Nam như vậy, lá cờ vàng ba sọc đỏ có được trương lên để nói rằng Hoa Kỳ đã nhân danh là cờ này để làm cái việc tàn ác dã man như vậy không?

Nếu không, thì chính quyền miền Nam quả thật là chính quyền bù nhìn làm bung xung để cho Liên Minh Xâm Lược Mỹ – Vatican tàn phá nước Việt Nam ta theo chính sách cố hữu của Vatican là “không ăn đuợc, thì phá nát cho bõ ghét”.

Nếu có, thì lá cờ vàng ba sọc đỏ này quả thật là hình ảnh của  7 triệu tấn bom  và đạn đại bác đã được sử dụng để hủy hoại mùa màng, tàn phá đất nước và giết hai nhân dân ta trong cuộc chiến 1954-1975.

13.- Chính quyền của anh em ông  Ngô Đình Diệm đã biến chính quyền miền  Nam Việt Nam vừa thành một tổ chức buôn bán, biến chế, phân phối và mở rộng các tiệm hút ở Sàigòn - Chợ Lớn lên từ mấy trăm tiệm hút trong thời 1950-1955 lên đến  2500 tiệm hút trong những năm 1958-1963, vừa thành một bộ phận cung cấp thuốc phiện sống cho trong tổ chức tội ác quốc tế biến chế thuốc phiện sống này thành bạch phiến ở Marseille rồi chuyển sang phân phối ở Hoa Kỳ.

a.-  Về tổ chức buôn bán, biến chế, phân phối và mở rộng các tiệm hút ở Sàigòn - Chợ Lớn tử mấy trăm tiệm hút trong những năm 1950-1955 lên đến 2500 tiệm hút trong những năm 1958-1963, xin xem lại Chương 11 ở trên (Mục sai lầm số 5, tiểu mục nói về hai chữ liêm khiết của ông Ngô Đình Diệm.)

b.- Về việc anh em ông Ngô Đình Diệm biến chính quyền miền Nam thành một bộ phận cung cấp thuốc phiện sống (do Matthew Franchini chủ nhân Khách Sạn Continental là người điều hợp giữa Sàigon và Marseille, và do Rock Francisci (Francisci Đá) đặc trách về chuyển vận thuốc phiện sống từ Sàigòn đi Marseille) cho  tổ chức tội ác quốc tế ở Marseille (do Antoine Guerini làm đầu đảng) biến chế thuốc phiện sống này  thành bạch phiến rồi chuyển sang phân phối ở Hoa Kỳ (do Carlos Marcello làm đầu đảng). Sự kiện này được sách Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F. Kennedy ghi nhận như sau:

 

 “Thứ nhì, ông ta  (Michael Victor Mertz) cũng có động cơ vững chắc  để muốn Kennedy phải chết. Kennedy và Bộ Tư Pháp do em trai Robert (Kennedy) của ông ta chỉ đạo đang tiến hành một cuộc chiến toàn diện chống Mafia, nhất là các ông trùm tội phạm có tổ chức như Carlos Marcello, Sam Giancana, và Santos Trafficante, tất cả những kẻ điều hành hệ thống phân phối bạch phiến trên đất Mỹ, và tất cả những kẻ nhận hàng từ các lò bạch phiến Marcseille của Antoine Guerini. Và chúng ta biết rằng Mertz đã trực tiếp làm việc cho tập đoàn bạch phiến đó. Cuộc tấn công của Kennedy nhằm vào các trùm Mafia Mỹ đã đe dọa sự ổn định của thị trường ma túy, mà điều này lại đe dọa thị trường bạch phiến Marseille của Guerini. Hầu như tất cả bạch phiến bán cho con nghiền Mỹ đều xuất phát từ Marseille sau khi nó được chế biến từ thuốc phiện sống do Ngô Đình Nhu cung cấp.[17]

“Chúng ta có tập đoàn bạch phiến quốc tế, đặt tổng hành dinh ở Marseille, Pháp, và do anh em Guerini người Pháp điều hành. Nguồn cung cấp phần lớn nguyên liệu thuốc phiện cho họ là thông qua Nhu và kẻ trung gian là Rock Francisci, cũng là một người Pháp.

