Tôi Đã Đọc Hồi Ký
“Bên Nhau Trọn Đời” Nguyễn Hồng Trân | ||||||||||||||||||||
LTS: Hồi Ký “Bên Nhau Trọn Đời” của bà Nguyễn Thụy Nga qua bài đọc của tác giả Nguyền Hồng Trân không những hấp dẫn như một quyển tiểu thuyết trinh thám, mà lại còn có thể đóng góp như một nguồn tài liệu cho lịch sử trong giai đoạn liên quan. Những dữ kiện chính trị làm phông nền liên kết các câu chuyện đã làm cho bài viết có giá trị khả tín rất cao. Chính cái tâm tình ngay thật, lời lẽ không bóng bẩy, cầu kỳ, lý tưởng cao cả và thực tiễn, chứ không có tính cách mông lung, hay chính trị mồi chài ,... đã thuyết phục độc giả một cách tự nhiên. Những hy sinh, tri thức cũng như ý thức về thời cuộc của một bậc nữ nhi trong thời chiến như thế, thật đáng cho ta khâm phục. Tác giả Hồng Trân viết bài đọc về quyển Hồi Ký của bà Nguyễn Thụy Nga là việc làm rất đáng hoan nghênh. (SH)
PHẦN I Tôi đã từng đọc nhiều loại Hồi ký của các bà, các mẹ, các chị em Việt Nam ta qua vài thế hệ gần đây. Hồi ký nào cũng ghi lại được những niềm vui, nỗi buồn của cuộc đời cá nhân đã trải qua bao thăng trầm diễn biến của xã hội, đất nước chiến tranh, nhân dân mình đau khổ… Cứ đọc xong một quyển Hồi ký của một tác giả là trong tôi bùi ngùi một tình thương sâu nặng và kéo dài trong tâm tư mãi hoài qua năm tháng… Nhất là khi đọc Hồi ký [HK] “Bên nhau trọn đời” của bà Nguyễn Thụy Nga (Bảy Vân) là một trong những Hồi ký đã để lại trong tôi nhiều cảm xúc thực sự mến thương, kính phục bà Nga nói riêng và kính phục những người phụ nữ Việt Nam đã chịu thương, chịu khó, một lòng chung thuỷ với chồng con, với quê hương Tổ quốc!... Tôi đã may mắn được một người bạn thân đưa tập HK của bà cho tôi đọc. Tôi càng đọc càng thấy hấp dẫn về những điều bà kể lại một cách giản dị, chân thực giàu tình cảm, tỉnh táo lý trí, trong sáng tâm hồn, vững vàng tinh thần cách mạng của một người đàn bà Nam Bộ đầy bản lĩnh thủy chung, trung hiếu. Đồng thời qua HK của bà mà tôi được hiểu biết thêm về người chồng của bà là Cố TBT Lê Duẩn- người bạn thân với bác tôi là Nguyễn Bá Sam (Bí thư chi bộ Đảng đầu tiên của thôn Phú Long, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, năm 1930). Tuy vậy, bà cũng không viết gì nhiều về chồng mình-một lãnh tụ xuất sắc của Đảng CSVN. Có lẽ bà cũng biết rằng có nhiều nhà báo, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, chính trị, xã hội và các vị lão thành cách mạng đã viết nhiều về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng yêu nước của chồng bà rồi. Vì vậy trong HK của bà chỉ nêu ra vài nét có liên quan đến cuộc đời riêng tư của bà với ông Duẩn mà thôi. Bà đã viết: “Tuy có một quá khứ 32 năm làm vợ của anh, cùng chung nhau có quá trình 9 năm chống giặc Pháp và 30 năm chống giặc Mỹ, nhưng sự hiểu biết của tôi đối với anh còn quá ít, tôi không đủ sức làm thỏa lòng bạn đọc muốn biết về anh. Tôi xin lỗi… Tôi chỉ chân thành kể cho bạn đọc nghe một cuộc đời có góc cạnh của một cô tiểu tư sản học sinh có máu nóng, có trái tim hòa nhịp đập cùng dân tộc qua bao thăng trầm của đất nước… Cho nên cuộc đấu tranh của tôi vì Tổ quốc cũng như tình yêu của tôi không bao giờ suôn sẻ cả gần trọn một đời người…” (Trích đoạn Lời nói đầu của HK trang 3,4). Thời thơ ấu của bà Bảy Vân thì cũng không có gì đặc biệt lắm, cũng giống nhiều gia đình chị em khác trong xã hội, nhưng cái khác của bà là biết nuôi dưỡng cái tinh thần tự trọng, cái danh dự của một gia đình trí thức là luôn luôn tôn trọng lẽ phải, phụng sự chính nghĩa mà quyết tâm thực hiện những điều mình cần phải làm cho xứng đáng một con người có học thức, có bản lĩnh… Trong HK bà chỉ phác qua mấy nét chính thôi nhưng chúng ta cũng hiểu được hoàn cảnh của bà từ thuở ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Bà ghi rằng: “Tôi sinh năm 1925… Tôi lớn lên trong một gia đình có 10 anh chị em, 5 trai, 5 gái, tôi là con thứ 7 (nên gọi là Bảy Vân). Ông già tôi khi còn sống là chủ bút tờ báo tiếng Pháp ở Sài Gòn. Khi ông già con nhỏ, giặc Pháp chặt đầu ông nội tôi vì tội tham gia phong trào Cần vương. Bà nội tôi phải cõng cha tôi chạy lên Bình Tây để tránh nạn… Không có tiền của để sinh sống, bà nội tôi phải đi quét dọn cho nhà máy xay lúa ở Bình Tây để vừa có tiền công quét dọn, vừa thu gom được gạo vương vãi về sàng sảy lại nuôi sống bà và cha tôi. Khi cha tôi lên 6 tuổi, có phong trào Tây bắt buộc con Cai tổng, địa chủ phải đi học tiếng Tây. Bọn này lười học nên thuê con nhà nghèo đi học thay. Cha tôi nhận đi học thuê để lấy tiền sinh sống và nuôi bà nội tôi. Sau đó ông già tôi đậu hàng nhất Diplome trường Pétrus Ký (nay là trường Lê Hồng Phong). Vì cha tôi học giỏi nên được chọn vào làm thơ ký cho Phủ Toàn Quyền 3 năm… Sau 3 năm Pháp bổ ông già đi làm Tri huyện. Ông từ chối, bỏ về viết báo tiếng Pháp và làm lò gạch ở Biên Hòa. Qua chuyện ông già tôi không ra làm Tri huyện, ông ngoại tôi không cho ông già tôi cưới bà già. Bà ngoại tôi lúc đó là một cô gái rất đẹp, đành bỏ cưới xin mà đi theo ông tôi. Nghề chính của ông là viết báo cho nên dân làng Tân Hiệp gọi ông là “Ông chủ Nhựt trình”. Sau này ông làm chủ bút tờ báo La Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ). Tính ông ngang, thẳng. Ngoài việc bênh vực quyền lợi của dân nghèo bằng ngòi bút, trong đời sống hễ thấy Tây đi xe ngựa của dân không trả tiền, ông thộp ngực đánh liền. Ông kịch liệt phản đối chính sách thuộc địa và sưu cao thuế nặng của Pháp bằng cả viết báo lẫn đăng đàn diễn thuyết. Toàn quyền Pháp phải thân chinh gặp ông mua chuộc bằng cách hứa cấp 500 héc ta đất cho vay vốn để trồng cao su. Khi đó nhiều người phất lên bằng nghề này. Nhưng ông nói thẳng: “Thà tôi cạp đất mà ăn chớ không khi nào ngửa tay xin tiền!”... Năm 1936, ông già chết khi vừa tròn 46 tuổi. Trong làng dân tưởng nhớ ông, họ xây cất một cái miếu nhỏ thờ ông. Họ ghi là thờ ‘Con hổ xám’… Ông già tôi mất năm đó, tôi còn đi học, bà già tôi lo tần tảo nuôi 8 đứa con, chỉ có anh hai chị ba có vợ, có chồng thì ở riêng…” (Trích đoạn ở mục THUỞ NHỎ, tr 8-12). Thế là cả gia đình mẹ góa, con côi với 9 miệng ăn làm sao mà sinh sống nổi? Bà mẹ góa phải đành bán nhà và đất đai ở Cù Lao Phố rồi về ở làng Tam Hiệp ở trong một cái nhà tranh vách đất. Dù vậy nhưng gia đình bà vẫn được làng xóm thương cảm, quý mến. Hơn nữa tiếng tăm của một ông già đã từng làm Tri huyện rất công tâm, biết thương dân vẫn còn lưu lại trong dân gian nên đội lính hương vệ trong làng không giám để ý dò xét nhà bà. Đầu những năm bốn mươi, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, nhiều cán bộ hoạt động ở Nam Kỳ bị kêu án tử hình vắng mặt đã về nhà bà trốn tránh... Dần dà cô bé Nguyễn Thụy Nga được mấy anh, mấy chú giác ngộ cách mạng và tự nguyện tham gia một số việc nhỏ giúp cho các vị cán bộ CS hoạt động thuận lợi. Bà Nga đã ghi trong HK: “Các đồng chí Cộng sản bị án tử hình khiếm diện cũng chạy lên nhà tôi trốn tránh... Lúc đó Nhật bỏ bom ở Sài Gòn nên tôi nghỉ học về nhà. Đối với các anh làm cách mạng, tôi rất mến phục. Các anh họp tại nhà tôi, tôi phục vụ nấu nước, nấu cháo gà và lo canh gác. Dần dần các anh dạy bảo cho tôi về cách mạng. Thấy tôi có dáng vẻ học trò nên đã bố trí cho tôi đi liên lạc từ Sài Gòn - Mỹ Tho; Sài Gòn- Tân An. Lúc đó đồng chí Nguyễn Văn Tiếp là Bí thư tỉnh ủy Mỹ Tho, đồng chí Khuy là Bí thư tỉnh ủy Long An...” (Trích đoạn HK, mục “THEO CÁCH MẠNG” tr. 13). Nhờ sự dìu dắt tận tình của ông Nguyễn Văn Tiếp – Bí thư tỉnh ủy Mỹ Tho, dần dần Thụy Nga mạnh dạn tham gia cách mạng một cách nhiệt tình, mưu trí để liên lạc và chuyển tài liệu và vật quý về các cơ sở được an toàn. Bà kể rằng: “Có lần từ Sài Gòn đi liên lạc xuống Long An, Mỹ Tho, tôi mặc áo dài tím (như học sinh trường áo tím), một tay mang cặp táp, trong đó đựng truyền đơn, hai cây súng lục sáu, một số vàng rất nặng. Một tay tôi xách giỏ trái cây, toàn những thứ mắt tiền... Các anh mua cho tôi vé tàu hỏa hạng nhất là hai đồng Đông Dương. Tôi bước lên toa xe không thấy có người Việt Nam nào cả, chỉ thấy một thằng Tây râu ria xồm xoàm, mặt mặt coi dữ tợn lắm, vai nó đeo lon quan 5 và một thằng Tây trẻ đeo lon quan 2. Tôi đến ngồi gần bên thằng Tây trẻ. Nó thấy tôi dự tính ngồi vào, nó lật đật xếp các thứ đồ lên gác giùm tôi. Nó hỏi tôi đi đâu? Tôi nói: -Tôi đang học ở Sài Gòn nghe tin má tôi bị đau ở Mỹ Tho nên tôi về thăm... Trước khi đi, các anh dặn khi xuống tàu hỏa ra ngoài có một chiếc xe Citroen màu đen đến đón tôi. Khi vừa ra ga, tôi nhìn thấy hai hàng lính đứng kín trên đường ra. Ai đi qua chúng cũng kéo lại khám xét. Lúc bấy giờ tôi run sợ, trong bụng nghĩ rằng phen này là chết chắc rồi! Khi tôi cầm cặp và giỏ lên, trái cây rớt lăn lóc dưới sàn xe. Thằng Tây quan hai trẻ đó cúi xuống lượm nhặt giùm tôi và nói: -Cô cần cần gì, tôi giúp cho? Tôi mừng thầm và nói: -Nhờ ông xách hộ tôi cái cặp này. Thế là nó mang đồ quốc cấm, còn tôi xách giỏ trái cây. Khi đi ra, tôi đi trước, nó đi sau. Đi ngang qua hàng lính, bọn lính kéo giỏ trái cây của tôi lại khám xét. Thằng Tây đi sau tôi hất cánh tay thằng lính khám ra và đẩy tôi đi ra khỏi chỗ xét. Khi ra ngoài, nó đưa tôi lên xe về Sài Gòn. Tôi đi được an toàn mà vẫn còn run...” (Trích đoạn KH ở tr. 14-15). Năm 17 tuổi, cô gái Thụy Nga đến tuổi dậy thì ngày càng đẹp mã ra và được nhiều chàng trai để ý. Má cô và người nhà, bà con nhắm nhe cho mấy đám con trai con nhà khá giả, nhưng cô đều không ưng, vì khi tiếp cận cô thấy không phù hợp với tình cảm của cô. Từ đó, trái tim người con gái đến tuổi ấy bắt đầu bị xáo động, thổn thức muốn tìm được một người bạn tình hợp ý với mình để yêu thương xây dựng cuộc đời... Thế rồi sau một thời gian, cô gái xinh đẹp Thụy Nga đã lọt mắt được một người mà cô cảm thấy yêu thương thực sự. Đó là một cán bộ hoạt động bí mật từng bị kêu án tử hình đang bí mật trốn ở ngay trong nhà Nga, anh ta nhiệt tình bày vẽ cho Nga học hành văn hoá và hướng dẫn tham gia công tác cách mạng... Sau đó, mối tình của hai người cũng chẳng đi đến đâu, vì một lẽ anh ta đã có vợ con rồi thì cũng khó cho cô gái Thụy Nga yên tâm để theo đuổi mối tình phiền toái đó. Chuyện mối tình đầu này cô Thụy Nga cũng đã thổ lộ trong HK rằng: “Trong quá trình các anh cán bộ cách mạng trốn ở nhà tôi, có một anh hay dạy tôi học thêm vì tôi không đến trường được và anh cũng hướng dẫn tôi đi công tác rồi nhiều lần chuyện trò tâm sự chân thành với nhau. Thế rồi hai chúng tôi dần dần yêu nhau. Mặc dầu tôi biết anh ấy đã có vợ, có con nhưng tình yêu của tôi đối với anh ấy rất tự nhiên và ngày càng sâu sắc. Sau đó anh chuyển chỗ ở ra Vũng Tàu rồi lên Đà Lạt. Chúng tôi vẫn thường xuyên có thư từ cho nhau, nhưng rồi dần dần phải ngậm nỗi buồn phải dứt tình để bảo đảm cho gia đình vợ con anh ấy hạnh phúc mà mình cũng không mang tiếng đi dụ chồng người ta. Đến gần giải phóng Sài Gòn, tôi về công tác Mặt Trận Việt Minh. Đêm chuẩn bị ăn mừng ngày 19-8-1945, tôi cùng anh chị em học sinh, sinh viên bò lên đường phố viết khẩu hiệu cho đến sáng. Các khẩu hiểu: “Hoan hô Mặt Trận Việt Minh!”, “Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Hồ Chí Minh muôn năm!” v,v... Lúc bấy giờ anh Hoàng Quốc Việt và chị Kỳ (vợ anh Văn Tiến Dũng) vào Sài Gòn để phổ biến nhận định của Trung ương [TW] về tình hình và nhiệm vụ sắp tới. Tôi được phân công về công tác tại toà báo Dân chúng (cơ quan ngôn luận của Đảng CS Đông Dương) do anh Hà Huy Tập và anh Nguyễn Công Trừng lãnh đạo... Sau khi Sài Gòn thành lập chính quyền được một tháng, do anh Trần Văn Giàu làm chủ tịch. Mỗi lần anh Giàu đi diễn thuyết ở rạp Nguyễn Văn Hoà, tôi cũng là một thính giả rất nhiệt tình. Anh Giàu nói rất hay, bà con đi nghe đông nghịt, từ trong nhà hát bắt loa ra ngoài cho dân đứng trên đường phố nghe rất đông. Đến ngày 23-9-1945, Pháp dựa vào quân Anh đánh ta từ phố này sang phố khác. Cuối cùng các anh cán bộ cách mạng rút về Chợ Đệm. Lúc đó tôi được phân nhiệm công tác trong Ban tuyên truyền tỉnh Chợ Lớn. Lúc về Chợ Đệm, tôi ở trong nhà của anh mà tôi đã yêu. Chị ấy biết chúng tôi yêu nhau. Một hôm không biết tình cờ hay cố ý, chị bàn với một số anh em cho tôi đi chợ Cầu Ông Lãnh để lấy vàng, lấy súng... còn dấu lại trong nhà cơ sở. Lần này tôi cũng dùng cái áo dài tím học trò của tôi để vượt qua nguy hiểm. Tôi ra đi trên một chiếc tam bản (thuyền 3 tấm) có mui, ghé tại chân cầu Chữ Y, họ cho tôi lên và ở đó đợi tôi về. Tôi lên đi trên chiếc xe kéo. Dọc đường lúc đó có nhiều chướng ngại vật các mô ụ do lớp thanh niên tiền phong chặt cây lớn cho đổ ngang đường và chất nhiều thứ linh tinh để ngăn chặn quân giặc. Lúc đi, ngang qua họ, tôi cũng bị khám xét từng chặng, nhưng không có gì nên họ cho đi. Khi về nhà cơ sở đưa thư, họ giao mọi thứ cho tôi mang về. Dọc đường họ lại khám xét chiếc cặp của tôi thấy có thấy có súng, có vàng, có ... họ họ bắt tôi đứng đó rất lâu. Bấy giờ hết sợ giặc lại sợ đằng mình. Tôi nhớ đến việc bà vợ bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (lúc đó là Lãnh tụ của Thanh niên Tiền phong) đi ngang trạm gác bà xưng danh: -Tôi là vợ bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Nhưng vì bà là người Pháp nói tiếng Việt chưa sõi, anh em TNTP tưởng là đầm giặc Pháp nên xử sự tệ hại đối với bà ấy. Còn tôi, họ bàn bạc với nhau một hồi, xong có người đi gọi điện thoại cho ai đó. Chừng một tiếng đồng hồ sau họ cho tôi đi. Thế là thoát nạn! ... Chúng tôi về Cợ Đệm đã mang mọi thứ về nơi an toàn. Mọi người xem đó là một chuyến đi công tác bình thường, chứ biết đâu chúng tôi ra vào cõi chết như vậy!.. Sau này, trong lúc nói chuyện vui với anh Phạm Hùng, anh ấy kể lại: -Hồi năm 45, có một lần tụi TNTP gọi điện thoại cho tôi nói là có bắt được một nữ Việt gian tên là Nguyễn Thụy Nga, mang theo các thứ quốc cấm, xin cho lệnh đi “mò tôm” (tức là thủ tiêu cho chìm xuống sông). Anh hai Hùng nói: -Nếu không có tôi thì chị đã đi “mò tôm” lúc đó rồi... Lúc đó tôi nghĩ bụng: có lẽ số tôi may mắn nhờ cái áo dài tím học trò ngày xưa hộ mệnh!... Với cái áo dài tím đó, tôi giữ nó kỷ niệm suốt trong 9 năm kháng chiến chống giặc Pháp, tôi rất yêu nó, vì nó có duyên nợ thăng trầm vui buồn cùng tôi...”(Trích đoạn HK tr.16 -21). Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cô Nga đã nhiệt tâm, sẵn sàng làm mọi nhiệm vụ được giao và đã từng vượt qua bao thử thách gian truân cả về vật chất cả tinh thần, nhưng cô đã vững vàng theo suốt con đường chính nghĩa mà Bác Hồ đã kêu gọi và chỉ dẫn. Trong Hồi ký của cô đã ghi: “Ở Chợ Đệm mấy tháng, tôi được phân công cùng chị Hai Sóc đem tài sản của “Tuần lễ vàng” ra TW. Toàn quốc có vận động toàn dân đóng góp vàng cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Chúng tôi xuống miền Tây để tổ chức thuyền buồm đưa số vàng đi. Khi đến Rạch Giá, các anh có ý kiến là sức khỏe tôi yếu đi thuyền buồm trong mùa mưa gió này chắc không chịu nổi. Vì vậy các anh phân công tôi về công tác chính trị trong bệnh viện Rạch Giá, Long Xuyên. Bệnh viện này có 2 bác sĩ và 20 y tá được ta đưa về để chăm sóc cho 120 thương binh của ta từ các mặt trận chuyển về. Bệnh viện đóng tại Xẻo Rô thuộc huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá... Có lúc ban đêm, mưa rơi tầm tã, tôi soi đèn ngó xem anh em thương binh ra sao thì thấy một anh thương binh đã bị cưa chân sát háng và bị nhiễm trùng uốn ván giật cong người lên... thấy tôi đến, anh cố sức nói với tôi: -Thế nào tôi cũng chết thôi chị, nhờ chị báo tin giùm cho má tôi. Anh vừa nói từng tiếng, miệng anh bị giật méo và sùi cả bọt mép. Tôi sợ quá nhưng không giám bỏ anh, sợ anh té ngã... Mỗi lần gặp thương binh nặng đau đớn như vậy và mỗi lần thương binh chết là tôi khóc sưng cả mắt. Hồi đó, trong số thương binh đó có 4 người Nhật Bản theo mình đánh Pháp. Tôi thường xuyên lui tới chăm sóc họ như anh em thương binh của mình vậy... Khi Pháp đánh mạnh, mặt trận Xẻo Rô bị vỡ, không ai báo kịp tin cho bệnh viện hay. Đến chừng tàu Pháp chạy xình xịch vô tận nơi, chúng bắn xối xả lên bờ, lúc đó mạnh ai nấy chạy. Tôi và cậu Long y tá chống xuồng đi tìm thương binh... Suốt đêm hôm đó chúng tôi gom được 90 thương binh đem về ở Thứ Ba Biển cho xa mặt trận. Trong tình hình thiếu thuốc men để chăm sóc cho thương binh. Nhiều đồng chí bị nhiễm trùng, sưng vết thương, thối thịt đau đớn... Trước tình cảnh đó, tôi thương anh em thương binh quá chừng!... Sau đó chúng tôi còn một ghe chài thuốc phải có người bào chế mới dùng được. Lúc đó có anh Nguyễn Đình Tri, sinh viên năm thứ 4 trường thuốc lo việc bào chế thuốc và cùng chúng tôi chăm sóc thương binh... Nhờ có anh Tri chỉ bảo, tôi và cậu Long mới biết cách thay băng, tiêm thuốc, dùng thuốc... Ngày tháng trôi qua mau, dần dần anh em thương binh lành vết thương. Tôi tính phải phân tán anh em chứ không kéo dài được nữa vì giặc đánh ngày càng gần... Anh em thương binh đi hết rồi, tôi gặp anh Tri, anh ấy hỏi tôi: “Giờ thì nhiệm vụ chung đã xong, vậy hai chúng mình, em tính sao đây?”. Tôi chưa kịp nói gì thì anh tiếp: “Chúng ta nên về chợ Rạch Giá, ở đó có ông già anh làm tri huyện, ông sẽ bao bọc chúng ta, không có sao đâu. Chờ anh học xong lấy bằng tốt nghiệp trường Y rồi chúng mình sẽ làm lễ thành hôn”. Lúc đó anh nhìn tôi, lo lắng, chờ đợi. Tôi biết tôi nói ra anh ấy sẽ buồn nhưng tôi phải nói: “Kháng chiến chưa thành công, tôi chưa tính chuyện chồng con được”. Anh nghe tôi nói vậy, anh sầu não lắm, quấn quýt bên tôi vài ngày để tìm cách thuyết phục tôi, nhưng không được. Cuối cùng, một buổi chiều, anh xuống thuyền đẩy cho trôi về hướng Rạch Giá và mắt đăm đăm nhìn tôi mà quá đỗi buồn... Tôi trở lại Cần thơ để liên lạc ... vì muốn thăm dò tìm người quen, nên chiều chiều tôi lại đi bán đậu phộng rang trước rạp hát. Một hôm có gặp một phụ nữ tay dắt đứa con vào rạp, đi ngang qua chỗ tôi, đứa bé đòi mua đậu phộng rang. Người mẹ cúi xuống bảo tôi: “Chị cho mua một xu đậu phộng”. Khi tôi ngước lên đưa gói đậu và nhận tiền thì người phụ nữ sững sờ nhìn tôi và kêu lên: “Trời ơi!” làm rơi cả đậu cả tiền. Tôi nhìn kỹ lại hoá ra là Huệ, bạn cùng học chung nữ học đường với tôi ngày xưa. Cô là cháu ông Đốc phủ Nam, bà con bên má tôi. Huệ kêu lên: "Chị ơi! Sao chị kham khổ thế này?”. Tôi hỏi lại Huệ mới biết Huệ là dâu của bác sĩ Lê Văn Hoặch (sau này một thời làm Thủ tướng bù nhìn của Pháp). Huệ rủ tôi đến nhà chơi. Tôi cũng muốn tạo quan hệ để xây dựng cơ sở cho anh em hoạt động cách mạng, nhưng qua hai lần gặp gỡ nhau ở đình, Huệ biết tôi theo Kháng chiến nên dần dần lánh mặt tôi vì sợ liên luỵ... (Trích đoạn HK từ tr. 22- 30). Thấy thái độ người bạn lo lắng, ái ngại nên cô Nga cũng chẳng muốn làm phiền lòng bạn nữa, cô đi tìm cơ sở nơi khác và luôn luôn giữ gìn bí mật các hoạt động của mình với các đồng đội ở trong vùng địch. Ban ngày thì cô lo đi làm ăn kiếm sống, ban đêm viết truyền đơn và tổ chức đi rải ở các trường học, các chợ quán để kêu gọi sinh viên và giáo chức chống Pháp. Nhiều lúc cô phải viết truyền đơn bằng tay trái để nét chữ khác đi, làm cho bọn mật thám địch không biết được. Sự hoạt động khôn khéo của cô đã làm cho các đồng chí lãnh đạo Đảng địa phương rất tin tưởng. Đồng chí Hai Miên (trong kháng chiến chống Pháp đồng chí đã làm Trưởng Ban Điệp báo tỉnh Bạc Liêu) đưa cô về Tỉnh ủy Bạc Liêu nhận công tác mới. Tại đây cô được học tập các khóa chính trị ngắn hạn rồi được phân công về Ban điệp báo của ta hoạt động ở chợ Cà Mau và Bạc Liêu. Để làm tốt công tác này cô Nga phải lăn lộn trên thị trường như một người buôn bán thực sự. Khi thì bán bánh bèo, khi thì bán cam... Một lần gặp nguy, cô tưởng mình bị lộ là điệp báo viên Việt Minh, nhưng rồi đã vượt qua được, cô cũng hết hồn, bạt vía. Cô đã kể lại trong HK của mình như sau: “Có lần tôi chuyển qua đi bán cam trái, gặp một nhóm bọn phòng nhì (mật thám Pháp), chúng gọi tôi đến bảo tôi bóc vỏ cam cho nó ăn tại chỗ. Vừa ăn nó vừa nói: “Cô mà bán cam cái nỗi gì! Dáng cô là dáng con nhà giàu, chắc cô làm trong ban ám sát của Việt Minh chứ gì?”. Tôi nói: “Chèn ơi! Tôi đi bán kiếm ăn đó thầy!. Tôi đập con ruồi còn không chết thì ám sát ai?... Má tôi đi tản cư trên chiếc xuồng tam bản và đã bị kẻ cướp lấy hết tiền lại còn giết má tôi nữa. Tôi nhảy xuống sông nên trốn được. Nhắc đến má tôi mà lại nói má tôi chết, tôi cứ khóc ròng. Nó nghe tôi than vãn vậy nên nó nói: “Tôi nói cô ám sát là ám sát trái tim người ta đó mà!”. Nghe nó nói thế mà tôi vẫn chưa hết run, về tới nhà mà còn run... Lúc đầu tôi hoạt động một mình, sau tôi tổ chức được thêm hai chị nữa và tôi làm thành một tổ điệp báo. Hai chị kia cũng là học sinh Trung học, biết tiếng Pháp để đi dò la đồn bốt của Pháp. Có một cô rất đẹp, được bố trí làm vợ một tên đồn trưởng. Mấy tháng sau, quân ta chuẩn bị đánh đồn, tin tức do cô cung cấp. Anh em giao nhiệm vụ cho cô ấy khi báo tín hiệu cho quân ta tràn vào thì cô lấy cây súng sáu dưới gối tên đồn trưởng và bắn nó ngay. Cô ấy bảo rằng: việc gì cô cũng chấp hành cả, nhưng việc giết tên đồn trưởng thì cô ấy không thể làm được... Vì tên đồn trưởng là một sinh viên ở Pháp bị bắt lính sang Việt Nam. Họ sống với nhau mấy tháng, nó rất yêu cô và cô cũng đã yêu nó rồi. Anh em nói với cô rằng, khi mình tấn công vào, cô hãy tránh đi, quân ta sẽ giết nó. Về sau, cô trở về thành phố và tôi không biết tin gì về cô ấy nữa... Có một việc nữa làm tôi vô cùng xúc động và nhớ mãi. Đó là một cô tên là Thảo. Trong một trận tấn công vào thị xã Bạc Liêu, có 4 mũi đánh, cô Thảo chịu trách nhiệm một mũi, tôi và 2 người nữa, mỗi người chịu một mũi... Sau đó thì Thảo bị bắt, tôi lo quá, sợ Thảo bị tra tấn đủ kiểu, kể cả hãm hiếp, nhục hình... liệu Thảo có chịu nỗi không? Có khai báo gì không? Một mặt tôi thăm dò tin tức của Thảo, mặt khác, tôi cho anh em dời chỗ ở. Qua tin nội tuyến báo về cho tôi biết Thảo bị giam ở Khám lớn. Mỗi ngày nó bị đưa đến khảo cung. Nội tuyến cho biết Thảo không khai gì, bọn chúng đánh dữ lắm. Một tuần sau tôi được tin: ngày hôm sau biết chúng sẽ đưa Thảo sang nhà thương thí. Nó tra tấn Thảo rồi đổ xăng vào người Thảo và hỏi: “Chịu khai không?”. Thảo vẫn không khai, chúng xì hộp quẹt thảy que diêm vào người Thảo. Lửa bùng cháy lên thành ngọn đuốc. Chúng lấy bao bố ướt chụp lên, người Thảo bị bỏng hết, đau đớn vô cùng mà Thảo vẫn không khai... Tôi bán hàng buổi sáng cứ lẩn quẩn gần cửa khám xem Thảo thế nào. Đến 9 giờ, có hai tên lính khiêng một băng ca ra, có một người nằm đó, trên mình đắp 2 bao bố, đầu tóc cháy queo, nhìn không ra. Nhưng vì đau đớn nên cô rên la, miệng há ra thở, nhìn thấy chiếc răng lòi xỉ của Thảo, nên tôi nhận ra được Thảo và tôi rất đau lòng... Chúng bỏ Thảo trong nhà thương thí mấy ngày, tưởng là Thảo đã chết nên chúng khiêng bỏ ra ngoài bờ tường. Sương xuống, Thảo tỉnh lại, Thảo cố bò xuống bờ sông mà đồng bào vùng giải phóng đi chợ thường chèo xuồng đi ngang. Bữa đó có bác Ba mà chúng tôi thường hay ở nhà bác, bác bơi xuồng ngang chỗ Thảo ngồi, Thảo gọi: “Bác Ba ơi! Bác Ba! Con là Thảo đây”. Bác Ba nhìn tuy nhận không ra Thảo nhưng nghe giọng nói của Thảo, bác kêu lên: “Trời ơi! Sao con ra nông nổi này?”. Sau đó bác Ba bỏ buổi chợ và bồng Thảo về nhà chăm lo thuốc men đắp vết bỏng cho thảo hàng ngày. Sau đó có một lần tôi về thăm lại Thảo. Thảo bị tật, 2 tay, 2 chân bị co rút lại, 2 mắt bị mù. Thật tội nghiệp quá. Tôi thương Thảo vô cùng! Lúc đó có gì trong túi tôi cho Thảo hết, vậy thôi chứ biết làm sao được! Đến khi tập kết, tôi có về tìm Thảo tính báo cho tổ chức cho Thảo đi cùng đi, nhưng nhà bác Ba đã dời đi đâu không ai biết và Thảo ra sao cũng không ai hay cả. Tôi hết sức buồn và nhớ mãi câu chuyện về Thảo - người đồng đội thân thiết đã gặp số phận không may...” (Trích đoạn HK mục “ĐỒNG ĐỘI”, tr. 31-35). Trong quá hoạt động cách mạng của cô Thụy Nga đã được anh chị em đồng đội quý mến, tin cậy và giao chức trách làm Phó Đoàn Phụ nữ Cứu quốc huyện Vĩnh Lợi. Chị Cầm là Đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc [PNCQ] và anh Nguyễn Văn Hiệp Đoàn trưởng Thanh niên Cứu quốc [TNCQ] huyện. Hai người này đã giới thiệu cô vào Đảng vào tháng 4/1946. Cuối năm 1946, cô Nga được điều về làm Đoàn trưởng PNCQ tỉnh Bạc Liêu. Ở cương vị nào cô cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong công việc và mối quan hệ tình cảm chân thành, nhân ái với đồng bào, đồng chí. Lúc bấy giờ có một số anh độc thân cũng để ý yêu thương cô, có anh Bá (Phó Đoàn TNCQ huyện) rất yêu cô, chăm sóc cho cô từng ly từng tý. Cô cũng có cảm tình với anh Bá. Nhưng hai người chưa kịp nói được điều gì chính thức về tình yêu đôi lứa thì anh ta đã hy sinh làm cho cô rất đau lòng, thương xót cho anh mới đến tuổi đời 23 còn rất trẻ... Đến tháng 8 năm 1947, cô Thụy Nga được điều về Cần Thơ làm Đoàn trưởng PNCQ tỉnh Cần thơ, khi vừa trúng cử tỉnh ủy viên. Lúc bấy giờ ông Bảy Quảng là Bí thư tỉnh Cần Thơ. Hồi ấy có nhiều người trí thức cách mạng để ý đến cô ấy, trong đó có ông Bảy Quảng. Ai cũng muốn gây cảm tình với cô, chăm sóc cô và mong có dịp để cùng kéo cô ra khỏi vòng độc thân. Nhưng chưa thấy ai đã đủ sức mạnh và dẻo dai để kéo nổi cô Bảy cả. Trong Hồi ký của cô có đoạn ghi: “... Một hôm, tôi đi ngang qua thấy anh em đang châu đầu nghe anh Giang (nhà thơ tỉnh Kiên Giang), ngâm thơ. Tôi chỉ thoáng nghe một đoạn: “Mắt em như đáy giếng sâu, Xanh như anh nước biết đâu mà dò! Mắt em như đã hẹn hò, Anh xin một góc thăm dò lòng em...” “...Khi tôi lên công tác tỉnh Cần Thơ, tôi thường tiếp xúc làm việc với anh Bảy Quảng. Tôi cảm thấy Bảy Quảng cũng rất mến tôi. Sau khi chị Bảy Huệ đi rồi, anh Năm Quang (Phó Bí thư tỉnh ủy) cũng tác thành tôi với anh Quảng. Kể ra anh Bảy Quảng là một nhà trí thức có năng lực, đẹp trai, nhưng tôi vẫn chưa có duyên với anh ấy. Khi về Cần Thơ, tôi cùng Nghệ Hà (sau này là vợ anh Tư Sa) và Mai Khanh (sau là vợ anh Phạm Hùng), chúng tôi cùng các chị em trong Ban chấp hành Phụ nữ tỉnh toàn là lực lượng trẻ, đã mở nhiều lớp đào tạo cán bộ phụ nữ liên tục, gây dựng phong trào phụ nữ rất sôi nổi và một Hội Mẹ chiến sĩ hết lòng yêu thương bộ đội, cán bộ như con ruột của mình... Chúng tôi từ cán bộ tỉnh đến huyện, đến xã đã quý thương nhau đầm ấm và làm việc không biết mệt mỏi. Giai đoạn này lại thêm một nhà trí thức nữa xuất hiện trong đời tôi. Anh Dũng, Bí thư Đảng Dân chủ cũng viết thư cầu hôn tôi. Tôi còn nhớ anh Dương Kỳ Hiệp là Chủ tịch UBKCHC tỉnh đem đến cho tôi một bức thư viết trên giấy Pơluya màu xanh. Bức thư dài hai trang chữ nhỏ và lời thư thắm thiết. Anh Chín Hiệp còn nói thêm: “Anh Dũng tuy là đảng Dân chủ, khác với chúng ta, nhưng anh ấy là một trí thức, tính tình hiền lành... chị xem có được thì trả lời cho anh ấy”. Khi đó tôi không trả lời bằng thư mà nhờ anh Hiệp trả lời giùm tôi là tôi không muốn lấy chồng. Hồi đó, chị em phụ nữ Cần thơ có một hội bí mật gọi là “Hôi không chồng” (gọi tắt là HKC). Tôi là “chễ hai”-người lớn tuổi nhất đứng đầu trong danh sách đó. Thực tình là tôi còn thương nhớ người mà tôi đã trao mối tình đầu từ năm tôi 14 tuổi. Mặc dầu suốt thời kỳ tôi về Miền Tây đến năm 1948 tôi vẫn không gặp lại anh ấy. Nhưng sau đó anh ấy lại chuyển đến Miền Tây Nam Bộ. Thế là chuyện cũ giữa chúng tôi bị tiết lộ. Tỉnh ủy họp yêu cầu tôi kiểm điểm (vì yêu một người đã có vợ con). Sau đó tôi bị điều về công tác Sài Gòn để cắt đứt mối liên hệ đó. (Trích đoạn HK trang 40-42). “...Đồng chí Lê Duẩn từ Đồng Tháp Mười về dự Hội nghị tỉn uỷ đã nghe câu chuyện tình của tôi. Đồng chí Duẩn không phát biểu gì trong hội nghị cả. Sáng hôm sau, tỉnh ủy cho đồng chí ấy ăn sáng một mình, có cháo gà, có đĩa thịt gà xé và hai cái trứng... Lúc đó tôi đến để kiểm tra bữa ăn của đồng chí có thiếu gì không? Đồng chí đang ăn, thấy tôi bước vào, đồng chí gọi người phục vụ lấy thêm chén đũa và mời tôi cùng ăn. Trong khi ngồi ăn, đồng chí hỏi tôi về việc xử lý của tỉnh ủy, tôi nghĩ sao? Tôi nói: Được phân công đi công tác Sài Gòn đối với tôi là một công việc mới và khó, còn nguy hiểm nữa, nhưng tôi vui vẻ chấp nhận, không băn khoăn gì, nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đã yêu thì khó làm được. Xa nhau cũng được, nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt buộc tôi! Đồng chí Duẩn nghe tôi nói như thế không nói gì cả. Nhưng khi trở về cơ quan Xứ uỷ ở Đồng Tháp gặp anh Lê Đức Thọ, đồng chí Duẩn nói: “Nếu có cưới vợ thi tôi thích người có tình nghĩa thủy chung như chị Nga (tức cô Bảy Vân)." Mấy chị em phụ nữ Nam Bộ có giới thiệu cho tôi vài người, nhưng tôi không ưng. Ít lâu sau, anh Sáu Thọ đến Cần Thơ công tác, anh gặp tôi và nói: “Anh Ba Duẩn muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng anh ấy đi. Anh ấy xa nhà 20 năm không có tin tức gì, gia đình anh còn ở vùng địch. Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh để anh ấy có sức khoẻ làm việc cho đất nước, cho dân tộc được lâu dài. Anh ấy hiện nay trong lãnh đạo anh rất thông minh và sáng suốt mà anh em thường gọi là “200 bougies” (sáng bằng 200 nến), khi có người kế cận chăm sóc thì anh ấy sẽ trở thành “400 bougies”... sự sáng suốt của anh ấy thì có lợi cho cách mạng biết chừng nào!... Nghe anh Sáu Thọ nói, tôi ngạc nhiên, chưng hửng. Vì trong lòng tôi lúc nào anh ấy cũng là một lãnh tụ mà mọi người kính yêu. Tôi cũng vậy. Lúc nào tôi cũng ghi chép thận trọng: Đồng chí Lê Duẩn nói thế này, đồng chí Lê Duẩn nói thế kia v.v... Thứ hai là chuyên tình cảm của tôi với một người tình cũ, anh ấy đã biết rất rõ... Tại sao anh ấy lại đặt vấn đề hôn nhân với tôi? Tôi suy nghĩ mãi. Sau đó có mấy lần tôi gặp lại anh Ba, tôi muốn thổ lộ hết nổi băn khoăn của mình, nhưng tôi ngại quá. Một lần tôi lấy hết can đảm hỏi anh: Nếu bây giờ anh lấy vợ, sau này về gặp lại gia đình phải giải quyết sao đây? Anh nói: “Anh cưới vợ trước kia là do cha mẹ cưới cho. Anh đi làm cách mạng, vợ ở nhà. Sau đó anh có gặp vợ một thời gian, nhưng anh thấy hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về nhà, anh nói với chị ấy nên tìm người chồng khác, anh đi làm cách mạng không giúp gì được cho gia đình và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền Trung còn phong kiến hơn phụ nữ trong Nam, khi đã có chồng rồi thì ở nhà lo cho cha mẹ chồng, nuôi con. Chồng đi xa có lấy thêm vợ thì họ cũng dễ chấp nhận. Nếu sau này giải phóng đất nước, chị cũng ở trong quê với cha mẹ và mấy đứa con, lâu lâu anh về thăm. Còn chúng mình đi hoạt động cách mạng, có điều kiện gần gũi nhau, chắc không có gì khó khăn đâu”. Nghe như vậy, tôi suy nghĩ rất nhiều, vì tình yêu của tôi từ năm 14 tuổi với một người đã có vợ con nên hai chúng tôi đã quá khổ rồi. Nếu bây giờ lại còn ưng người có vợ con nữa thì sẽ sao đây? Vả lại mối tình đầu của tôi còn nhức nhối trong tim tôi làm sao gỡ ra được để tìm tình yêu ở người khác! Nhưng những lời anh Sáu Thọ nói làm tôi cứ suy nghĩ mãi. Tôi đến gặp anh Ba lần nữa. Mỗi lần như vậy lại gây cho tôi ấn tượng mới. Thấy anh gầy gò, áo quần cũ rách, sinh hoạt giản dị làm tôi xúc động. Những người như ông Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần và Lê Thành Vĩnh... trong UBKCHC Nam Bộ thì người nào cũng có nhà cửa, có người bảo vệ, người nấu bếp, tuy là nhà lá những cũng rất đàng hoàng. Còn anh Ba chỉ có một chiếc tam bản (thuyền 3 tấm), với 4 tay chèo đi với các đồng chí thư ký và bảo vệ. Đến cơ quan nào, đến bà mẹ nào thì anh em lên trên ngủ, còn anh Ba ngủ dưới thuyền. Anh thường nhường nhịn mọi điều kiện tốt cho mọi người. Con người anh bao giờ cũng thoải mái và vị tha, nhưng những người đi với anh thì gây cho tôi ấn tượng sờ sợ. Chú Lễ là thư ký của anh, các chú bảo vệ như chú Hoành lớn, chú Của, chú Thuần, chú Hoành nhỏ, người nào cũng nghiêm nghị, còn anh Ba thì như ông đồ nho. Tôi nghĩ chẳng biết mình hòa nhập cái tiểu gia đình này thế nào đây? Đối với anh Ba, qua nói chuyện nọ, chuyện kia, anh nói về phụ nữ, nói về bà mẹ của anh, tôi nhận thấy bên ngoài anh như một ông đồ nho, nhưng tình cảm của anh rất đặc biệt. Anh nhắc nhiều đến mẹ anh. Anh làm cho tôi hình dung mẹ anh là một phụ nữ nhân hậu, thường giúp đỡ mọi người xung quanh. Bà thường nấu cao dán mụn nhọt theo toa thuốc gia truyền. Cả làng đều nhờ bà. Bà rất được mọi người thương yêu quý trọng... Khi ra đi hoạt động cách mạng, ông cụ thân sinh khóc, nhưng bà cụ thì rắn rỏi động viên anh, tuy bà chỉ có một mình anh là con trai và có một chị, một em gái. Lúc anh bị giặc pháp bắt cầm tù, thư anh gửi về, mẹ anh nhờ hàng xóm đọc cho nghe nhiều lần, xong rồi bà may một cái túi nhỏ, xếp thư vào túi, khâu lại và mang trên cổ như mang một cái bùa vậy. Khi bà mẹ chết (ở vùng địch chiếm), anh không về được nhưng người nhà nói lại là thư anh vẫn đeo trên cổ bà. Những chuyện anh kể làm tôi vô cùng xúc động. Tình cảm của anh sao mà sâu đậm làm vậy!... Sau đó, tôi có gặp lại người yêu cũ của tôi, tôi nói với anh: “Chúng ta yêu nhau hơn 11 năm rồi, từ ngày em 14 đến nay là 25 tuổi, nhưng vì anh còn gánh nặng gia đình, chúng ta không thể kết hợp được. Nay các anh làm mai em cho anh Ba, anh nghĩ sao?” Nghe vậy anh ấy rất buồn nhưng đành chia tay nhau vậy thôi...” (Trích đoạn HK mục GẶP ANH, trang 43-47). Chuyện anh Ba Duẩn lấy vợ cũng không đơn giản chỉ nghe các đồng chí lãnh đạo trong Trung ương cục có lòng tốt động viên, xui khiến mà anh nghe dễ dàng như vậy đâu. Thực ra mà nói, sau hơn chục năm vào Nam Bộ hoạt động cách mạng, xa vợ con gia đình ở vùng địch chiếm không hề liên lạc gì được. Bọn giặc thì ráo riết truy tìm những gia đình có người đi theo Việt Cộng mà còn liên hệ gắn bó thì chúng nó sẽ ám hại. Vì vậy mà có một số gia đình đành phải làm tờ ly khai với những người thân ruột thịt và chịu bị ép đi lấy chồng, lấy vợ khác để cho gia đình và bà con thân thuộc khỏi bị liên lụy. Đó là một thực tế mà đồng chí Lê Duẩn thấy rất đau lòng mỗi lần nghĩ đến vợ con gia đình ở miền quê hương (làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Nhiều lần các bạn bè, đồng chí trong cơ quan rất thương anh Ba sống cảnh cô đơn hoài nên họ cứ giới thiệu cho anh Ba mấy đám và khuyên anh lấy vợ để khi trái gió, trở trời có người chăm sóc; khi sướng khổ, vui buồn có người chia sẻ mới có thêm sức mạnh tinh thần mà yên tâm công tác. Anh Ba rất cám ơn mọi người đã nhiệt tình quan tâm đến đời tư của anh rồi anh băn khoăn suy nghĩ mãi mà không dám quyết định lấy vợ. Về sau, nhờ sự khuyến khích chân thành hoài của các đồng chí trong cơ quan đoàn thể và nhất là khi được quen biết cô Thụy Nga (Bảy Vân) thì anh Ba mới tán thành việc lấy vợ trong Nam. Còn cô Thụy Nga, sau những năm tháng lăn lộn sóng gió với cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khổ, cô vẫn không quên mối tình đầu xa xưa cứ âm ỷ trong lòng cô, nhưng rồi cô cũng không thể nhen nhóm lại ngọn lửa tình rắc rối đã theo cô trong 11 năm ròng với một anh chàng trí thức đẹp trai đã có vợ con... Thế rồi cô đành phải chia tay với người tình cũ để tìm kiếm một niềm tin và hy vọng mới cho cuộc đời dài lâu. Cô mong ước sẽ có được một người tâm đầu ý hợp với cô để cô yên tâm xây dựng tổ ấm gia đình và phục vụ công tác cách mạng. Và thế, sau một thời gian thì ước mong của cô đã thành sự thật. Cô được lên “Thuyền hoa” về bến đậu gia đình vợ chồng trong một thời gian và không gian tình ái thật đặc biệt. Trong HK của cô đã ghi: “Về sau Trung ương Cục dời về Miền Tây, văn phòng TW Cục tổ chức đám cưới cho chúng tôi. Anh Lê Đức Thọ là “ông mai”, còn anh Phạm Hùng là chủ hôn. Buổi hôn lễ đơn giản mà rất vui. Anh em kêu anh Ba đọc bài thơ mà anh em biết anh Ba làm tặng tôi. Anh đọc: “Hỡi cô con gái Đồng Nai, Năm nay là mấy năm rồi cô yêu? Hôm qua gió lạnh đìu hiu, Lòng cô man mác trăm chiều nhớ thương. Hôm nay trời tanh mây vương, Gió xuân đằm ấm, mùi hương đậm đà. Tơ tình ta lại với ta, Say sưa bao xiết là ta với mình. Cho hay là giống hữu tình, Đố ai cắt được tơ mành làm đôi!” Bài thơ đó anh vừa nhắc lại mối tình của của tôi mà hầu như ai trong đám cưới đều biết và anh khẳng định tình yêu của chúng tôi trong cả tương lai vững vàng. Như vậy anh Ba đã trong tôi qua tình yêu của tôi với một người khác. Còn tôi chọn anh Ba qua đạo đức và tình cảm lớn lao của anh đối với đồng bào, đồng chí. Nói chung, chúng tôi gặp nhau từ hai thái cực khác nhau nhưng chúng tôi sống rất tình cảm, hoà thuận. Tôi chăm lo cho anh nhiều thứ... chả biết lúc nào thì anh trở thành “400 bougies” tôi không rõ, nhưng trong anh tươi tắn hơn, mạnh khoẻ hơn và ăn mặc cũng đáng hoàng hơn. Tôi tự xét tôi ưng anh là đúng và ở với nhau càng lâu tôi càng nhận biết giá trị tình cảm của anh. Có những cử chỉ nho nhỏ của anh làm tôi khó quên. Khi anh đi họp ở đâu về, anh ôm chầm lấy tôi, đôi mắt anh sáng ra, cười rộng miệng với hàm răng trắng đều... Tôi thấy trong tình yêu anh vẫn ngây thơ như con nít, làm tôi rất cảm động. Đi đâu anh cũng đưa tôi theo. Anh đi giảng ở trường lý luận chính trị Trường Chinh, các anh chị em từ các tỉnh lên học thấy chúng tôi yêu thương nhau, các anh chị cũng mừng. Vì mọi người đều thương anh Ba. Có lần, trong lúc có thai Vũ Anh, đứa con đầu của chúng tôi, hai vợ chồng chúng tôi đêm ngủ dưới thuyền tam bản có mui che, tôi thức giấc nửa đêm nói với anh: -Em nằm chiêm bao thấy ăn trái xoài xanh ngon quá, thức dậy rồi mà em còn thèm chảy nước miếng. Trưa hôm sau, anh đi họp đâu về có đưa cho tôi trái xoài tượng. Tôi mừng quá... Thời kỳ này là chúng tôi sống hạnh phúc nhất. Đi đâu cũng có nhau. Anh chị em dư luận là hai ông bà như một đôi sam, không rời nhau nửa bước. Họ mừng cho chúng tôi được như vậy. Có khi khác ý, hai vợ chồng cũng cãi nhau kịch liệt. Tôi là loại cứng đầu, tuy phục anh nhiều nhưng cái gì tôi chưa chịu là tôi cãi. Thường trong công việc, có những vấn đề anh về kể lại cho tôi nghe, còn tôi có gì khúc mắc trong công tác cũng về trao đổi với anh. Vừa là vợ chồng, vừa là đồng chí nên cuộc sống của chúng tôi vô cùng phong phú. Khi tôi có thai Vũ Anh đến tháng thứ 7, Bộ tư lệnh Miền Nam dời về Miên Đông. Anh Ba là Chính uỷ Bộ Tư lệnh nên anh và các đồng chí trong cơ quan cùng đi, còn tôi ở lại Miền Tây. Sau đó tôi về Sài Gòn sanh Vũ Anh rồi gởi con lại cho bà ngoại nuôi, tôi trở về Miền Đông công tác. Vì lúc đó khó nuôi con trong rừng Miền Đông lắm. Gạo không đủ ăn, mẹ làm sao có đủ sữa cho con bú? Hơn nữa, nhiều khi gặp giặc khủng bố càn quét, phải chạy xuống hầm bí mật chung với anh chị em. Trong hầm nóng bức, trẻ con không chịu nổi rồi khóc.Có chị phải bóp miệng mũi con để bọn giặc không nghe thấy. Khi giặc đi khỏi, chị buông tay ra thì con đã chết. Mọi người khóc thương đứa bé và chị, còn chị thì như điên. Vì chuyện đó mà chị em phụ nữ Khu 7 đều tìm cách gửi con về cho gia đình nuôi. Người không có bà con nuôi thì tìm người chịu nuôi cho con. Tôi có bà mẹ ở Đà Lạt, tôi nhờ mẹ tôi về Sài Gòn đem cháu Vũ Anh về nuôi giùm tôi. Đó là tôi may mắn hơn nhiều chị em khác. Nhưng người mẹ bứt ruột ra gửi con còn nhỏ dại để thoát ly thật không dễ dàng gì... Giao con cho bà ngoại xong, tôi bắt đầu liên lạc trở ra Miền Đông. Đường đi từ Thủ Dầu Một đi chiến khu phải qua nhiều đồn bốt giặc. Chúng nó kêu lại khám xét liền liền, không biết mình sẽ bị bắt lúc nào, nhưng cuối cùng cũng qua được. Thế là vợ chồng xa nhau 6 tháng. Trong những tháng ấy, anh Ba cũng dùng cuốn nhật ký của tôi để ghi lại sự nhớ thương của anh đối với tôi. Anh viết khoảng 20 trang... Tôi còn nhớ mấy câu thơ anh làm khi vắng tôi: “Nga ơi! Anh nhớ anh thương, Nửa đêm thức dậy quanh giường tìm em. Tay anh, em gối êm đềm, Lòng anh chi xiết muôn vàn yêu thương!...” Khi tôi từ Sài Gòn vào, không biết ai cho anh hay, anh chạy ra trãng cỏ tranh, anh cười rộng miệng, hai mắt sáng long lanh, anh bồng tôi lên quay mấy vòng trước mặt cô giao liên mà anh không thấy ngượng ngùng gì cả. Anh toát lên nét vui mừng sung sướng... Ở Miền Đông, tôi làm thư ký chính trị cho anh Ba, chú Lễ làm thư ký về Đảng, Chú Hồng Lĩnh làm thư ký về quân sự. Tôi vừa làm thư ký vừa làm công tác Phụ vận khu 7. Năm 1951-1952, Miền Đông thiếu gạo ăn kinh khủng. Anh Một phụ trách về lương thực Miền Đông báo cáo cho Bộ Tư lệnh là số gạo còn dự trữ chỉ đủ ăn trong 4 tháng cho 2000 người. Nhưng khi Bộ Tư lệnh từ Miền Tây dời về miền Đông thì số lúa gạo dự trữ ấy anh Một đã cho các đơn vị và đồng bào mượn ăn gần hết, chưa đòi được. Giặc Pháp lúc bấy giờ bao vây ráo riết không cho ta mua gạo. Tình hình rất khó khăn. Bộ Tư lệnh họp, anh Trần Văn Trà, anh Dương Quốc Chính và nhiều anh khác, kể cả anh em chiến sĩ cũng rất bức xúc đòi xử bắt anh Một. Lúc ấy anh Ba lặng thinh đi tới đi lui, sau đó anh quyết định: “Cho anh Một lập công chuộc tội bằng cách tổ chức mua gạo ở Campuchia và cho bộ đội mang vác về”. Nhưng đường rừng khó đi, mỗi chuyến, mỗi người gùi trên lưng và thêm một ruột tượng gạo nữa là chừng 20 ký. Nhưng trên đường về còn phải ăn nên về đến căn cứ chỉ còn một nửa. Cho nên ở chiến khu mỗi người một bữa ăn chỉ được nửa chén cơm thôi và phải ăn độn thêm rau củ rừng. Ngày ăn hai bữa như vậy tôi đói quá phải đi tìm trái gùi chín rụng xuống lượm ăn. Anh em trong cơ quan hù tôi: -Chị hay đi quanh gốc gùi, coi chừng đụng phải đầu cọp đó. Nó cũng hay đi tìm trái gùi chín lắm. Nghe thế tôi cũng sợ. Mà đúng vậy, lúc đó chiến khu Đ còn nhiều cọp lắm... Tôi còn biết có một trường hợp một hội nghị mà ngoài cổng có 2 lính cầm súng đứng gác mà cọp nhảy vào bắt ông chủ toạ hội nghị ngồi tuốt trong cùng. Một hôm, anh Ba và anh em khác đi làm việc ở đâu xa, đêm không về. Trời vừa tối, tôi ngồi đọc sách trong nhà, bỗng nhiên có cảm giác như ai đang nhìn mình. Tôi nhìn thẳng lên thì thấy hai con mắt như hai hòn lửa đỏ au nhìn vào, lúc đó tôi biết ngay là mắt con cọp. Vì thú rừng chỉ có cọp là mắt đỏ lóe lên trong đêm tối. Tôi sợ quá liền leo lên thang gác mà chân cứ run cầm cập cứ trượt luôn. Khi anh Ba về tôi kể chuyện đó cho anh nghe, anh cũng lo cho tôi. Về sau, mỗi khi tôi ra suối, anh Ba lại đi tìm vì sợ tôi bị cọp bắt. Có hôm tôi ra suối tắm, anh cũng ra theo xuống tắm cùng. Hai vợ chồng kỳ lưng cho nhau rồi chọc té nhau cười râm ran. Tôi nhìn lên bờ thấy ông kỹ sư thành phố mới lên đứng nhìn chúng tôi tắm và chắc ông ấy ngạc nhiên vì sao vợ chồng cán bộ lãnh đạo cao cấp mà vui đùa như trẻ con vậy?” (Trích đoạn từ HK tại mục “NGÀY CƯỚI” từ trang 49-57). Anh Ba Duẩn và chị Bảy Vân ở miền Đông hơn một năm thì anh Ba ra Miền Bắc dự Hội nghị TW, chị Bảy về Miền Tây làm công tác phụ nữ Nam Bộ, lo đi vận động thuế nông nghiệp. Sau đó chị Bảy cùng chị Đoàn Kim Định (Hội phó Hội phụ nữ Nam Bộ) được phân công tác tư tưởng chính trị lớp y tá, hộ sinh 18 tháng do ông bác sĩ Nghiệp và chị Ba Thương phụ trách. Cũng nhờ lớp học đó mà cô Bảy biết thêm nghề đỡ đẻ. Vì tới giờ chính trị thì 2 cô giảng bài và hướng dẫn chị em thảo luận, con khi chị em học chuyên môn thì hai cô Bảy và Định cũng dự học đủ bài bản và đi thực tập như chị em y tá. Nhờ vậy mà sau này, khi xong lớp học, hai cô có thêm nghề phụ đỡ đẻ cũng thuận lợi cho hai cô gần gũi dân để vận động mọi người dân làm tốt nghĩa vụ của mình. Trong Hồi ký cô Thụy Nga có đoạn đã ghi: “Mãi về sau này, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nghề hộ sinh mà tôi học được càng có tác dụng cao trong công tác phụ nữ của tôi. Tôi rất nhớ ơn anh bác sĩ Chín Nghiệp và chị Ba Thương đã cho tôi biết thêm một nghề có giá trị...” (trích đoạn HK trang 59), Thời gian này ông Ba Duẩn đang ở miền Bắc. Các vị lãnh đạo trong TW Cục bàn bạc cho cô Bảy trở về Sài Gòn đem cháu Vũ Anh ra Bắc bằng con đường từ Sài Gòn sang Hồng Kông ra Việt Bắc. Nhưng chuyến chuẩn bị đi đó không thành, cô Bảy trở về miền Tây công tác. Sau một thời gian, ông Duẩn trở vào Nam gặp vợ và kể nhiều chuyện về gia đình và tình thế đất nước ta cho vợ nghe. Càng nghe cô càng thương yêu, quý trọng anh và cũng rất lo lắng cho anh Ba trong những năm tới ở miền Nam hoạt động lãnh đạo của anh rất gian nguy, phức tạp... Trong HK của cô đã viết: “Sau này anh về kể lại tôi nghe, anh đi ngang Quảng Trị có gửi thư và ảnh về nhà, nhưng gia đình anh còn ở vùng địch chiếm nên không gặp được ai cả. Ảnh anh gửi về nhà có cả ảnh tôi. Anh cũng kể chuyện chúng tôi cho gia đình biết. Anh vào Khu V mở lớp Trường Chinh giảng về lý luận chính trị cho cán bộ từ Nam Bộ trở ra. Đến khi đình chiến, TW lại phái anh vào Nam phổ biến tinh thần hiệp định và sự chỉ đạo của TW, sắp xếp lực lượng cán bộ, số nào ở lại Miền Nam công tác, số nào đi tập kết ra Miền Bắc... Về đến Miền Nam, qua những lần tiếp xúc với cán bộ, gặp gỡ đồng bào, anh Ba thấy nỗi vui mừng và lo âu của lớp người ở lại, anh càng băn khoăn ray rứt. Anh cứ đi tới, đi lui, chắp tay sau đít, đốt hết điếu thuốc này đến điếu khác. Theo quyết định của TW là sau khi anh bố trí cán bộ cho Miền Nam xong thì anh cũng đi tập kết. Anh Bảy Khiêm là người được phân công ở lại chỉ đạo phong trào. Nhưng tôi biết có 3 lần anh điện ra TW và Bác Hồ để xin cho anh ở lại. Anh biết tình hình trong này rồi sẽ rất gay go, anh đi không đành. Bức điện thứ 3 thì được TW và Bác Hồ đồng ý cho anh ở lại. Tôi được ông anh bác tôi lật đật xin anh cho tôi cùng ở lại với anh. Anh Ba suy nghĩ một lúc rồi nói: -Tình hình Miền Nam sắp tới sẽ phức tạp lắm, em ở lại sẽ khổ cho em, khổ cho con, đồng thời dễ bị lộ hoạt động của anh. Tôi nghe anh nói như thế cũng phải, nên tôi đành để anh ở lại một mình. Lúc đó tôi đang có thai