Bây giờ ta gặp một người Pháp nữa, giống Rock Francisci, đã sống gần như suốt đời ở Đông Nam Á. Người này là Matthew Franchini. Bề ngoài ông ta được mô tả như một thương gia trên nguyên tắc và là chủ  khách sạn đáng kính (ông ta sở hữu chủ Khách Sạn Continental nổi tiếng ở Sàigòn). Tuy nhiên, sự thực thì Franchini là bộ não đằng sau các chuyến hàng thuốc phiện của Rock Francisci từ Sàigòn sang các lò bạch phiến ở Marseille.

Tại sao điểu này quan trọng thế?

Vì Franchini là một khâu vô giá trong đường dây chỉ huy của thế giới ngầm Marseille, nếu không muốn nói là đường dây chỉ huy tập đoàn bạch phiến toàn cầu. Franchini  cung cấp cho Marseille sản phẩm morphine vốn được Rock Francisci chở thoải mái về Sàigòn (những chuyến bay do Nhu bảo kê)….” [18]

Làm việc cho tập đoàn bạch phiến quốc tế đầy thế lực của Antoine Guerini (với nguồn cung cấp đều đặn từ Ngô Đình Nhu)…”[19]

14.- Trong thời gian từ ngày 5/6/1948 đến ngày 30/4/1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng cho chính quyền Quốc Gia (1946-1955)  do ông Bảo Đại làm Quốc Trưởng và cũng là biểu tưởng cho các chính quyền miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 do hai ông Ca-tô Ngô Đình Diệm và  Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống. Ông Bảo Đại cũng như hai ông Ca-tô Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều là Việt gian đã từng có thành tích làm tay sai cho Liên Minh Thực Dân Xâm Lược Pháp Vatican hoặc là trong thời 1885-1945, hoặc là trong thời Kháng Chiến 1945-1954 hoặc là cả hai thời kỳ này, và làm tay sai cho Liên Minh  Xâm Lược Mỹ Vatican trong những năm 1954-1975. Điểm đặc biệt của ba thằng Việt gian đầu sỏ này đều là những người có liên hệ khắng khít đến  việc nhập cảng, biến chế và phân phối nha phiến ở miền Nam trong suốt thời gian từ năm 1950 cho đến ngày 20/4/1975. Vấn đề này nhà viết sử Alfred W. McCoy trình bày khá đầy đủ và rất rõ ràng ở nơi các trang 109-222 trong cuốn The Politics of Heroin  in Southeast Asia (New York: Harper & Row, Publishers, 1972).

15.-  Tội ác buôn bán nha phiến của ba thằng Việt gian đầu sỏ cầm đầu chính quyền Quốc Gia Việt Nam này. Ba thằng đầu sỏ này là vua gỗ Bảo Đại, Tổng Thống Ca-tô Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu.  Đặc biệt là trong thời ông Tổng Thống Ca-tô Ngô Đình Diệm, nhà viết sử Alfred W. McCoy  gọi là “Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu” và dành gần 8 trang chữ khổ nhỏ để nói về tội nhập cảng, chế biến và phân phối cho 2500 tiệm hút trong vùng Chợ Lớn.[20]

Cũng trong thời gian này, chế độ đạo phiệt Ca-tô khốn nạn này tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo lực, bách hại Phật Giáo  và tàn sát tới hơn 300 ngàn người. Xem chú thích số 8 ở trên.

Cũng vì thế mà sử gia  Nigel Cawthorne khẳng định ông ta là một trong số 100 tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại.[21]  

16.- Nói đến lá cờ vàng ba sọc đỏ hay nói đến người Việt Quốc Gia, chúng ta không thể nào quên được cái hình ảnh của đoàn quân lính đạo  bỏ cả quân trang và vũ khí tranh nhau chạy trốn khỏi Phát Diệm và Bùi Chu, thất thểu lang thang trên khắp các đường phố Hà Nội và Hải Phòng. Chuyện này xẩy ra vào thời điểm quân Pháp vừa mới rút khỏi hai giáo khu này vào tháng 6/1954.