cháu thứ hai. Chuyến tàu của Ba Lan Kéreinsky chở cán bộ Miền Nam đi tập kết chuyến này là áp chót. Khi xuống tàu, anh cùng đi với tôi và con là Vũ Anh. Các đ/c Ba Lan đã dành cho gia đình tôi một cabin (buồng) và gia đình anh Sáu Thọ một cabin. Hai ngàn anh chị em đi trên chuyến tàu này đều thấy anh Ba lên tàu. Đến 12 giờ đêm thì anh trở vào bờ. Sáng hôm sau thì tàu mới nhổ neo lên đường. Khi anh chia tay, anh hôn tôi, hôn Vũ Anh, nước mắt anh chảy xuống mặt tôi. Anh nói: -Anh thương vợ thương con như thế nào thì anh cũng thương đồng bào, đồng chí như thế đó, cho nên anh phải ở lại. Em ra Miền Bắc ráng nuôi dạy các con nên người... Tôi không giám ra ngoài tiễn anh mà anh cũng không muốn bịn rịn lúc chia tay. Anh vội vàng bước lên boong tàu. Ở đó có anh Sáu Thọ và một số anh em khác nữa đang đứng chờ anh. Anh từ giã từng người và cuối cùng anh Ba ôm anh Sáu Thọ và dặn: -Anh ra nói với Bác Hồ là 20 năm nữa chúng ta sẽ gặp nhau. Trong lúc đó tình cờ ông bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng (Bộ trưởng Bộ Y tế sau anh Phạm Ngọc Thạch) đi qua, anh Hưởng dừng lại, ngạc nhiên trước cảnh từ giã đó. Anh Ba quay sang ôm anh Hưởng và dặn: -Anh giữ bí mật cho tôi nhé! Xong anh xuống ca nô do anh Cao Đăng Chiếm và anh Văn Viên đón anh Ba trở lại Cà Mau. Tôi nằm trong ca bin nhưng vẫn nghe từng lời nói của anh, từng động tác của anh. Khi anh bước xuống ca nô, ca nô nổ máy vọt ra, sóng xô lại mạn tàu nghe xào xào. Tôi nghĩ: Vậy là chúng tôi lại xa nhau mà không biết bao giờ mới gặp lại. Con tôi trong bụng đạp mạnh. Mọi khi có anh, anh hay đặt tay lên chỗ nó đạp, bây giờ thì không ai sờ nó nữa. Lúc ấy nước mắt tôi mặc tình cứ tuôn chảy xuống chiếc gối... (Trích đoạn trong HK mục XA ANH trang 59-62). PHẦN II Sau khi chuyến tàu của Ba Lan đưa đoàn người tập kết ra Bắc cập bến Sầm Sơn Thanh Hoá vào dịp Tết âm lịch. Mọi người ở lại ăn Tết vài ngày rồi phân tán đi về các nơi quy định. Mẹ con cô Nga sau đó được đưa về Hà Nội và được các đồng chí lãnh đạo đến thăm hỏi rồi bố trí cho mẹ con cô nơi ăn chốn ở và tạo điều kiện cho cô tham gia công tác ở Hà Nội. Trong thời gian đầu sống ở miền Bắc chưa quen, hai mẹ con gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt đời sống, cũng như về môi trường thời tiết… Nhưng rồi cô Nga và con gái Vũ Anh cũng vượt qua và quen dần cuộc sống thực tại trong hoàn cảnh khó khăn chung của cả miền Bắc lúc bấy giờ. Trong HK cô đã ghi: “Mấy ngày ở Thanh Hoá, tôi thấy chị em phụ nữ vác cày, dắt trâu đi cày từ mờ đất, gió thổi, rét lạnh căm căm. Nhớ đến đời sống ở Miền Nam, tôi thấy thương đồng bào Miền Bắc vô cùng… Từ Thanh Hoá, tôi được đưa về ở một phòng tại số 6 Chu Văn An, Hà Nội. Anh Trường Chinh, anh Phạm Văn Đồng có đến thăm mẹ con tôi. Sau đó tôi được anh Huỳnh Kim Ảnh (Phó bệnh viện Việt Xô) kêu tôi vào khám thai và giữ tôi lại ở bệnh viện để học “Phương pháp đẻ không đau”. Tôi đem Anh Vũ theo. Nhưng chưa học được buổi nào thì tôi đã đẻ rớt rồi. Chắc vì xa anh Ba tôi buồn và cũng vì đi tàu thuỷ sóng gió vật vã nên tôi bị sanh non. Bác sĩ nói tôi sanh sớm một tháng gì đó. Sanh ra thằng bé da còn nhăn nheo, hai lỗ tai nó còn xếp gấp lại. Vũ Anh nói: “Mẹ ơi mẹ sanh em sao nhỏ nhoi giống con mèo quá vậy?” Tội nghiệp con tôi! Vì mẹ không giữ gìn được nên sanh con bé tẹo. Mẹ nuôi con trong bụng không được thì mẹ sẽ rán nuôi con ở ngoài đời vậy. Nhưng làm sao mà nuôi con tốt được? Tôi cũng lo lo… Sau khi con đầy tháng thì tôi được phân công về công tác ở tòa báo Phụ nữ Việt Nam. Lúc đó ba bà mẹ có con nhỏ là chị Đoan và chị Chẩm và tôi. Mỗi người có 2 con đều ở chung với nhau trong một gara ô tô, mái lợp tôn, nóng ơi là nóng! Mỗi cái giường, nằm một bà mẹ và hai đứa con. Hồi đó lương của tôi chỉ 36 đồng. Tiền cơm hàng tháng là 18 đồng mà chỉ có đậu phụ kho và rau muống luộc. Tiền còn lại thì mua cho con được một ký đường, nửa ký thịt và một ít rau quả lặt vặt ngoài tiêu chuẩn để dành cho con ăn. Lòng thương con của tôi cũng đành chịu với mức sống đó. Tôi khai sanh cho con trai là Lê Kiên Thành (có nghĩa là kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Miền Nam, một khẩu hiệu nằm trong lòng của cán bộ Miền Nam tập kết)… Nhưng không biết trời hiểu lòng tôi thế nào mà dường như trời giúp tôi nuôi con lớn như thổi vậy… Còn một chuyện nữa, khi tôi ở bệnh viện Việt Xô, cô Thoa lúc đó là y tá (sau này là vợ anh Trần Văn Trà), một hôm cô ấy hỏi tôi: -Chị có gặp cô Nga chưa? Tôi hỏi lại: -Cô Nga nào? Tôi thấy cô Nga nói đến đó rồi chựng lại, nhìn sau lưng tôi rồi im lìm. Tôi quay ra sau lưng thấy ông bác sĩ Nguyễn Văn Thủ (Giám độc bệnh viện Việt – Xô), đang khoát tay và lắc lắc đầu, ra ý không cho cô Thoa nói. Tôi thắc mắc mãi không biết chuyện gì cả. Đến năm 1957, anh Ba ra Miền Bắc, tôi mới vỡ lẽ. Té ra hồi đó có một cô gái tên là Nga vượt tuyến ra Bắc, cô ta khai cô là con của anh Ba, mẹ cô là Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre. Cô ấy độ 16, 17 tuổi, rất đẹp.. Khi cô ra, anh Sáu Thọ và các anh khác đều dấu tôi, đưa cô ấy vào viện Việt – Xô để chữa bệnh. Sau đó xin cho cô ấy học đại học và chăm lo rất chu đáo. Đến khi anh Ba ra, các anh lãnh đạo báo cáo cho anh Ba biết chuyện anh Ba đã có đứa con gái như vậy đó. Anh Ba chưng hửng, anh bảo: Làm gì có! Tôi có dan díu với ai đâu mà có con? Và khi tính lại tuổi cô ấy khai thì lúc đó anh Ba đang bị tù giam ở Côn Đảo. Vì vậy vụ này giao qua cho Bộ Nội vụ điều tra lấy khảo cung. Sau mới biết là CIA biết anh Ba ở lại Miền Nam nên chúng đưa cô này ra mạo nhận là con anh Ba. Nếu anh Ba có chết ở trong Nam thì cô ấy lấy lòng các ông lãnh đạo để chui sâu, trèo cao, phục vụ cho mưu đồ của CIA. Tôi kể lại chuyện này để thấy làm chiến tranh với Mỹ, có những chuyện ly kỳ như vậy (Trích đoạn trong HK từ trang 63-67). Khi cô Nga được làm công tác báo chí Phụ nữ Việt Nam, cô rất hứng thú với nghề nghiệp ấy. Cô rất hăng hái đi thực tế nhiều nơi để nắm bắt kịp thời tình hình dân chúng và xã hội trong tình cảnh đất nước ta còn bị chia cắt hai miền. Những điều gì cô thấy được, nghe được qua các nguồn thông tin trong và ngoài nước đã giúp cô hiểu được nhiều vấn đề sâu sắc tinh vi trong những diễn biến về chính trị xã hội lúc bấy giờ. Trong HK của cô đã viết: “Tôi về báo Phụ nữ Việt Nam được phân công phụ trách mục Miền Nam. Điều đó cũng phù hợp với nguyện vọng của tôi. Vì làm việc này tôi có điều kiện đi dự các cuộc hội nghị về Miền Nam của ta và của địch. Có một dịp tôi đi máy bay với phái đoàn Quốc tế giám sát đình chiến ở Việt Nam gồm đại diện của Ấn Độ, Canada và Ba Lan đến tận Vĩnh Linh. Đứng bên này cột cờ, tôi nhìn sang bờ Bắc thấy bộ đội mình bồng súng đổi gác, thấy các mẹ, các chị xuống sông vo gạo, rửa rau… Nước mắt tôi cứ chảy ra. Sau đó tôi viết một bài về “Hai bờ Bến Hải”. Những dòng chữ trong bài này mang cả tình thương của tôi đối với đồng bào, đồng chí bên kia giới tuyến và cũng có cả tâm tình của tôi gửi gắm cho anh Ba ở Miền Nam. Một hôm, tôi theo rõi đài BBC, trong một bản tin của hãng Reuter đưa rất cụ thể một danh sách cán bộ cao cấp Miền Nam Việt Nam đi tập kết: “Ông Lê đức Thọ-Phó Bí thư TW Cục Miền Nam ra Bắc làm Trưởng ban Tổ chức TW Đảng, ông Ung Văn Khiêm lẽ ra được phân công ở lại Miền Nam nay ra làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VN, ông Nguyễn Văn Kỉnh nay làm đại sứ VN tại Mạc Tư Khoa v.v… Cuối cùng bài kết luận: “Số cán bộ cao cấp tập kết ra Miền Bắc không có ông Lê Duẩn, vậy là Lê Duẩn ở lại Miền Nam…”. Nghe vậy tôi rất lo khi địch biết anh ở lại chỉ đạo phong trào cách mạng. Như thế kẻ địch sẽ truy lùng thì anh sống và đấu tranh ra sao đây? Anh thường có những suy nghĩ riêng của anh trong lãnh đạo. Khi trở về Miền Nam chuẩn bị cho cán bộ đi tập kết, điều trước tiên anh nghĩ đến là chỉ đạo các tỉnh chôn giấu vũ khí, công binh xưởng và chọn một số cán bộ quân sự có tài ở lại, trong đó có anh Tám Xuyến (sau này là Trung tướng về hưu)… Hồi đó, chung quanh tôi ai cũng nói đến đấu tranh hoà bình, nhưng riêng anh, anh đã hình dung ra tình thế giữa ta và địch sau Hiệp nghị Geneve. Anh Ba nói với tôi: -Không dễ gì kẻ địch chịu hiệp thương Tổng tuyển cử, ta phải đấu tranh gian nan lắm và phải có chính trị, vũ trang kết hợp mới buộc địch thực hiện theo ý ta. Anh Ba đã thấy trước chuyện đó và chuẩn bị theo hướng đó, nhưng giờ thì anh đang làm gì? Địch đang phá hoại Hiệp định từng bước. Phía ta chưa cho nói đến đấu tranh vũ trang tự vệ, anh phải chống chọi với tình hình ra sao đây? Lòng tôi trăm mối tơ vò!... Một cái Tết nào đó, tôi bồng cháu Kiên Thành và Vũ Anh về Thăm ông nội và mạ các cháu (bà cả) ở Nghệ An. Tôi mang theo chai mật ong, vài củ sâm và mấy thước lụa Hà Đông để làm quà. Ông nội và chị cả (Lê Thị Sương) cũng rất thương hai đứa cháu nhỏ. Chị ấy có khóc nhưng cũng không phản ứng gì. Khi chị ấy và cháu Lê thị Cừ ra trị bệnh ở Hà Nội, tôi cũng chạy lo xem kết quả xét nghiệm về bệnh tình của hai người như thế nào, rồi chạy mua thuốc để chữa trị, vì tôi biết ở vùng địch, phụ nữ hay bị mắc bệnh hiểm nghèo. Khi chị hết bệnh được về nhà khách TW. Tôi bế cháu Thành đến thăm, chị cũng bồng Thành giơ lên cao, nựng nịu thương Thành lắm. Lúc cháu Lê Thị Hồng đi sang học ở Nam Ninh (TQ), tuy tôi không có tiền nhưng cũng nhín chút tiền mua len đan khăn quàng cổ, may áo mới cho Hồng đi học. Nó mừng nói: -Con cám ơn dì. Tôi muốn tạo không khí hoà thuận trong gia đình để khi anh Ba ra, anh ấy dễ xử lý hơn… (Trích đoạn của HK trong mục RA BẮC, từ trang 67- 71). Cuối năm 1956, có chủ trương của Nhà nước đi sửa sai cuộc Cải cách ruộng đất ở Miền Bắc. Cô Nga cũng được cử đi cùng với một số cán bộ về các tỉnh để thực hiện việc sửa sai. Vốn chưa quen với cảnh khổ nghèo và phong tục tập quán ở nông thôn phía Bắc nên cô đã gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt đời sống cũng như về công tác sửa sai trong tình thế khó xử lúc bấy giờ. Nhưng cô đã vượt qua tất cả và chỉ đọng lại trong lòng cô một nỗi xót xa của chủ trương chính trị-xã hội giáo điều của nước ta hồi đó đã bắt chước rập khuôn như kiểu Trung Quốc [TQ]. Trong HK của cô có đoạn đã ghi: “Tôi cũng gửi con ở nhà để đi sửa sai ở tỉnh Vĩnh Phú. Tỉnh này là tỉnh sai lầm nặng nhất về việc chỉnh đốn tổ chức theo kiểu TQ. Họ chọn thành phần trẻ lên làm cốt cán đấu tố những người thành phần lớp trên, mặc dù ai đã có công với đất nước. Xã tôi đến sửa sai là xã có đồng chí Chủ tịch là người có công, được Huân chương kháng chiến chống Pháp nhưng bị đem ra đấu tố và bị tử hình… Bà con trong xã, nhất là người già khóc thương đồng chí ấy thảm thiết. Làng có bờ tre bao quanh, họ canh gác không cho cán bộ trên về tiếp xúc sửa sai. Tôi về đó với một đồng chí nữa phải ở ngoài rồi bắc loa kêu gọi, giải thích chính sách cho bà con hiểu. Mờ đất, chờ người trong làng ra làm ruộng, gặp những người tốt, chịu nghe, chúng tôi rỉ tai nói với họ và nhờ họ vào làng nói cho người khác biết về chính sách sửa sai của Đảng và Chính phủ. Lần hồi họ mới đồng ý cho chúng tôi vào làng. Muốn làm công tác sửa sai có kết quả thì phải sống 3 cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với dân. Sáng 4 giờ phải dậy đi cấy. Trước khi ra đồng, mỗi người ăn một bát cơm nhưng chính là bát cháo nấu lẫn lộn với rau như cháo heo trong Nam… Chị chủ nhà chiếu cố tôi đã cho tôi một bát đầy vun. Tôi nuốt không trôi nhưng phải rán ăn để có sức mà đi làm. Đến chiều thì ăn bữa xế, còn tối không ăn. Người ta nói tối ngủ không đói. Tôi thì đói quá không ngủ được, phần thì rét lạnh, nằm trên đống rơm, đắp chiếu, gió lùa hai đầu, tôi run cầm cập… Còn tắm, tôi không tắm được đầy đủ suốt cả mấy tháng, chỉ ban đêm xách nước về rửa lau qua sơ sơ rồi đi ngủ thôi. Vì thói quen dân làng, mọi người đều cởi hết quần áo lội xuống một cái ao tắm chung, nam một bên, nữ một bên… Còn nhiều chuyện khác nữa tôi cảm thấy rất ngượng mà phải làm ngơ đi. Tôi thì không “nhập gia tùy tục” được như vậy! Công tác ở đây đến hết đợt thì tôi mới được về Hà Nội, tôi vừa mừng được gặp lại con, vừa được tắm gội thoả thích… (Trích đoạn HK mục THAM GIA SỬA SAI, trang 72-74). Do sai lầm về Cải cách rộng đất mà Bác Hồ rất đau lòng đã khóc trong Hội nghị. Bác nói Đảng và Chính phủ ta đã sai lầm trong Cải cách ruộng đất thì phải mạnh dạn sửa sai. Vì thế mà đồng chí Trường Chinh Bí thư Đảng phải thôi chức, đồng chí Hồ Viết Thắng bị kỷ luật. Do đó, TW Đảng và bác Hồ điều đồng chí Lê Duẩn ra Bắc vào tháng 4 năm 1957 để thay đ/c Trường Chinh làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành TW Đảng. Khi đồng chí Lê Duẩn sắp ra cũng như khi ra rồi thì có nhiều chuyện rắc rối về mối quan hệ gia đình do tác động của bên ngoài dội vào làm cho cô Nga và ông Ba mất ăn, mất ngủ, lao tâm khổ trí trong việc xử lý chuyện đời riêng tư… Thế rồi họ cũng tìm được cách để giải tỏa được mọi sự căng thẳng về tâm lý, tình cảm để cuối cùng họ có được niềm tin và hy vọng quý giá trong đời sống và công việc. Trong HK của cô Nga đã viết: “Trước khi anh Ba ra, vài chị em trong TW nói với tôi: -Anh Ba sắp ra rồi. Trước kia vì sự nghiệp của anh mà chị ưng anh ấy, bây giờ cũng vì sự nghiệp của anh ấy chị cũng nên chủ động ly dị với anh để làm tròn nhiệm vụ. Chị Mười Thập cũng khuyên tôi như vậy, chị ấy cử chị Liêm là cán bộ Miền Nam gặp tôi để động viên: “Mình cũng trong hoàn cảnh như Nga nhưng mình dứt khoát với người chồng rồi. Giờ mình xây dựng với người khác cũng rất hạnh phúc. Nga còn trẻ tội gì chịu cảnh 2 vợ cho khổ!...” Tôi trả lời với các anh chị: -Trước kia chúng tôi lấy nhau thì cũng hai bên bàn bạc đồng ý mới lấy nhau, giờ muốn bỏ nhau cũng phải có ý kiến cả hai bên. Việc này có anh Ba ra, chúng tôi gặp nhau rồi mới trả lời được. Khi anh Ba ra, các anh bố trí cho tôi gặp anh ấy trước tiên ở số 6 Hoàng Diệu, Hà Nội. Gặp tôi, anh rất mừng. Một hôm, anh nằm trên sàn nhà, gần cửa sổ, đầu anh gối lên đùi tôi để tôi nhổ tóc bạc cho anh. Tôi nói: -Các anh chị cán bộ TW có đề nghị chúng ta nên ly dị nhau. Anh đỏ mắt muốn khóc và bảo: -Trong hoàn cảnh nào chúng ta lấy nhau, giờ trong hoàn cảnh nào mà chúng ta phải bỏ nhau? Lại có với nhau 2 đứa con rồi! Cho dù anh có làm Tổng Bí thư đi nữa mà phải bỏ nhau, trong lòng anh không bao giờ yên ổn được. Người cộng sản thì có thủy chung, có tình nghĩa. Nếu làm như vậy thì không đúng với tấm lòng người cộng sản. Anh không thể làm được. Và như vậy rồi gia đình cũng sẽ tan nát cả thôi. Lúc đó tôi khóc và nhìn anh ấy khóc mà đau lòng. Tôi thấy anh gầy như que củi, đen như củ súng. Tuy râu anh đã cạo nhưng sự tàn phá của chiến tranh còn in dấu trên người anh. Tôi nghĩ: “Nếu anh hy sinh ở Miền Nam thì cũng mất tất cả rồi. Vì vậy mà tôi nguyện vì anh, vượt qua tất cả khó khăn, cùng nhau xây dựng một gia đình hòa hợp”. Lúc bấy giờ Quốc Hội có ra luật hôn nhân và gia đình trong đó có ghi rõ: “Gia đình phải một vợ một chồng. Nếu hoàn cảnh đã qua, ai có 2 vợ thì phải giải quyết sao cho hòa thuận. Anh Ba có đưa tôi lên Hội Phụ nữ có đông đủ các chị em. Anh trình bày hoàn cảnh của chúng tôi, mong sự thông cảm của các chị. Nhưng nhiều chị phản đối kịch liệt. Không như khi anh còn cống tác ở trong Nam, chị em phụ nữ Nam Bộ rất thương anh. Giờ đây tôi trở thành đối tượng các chị ghét bỏ. Tôi là Tỉnh ủy viên, khi tôi ra Miền Bắc, mọi chế độ về học tập chính trị, nhận báo học tập của Đảng hằng tháng, tiêu chuẩn nằm viện Việt –Xô .v.v… Không hiểu sao Phụ nữ TW đã cắt hết những quyền lợi chính đáng đó của tôi? Sao họ coi tôi như một tội phạm chính trị vậy? Thật là khó hiểu! Mai Khanh (vợ anh Phạm Hùng), chị Tâm (vợ anh Sáu Đê) ở Uỷ Ban Kế hoặch Nhà Nước) đã vào tận Nghệ An để phát động gia đình anh Ba chống lại tôi. Lúc đó mọi người trong gia đình có chỗ dựa để đả kích tôi… Thời kỳ này, ông nội các cháu và chị cả Sương vẫn ở Nghệ An, anh Ba vẫn về thăm. Còn Lê Thị Cừ và Lê Thị Hồng (con gái anh với chị cả) học ở Hà Nội. Tôi vẫn công tác ở báo Phụ nữ. Thỉnh thoảng tôi về thăm anh Ba ở số 6 Hoàng Diệu, Hà Nội. Tình hình căng thẳng gia đình, tôi đề nghị anh cho tôi đi xa một thời gian để anh ấy gần gũi gia đình, mọi người sẽ thương anh và hiểu anh hơn. Anh đồng ý và đề nghị với Bộ Ngoại giao thu xếp cho tôi qua Bắc Kinh công tác. Thế là tôi đi khi đang mang thai đứa con thứ ba được 3 tháng. Tôi ra đi mà trong lòng day dứt, rã rời còn hơn lúc chia tay anh ở Miền Nam để ra Bắc. Về thai giáo, tôi sợ con tôi sinh ra lại buồn bã như tôi khi mang thai nó trong bụng thì thật là tội nghiệp cho con tôi quá!...” (Trích đoạn HK mục NHỮNG RẮC RỐI, trang 75-77). Cô Nga sang Bắc kinh lần này để công tác học tập và nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ báo chí, đồng thời cũng để cho khuây khỏa những điều không vui về những rắc rối trong mối quan hệ với gia đình bà con bên chồng, chuyện vợ cả, vợ hai và mặt khác cũng để tránh những tiếng ra, tiếng vào của một số chị em lãnh đạo Phụ nữ chưa thông cảm cho hoàn cảnh xây dựng gia đình riêng của họ. Điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến tình cảm và công việc của anh Ba và cô Nga. Trong Hồi ký của cô có những đoạn đã ghi lại như sau: “Sang TQ, lúc đầu tôi làm quản lý lưu học sinh chung một phòng với đ/c Trần Nhâm và đ/c Đặng Nghiêm Hoành (sau làm Đại sứ quán VN tại TQ). Một thời gian dài, trước khi tôi vào Đại học Bắc Kinh, anh Hoành dạy tội học tiếng TQ. Sau đó tôi sinh con, thằng con nặng 4 ky lô. Mặt mằy nó giống ba nó như khôn đúc…. Con khỏe, dễ nuôi. Buổi sáng tôi dậy lúc 4giờ 30, làm vệ sinh cho con gái Anh Vũ 15 phút, cho con trai Kiên Thành 15 phút, cho 2 đứa ăn sáng xong thì cho cho thằng bé út dậy, vệ sinh cho con, cho con bú. Sau cùng, tôi lại làm mọi việc buổi sáng cho mình. Đúng 7 giờ là tôi có mặt tại bàn làm việc. Chiều đi làm về, tôi tắm rửa cho các con, cho các con ăn uống và lo việc nhà xong tôi đi học Trung văn đến 11 giờ đêm mới về. May sao thằng bé dễ nuôi, không hay khóc. Tôi đặt tên nó là Lê Kiên Trung. Chữ “Trung” ở đây là trung hiếu, trung thực… Anh Ba ra miền Bắc tháng 4/1957, đến tháng 12 năm đó là tôi sang Bắc Kinh. Thời gian ở bên đó, anh có sang thăm vào dịp anh đi dự Hội nghị 81 Đảng, Hội nghị Quốc tế mấy lần. Có lần anh đi với anh Trường Chinh, có lần anh đi với Bác Hồ và các anh khác. Đoàn Việt Nam sang thường ở lại Điấu Ngư Đài. Các anh cho đón tôi vào ở với anh Ba. Hồi đó, tôi có những bức hình chụp chung với Bác Hồ, với bà Chu Ân Lai, bà Lưu Thiếu Kỳ và các con của bà. Có lần anh Trương Đức (phiên dịch cho đoàn) đưa chúng tôi vào một công viên, đồng chí phụ trách công viên giới thiệu một cây cổ thụ, một gốc có hai thân vươn lên thẳng đứng. Bác Hồ gọi anh Ba và tôi, Bác bảo: -Nào! Nào! Cô chú hãy đến đây chụp một bức ảnh, vợ chồng phải chung gốc kề thân như cây cổ thụ này. Một lần khác anh rủ tôi đi chơi, tôi nói: -Sắp thi rồi nên em phải ở nhà ôn bài để chuẩn bị thi. Đến giờ đi, Bác vào phòng chúng tôi và bảo: -Cô đi chơi với Bác đi! Tại sao chú để cô ở nhà vậy? Thế là tôi mặc áo bông, quần bông như học sinh TQ rồi đi luôn. Đến nơi mới biết là đi xem ca múa kịch. Hôm đó có mặt ông Bành Chân, ông Khang Sinh, ông Bành Đức Hoài… Ngồi trong phòng khách độ 15 phút thì nghe chộn rộn, lao xao, một tấm màn nhung đỏ bên trong kéo lên. Ông Mao Trạch Đông xuất hiện với hai cô gái TQ dìu hai bên nách chậm rãi bước vào. Các ông giới thiệu tôi với ông Mao, ông ấy ngồi xuống bên tôi thay chỗ bà Khang Sinh. Tôi liền hỏi ông: -Mao Chủ tịch có khoẻ không? Ông bảo: -Thì cũng đại khái vậy mà! Tôi hỏi tiếp: -Nghe nói Mao Chủ tịch lội qua sông Trường Giang phải không? Ông nói: -Ồ! thì cũng đại khái vậy mà! Nói chuyện một lúc, mọi người chuẩn bị ra xem biểu diễn. Tôi lật đật lùi ra đằng sau lưng ông. Ông Mao quay qua hỏi: -Đâu rồi! Đâu rồi! Ông Khang Sinh biết ông Mao tìm tôi nên bước đến dẫn tôi ra chỗ ông Mao. Tôi nói: -Mao Chủ tịch và Hồ Chủ tịch đi trước, chúng tôi đi sau. Ông ấy bảo: -Không được! Không được! Phụ nữ là phải đi trước. Ông sợ tôi thụt lui nên hai tay ông cứ đẩy đằng sau lưng tôi. Tôi còn còn lẩn trốn vào đâu được nữa! Hồi đó tôi ăn mặc lôi thôi quá. Trước mặt hai vạn khán giả, tôi ngượng phát khóc lên được. Lần đi họp 81 Đảng, anh Ba nói với tôi: -Mình cố gắng giải phóng Miền Nam, giúp bạn giải phóng Lào và Camphuchia. Nay mai 3 nước ở Đông Dương sẽ vững như kiềng 3 chân. TQ không làm gì được mình. Nghe như thế, tôi nói ngay: “Y! Làm gì có chuyện đó?” Lúc bấy giờ trong nước ta có nêu khẩu hiệu: “TQ với VN như môi với răng, môi hở, răng lạnh”, rồi cả câu: “TQ với VN núi liền núi, sông liền sông, v.v… Cho nên tôi nghe anh nói như vậy tôi quá bất ngờ!... Tôi thấy anh có tầm nhìn rất xa những điều mà người khác chưa nhìn thấy. Tôi hết sức quý trọng bộ óc sáng suốt của anh… (Trích đoạn trong HK từ trang 78-87). Sau mấy năm công tác và học tập ở TQ rồi trở về VN, cô Nga không muốn về lại làm việc tại cơ quan cũ ở Hà Nội vì phải ở chung nhà với anh Ba rồi lại có tiếng ra, tiếng vào của những người thành kiến làm cô càng thêm buồn phiền và đau khổ, mặc dù cô rất muốn về sống chung với anh Ba để chăm sóc anh ấy, bù đắp lại những ngày hai người xa nhau. Hơn nữa cô cũng muốn anh Ba được gần gũi các con để dạy bảo các con trong những tháng năm còn thơ ấu. Thế rồi cô Nga được phân công về công tác trong Ban biên tập báo Hải Phòng. Bốn mẹ con sống trong một phòng do Thành uỷ Hải Phòng cấp. Tại đây cô Nga tất bật suốt ngày lo công việc chung và một mình lo việc gia đình, chăm sóc, dạy dỗ con cái... Rồi bao chuyện hàng ngày của xã hội và gia đình cứ dội vào đầu óc cô, tình cảm cô bao điều trăn trở, bao niềm xúc động… Trong HK của cô đã ghi lại: “Khi ở Hải Phòng, cháu Thành đến tuổi nghịch phá. Có phen nó làm tôi hết cả hồn vía. Tôi đi làm về thì thấy Thành đạp xe đạp, phía sau chở em Trung ngồi. Nó ngồi trên yên cao không được mà chỉ đứng trên hai bê đan rồi đạp ngoằn ngoèo, ngoằn ngoèo. Trung thì khoái chí cứ hối: -Đạp nhanh đi anh Thành! Thành thì đi học một buổi, ở nhà một buổi, hay rủ bạn bè lấy khăn rằn làm cánh máy bay rồi bay nhảy từ trên cao xuống. Có lần Thành đạp vào một miếng sắt rỉ bị cắt đứt ở gót chân. Được điện thoại, tôi về nhà đưa Thành đi bệnh viện chích ngừa phòng uốn ván. Thành còn nghịch ngợm nhiều trò khác nữa. Tôi phải xin gửi Thành đến học ở một thầy khác. Thầy này nghiêm nghị học trò rất sợ, vậy mà Thành vẫn không sợ. Đặc tính thương người của Thành đã thể hiện từ nhỏ. Tôi nhớ một lần đi học về, Thành ngồi buồn xo, không muốn ăn cơm. Tôi hỏi vì sao thì Thành bảo: -Mẹ ạ! Con có một thằng bạn, cha mẹ nó ở Campuchia gửi nó về cho bác nó nuôi ăn học và có gửi tiền cho bác nó, nhưng bác ấy cứ đánh bạn ấy luôn, lại còn bắt bạn đi kéo xe bò xuống cảng. sau đó bạn ấy phải bỏ học, bạn ấy khóc. Chúng con đến nhà thăm bạn, thấy chỗ bạn ngủ trên bộ vạt dưới bếp, quần áo của bạn thì bỏ trong thùng giấy, mèo vào làm tổ. Con thấy tội nghiệp bạn ấy quá! vừa nói, nước mắt Thành chảy xuống chén cơm. Thành nói tiếp: -Hay là mẹ xin bạn ấy về nuôi đi mẹ! Tôi nghe con nói rất đúng và tôi cũng muốn xin thằng bé về nuôi cho anh em có bạn. Nhưng khi tôi hỏi dò thì nghe nói ông bác nó khó tính lắm. Nếu tôi xin đem thằng bé về nuôi thì ông ấy sẽ mang tiếng với xóm giềng, có khi ông ta làm hại gia đình tôi nữa. Nghĩ vậy mà tôi thôi… Còn Trung thì nó thương nhớ ba nó lắm. Tôi phải hứa với nó: Đến Tết mẹ sẽ cho con về thăm ba. Đến Tết Tây nó lại khóc và nói: -Mẹ nói Tết mẹ cho con về thăm ba cơ mà! Nó ngồi dưới đất, dựa cột mà khóc. Con tôi lúc đó chưa hiểu Tết Tây, Tết ta là sao cả, nhưng trong lòng nó nhớ thương ba nó nó cứ đòi như thế. Tôi nhìn con khóc ấm ức, tôi cũng khóc theo con. Anh Tô Kỳ ghé chơi thấy hai mẹ con khóc, anh hỏi: -Sao vậy! Sao vậy! Lúc đó tôi không nói nên lời. Ai hiểu thấu được lòng mẹ con tôi trong hoàn cảnh bấy giờ?... (Trích đoạn HK mục NHỮNG NGÀY Ở HẢI PHÒNG, trang 87-91). Sau những năm cô Nga sang TQ rồi về Hải Phòng công tác, trong hơn 6 năm(12/1957-7/1964), đi đâu cô cũng đem mấy đứa con đi theo để lo chăm sóc chu đáo cho chúng. Nhiều người đều biết lòng cô và tình cảm các con luôn gắn bó yêu thương anh Ba. Nhưng anh không thể nào làm gì để lấp hết những gay cấn về tâm lý của hai người vợ trong hai hoàn cảnh khác nhau. Anh đành phải nén lòng buồn bực và thu xếp dần dần cho mọi sự yên ổn để an tâm làm việc lớn cho Đảng cho dân tộc. Các bạn bè, đồng chí và bà con có ai có thể hiểu hết cho anh Ba nỗi niềm ấy không? Có người nói rằng, thời nay để hai vợ làm gì cho rắc rối phức tạp! nhất là đối với anh là người lãnh đạo cao cấp của Đảng nữa thì khó mà giữ được uy tín. Nhưng anh Ba thì không đành tách vợ nào ra được. Vợ nào cũng là vợ. Vợ cả là vợ hiếu nghĩa trách nhiệm, vợ hai là vợ tình yêu và sự nghiệp. Vợ nào cũng đã có mấy con với anh rồi, làm sao có thể chia lìa ai được! Điều thổ lộ này của anh Ba thì ông già thân sinh, em gái của anh và cả hai người vợ đã hiểu. Chính cũng vì thế mà cô Nga sau khi công tác ở Hải phòng lên lại Hà Nội cô đã bàn bạc với anh Ba đề nghị Ban Tổ chức cho cô đi vào Nam công tác để giữ trọn niềm tin của quê hương, đất nước và cho anh Ba yên tâm công tác. Mặt khác, cô Nga cũng nghĩ rằng, như thế sẽ tạo điều kiện có dịp cho anh Ba bù đắp lại những thiệt thòi làm vợ của chị cả Sương trong mười mấy năm trời xa cách biệt tăm chồng bị tù đày rồi vào Nam hoạt động cách mạng. Trong HK của cô Nga mục “Chuẩn bị về Nam” đã thể hiện điều đó: “Tôi bàn với anh: -Hay là để em trở về Miền Nam chiến đấu, tuy xa nhau, nhưng chúng ta vẫn chung một sự nghiệp, coi như chúng ta vẫn gần nhau. Anh suy nghĩ và đồng ý. Lúc đầu họ bố trí cho tôi đi cùng chuyến với anh Nguyễn Chí Thanh bằng tàu thuỷ TQ chở vũ khí vào cảng Sihanoukville. Làm thủ tục giấy tờ, tôi giả làm vợ Thuyền trưởng TQ, nhưng ông Sihanouk không cho. Ông nói rằng phụ nữ đi theo trên tàu là xui xẻo. Vì vậy các anh lại tổ chức cho tôi đi “tàu không số” chở vũ khí về Nam. Đi tàu này nguy hiểm hơn nhiều… Trước khi đi, tôi về số 4 Bà Huyện Thanh Quan ở Hà Nội. Các con tôi có tới lui chơi vài ngày. Đến bữa chuẩn bị đi, Văn phòng TW có chuẩn bị một bữa tiệc tiễn đưa, có mặt các chú theo anh Ba, các đồng chí văn phòng TW. Tất cả trên 20 người. Gọi là tiệc tiễn đưa nhưng tôi chẳng ăn uống gì được. Độ hơn 12 giờ trưa, cơm nước xong, anh Ba vào nằm trên giường, Vũ Anh con gái lớn của chúng tôi ngồi ngang đó. Tôi thấy anh buồn quá tôi nói: -Thôi cuộc đời chúng mình đã như vậy rồi, chúng mình lấy lý tưởng sự nghiệp làm chính. Như vậy chúng ta vẫn gần nhau anh ạ. Lúc đó, anh Ba nằm nhìn tôi và nước mắt anh cứ chảy dài… Vũ Anh lúc đó mới 14 tuổi, cái tuổi con gái rất cần mẹ. Nó thấy cha mẹ chia tay nhau như vậy nó rất buồn. Sau này khi tôi ra, nghe o Lê Thị Hồ (em ruột của ba nó) kể lại rằng, có lúc nó như người mất trí, nó chạy người đường khóc lóc, mấy chú phải thay nhau đi tìm. Hồi ấy, o Hồ nuôi chị em chúng nó học hành vùng sơ tán ở nông thôn khi giặc Mỹ đánh phá Miền Bắc. Vũ Anh học rất giỏi, mặc quần đen, áo nâu, gánh nước quét nhà, làm mọi việc ở trường và giúp o Hồ nuôi em. Nhờ sự chăm chỉ phấn đấu tích cực nên đến năm 18 tuổi cháu Vũ Anh được kết nạp Đảng. Ở Miền Bắc lúc bấy giờ học sinh Trung học phổ thông được kết nạp Đảng là hiếm lắm. Đó cũng là món quà lớn của con gái tặng cho ba mẹ. Còn Thành mà Trung còn nhỏ cho nên chúng nó có khủng hoảng cũng dưới dạng trẻ con mà thôi… Sau này Thành viết thư vào Nam cho tôi, nó nói: “Đến kỳ thi, con thấy mẹ các bạn lo cho các bạn từ cây bút đến sách vở, áo mới để đi thi. Con nhớ mẹ lắm mẹ ơi!” Bức thư đó tôi đưa cho mấy chị trong hội nghị phụ nữ đọc, các chị khóc ròng. Anh chị em Văn nghệ lấy đề tài đó và trích một đoạn trong thư của Thành để nói lên nỗi đau của mẹ con khi đất nước bị chia cắt hai miền. Còn Trung thì khi vắng mẹ nó cứ đeo theo ba, ngược lại ba nó thiếu tôi cũng dựa vào nó sưởi ấm tình cảm…” (Trích đoạn HK mục CHUẨN BỊ VỀ NAM từ trang 92-96).
PHẦN III Con đường đi vào Nam của cô Nga thật gian nan nguy hiểm. Cô đi theo chuyến tàu bí mất không số. Nhớ lại chuyến đi này cô viết: “Tôi xuống Hải Phòng ở trong một căn nhà mà bấy giờ tôi cũng không biết ở đâu nữa. Tôi cũng không cho Thành biết. Vào một đêm trời tối đen như mực, chú Đỗ Trình đưa tôi đi xe trên một đoạn đường rồi dừng lại. Đồng chí Đỗ Trình giao tôi cho đồng chí Tư Phước (trưởng bến) đưa tôi xuống tàu rồi đưa vào một cabin, chỉ cho tôi cái giường bên dưới. Đồng chí ấy nói: -Cùng đi một chuyến với chị có 4 cán bộ sĩ quan cao cấp quân đội. Tàu chạy tới sáng tôi mới nhân ra đồng chí năm gần phía ngang tôi là đại tá quân y Nguyễn Thiện Thành. Hai giường trên là đại tá Hoàng Thế Thiện chuyên làm chỉnh ủy quân đội và một bên nữa là đại ta Xuyên Khung “ông Thủy tổ đặc công”, một đại tá nữa năm bên ngoài (tôi quên tên) là chuyên gia về thông tin. Riêng anh Nguyễn Thiện Thành thì tôi biết trước. Vì khi chuẩn bị đi anh Ba có nói: -Anh bác sĩ Thành theo lẽ thì anh ấy đi chuyến trước, nhưng anh xin giữ anh ấy lại đi chuyến này để chăm sóc giùm em. Trời sáng hẳn tôi mới nhìn rõ mặt từng người. Để đánh lạc hướng địch, lúc đầu tàu chạy về phía TQ… chiếc tàu như một chiếc lá trôi trên đại dương mênh mông. Hành trình của con tàu là do TW chỉ đạo. Hễ phát hiện có Hạm đội 7 trên đường thì TW gọi trở lại. Theo đúng lịch trình, tàu chạy 6 ngày đêm thì đến Mũi Cà Mau. Nhưng TW đã gọi lại 3 lần, có lần cập bến Hải Nam. Anh em hải quân TQ cho nhiều thứ bột mì, thịt các loại, rau quả, đường sữa… Một khối lượng lương thực dữ trữ rất lớn. Khi biển lặng thì tàu chạy êm ắng không chồng chềnh. Tôi đi xem bếp có lò nướng bánh và các dụng cụ khác. Tôi làm một bữa cho anh em ăn với nhiều món. Anh em trên tàu ăn một bữa no nê ngon miệng… Con tàu không số trải qua mấy lần sóng gió. Biển động rồi lại êm. Anh em lại gọi tôi lên bong hóng gió. Lúc bấy giờ tàu chạy gần bờ Philipin. Máy của địch ở quần đảo đánh điện hỏi: “Tàu gì?”