17.- Và nói đến lá cờ vàng ba sọc đỏ hay nói đến người Việt Quốc Gia, chúng ta không thể nào quên được cái hình ảnh của tình trạng rã ngũ tan hảng của chính quyền và quân đội miền Nam đánh thuê cho Liên Minh Mỹ - Vatican vào những ngày từ cuối tháng 3/1975 đến ngày 30/4/1975. Người viết xín tóm lược cái hình ảnh hèn nhát và thảm thương này như sau:

Đầu năm 1973, thấy rằng miền Nam Việt Nam không còn cần thiết cho nhu cầu chiến lược "be bờ" nữa, Hoa Kỳ chính thức bỏ rơi miền Nam. Bị Hoa Kỳ bỏ rơi, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa (do một ông Tổng thống từng tuyên bố một cách vô liêm sỉ rằng “sẽ chỉ chịu từ chức nếu Mỹ cắt viện trợ”) rơi dần vào tình trạng rã ngũ tan hàng. Ngày 25/4/1975,Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm vội vã chuồn ra ngoại quốc. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương già lụ khu, một ông giáo đạo đức giả, được đôn lên làm tổng thống. Chủ Tịch Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn được đưa lên làm thủ tướng thay thế ông Trần Thiện Khiêm được mấy ngày cũng xin từ chức rồi bỏ trốn. Các tướng lãnh như Cao Văn Viên (Tổng Thâm Mưu Trưởng), Đặng Văn Quang (Cố Vấn An Ninh Phủ Tổng Thống), Nguyễn Văn Toàn (Tư Lệnh Quân Khu 3 kiêm Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô), Nguyễn Khắc Binh (Tổng Giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia), Đỗ Kiến Nhiễu (Đô Trưởng Sàigòn), Ngô Quang Trưởng (Tư Lênh Vùng 1 kiêm Quân Khu 1), Lâm Quang Thi (Tư Lệnh Phó Quân Đòan 1),Trần Văn Minh (Tư Lệnh Không Quân), Lê Quang Lưỡng (Tư Lệnh Nhẩy Dù), Dư Quốc Đống, Vĩnh Lộc, Đồng Văn Khuyên, Phạm Quốc Thuần, Vĩnh Lộc, Ngô Du, Bùi Đình Đạm, Nguyễn Văn Minh (Minh Đờn), Trần Văn Trung (Chiến Tranh Chính Trị), Nguyễn Cao Kỳ, Huỳnh Bá Tĩnh, Nguyễn Hữu Tần, Võ Xuân Lành, Nguyễn Ngọc Oánh, Lê Nguyên Khang, v.v...  lớp lớp tranh nhau đào tẩu chạy ra hải ngoại.  Các thượng nghị sĩ và dân biểu quốc hội như Nguyễn Văn Chức, Hùynh Văn Cao, Nguyễn Văn Ngải, Phạm Nam Sách, Trương Tiến Đạt, Hoàng Xuân Tửu, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Nguyễn Bá Lương, Nguyễn Văn Ngải, Nguyễn Gia Hiến,. v.v.., bỏ cờ, bỏ lính, bỏ Thượng Viện, bỏ Quốc Hội, bỏ dân chúng, kẻ trước người sau theo nhau vắt chân lên cổ chạy thục mạng để thoát thân, giống như tàn quân Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch tranh nhau chạy khỏi Hoa Lục vào mùa Hè-Thu năm 1949.

"Mùa xuân một chín bảy lăm,

Tướng đầu cuốn gói, ba quân ngỡ ngàng." (trích Bài Thơ Cho Con -NMQ)

Miền Nam, đặc biệt là dân chúng trong các thành thị, quả thật đã như "rắn đã mất đầu". Vào những ngày trong tuần lễ chót của tháng 4/1975, từ Phan Rang trở vào Sàigòn, quân lính lang thang lếch thếch cởi bỏ quân phục, liệng bỏ vũ khí và quân trang, lo chạy cho thoát. Cảnh sát, công an, mật vụ cũng biến dạng. Chỉ còn lại đám dân đen ngơ ngác, lặng nhìn giang sơn đổi chủ. Sự kiện này được ông Ca-tô Nguyễn Văn Lực ghi lại như sau:

"Sàigòn 30 tháng 4, bề ngòai cũng như một Baghdad ngày nay. Người đi bỏ chạy lấy người, kẻ ở lại lợi dụng cơ hội vơ vét. Cứ nhìn xem những người ra đi đủ để bắt mạch được miền Nam đang hấp hối.