. Tôi thấy anh em trong tàu lôi ra một đống cờ, chọn một lá cờ kéo lên và đánh mooc trả lời: “Tàu đánh cá”. Nhưng tôi thấy các súng cao xạ giấu trong các giàn lưới ở dưới đạn đã lên nòng. Tất cả đều chuẩn bị chiến đấu. Anh em bảo tôi: -Chị Ba ơi! Chỉ có tài liệu gì, hình ảnh gì của Miền Bắc thì giao cho tụi em thủ tiêu khi cần. Còn nếu đụng giáp trận thì chị xuống chiếc xuồng cao su này cùng với 4 anh em bơi vào bờ. Lúc đó tôi không nói ra lời nhưng tôi nghĩ bụng: “Bơi chưa vào bờ thì đã vo bụng cá rồi”… Dọc bờ biển Miền Nam, quân ngụy cho tàu chạy kiểm tra hòng không cho tàu ta cập bến. Vì lúc tôi đi đã xẩy ra chuyện ở Vũng Rô rồi, cho nên địch đã biết đưa vũ khí vào Nam. Một hôm tôi đang ngủ, trời cũng tối đen như hôm chúng tôi tàu, anh em lay lay gọi tôi: “Chị Ba ơi! Lên boong xem”. Tôi bò lên rồi đứng dậy nhìn thẳng ngay ra trước mặt mà không nhìn thấy ngón tay anh em chỉ chỗ ánh đèn chớp chớp và nói: “Ngọn hải đăng đó là Hòn Khoai đó chị!” Hòn Khoai là nơi anh Nguyễn Ngọc Hiển khởi nghĩa năm 1940, cũng là nơi anh Ba tá túc lúc khó khăn. Giờ đây chuyến “tàu không số” lại lấy làm chuẩn để định hướng cho tàu cập bến. Khi anh em dùng đèn pin nháy nháy báo cho trên bờ biết tàu đến. Bởi vì ngày nào, lúc nào tàu đến thì TW đều điện cho Miền Nam biết để đón. Anh em trên bờ cũng đánh tín hiệu báo yên. Mọi người ôm nhau mừng vui. Tàu vào là vào Rạch Gốc của Cà Mau. Rạch Gốc rất hẹp chỉ vừa đủ thân tàu lọt vào. Rạch đã hẹp, bên trên những cành đước giao du nhau, nhìn không thấy luồng nước chảy. Khi chạy vào rạch, anh em dựa vào kinh nghiệm mà cho tàu chạy mà không bật đèn. Vô sâu độ 200 mét mới bật đèn gầm để chạy theo con rạch ngoằn ngoèo. Vậy mà tàu chạy được, tôi phục anh lái quá chừng! Đi sâu thêm 2 km thì tàu cập bến. Lúc đó anh em trên bờ và dưới tàu đều vô cùng mừng vui… Anh em trên con “tàu không số” này được nghỉ ngơi hai ngày rồi ra khơi trở về Miền Bắc. Họ bảo tôi: “ Chị có gửi thư cho anh Ba thì tụi em sẽ đem ra cho anh. Đêm đó tôi thức viết thư cho anh Ba nói lên tâm tư của mình khi chia tay nhau. Sau cùng, tôi có làm một bài thơ họa đối lại bài thơ mà anh Ba đã tặng tôi trong ngày cưới. Bài thơ của anh như sau: “Hỡi cô con gái Đồng Nai, Năm nay là mấy năm rồi cô yêu? Hôm qua gió lạnh đìu hiu, Lòng cô man mác trăm chiều nhớ thương. Hôm nay trời tanh mây vương, Gió xuân đằm ấm, mùi hương đậm đà. Tơ tình ta lại với ta, Say sưa bao xiết là ta với mình. Cho hay là giống hữu tình, Đố ai cắt được tơ mành làm đôi!” Lê Duẩn Khi trở về Miền Nam, tôi nhớ lại lần mới gặp gỡ, Tôi buồn lắm. Vì vậy mà bài thơ họa đối lại của tôi cũng đượm mùi cay đắng: “Trở về trên bến Đồng Nai, Cảnh xưa gợi nhớ, nhớ người ta yêu. Nước sông, sông nước đìu hiu, Lòng ta da diết trăm chiều nhớ thương. Nhớ ngày trời tạnh mây vương, Trúc mai quyện bóng, mùi hương đượm đà. Bây giờ ta chỉ có ta, Còn đâu chiếc bóng hình ta bên mình? Trớ trêu chi lắm chữ tình? Tơ mành nay đã dứt tình lìa đôi”. Nguyễn Thụy Nga Và cuối thư tôi lại gửi cho anh mấy câu thơ tâm sự: “Trót đã yêu nhau, trót dãi dầu, Vì đâu duyên nợ, bởi vì đâu? Trăm năm gìn giữ ân tình cũ, Một kiếp! Thôi đành hẹn kiếp sau...” Anh em “Tàu không số” đưa thư của tôi ra Hải Phòng giao lại cho Bộ Tư lệnh hải quân. Sau này có một đồng chí sĩ quan hải quân đến thăm tôi và nói: -Thư chị gửi ra cho anh Ba, tôi đem đến cho anh. Anh đọc thư trước mặt tôi mà nước mắt anh chảy xuống lá thư, làm tôi vô cùng xúc động. Tôi nói tiếp đến chuyện tôi đến Rạch Gốc. Anh Tư Đức, trưởng bến đó, sau khi tiếp nhận và săn sóc chúng tôi 2 ngày, anh cho chạy máy đưa chúng tôi về giao cho Khu ủy Khu 9 đang đóng ở Tân Hòa. Khu ủy mở tiệc mừng chúng tôi đã vào Nam an toàn. Sau đó tổ chức phân chúng tôi về các nhà dân. Lúc đó tôi ở cùng một nhà với đồng chí Đại tá Xuyên Khung trong một thời gian rồi chúng tôi được điều về công tác ở Miền Tây. (Trích đoạn HK mục –CON TÀU KHÔNG SỐ, trang 97-105). Cô Nga vào Nam được phân công về công tác miền Tây Nam Bộ. Thời kỳ này ở Miền Nam tình hình chính cuộc giữa địch và ta vẫn còn rất căng thẳng. Tuy Luật 10/59 của Ngô Đình Diệm đưa máy chém đi khắp nơi để uy hiếp dân chúng và cán bộ cách mạng, cũng đã qua rồi. Sự tàn ác ấy của Ngô Đình Diệm không ngăn nỗi được lòng dân yêu Tổ quốc và ủng hộ cách mạng. Cả nhà Ngô Đình Diệm phải đền tội, trả giá cho sự tàn ác của họ đối với dân tộc với đất nước. Nhân dân và cán bộ cách mạng miền Nam còn đối mặt với âm mưu của địch hàng ngày thật là gian nan nguy hiểm. Nhưng đồng bào và cán bộ ta thì kìm chế, nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định đình chiến ở VN, còn kẻ địch thì cứ lấn tới hoài. Nhưng rồi “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn” dần dần chúng ta đã phá tan được mọi âm mưu xảo quyệt của chúng, nhưng ta cũng tổn thất nhiều trong cuộc chiến với quân Mỹ. Trong HK của cô Nga đã phần nào nói lên điều ấy: “Tôi về Miền Nam lúc vùng giải phóng đã mở rộng. Nhưng tôi nghe anh em kể lại lúc nó đi ruồng bố U Minh, nhiều cán bộ mình phải ngủ chui rúc trong các choại, trong rán khổ như thế nào. Có lần, hai đồng chí ta bị một thằng giặc bắt, nó đèo 2 người trên một chiếc xe máy. Người ngồi trước có súng, người ngồi sau có dao găm. Vậy mà kẹt vì chủ trương cấp trên của ta là tuân thủ hoà bình theo tinh thần hiệp định Geneve, không được manh động. Ai vi phạm thì bị khai trừ khỏi Đảng. Hai đồng chí này phải bó tay để cho nó chở về đồn và giết chết. Tôi nghe những chuyện như vậy, tôi rất ức. Có những thằng gián điệp nó giả vờ làm người buôn bán vải đi dò la trong ấp, xóm để tìm bắt cán bộ ta. Anh em thanh niên nghĩ ra cái mẹo là làm con nộm bằng thùng thiếc, đục trên miệng thùng có cạnh xéo như miệng nộm để rình chờ tụi do thám đi qua rồi chụp thùng thiếc lên đầu nó. Những cạnh thùng kẹp cổ nó, nó rút ra không được, la làng cũng không ai cứu, đành phải đội cái thùng nộm trên đầu mò mẫm về đồn. Từ đó chúng nó không giám đi dò la trong ấp xóm nữa. Còn chuyện nữa, có một đồng chí cán bộ xã, cấp trên của ta chưa cho diệt ác ôn, tụi nó lộng hành quá trời. Đồng chí ấy tức quá. Khi bắt được nó, đồng chí bảo: -Tao không giết mày được, nhưng tao phải trị cho mày nhớ đời cái tội độc ác hại dân, phản quốc. Đồng chí ấy cho nướng một tấm sắt đỏ có khắc hai chữ “Ác ôn” rồi in lên trán thằng đó. Về sau nó thất kinh và bỏ xứ trốn đi luôn. Mấy lần tôi viết thư cho anh Ba, tôi cũng kể những chuyện ấm ức như thế trong lòng tôi cho anh nghe. Anh biên thư cho tôi, anh nói: -Anh đọc thư em, anh buồn lắm. Lúc chuẩn bị đi tập kết anh đã chỉ đạo cho chôn giấu súng đạn, cho cán bộ quân sự giỏi để lại, vì anh biết thế nào cũng có ngày này. Vậy mà anh ra Miền Bắc trong 2 năm, anh đã bàn với TW mãi mà đến năm 1958 vẫn chưa ra được Nghị quyết cho Miền Nam đấu tranh chính trị và vũ trang kết hợp. Do đó làm thiệt hại cho cách mạng Miền Nam quá nhiều. Trong các thư anh Ba gửi cho tôi, một phần là về tình cảm riêng tư, nhưng phần lớn là anh dặn dò tôi phải biết đấu tranh từng bước, giành thắng lợi từng phần như thế nào; phải xây dựng căn cứ địa cho cách mạng, phải tấn công địch để làm chủ; làm chủ để tấn công như thế nào,v.v… Thư anh Ba gửi cho tôi, khi anh Tư Bình đưa lại thường là lá thư đã nhàu nát. Tôi cũng biết là các đồng chí Thường vụ Khu ủy trao nhau đọc và nghiên cứu những ý kiến chỉ đạo của anh. Tôi rất vui lòng khi nhận được những bức thư nhàu nát đó… Hồi đó tôi được Khu ủy phân công làm Phó Ban biên tập báo Giải phóng Miền Tây. Sau đó làm Phó Ban Tuyên huấn Khu. Đến năm 1972, tôi làm Phó Ban Phụ vận Khu và Khu ủy viên. Các cơ quan báo chí tuyên huấn báo cũng đóng gần Khu ủy. Các anh không giám cho tôi đi công tác xa, sợ tôi bị địch bắt, bị rúng ép, gây tác động tâm lý lo lắng cho anh Ba… Một hôm Khu ủy về họp ở rừng tràm, tôi cũng có mặt trong cuộc họp đó. Sáng ra các bà má bưng các thứ bánh và xôi đến cho anh chị em Khu ủy. Các đồng chí hỏi: Sao các má biết tụi con về họp ở đây mà đem xôi bánh vào cho? Các má nói: “Nghe thằng Tám vệ sĩ của bà Ba nói các con và bà Ba về họp ở đây nên mấy má thức đêm làm bánh, nấu xôi đưa về mời anh em và bà Ba ăn và hỏi thăm ông Ba… Các ông Khu ủy nghe vậy hoảng quá, liền cho dời hội nghị ngay hôm đó bí mật sang nơi khác. Anh Tư Bình bảo tôi: -Tụi nó dám hy sinh một tiểu đoàn để bắt chị lắm đấy. Tôi ngẫm nghĩ đến nỗi lo của các anh. Nhưng nghề của tôi là nghề làm báo, ngồi một chỗ thì tôi làm sao viết được? Thường trong Ban biên tập phân công tôi viết bài bình luận, xã luận. Đến gần Tết Mậu Thân (1968), địch đánh phá rất ác liệt, nhất là đánh vào cơ quan đầu não của Khu ủy. Đầu hôm thì pháo từ Hạm đội 7 bắn vào… Đến tối vừa lên đèn thì máy bay B57, bỏ bom tọa độ, rồi đến trực thăng từng bầy bay là là dọc theo kênh rạch bắn xối xả. Muốn viết bài bình luận, xã luận, tôi phải dậy từ lúc 2 giờ đến 4,5 giờ sáng. Có một hôm, tôi viết gần cuối bài, chỉ còn một kết luận là xong. Tôi nghe tiếng máy bay bay ỳ ỳ từ xa, nhưng tôi muốn viết dứt câu chót kẻo để mai sợ quên. Chưa kịp viết hết câu thì bom từ B52 trút xuống ào ào. Cây đèn có tôi chưa kịp tắt thì hơi bom hắt nó tung xuống đất và tôi cũng bị hất luôn. Vừa hửng sáng, tôi ra cái xóm kề bên Khu ủy đóng, thấy nhà cửa đồng bào tan nát hết. Tôi nhìn vào một cái giường tre thấy 2 đứa bé ôm nhau, chân tay tròn trịa rất dễ thương nhưng đã bay mất hai cái đầu. Tôi lượm một cái gối thêu bị mảnh bom phạt đứt trên mặt gối còn dính máu và mấy sợi tóc của trẻ thơ. Lúc đó tôi không sao cầm được nước mắt. Có một nhà gồm 11 người đều chết. Bà con chôn vội trên nền nhà. Nhìn lên ngọn cây thấy vắt vẻo trên đó nào là xác gà vịt, nào cánh tay, mảnh thịt người chưa được đem xuống. Nhìn thấy như thế mà rất thương tâm… Cơ quan Khu ủy và Ban tuyên huấn, báo chí, thông tấn phải cấp tốc dời ngay vì có máy bay “Đầm già” bay rề rà chuẩn bị đổ quân. Tất cả phải khuân vác dụng cụ, đồ dùng cá nhân lo bằng rừng, lội kênh… đi tắt đến gấp một địa điểm khác. Khi đó, vì tôi bị đau khớp, đầu gối đau quá. Tôi đề nghị: -Các đồng chí đi đi! Tôi đau quá không đi được, tôi ngồi tại hầm này thôi. Anh em không nỡ bỏ tôi ở lại mà khiêng đi thì cũng khó. Cho nên các đồng chí phân thêm một nửa tiểu đội cùng 2 vệ sĩ của tôi ở lại với tôi. Mọi người đi rồi, tôi dặn anh em: -Nếu địch phát hiện được mình thì nổ súng rồi phân tán rút lui, bảo vệ lực lượng, còn nếu chúng chỉ đi ngang qua mà không phát hiện thì mình đừng đánh. Vì nó có 2 tiểu đoàn, còn ta chỉ vài tay súng, đánh không lại chúng mà bị thiệt hại nữa. Anh em đồng ý. Đến 9 giờ thì nghe thấy tiếng chúng nó lội ào ào ngang cơ quan Khu ủy. Chúng tôi ngồi ngoài công sự cách chừng 100 mét, tôi nghe một thăng kêu to: -Sửu ơi! Ở đây có hầm cá nhân đó, mày đừng lội bậy coi chừng VC nó bắn thấy mẹ mày đó! Tụi nó lội từ 9 đến 11 giờ mới đứt đuôi. Anh em ra xem thấy nó mở một con đường bên phải cách chỗ hầm chúng tôi không xa. Chúng nó lội như đường trâu đi, cứ 4 thằng một hàng ngang, mấy thằng đi sau theo dấu chân mấy thằng đi trước mà đi, vì chúng nó sợ vấp chông mìn lựu đạn của ta. Từ đời Pháp đến đời Mỹ, bọn giặc không lội nổi như vậy, chỉ có lính ngụy mới đi càn nổi rừng U Minh. Đêm đến bọn sĩ quan còn có võng mắc trên các gốc tràm và có mùng phủ xuống dán kín dưới võng, còn bọn lính thì đóng cọc hai bên làm giàn ngồi ngủ như một bầy gà vậy… Có lần tôi lên Trà Vinh mở lớp đào tạo tuyên huấn huyện. Địa hình xung quanh bị giặc bắn xơ xác. Đồn bốt giăng giăng khắp nơi. Địa điểm mở lớp sát nách đồn địch. Có lần chúng nó gọi to: -Mấy ông VC ở trong lùm ơi! Dậy mà lo nấu cơm sớm đi kẻo tàu bay “Đầm già” nó lên thấy khói là chết đó! Chúng nó cũng sợ khi bầy “Đầm già” phát hiện có VC sẽ bắt chúng đi càn thì cũng cực cho chúng. Cho nên chúng cầu an như thế. Có nơi đồn bót địch để quân ta qua lộ sát bên mà không muốn làm gì cả. Chúng để cho ta yên thì chúng cũng được yên. Tư tưởng cầu an trong quân Bảo an địch trước năm Mậu Thân hầu hết như vậy. (Trích đoạn HK mục MIỀN TÂY, từ trang 107-113). Cô Nga vào Miền Nam công tác được mấy năm phải lăn lộn với tình thế căng thẳng của cuộc đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang của quân dân Miền Nam rất mạnh mẽ. Những năm ấy, kẻ địch rất sáo riết càn quét để tiêu diệt VC và khủng bố kìm kẹp đồng bào ta không cho ngóc đầu dậy. Cô Nga hồi đó cũng túi bụi, bộn bề công việc. Nào là công tác báo chí, tuyên huấn; nào là công tác phụ nữ, dân vận.v.v… Lúc bấy giờ phong trào đấu tranh chống giặc ở Miền Nam đang dấy lên rầm rộ khắp nơi. Có nhiều tấm gương xả thân diệt Mỹ cứu nước và khôn khéo bảo vệ cán bộ cách mạng. Phong trào chống Mỹ ngụy ngày càng dâng cao làm chao đảo tinh thần của ngụy quân, ngụy quyền ở nhiều nơi và thậm chí họ bỏ rơi đồn bót chạy về với đồng bào theo cách mạng. Khí thế sôi nổi, phấn khởi của toàn quân và dân miền Nam trào lên khắp nơi khi biết tin chuẩn bị cuộc tấn công nổi dậy toàn Miền Nam. Tình hình diễn biến thời cuộc lúc bấy giờ cũng được cô Nga nêu lên trong HK có mấy đoạn như sau: “Cuối năm 1967, chúng tôi được phổ biến bằng miệng là phải nhanh chóng chuẩn bị để tổng công kích, tổng khởi nghĩa toàn miền Nam. Lòng tràn đầy phấn khởi, người nào người nấy mặt mày rạng rỡ. Tuy chưa biết rõ ngày “N”, giờ “G” là lúc nào, nhưng ai cũng lao về các địa phương chuẩn bị phần việc của mình. Về lực lượng chủ lực, quả đấm quyết định của chiến trường thì đã có Quân khu lo rồi. Nhưng lực lượng chính trị phải làm gì?, lực lượng binh vận phải làm gì? Nhiều thứ phải lo liệu… Nhiệm vụ của chúng tôi phải gắn liền với sự chỉ đạo của Khu ủy là phát huy tác dụng của thông tin, báo chí đưa những cá nhân tập thể điển hình nổi bật để dấy lên thành phong trào toàn dân đánh giặc. Tôi bám theo các cuộc hội nghị tổng kết thi đua của Quân khu, hội nghị báo cáo điển hình của Phụ nữ khu. Tôi quá say mê và thương yêu các nhân vật mà tôi nắm bắt được. Có đêm tôi ngồi viết lại những việc họ đã làm mà tôi như sống lại với họ trong cuộc và nước mắt tôi cứ trào ra vì thương cảm họ. Như chuyện bà má Năm Thanh ở Trà Vinh là người phụ nữ Khơme gầy gò, đầu cắt tóc ngắn như đàn ông. Bà nói ngắn gọn, không thích phô trương thành tích, vậy mà má đã nói cho binh sĩ Khơme nghe lọt tai, được lòng mà ôm súng trở về với cách mạng cả 5 đồn. Chị Út Tịch người phụ nữ nông dân rặt, ăn trầu quẹt mép, nói cười bồ lô bồ la, vậy mà chị để lại 5 đứa con ở nhà cùng chồng đi đánh giặc. Ai trong Nam cũng biết tiếng chị “còn cái lai quần cũng đánh”. Bọn giặc hễ thấy những bã xác trầu bên công sự là hô to: -Chết mẹ rồi tụi bây ơi! Gặp con mụ Út Tịch rồi! Cô Tô thị Quỳnh 18 tuổi ở xã Lương Hoà (Trà Vinh) lên hội nghị chiến sĩ thi đua Quân khu, thấy tôi cầm viết và quyển sổ, cô biết tôi là nhà báo, cô cười bẽn lẽn như một cô gái mà mẹ hỏi ý kiến để gả lấy chồng. Thế mà khi báo cáo thành tích của mình thì chính cô đã chi huy một tiểu đội du kích xã quần nhau với 2 tiểu đoàn Bảo an ngụy… Chị Tư Anh Hội trưởng phụ nữ Trà Vinh lãnh đạo một cuộc biểu tình ở Trà Vinh hơn 40 ngàn quần chúng Việt và Khơme. Trong đó có 10 ngàn sư sãi tham gia. Đoàn biểu tình kéo đi 3 ngày qua hàng trăm đồn bót địch. Các sư sãi dùng loa kêu gọi anh em binh sĩ Khơme hãy ủng hộ đồng bào mình chống địch càn quét đốt phá chùa chiền. Có một nơi cả đại đội Bảo an ngụy gia nhập vào đoàn biểu tình. Với quy mô đấu tranh như vậy, phải tổ chức đội hậu bị để có người thay thế cho người bị thương hoặc mất sức; phải có đội hậu cần tiếp tế; phải có giao liên từ mặt trận về hậu tuyến… Ban đêm mọi người trụ lại tại chùa Xoài Xiêm, cửa ngõ huyện lị Trà Cú. Đoàn văn công của ta biểu diễn phục vụ đồng bào. Địch cho một đoàn xe tăng, thiết giáp đến đàn áp. Nhưng trước sức mạnh như vũ bão của đồng bào, bọn giặc lái xe hoảng hốt bỏ chạy. Khi nghe những chuyện như thế, tôi liên tưởng đến câu nói của Đại tượng Nguyễn Chí Thanh: “Phụ nữ ta trong đấu tranh chính trị mang danh là đội quân tóc dài thật là anh hùng lẫm liệt, tay không mà dám xông vô hàng ngàn lực lượng địch được trang bị tận răng. Đó là một sự kiện hy hữu trên thế giới này. Tổ chức lãnh đạo một đội quân chính trị như vậy khác nào chỉ huy một binh đoàn”… Còn chị Hai Thanh là Bí thư Thị xã ủy tỉnh Vĩnh Long. Khi anh Năm Trung triệu tập cán bộ chủ chốt của tỉnh vào phổ biến nghị quyết Khu ủy về Ngày “N”, giờ “G” Tết Mậu Thân sẽ Tổng tấn công nổi dậy cả Miền Nam. Chị ấy sinh con mới được 10 ngày, chị nằm trên võng để nghe phổ biến nghị quyết. Sau đó chị cấp tốc vào nội thành chuẩn bị cho 3 mũi tấn công… (Trích đoạn HK mục TẾT QUANG TRUNG, trang 114 – 119). Sự tổ chức phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng quân dân miền Nam với các đơn vị quân chủ lực miền Bắc chi viện vào cho cuộc tấn công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã thể hiện sức mạnh chính nghĩa của chúng ta đã đồng loạt đánh tan quân giặc khắp nơi. Quân ta đã chiếm lĩnh được nhiều đô thị quan trọng. Nhưng khách quan mà nói thì trận tấn công mở rộng đồng loạt này cũng chỉ là một cuộc thử sức quân lực giữa ta và địch để có thêm những bài học lớn, có ý nghĩa quan trọng về chiến thuật và chiến lược quân sự. Vì thế nên sự tổn thất về tính mạng và khí tài trong chiến dịch này là rất nặng nề, không thể tránh khỏi được. Chiến tranh là vậy, có cái mất, có cái được! Đó là chuyện tất yếu. Nhưng ý nghĩa sâu xa và lớn lao của chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân này mới là quý giá… Trong HK của cô Nga đã nói lên phần nào về những diễn biến chiến sự giữa ta và địch trong những ngày lịch sử đó: “Một hôm gần đến Tết Mậu Thân, tôi có nghe tin một chiếc tàu chở 200 tấn vũ khí từ miền Bắc vào Nam bị địch phát hiện, không cập bến được. Đây là một tàu chở nhiều vũ khí nhất từ trước tới nay. Bộ đội ta cũng giàn ra đánh nhau với quân địch trên bộ để hỗ trợ cho tàu. Dưới tàu quân ta cũng bắn lên máy bay Mỹ. Máy bay chúng bắn xối xả xuống… Anh em trên tàu bắn rơi được 2 chiếc VO-10. Qua hai ngày rồi mà tàu này vẫn không vào bến được. Hôm đó tôi đi công tác, cháu Hương chèo xuồng. Khi xuồng tôi đi ngang qua một gò nổi, thấy 2 người ngồi trên đó. Một cậu kêu: -Chị ơi! Cho chúng em uống nước. Tôi hỏi: “Có phải 2 anh từ chiếc tàu đang đánh nhau ngoài khơi đó không?”. Cậu ấy trả lời: “Dạ phải chị ạ!. Chúng em có 27 người nhảy xuồng cao su bơi vào, còn hai đồng chí được phân công đem tàu ra xa đánh đắm tàu cho kẻ địch không lấy được vũ khí và xác tàu. Anh em tản mát hết, còn hai đứa em vào được đây thôi”. Tôi cho họ uống nước rồi bảo đến xuồng rồi chở về Khu ủy giao cho anh Tư Bình (Phó Bí thư Khu Ủy). Anh Tư cho 2 anh vào bệnh viện để chữa trị các vết thương cho họ. Sau này tôi được biết, các anh em trên chiếc tàu đó đã vào được bờ và đến bệnh viện điều trị. Sau khi lành bệnh, họ trở ra miền Bắc nhận nhiệm vụ mới. Cả hai đồng chí trước đây đã đưa tàu ra xa và cho tàu nổ cũng còn sống. Tôi mừng quá!. Nhưng tôi không biết trong số anh em đó có anh em nào ở trên “con tàu không số” hồi trước đã đưa tôi vào Nam không? Nhớ đến những người hôm đó, tôi liên tưởng đến chuyện ngày xưa tôi đã từng đi trên “con tàu không số” mà lòng tôi quá đỗi ngậm ngùi, thương nhớ… 11 giờ đêm ngày 29 Tết Mậu Thân, chúng tôi được tin phải hành quân cấp tốc, tiếp cận với tiền tuyến. Ngày “N” giờ “G” đã đến. Trong khi đó Ban Tuyên huấn còn đang làm thịt một con heo gần 30 ký để gói bánh tét, kho Tàu một nồi thịt, món ăn cổ truyền ngày Tết. Tôi còn nhớ anh em mới báo cáo về: Đoàn văn công Quân khu do đ/c Thanh Nha Trưởng đoàn đang diễn cho bà con vùng lộ vòng cung xem, có cả bà con trong thành phố ra và binh lính trong một số đồn địch bỏ súng lại rồi mặc áo quần thường đến xem và khen hay. Mỗi buổi diễn có đến cả 2 ngàn người xem. Hai cái đèn măng sông sáng trưng cả một góc trời. Tiểu đoàn 307 còn đi múa Lân đón mừng Tết với đồng bào ở huyện Phụng Hiệp. Vậy mà lệnh ra quân đã tới rồi. Chúng tôi vội vàng gom hết đồ nghề và cả con heo chưa kịp xẻ thịt, bỏ ngay xuống xuồng, chèo cật lực theo bộ phận Thường trực của Khu Ủy. Xuồng rẽ nước xào xào, gió sông thổi vào mặt mát lạnh… Cuối tháng 12 năm 1967, Ban chấp hành TW họp ra NQ 15 (gọi là NQ Quang Trung mà bây giờ ta đang thực hiện). Chúng tôi chèo xuồng đến sáng. Bà con dọc hai bờ kênh chạy theo xem. Có người hỏi: -Anh chị em ới! Đi đâu đó? -Chúng tôi đi đánh giặc. Vậy là trên bờ các ba má, các cô gái chạy theo thấy xuồng nào cũng đầy ắp nhiều bánh trái, dưa quả… để ăn Tết. Ngày xưa thì quân lính Quang Trung thần tốc ra Bắc thì được dân cho bánh chưng, bánh dầy, bánh giò, còn bây giờ quân lính của Chính phủ cách mạng, của Đảng thì dân cho bánh ít, bánh tét, bánh tày… Thật hay quá đi! Tôi ngồi trên xuồng mà cứ liên tưởng chuyện nọ đến chuyện kia mà lòng phơi phới, lâng lâng… Mấy chiếc máy bay “Đầm già” của địch cứ vòng tới, vòng lui theo đoàn ghe xuồng, nhưng chắc chúng nó nghĩ như mọi năm dân ta hay lên thành phố sắm Tết nên chúng nó vòng mấy vòng rồi bay đi luôn mà không bắn. Ba tuần trước đây, tôi nghe đài biết được Tướng William R.Disobry -Cố vấn Mỹ đã tuyên bố với báo chí rằng: “Lực lượng của VC ở đây được động viên kém, huấn luyện tồi, nên quân đội VNCH (ngụy quân) hoàn toàn chiếm ưu thế”. Tư tưởng của tên Cố vấn đầu sỏ mà như thế thì bọn lái “Đầm già” cũng vậy thôi… Bây giờ nhìn lại thấy ta chuẩn bị cho chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 chưa ngon lắm đâu. Nhưng riêng ở miền Tây ta cũng đồng loạt đánh chiếm được 9/9 thành phố, thị xã và 41 thị trấn, thị tứ. Miền Tây đã làm cho địch một sự bất ngờ nhất là ta không hề có một lực lượng chủ lực lực nào của miền Bắc chi viện cả. Cú đánh địch của miền Tây trong Mậu Thân cũng góp phần cho chiến thắng toàn miền Nam, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh để ngồi vào bàn Hội nghị Paris. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân còn là tiếng sét vang dội cả thế giới và ngay trong nước Mỹ. Mấy ngày sau tôi theo dõi tin tức, báo chí thế giới bình luận về cuộc tấn công vào Tết Mậu Thân như sau: -Tờ báo “Tiếng Vang” của Pháp viết: “Việt Cộng đã chứng tỏ cho thế giới biết rằng họ có khả năng giáng những đòn mãnh liệt. Họ làm cho một quân đội mạnh nhất phương Tây đã nếm mùi thất bại. Mỹ cần phải hiểu rõ rằng họ không thể nào thắng được trong cuộc chiến tranh này”. -Hãng Kiodo của Nhật Bản ngày 15/02/1968 nhận xét: “Qua cuộc tấn công những ngày qua, rõ ràng quân Giải phóng được sự giúp đỡ của đông đảo nhân dân ở vùng nông thôn và thành thị. Cuộc bình định của Hoa Kỳ và chính quyền Sai Gòn không hề giành được “trái tim và khối óc” của nhân dân… Quân giải phóng đã chứng tỏ sức mạnh lớn lao của mình do chỉ huy tài giỏi và sự phối hợp chặt chẽ trên chiến trường rộng khắp”. -Hãng Reuter ngày 05/08/1969 cũng nhận xét: “Kẻ địch mà tướng Wesmoland nói là bị đẩy lùi tới vùng biên giới, đã mở một cuộc tấn công vào 33 trong 44 thành phố, thị xã của Nam VN. Cuộc tấn công hiện nay là bằng chứng về sức mạnh của họ”. Thực sự qua cuộc tấn công Tết Mậu Thân ta cũng mất mát nhiều, nhưng những điều nhận xét, dư luận của báo chí, thông tấn ở các nước ngoài rất khách quan. Điều đó giúp cho chúng ta không vì cái đầu ê ẩm mà đánh giá không đúng mức thắng lợi to lớn của mình”.(Trích đoạn HK mục ANH EM CỦA “CON TÀU KHÔNG SỐ”, trang 120-125). Sau chiến dịch tấn công của quân dân ta dịp Tết Mậu Thân 1968, tuy quân ta đã đánh tan được quân giặc ở nhiều vị trí quan trọng của các thành phố, đô thị nhưng ta không đủ sức để chiếm giữ hẳn lâu dài trước tình thế quân giặc đang mạnh. Còn quân Mỹ, ngụy qua cuộc chiến này chúng rất hoảng sợ và càng đề cao cảnh giác và ra sức càn quét. Chúng dùng đủ mọi phương tiện binh khí tối tân để cố tiêu diệt hết VC và đàn áp dân chúng các vùng nông thôn có che giấu cán bộ VC. Thời kỳ này là thời kỳ quân và dân ta vô cùng khốn khổ, nguy nan. Nhưng mọi người cán bộ cách mạng cũng như nhân dân đều tỉnh táo nghĩ cách đối phó với quân giặc dưới sự chỉ đạo của Khu ủy để tránh bớt những tổn thất do địch gây nên, đồng thời nhằm củng cố tinh thần cho cán bộ, đồng bào vững lòng quyết tâm chiến đấu bền bỉ đến thắng lợi cuối cùng. Trong HK của cô Nga đã nói lên được nội dung ấy: “Quân giặc sau khi hoảng loạn, dần dần hồi tỉnh. Lực lượng của chúng còn sung sức, chúng tập trung đánh vào căn cứ của ta. Ở Miền Tây chủ yếu là lực lượng ngụy quân, Mỹ chỉ làm cố vấn cho từng loại binh chủng. Nhưng chúng chi viện rất nhiều máy bay cơ giới, đạn dược, tàu chiến v.v… Các hạm đội Mỹ ngoài khời bắn vào chi viện cho bộ binh ngụy hành quân. Trên bờ thì các cụm pháo cứ địa bắn giáp mối từ xã này sang xã khác. Máy bay B52 thì bỏ bom hủy diệt từng xóm ấp… Điều đó gây tâm lý hoảng sợ trong dân. Chúng còn dùng trực thăng “nhảy giò” vào những nơi được tin có cơ quan VC quan trọng. Trực thăng cứ vòng quanh sà xuống quạt gió mạnh làm tốc hết cây cỏ trên mặt đất để quan sát. Những cán bộ của ta nằm ngoài các bãi lau sậy cũng đều bị quạt tốc hết lên. Một cô thư ký quân Khu cũng bị bắn chết trong trường hợp như vậy. Khi máy bay do thám đánh dấu nhận dạng xong, chúng vừa bay qua khỏi đầu thì có 3 chiếc bay vòng lại ngay bắn phá, còn 2 chiếc khác đổ quân xuống. Nhiều trường hợp cán bộ ta không kịp xuống hầm. Ông Chủ tịch Mặt trận tỉnh Cà Mau mới chạy ra đến hầm bí mật chưa kịp dở nắp hầm thì bị bắt. Có một hôm tôi đi công tác, anh em dặn tôi: -Trên đường đi, nếu có giặc đổ quân, chị ghé vào xã B, ấp C hỏi tên cơ sở là anh Ba Cụt, nhà anh này có hầm bí mật kiên cố. Đến khi tôi gặp giặc bắn đì đùng, tôi ghế đến xã có ấp đó nhưng vì quýnh quá tôi hỏi nhà anh Ba Lùn thì không ai biết cả. Tôi đành chuồn theo mé sông. Tới khi về, tôi hỏi lại, anh em bảo: “Bảo chị hỏi nhà anh Ba Cụt thì chị lại hỏi anh Ba Lùn, làm sao có được?”. Tôi tức cười quá! Thời đó, đời sống cán bộ khu 9 vô cùng vất vả, chỉ lo dời chỗ ở, đào hầm là hết sức lao động rồi, đâu còn người đi câu cá kiếm thức ăn dễ dàng như trước nữa. Trước kia cứ giăng câu một đêm là đủ ăn 3,4 ngày. Rau thì đi kiếm rau rừng đâu có thiếu gì… Có một buổi tối chèo xuồng đến chỗ anh Kiệt để báo cáo công việc, mái chèo khua rà dưới nước đụng phải cá nóc nó nhảy lên gốc tràm con nào con nấy to bằng đầu gối. Vậy mà chúng tôi phải ăn cơm với muối sả ớt. Địch bao vây không cho ta đi mua gạo ăn. Anh em trong cơ quan tuyên huấn đêm đêm phải đi bắt ốc len ba khía rồi nhờ đồng bào đi chợ đổi gạo. Quân giặc cứ đi càn quét luôn nên cơ quan phải ăn cơm từ 4 giờ sáng để chuẩn bị chống càn. Những lúc đi bắt ốc len ba khía, tôi lội bì bõm trong rừng đước, ngước mắt nhìn lên ngọn đước, lòng tôi cứ ao ước: “Phải chi tôi được gặp anh Ba và 3 đứa con tôi một lúc thôi thì tôi có thể chịu đựng và chiến đấu thêm 10 năm nữa”, nhưng ai có hiểu lòng tôi lúc bấy giờ? Có một lần tôi ngồi họp, nhìn ra đồng ruộng thấy một cháu bé chừng 10 tuổi, trạc tuổi với thằng Thành con tôi, thằng bé đang đi câu nhấp nhấp cá lóc để đem về nấu cháo cho hội nghị ăn. Thấy hai bàn chân nó thẳng và tròn như chân thằng Thành con tôi, nước mắt tôi cứ trào ra nhớ thương con quá. Lúc đó tôi chạy ra ngoài khóc một lúc rồi trở vào hội nghị. Tôi nghe tin anh em quân sự về nói: -Cháu Thành nó đi tòng quân rồi và đang chuẩn bị vào Nam chị ạ. Mỗi lần tôi gặp một đoàn quân chính quy của miền Bắc đi ngang qua, tôi cứ nhìn xem từng mặt người trong đó có Thành không? Tôi nghĩ rằng Thành con tôi nó trẻ tuổi có khi cũng nghênh ngang chủ quan như một số cậu tân binh tôi thường gặp mà lỡ lúc bom đạn bị cụt tay chân thì tôi làm sao thay thế cho con tôi được đây? Tôi nghĩ vậy mà cứ khắc khoải đêm ngày… Lúc bấy giờ anh Kiệt mạnh dạn cho cán bộ làm giấy tờ hợp pháp đi ra vô 2 vùng. Tôi cũng đệ đơn xin anh Kiệt: “Tôi làm báo mà ngồi một chỗ làm sao viết lách được! Đã là người Cộng sản thì sống chết cũng thường tình. Nếu có anh Ba ở đây tôi tin rằng anh Ba cũng đồng ý cho tôi đi công tác như anh chị em khác”. Thế rồi tôi cũng được phân công làm đặc phái viên của Khu ủy, đi phổ biến NQ cho 2 tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long, chị Bảy Lê đi Cần Thơ và Sóc Trăng. Ở Vĩnh Long, sau vụ Tết Mậu Thân, địch cho đốt sạch vườn tược của đồng bào. Chúng giao mỗi tiểu đoàn ngụy trong một tháng phải phát quang một cây số. Chúng nó luôn sợ chông lôi, lựu đạn gài, nên chúng thường bắt các mẹ, các chị, các cháu đi trước giò đường rồi cho lùa trâu bò đi trước, chúng đi theo sau cho an toàn. Chúng còn bắt những người đi làm đồng phải mặc áo trắng; người bơi xuồng đi chợ phải chuẩn bị giấy tờ căn cước sẵn để chúng kiểm tra ngay… Một hôm tôi đi lên Vĩnh Long phổ biến NQ Khu ủy. Căn cứ của tỉnh ủy trong một vườn dừa thuộc xã Xuân Hoà. Ngang sông là chợ Cần Thơ. Bốn bề có 4 đồn giặc. Máy bay PRC 25 bay qua nghe tin tụi các đồn báo về: “Trong xóm dừa có 100 VC”. Lại thêm chuyện trước đó ủy Ban xã xử bắn một tên phản động trước vàm rạch sát bên căn cứ. Do đó mà tôi và đồng chí Út Cẩn đề nghị tỉnh ủy dời chỗ họp. Các đ/c tỉnh ủy có mặt ở nhà cũng đồng ý với chúng tôi, nhưng nói chờ anh Bảy Máy (Thường vụ Khu ủy và anh Sáu Ức (Bí thư Tỉnh ủy) về xin ý kiến rồi dời đi. Tôi phổ biến NQ của Khu ủy 2 ngày là xong thì tôi sang Trà Vinh. Trước khi đi tôi nhắc các đ/c phải dời địa điểm. Nhưng chưa kịp dời thì ngày hôm sau quân địch đổ bộ xuống một tiểu đoàn vào khu vườn dừa đó. Các đ/c chạy xuống hầm bí mật. Đ/c Sáu Tiến (Hội trưởng Phụ nữ tỉnh thì chạy hợp pháp với đồng bào. Anh Bùi Thanh Khiết và anh Sáu Ức cùng xuống chung một hầm. Cái hầm này trước phân cho tôi và mấy đ/c phụ trách căn cứ và an ninh tỉnh xuống núp đó. Khi phân công cho tôi hầm này, tôi ra xem thấy dấu chân người đào hầm còn mới tinh, vả lại hầm ngụy trang sơ sài dưới gốc dừa. Tôi nghĩ bụng rằng tôi phải chạy nơi khác chứ không an tâm trốn ở hầm đó. Quả đúng như vậy, hầm đầu tiên bị địch phát hiện là chính hầm đó. Hai đ/c phải nhảy lên ném lựu đạn và hy sinh luôn. Còn đ/c Bùi Thanh Khiết và Sáu Ức ở dưới hầm đến đêm thì đ/c Khiết bảo: “Phải lên thôi! Tụi địch đóng quân tại đó”. Đồng chí cầm cây K54 rồi tung nắp hầm vọt lên. Đ/c kể lại: -Lúc đó một tên lính đang đứng gác với cây R15 chĩa vào ngay tôi nhưng không hiểu sao nó không bắn. Đ/c chạy nhanh tông vào một thằng đang mở màn, nó té ngã ra, đ/c chạy tuốt luôn. Đ/c Sáu Ức cũng nhảy lên chạy trốn vì hầm bị lộ. Nhưng vì đ/c Bùi Thanh Khiết là người chưa quen đường nên bị đạp phải chông xuyên qua bàn chân, phải chữa trị mất mấy tháng mới lành. Năm ngày sau, tôi cho lên lạc trở lại thì hay tin trong trận càn đó ta bị chết 3 đ/c Thường vụ Tỉnh ủy và 5 đ/c phụ trách điện đài, bảo vệ căn cứ. Tôi nghe tin như