Trước đó ông Thiệu đã gửi tài sản gia đình của ông bằng đường tầu thủy sang Đài Loan và Canda, gửi vàng sang Paris giái trị 5 triệu đô la. Tối ngày 25 tháng 4, Polgar ra lệnh cho mật vụ đi ba xe đến đón ông Khiêm ở Bộ Tổng Tư Lệnh đi Tân Sơn Nhứt. Ít phút sau, ông Thiệu tới trên một xe Mercedès. Timmes ngồi cạnh ông Thiệu và yêu cầu ông ngồi thụp xuống sàn xe, vì sợ lính nổ súng. Timmes hỏi xã giao ông Thiệu: Phu nhân và tiểu thư khỏe không ạ? Ông Thiệu trả lời, "Nhà tôi và cháu đi Luân Đôn mua ít đồ cổ" (Trích Frank Snepp, Decent Interval, trang 167). Nhớ lại, trước đó gần một tháng, Thủ Tướng Hoàng Thân Sirik Matak biên một lá thư từ chối tỵ nạn. Bức thư này còn lưu trữ trong Văn Khố Thượng Viện Hoa Kỳ. Sau đó, Hòang Thân Matak đã hy sinh cùng với Phó Thủ Tướng Long Beret. (Trích bài của Trung Tá Nguyễn Tuệ trên Tiếng Sông Hương, 2000). Lá thư của Hòang Thân Sirik Matak có đọan viết như sau: "Rất tiếc là trong hoàn cảnh này, tôi khổng thể ra đi một cách hèn nhát như vậy.... (Trích Tiền Phong số 658, trang 20)

Sài Gòn lúc ấy là một bãi rác đủ mọi thứ vô thừa nhận. "Sao Mai", quân trang, quân dụng, giầy bốt, mũ sắt, huân chương, tài liệu, sách vở vứt tung tóe, sắc đeo lưng, lựu đạn, súng ống. Dọc theo đường Công Lý ra đến Tân Sơn Nhứt... Người ta vứt đủ thứ ra đường. Sự hỗn loạn, sự sợ hãi trên mỗi khuôn mặt và trên bằng chứng là những món đồ vứt lại. Chưa kể đến xe díp, xe tải và cả xe tăng nữa. Chỉ có máy bay và tầu bè là phương tiện dùng để di tản là không còn để lại. Cũng không dám kể đến hồ sơ mật đủ loại, hồ sơ nhân viên. Theo Trung Tá Nguyễn Tuệ, điều hành văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, với bài viết: Ngày Tháng Cũ (Tiếng Sông Hương, 2000) trước đó một tháng, Mỹ đã lo ngại và đề nghị Tổng Cục Tiếp Vận nên đem toàn bộ hố sơ tại Trung Tâm Quản Trị gửi sang căn cứ Utapao (Thái Lan) của Không Quân Mỹ. Phía Việt Nam, hình như không quan tâm đến vấn đề này. Nói chung, toàn bộ tài sản của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa để rơi vào tay Cộng Sản.

Về phía CIA, họ đã chuyển hồ sơ mật đi trước. Cái gì không chuyển được đã kịp thời đốt. Theo Frank Snepp, họ đã thiêu hủy 14 tấn hồ sơ liên quan đến hoạt động tình báo và hồ sơ nhân viên.

Phía Tòa Khâm Sứ (của Giáo Hội La Mã) ở Sàigòn, họ đã chuyển về Vatican 24 thùng liên quan đến tình hình Việt Nam và 3 thùng liên quan đến Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (chứng từ của Linh-mục Thụ, thư ký Tòa Khâm Sứ.)

Tòan bộ hồ sơ từ miền Trung đến Sàigòn xuống lục tỉnh, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chuyển đi được mấy thùng?.Toàn bộ hồ sơ của Bộ Quốc Phòng, của quân đội nói chung được mấy thùng? Toàn bộ hồ sơ của các bộ, văn phòng Thủ Tướng, văn phòng Tổng Thống chuyển đi được mấy thùng?. Hay ít lắm cũng đốt đi được mấy thùng? Xin Đại Tướng Cao Văn Viên, Tướng Trần Thiện Khiêm lên tiếng. Xin các tướng lãnh, các cựu bộ trưởng lên tiếng.

Về phía dân chúng, cảnh xô bồ náo loạn như đến ngày tận thế. Người người hốt hoảng chạy, chạy xuôi, chạy ngược. Thật khác xa với hình ảnh ra đi vĩ đại, thong thả như đi du lịch, đi tắm biển. Taxi, xe nhà, xe gắn máy chở đầy người, chất đày của phóng như lao trên đường phố. Bàn ghế, giấy tờ, xe cộ ngổn ngang vứt bừa bãi dọc đường. Vợ con sĩ quan, công chức lạc nhau, chồng, vợ, con cái bị bỏ lại. Xô nhau mà chạy, chạy bán sống bán chết. Ai là người có can đảm, có lòng ở lại đương đầu với tình thế? Ai là người lúc bấy giờ làm kẻ hốt rác miền Nam? Kẻ ra đi hay kẻ quyết tâm ở lại? Tướng Dương Văn Minh là người cuối cùng ở lại cúi xuống đất nhặt một quyền chính bỏ rơi ngoài đường. Để trong 48 tiếng đồng hồ sau đó đứng ra nuốt nhục cứu độ quần chúng thủ đô miền Nam (chữ của Vân Xưa, bút hiệu của cụ Hồ Sĩ Khuê)...

Ngày 20 tháng 3, Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Đòan I, rời bỏ thành phố Huế, di tản chiến thuật. Bộ Tổng Tham Mưu mất lỉên lạc. Ngày 29 tháng 3, Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh, Đại Tá Duệ, Đại Tá Kỳ và các sĩ quan Bộ Tham Mưu (Quân Đòan 1) đã lên tầu Hải Quân 404, dời Đà Nẵng vào Cam Ranh. Đà Nẵng bị bỏ ngỏ để mặc cho quân lính mạnh ai nấy chạy. Đến Cam Ranh, các tướng lãnh giữ kín việc về Sàigòn. Chuẩn Tướng X. lên bong tầu ra lệnh cho Thủy Quân Lục Chiến dời tầu, nói dối là sẽ quay lại Vùng 1 Chiến Thuật. Khi người lính cuối cùng rời khỏi tầu xuống Cam Ranh thì chiến hạm vội chặt neo chạy về Sàigòn vào lúc 7:30 tối ngày 31/3/1975. Thủy Quân Lục Chiến đã bị lừa phản bội vào phút chót.

 Ngày 27/4/1975, Đại Tướng Cao Văn Viên bỏ chạy, chỉ để lại một lá thư từ chức trên bàn làm việc và đề nghị Tướng Đồng Văn Khuyên thay thế ông (Trích bài của Trung Tá Nguyễn Tuệ, Tiếng Sông Hương, 2000)

Ngày 28/4/1975, tất cả những vị tướng sau đây đã bỏ trốn: Trung Tướng Nguyễn Văn Minh (Biệt Khu Thủ Đô), Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư Lệnh Quân Đòan 3), Trung Tướng Trần Văn Minh (Tư Lệnh Không Quân), Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Đại Tá Nguyễn Văn Lung.

Sài Gòn bị bở ngỏ trước khi Cộng Quân tiến vào ngày 30/4/1975. Ông Thiệu bỏ đi đầu tiên và cứ thế tùy theo cấp bậc lớn nhỏ chuồn theo.

Trong khi đó, theo lệnh Tòa Nhà Trắng bắt buộc Đại Sứ Martin phải lên máy bay. Ông là một trong những người Mỹ cuối cùng đã lên máy bay vào lúc 5 giờ sáng ngày 30/4/1975. 10 giờ 30 ngày 30/4/1075, Cộng Sản vào chiếm Dinh Độc Lập. Cuộc chiến kết thúc." [22]

Trong trường hợp này, chúng ta thấy những ông người Việt Quốc Gia không những không dám trương cờ vàng ba sọc, không dám lớn tiếng nhìn nhận hay tư xưng là người Việt Quốc Gia, không dám huênh hoang tuyên bố giữ vững  lăn ranh Quốc Cộng, mà còn liệng bỏ nó, bỏ cả đơn vị hay nhiệm sở, liệng bỏ cả súng đạn và quân phục để mặc thường phục, giấu nhẹm cả những chức vụ, lần trốn vào trong dân chúng xa lạ để không ai có thể nhận ra họ với hy vọng được an thân, nhưng cũng không giấu được những dáng bộ với cặp mắt nhìn lấm lét lo sợ có một người nào đã từng nạn nhân của họ  nhận ra họ.

Hình ảnh của người Việt Quốc Gia ở miền Nam Việt Nam vào lúc đó như vậy.

Ấy thế mà ngày nay, ở hải ngoại, đặc biệt là ở Bắc Mỹ này, họ lại có những thái độ, ngôn ngữ và hành động xấc xược, ngược ngạo, hống hách tác oai tác quái trong các cộng đồng người Việt. Họ xục xạo đến các chùa  hà hiếp, bắt nạt, khủng bố, cưỡng bách các nhà sư trụ trì tại các chùa  phải treo lá cờ vàng ba sọc đỏ đầy những vết nhơ ô nhục như đã nói ở trên, và  khủng bố tinh thần, chửi bới những người khác tôn giáo bất đồng chính kiến với họ bằng những ngôn từ vô giáo dục. Khi biên soạn chương sách này thì  các ông người Việt Quốc Gia ở vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn đang kéo nhau  đến Hội Trường Chùa Hoa Nghiêm ở Virginia để khủng bố tinh thần Đại Đức Thích Nhật Từ từ Việt Nam đến đây để thuyết pháp hoằng dương chính đạo. Với những hành động như vậy, họ quả thật là những quân ăn cuớp, còn khốn nạn hơn cả những hành động thổ phỉ của 180 ngàn Quốc Quân Trung Hoa sang giải giới quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam trong thời gian  9/1945-6/1946 gấp bội phần.

 

CHÚ THÍCH


[1]Chu Văn Trinh, Gia Tô Thực Dân Sử Liệu [The Documented History of Catholic Colonialism] Tập 1 (Mt. Dora, Florida: Ban Tu Thư Tự Lực, 1990), tr 103-113 và 139-174.

[2] Chu Văn Trinh, Sđd., tr 108-110.

[3] Linh mục Antony Trần Văn Kiệm, 88 tuổi, ở Hố Nai tố cáo VietCatolic làm tay sai cho Cộng Sản Hanoi. VN-Politics@yahoogroups.com – Ngày 9/8/2008. Fr: "Hoang Thuc An" hoangthucan@gmail.com.

[4] Võ Nguyên Giáp, Những Ngày Tháng Không Thể Nào Quên (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 2001), tr. 34.

[5] Cửu Long Lê Trọng Văn, Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng Hay Đến Bờ Ảo Vọng  (San Diego, CA: TXB, 1996), tr. 187-194.

[6] Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân – Tập 1 (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Việt Nam, 1989), tr.. 428.

[7] Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York:  Frederick  A. Praeger, 1967), p 956,. Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Westminster, CA: Văn Nghệ, 1994), tr. 645, và Nguyễn Đắc Xuân. " viết "Bất ngờ, Sinh Viên Huế 1963". http://www.giaodiem.com  Ngày 18/10/2002.

[8] Nguyễn Mạnh Quang, Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004), tr. 124-133.

[9] Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam Và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 171. 

[10] Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính Tri Phật Giáo 1963-1967 (Houston, TX: Văn Hóa, 1994), tr. 28.

[11] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 – Tập I-C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 318-319.

[12] John Newman, John F. Kennedy và Chiến Tranh Việt Nam – Bản dịch của Trần Ngọc Dung (San Jose, CA: Nhà Xuất Bản Thế Giới, 1993), tr. 328-329.

[13] Chính Đạo. Sđd., tr. 321.

[14] Chính Đạo, Sđd., tr. 321-322.

[15] Chính Đạo, Sđd., tr. 325.

[16] Chu Văn Trình, Văn Sử Địa (Tavares, Florida: Ban Tu Thư Tự Lực, 1989), tr. 80.

[17]Bradley S. O’ Leary & Edward Lee, Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F Kennedy – Phạm Viên Phương & Mai Sơn dịch  (Nhà Xuất Bản  Tư Do, 2000), tr. 303-304.

[18] Bradley S. O’ Leary & Edward Lee, Sđd., tr. 306-307.

 

[19] Bradley S. O’ Leary & Edward Lee, Sđd., tr. 31.

[20] Alfred W. McCoy, The Politics of Heroin in Southeast Assia (New York: Harper & Row Publishers, 1972) pp. 159-166.   

[21] Nigel Cawthorne, Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004), pp.167-168. 

[22] Nguyễn Văn Lực, "Lên Tiếng Thay Cho Người Làm Thinh;" Website Chuyển Luân (tháng 1/ 2004)

 

 


Trang Nguyễn Mạnh Quang