thế đau xót quá, đêm nằm không sao nhắm mắt được. Năm ngày sau tôi lại nghe tin em tôi Nguyễn Văn Tân, tham mưu phó sư đoàn 9 cũng hy sinh trên biên giới Campuchia, tôi không sao khóc được nữa…” (Trích đoạn HK mục THĂNG TRẦM MIỀN TÂY, trang 126-132). Trong quá trình công tác ở Miền Nam, việc đi lại hoạt động của nhiều cán bộ từ vùng này sang vùng khác cũng gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi đi ngang qua những vùng địch chiếm. Đôi lúc cán bộ ta phải trà trộn vào với đồng bào đi công khai, lúc thì trót lọt, lúc thì cũng nguy nan, nhất là gặp phải những kẻ phản bội đầu hàng địch thì khó mà sống nổi. Như trong HK có đoạn đã ghi: “Đi công khai cũng có mặt lợi là nhanh nhưng đôi khi cũng nguy hiểm… Có lần tôi làm việc ở tỉnh xong, trên đường trở về khu, đến một đồn địch chốt ở Hộ Phòng, qua khỏi đồn này là về đến căn cứ địa của ta. Lúc đó lính trong đồn gọi lại xét giấy. Một tên lính xem qua giấy tờ xong, nó gọi tay Đồn trưởng nói: “Thiếu uý ơi! Thiếu uý! Xét kỹ ghe này đi, vì tôi biết mặt con lái máy này là giao liên. Nó ở xã Hoà Bình với tôi, ba nó cũng giao liên cho VC. Thế nào dưới ghe cũng có tài liệu VC đó”. Đúng cô gái lái ghe là giao liên, người ở xã Hoà Bình. Dưới nghe tôi cũng có giấu NQ của Khu Ủy. Nghe tên lính nó nói rất khẳng định, tôi quặn ruột, nhưng vẫn bình tĩnh đưa giấy tờ cho tên Đồn trưởng xem. Trong ví bót của tôi có mấy ngăn, tôi cố tình lật từng ngăn, từng ngăn cho nó xem. Tôi có nhiều hình sĩ quan ngụy, không quân có, bộ binh có, tôi nói đó là cháu ruột của tôi. Tôi vừa lật giấy tờ vừa nói: -Chèn ơi! Nó là dâu của qua, chồng nó ở Sư đoàn 9, đang học ở Thủ Đức đó. Từ ngày con của qua đi lính, hai mẹ con qua mới cực khổ như vậy đó. Chú đừng nhìn lầm mà tội nghiệp cho con dâu tôi… Một hôm khác, tôi đi ra chợ với đ/c Bảy Đào (cán bộ phụ nữ tỉnh). Khi ra đi chúng tôi đã hỏi dò tin tức bên Tỉnh đội để biết tình hình địch đi càn ở đâu để tránh. Nhưng khi về thì hai chị em đụng phải một tiểu đoàn địch đi càn. Chúng nó lột hết bông tai và vòng xuyến của chúng tôi và bảo dắt đường cho tụi nó đi. Thực ra mà nói, đối với tụi địch ở đồn bót, tụi hành quân thì mình ít lo sợ hơn bọn đầu hàng phản bội. Vì tụi này biết mình quá rõ. Hễ đụng phải tụi đó coi như tiêu đời. Như thằng Sáu Khẩn (Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban An ninh tỉnh Cần Thơ) đầu hàng sau vụ Tết Mậu Thân. Thằng này nó biết rất rành đường đi nước bước của cán bộ mình. Nó còn biết một số cơ sở của ta ở nội thành. Sau khi đầu hàng, nó làm tôi tớ cho kẻ địch đi đánh các cơ sở của ta tan tác hết. Anh em qua lộ cũng bị địch phục kích liên tục. Người thứ hai là Bảy Quảng bị bắt khi về làm Thường vụ Thành ủy thành phố Sài Gòn, phụ trách tuyên huấn, sau khi bị đày ra Côn Đảo, Quảng đầu hàng, địch thả về, y làm thầy thốc, đi châm cứu, khi thì ở Sài Gòn, khi ở Cần Thơ. Đối với hai tên đầu hàng này tôi sợ nhất, vì chúng nó biết tôi quá rành. Vì vậy tôi phải nghiên cứu cách đi dứng, giờ giấc hoạt động của tụi đó để tránh đụng đầu. Một hôm tôi đi qua Bắc Cần Thơ… tôi liếc thấy có tên Sáu Khẩn mang kính đen ngồi trong xe. Tôi đứng quay mặt đi. Tôi sợ khi nó nhìn thấy tôi thì toi đời. Nhưng cũng may là nó sợ mình ám sát nên nó đuổi mọi người lùi lại để xe chúng nó lên trước. Tôi thật hú hồn. Tên Sáu Khẩn rất nguy hiểm cho nên mình cho bắn 6 lần mà không được. Mãi đến ngày 14/10/1974, một cán bộ đặc công của ta mới xử tội được tên Sáu Khẩn đó. Một lần khác, tôi đi với chị Tư Phương (Phó Ban Phụ vận Phụ nữ Cần Thơ), khi vừa bước xuống bậc, chị Phương bị trượt. Chị nói: “Cầu kiều gì mà nguy hiểm”. Có hai tên lính đi giày cộp cộp đằng sau liền nói: -Bà nội này mà không phải là bà mẹ chiến sĩ VC thì đem đầu tui chặt đi! Tôi quay mặt lại thấy hai tên lính mặc quần áo rằn ri, Không phải CIA, không phải quân “Bình định” áo đen, tôi hết cả hồn. Tôi đi 3 chợ: Cần Thơ, Rạch Giá, Rạch Sỏi đều thấy hình ảnh tôi chúng nó dán thật to với 3, 4 hình khác để truy bắt… Tôi đi ngang qua phải kéo nón che bớt mặt và cố đọc hàng chữ bên dưới ảnh tôi: “Tên thật là Nguyễn Thụy Nga, tên mới là Nguyễn Thị Vân-vợ của lãnh tụ số 1 Bắc Việt về nằm vùng. Ai bắt được hoặc ai chỉ chỗ đúng thì sẽ được thưởng…” Sau này khi Miền Nam được giải phóng rồi, tôi hay đến chơi nhà chị Hai Hoà Hưng, ở 110 Võ Văn Tần Sai Gòn. Chị rất thương tôi. Trong kháng chiến chống Mỹ, chị là nhà tư sản rất giàu. Chị có tiệm cầm đồ và bán đồ cổ. Chị thường giao tiếp với số tai to, mặt lớn của chính quyền Sài Gòn và chị lại ủng hộ cách mạng. Những quan chức lớn của ngụy như Trần Văn Lắm, Nguyễn Văn Tâm khi nào cần đãi tiệc thì chúng gọi chị tài trợ: -Chị Hai ơi! Cho chúng em đãi khách nghen! -Bao nhiêu bàn? Chị hỏi lại. -Mười bàn chị Hai ạ (tức hơn 100 người). -Rượu các ông lo hay tôi lo? - Chị hỏi lại. -Thôi, chị lo luôn giùm em… Thế là dưới nhà chị Hai dọn đãi bọn ác ôn, trên lầu thì chứa anh Mười Cúc Bí thư Thành ủy và một số anh em khác. Sau ngày Miền Nam được hoàn toàn giải phóng 1975, nhà chị vẫn nguyên vẹn. Chị Hai nhận được bằng khen và Huân chương như cán bộ vậy. Một hôm chị mời tôi đến ăn giỗ, tôi ngồi vào một bàn tròn rồi chị giới thiệu với những người hiện diện: -Đây là bà Lê Duẩn, rồi chị chỉ sang một người ngồi ngang tôi và giới thiệu: -Đây là Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Tôi bật cười to và nói: -Trước đây tôi thấy ông dán hình tôi to tướng khắp nơi. Nếu lúc đó ông gặp tôi thì ông chộp lẹ rồi phải không? Còn bây giờ tôi và ông ngồi chung mâm vui vẻ thấy chưa? … Trong chiến tranh VN hóa, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi có lần đã tuyên bố mua cái đầu của Lê Đức Anh… Tướng Nghi là tướng có tên tuổi chống cộng ở Miền Tây. Ta bắt được trong giải phóng 1975, cho nó đi học tập cải tạo rồi tha về. Lúc tôi gặp y là lúc y mới được về…” (Trích đoạn HK mục ĐI CÔNG KHAI, trang 133-139). Sau khi đã có hiệp định Paris năm 1973 đình chiến, nhưng địa thế của ta và địch đan xen nhau rất phức tạp nên cứ xẩy ra nhiều chuyện lấn vùng, ép dân của địch làm cho ta cũng bức xúc không thể chịu nhân nhượng chúng mãi, ta đành phải có chủ trương đánh chiếm lại đất và dân. Do đó tình hình chiến sự lại xẩy ra căng thẳng thêm. Trong HK đã nêu rõ tình hình này như sau: “Khi anh Võ Văn Kiệt và anh Lê Đức Anh về Miền Tây, trong sự chỉ đạo của các anh có nhiều cái rất mạnh dạn dám làm. Tôi chỉ nói một việc thôi. Sau khi ký hiệp định Paris, cấp trên chỉ đạo là phải thi hành đúng tinh thần hiệp định, đàm phán hoà bình… Trong khi hiệp định được ký kết ở khu 9, Quân ủy đã bắt được một tài liệu địch chủ trương: “Vừa ngừng bắn thì bước thứ nhất là cắm cờ lấn đất giành dân; Bước thứ hai là chiếm vùng ruột Vị Thanh, Long Mỹ, Gò Quao; Bước thứ ba là làm cỏ vùng U Minh. Lúc bấy giờ Khu ủy họp, Quân khu họp, hai bên đều thống nhất ý kiến là nếu địch đánh lấn ra thì ta phải đánh trả. Vì khu 9 ở xa TW giờ mất đường viện trợ trên biển, trên bộ, nếu ta bị địch lấn chiếm thì sẽ rất khó khăn. Địch nêu rõ ý đồ chiếm miền Tây là nơi đông dân, nhiều của, kho dự trữ của ngụy quyền. Vì vậy Khu ủy chỉ đạo cho các tỉnh theo tinh thần không cho địch lấn chiếm ngay từ đầu. Đêm trên đài công bố hiệp định Paris được ký kết thì bọn địch cứ ào ào ra nhổ cờ Mặt trận rồi cắm cờ ngụy quyền lên. Hễ địch lấn ra đến đâu thì quân và dân ta tràn ra nhổ cờ địch và cắm cờ ta và lấn sâu hơn. Thế là bước thứ nhất của địch không làm được mà còn bị mất thêm đất. Sau đó chúng dùng sư đoàn 21 ngụy đánh vào vùng giải phóng của ta. Quân chủ lực ta chặn đánh buộc địch phải co cụm lại. Đến khi chúng đánh chiếm một số xã, 320 đồn bót mà ta đã giải phóng ở Bến Tre chúng đều đánh chiếm lại, kể cả vùng đồng bằng Quảng Nam, Bình Định... Chúng cho sư đoàn 9 xuống tiếp tay cho sư đoàn 21 để đánh 3 huyện Vị Thanh, Long Mỹ, Gò Quao. Lúc chúng tập trung cao nhất là 75 tiểu đoàn. Có lúc ta và địch chen chân nhau trong một địa bàn hẹp của huyện Long Mỹ, bên kia sông là địch, bên này là ta. Nhưng ta có lợi thế hơn địch là có đông đảo quần chúng ủng hộ cách mạng… Ta đóng quân 2 trung đoàn, địch chặn các ngã không cho mua gạo, thực phẩm. Các chị, các má họp lại nghĩ cách làm sao cho bộ đội có gạo ăn, nước uống… Lúc bấy giờ trên chiến khu R có nhận xét: “Khu 9 đánh giặc theo kiểu cũ, khu 9 xé hiệp định Paris”. Tôi đi họp ở Lộc Ninh, đến thăm trường Đảng, anh em nói thẳng vào mặt tôi như vậy. Anh em thanh niên, binh vận khu 9 đi họp cũng gặp trường hợp như tôi. Bộ tư lệnh Miền Nam cho một đoàn cán bộ cao cấp xuống Miền Tây phổ biến tới các chiến sĩ: “Ai không thi hành hiệp định Paris thì sẽ đưa ra toà án binh”. Anh Lê Đức Anh đón đoàn cán bộ và tuyên bố: -Nếu đưa ra tòa án binh thì tôi là người chịu trách nhiệm trước hết, nhưng tôi dứt khoát không cho phổ biến điều đó với các đơn vị. Bởi vì Khu ủy và Quân Khu ủy đã xuống thống nhất vậy rồi. Trong 6 tháng trời Khu 9 tiếp tục chống lấn chiếm, một mặt báo cáo về cho Quân ủy miền, đồng thời báo cáo ra TW. Anh Ba lúc bấy giờ không yên tâm liền cho gọi anh Kiệt ra báo cáo tình hình, sau đó gọi anh Lê Đức Anh trao đổi. Qua thực tế chiến trường Miền Nam, TW nhận định: -Kh 9 làm như vậy là đúng. TW chỉ đạo cho toàn Miền Nam đánh trả lại địch khi chúng đánh lấn chiếm ta. Anh em điện đài Quân khu nửa đêm được lệnh của TW mừng quá ôm nhau nhảy nhảy trên sàn đước và nói to: -Vậy là chúng mình khỏi ra toà án binh rồi! Hoan hô! Hoan hô! Tất cả chúng tôi đều mừng vui và nhờ sự chỉ đạo chung của TW như thế nên các nơi đều đánh trả, địch phải rút sư đoàn 9 ra khỏi chiến trường miền Tây. Quân mình lại có điều kiện mở rộng vùng giải phóng chuẩn bị lực lượng cho năm 1975”. (Trích đoạn HK mục “CHIẾN THẮNG 75 TIỂU ĐOÀN” , trang 140-143). Năm 1973, chị Bảy Lê, Trưởng ban Phụ vận khu và tôi Phó ban ra Hà Nội dự Đại hội phụ nữ toàn quốc. Đoàn đại biểu phụ nữ Miền Nam do chị Ba Định làm Trưởng đoàn. Trên dọc đường đi dọc Trường Sơn Tây, chúng tôi gặp nhiều đoàn xe chở vũ khí vào Nam. Anh em lái xe vận tải còn rất trẻ, nghe nói họ chỉ học 45 ngày là cho xuất quân. Tôi đi trên một chiếc xe Commangca, các đồng chí bố trí cho tôi ngồi ghế trước để khỏi bị dằn xóc… Một lần xe lên đèo Âm Bun gần 45 độ dốc. Trời mưa lất phất đường trơn ướt, tôi nói anh lái xe bóp còi inh ỏi để nếu có xe trên dốc xuống là biết có xe ngược lên dốc đề phòng khỏi đụng nhau nguy hiểm. Nhưng xe chúng tôi vừa lên đến đầu dốc thì thấy một đoàn xe vận tải đang xuống dốc. Đoàn xe chúng tôi 10 chiếc phải dừng lại sát lề đường để cho xe vận tải đi qua… Tôi nhìn dọc đường đi thấy đường ống dẫn xăng dầu đã kéo tới Bù Gia Mập (cách Lộc Ninh không xa). Tôi nghĩ mà mừng vì TW đã chuẩn bị cho cuộc giải phóng Miền Nam tích cực như vậy. Về chuyện riêng tư, lòng tôi lâng lâng cho ngày hội ngộ. Vợ chồng tôi xa nhau trọn 10 năm rồi. Ba đứa con tôi ra sao? Đứa nào học gì, ở đâu? Tôi không được tin tức gì. Đoàn cán bộ Miền Nam ra , được TW bố trí cho ở các biệt thự đẹp nhất bên Hồ Tây Hà Nội. Tôi được gặp anh Ba ngay trưa hôm tôi vừa ra tại Hồ Tây. Anh gặp tôi cũng ôm tôi vào lòng như ngày nào, nhưng trên mặt anh không còn cái cười rạng rỡ và ánh mắt long lanh như trước mà một thời đã làm cho lòng tôi tràn đầy thương yêu và xúc động nữa. Đôi mắt anh Ba có vẻ buồn. Người anh có mập ra nhưng nhiều thứ bệnh. Không đêm nào anh yên giấc, cứ một lúc anh lại dậy đi tiểu, vì anh bị bệnh tiền liệt tuyến. Nhưng có một điều không thay đổi là luôn luôn anh Ba nói với tôi rất nhiều về các mặt công tác, gặp khó khăn gì, về bạn bè trong nước và thế giới ra sao. Dường như không có ai kề cận để tỏ bày chia sẻ những uẩn khúc trong lòng anh… Anh kể tôi nghe trong việc chuẩn bị giải phóng Miền Nam, hai nước bạn lớn là Liên Xô và Trung Quốc làm cho anh đau đầu như thế nào. Liên Xô thì sợ mình đánh mạnh sẽ nổ ra chiến tranh lớn phải kéo Liên Xô vào cuộc. Còn TQ thì muốn VN chỉ trường kỳ mai phục, chờ TQ mạnh sẽ đẩy Mỹ xuống biển Đông… Anh Ba không muốn để ai mất lòng, nhưng giữ cho đúng tính chất độc lập, tự chủ của dân tộc VN. Anh nói: -Các đ/c đã bán đứng chúng tôi! Các ngươi lấy xương máu của dân tộc VN để trả giá với Mỹ. Chúng tôi biết, nhưng chúng tôi không sợ, chúng tôi sẽ đánh đến cùng và nhất định chúng tôi sẽ thắng. Tôi hình dung nghĩ cảnh thuyền đi biển, lúc sóng to, gió lớn phải có người vững vàng tay lái. Nay trong hoàn cảnh đất nước ta đang gian nguy, sau khi Bác Hồ mất rồi thì người cầm lái chính là anh. Anh Ba và tập thể Bộ Chính trị TW đã từng bước, từng bước đưa cách mạng Miền Nam đến thành công. Anh đã nói với tôi: -Anh làm việc cho Đảng cho dân không còn được bao năm nữa. Miền Nam chưa được giải phóng, Miền Bắc chưa được ấm no, cho nên những năm tháng còn lại của đời mình, anh muốn làm được cái gì thành công cho đất nước. Các đồng chí xung quanh kể lại rằng: Có những việc ban ngày anh không giải quyết được, đêm trong giấc ngủ anh nói lên suy nghĩ của mình. Tôi nghĩ: Nhiều năm tôi vắng mặt bên anh, anh đã để hết tâm tư trí não vào công việc với một cường độ phi thường. Anh đã vắt cạn kiệt sức lực của mình cho đất nước, trong những điều kiện chẳng vui vẻ gì với cuộc sống riêng tư. Giờ đây anh tiếp tục hy sinh những năm tháng còn lại cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của Đảng… Những lúc không có mặt anh, nước mắt tôi tự dưng tuôn trào, lòng tôi thắt lại như mình đã đánh mất một vật gì quý báu nhất trong đời… Khi Miền Nam gọi, tôi lại trở vào Nam vùi đầu vào công tác. Sau khi Miền Nam được giải phóng, anh bị mổ tiền liệt tuyến mới ra viện, suốt ngày phải mang một cái túi ni lông bên hông. Sáng nào cũng có bác sĩ bên cạnh để làm thuốc. Vậy mà anh cứ cố gắng đi hết nơi này đến nơi khác để tìm hiểu tình hình thực tế... Lúc tôi công tác ở toà báo Sài Gòn Giải Phóng, tôi hay la cà ngồi trong sạp của mấy chị tiểu thương. Có một hôm tôi đang ngồi nói chuyện với mấy chị, tự nhiên thấy họ lật đật quay lại ngồi vào quầy hàng của mình. Tôi hỏi: -Cái gì vậy? Cái gì vây? Các chị chỉ ngón tay ra cửa chợ, tôi nhìn thấy anh Ba đang xăm xăm đi vào chợ Sài Gòn. Tôi đoán chắc anh Ba đi quan sát thực tế tình hình làm ăn buôn bán của dân chúng sau ngày Sài Gòn mới giải phóng. Sau khi anh ấy đi qua rồi thì các chị nói: Đó là ông lớn nhất của Việt Nam ngày nay đấy. Năm 1987, những vết sẹo trong phổi anh khi còn ở tù Côn Đảo bị giặc đánh bầm dập, nay bị đau tái phát và sinh nước trong phổi, anh được đi sang Liên Xô điều trị. Tôi hỏi anh cho tôi đi cùng để săn sóc cho anh, nhưng anh không muốn có thêm những rắc rối trong gia đình. Anh nói: “Để anh đi một mình cũng được, anh biết em rất thương anh và lo cho anh nhiều, nhưng đành vậy thôi em ạ”. Khi tôi đến thăm anh ở Hồ Tây, lúc đó anh đang sốt 38, 39 độ, nhưng anh vẫn đi dự họp TW để gặp đ/c này, đ/c kia để chuẩn bị cho xong nội dung và nhân sự Đại hội V của Đảng. Anh nói với tôi: -Xong việc này rồi anh sẽ về Miền Nam nghỉ, ở đây anh cảm thấy mệt quá! Tôi trở về Miền Nam chờ anh nhưng anh Ba đã không bao giờ về được nữa! Cậu Trung con tôi kể lại: -Vào một buổi chiều hè, vợ chồng Trung lên thăm anh, anh bảo: “Ở lại đây với ba! Ba cô đơn quá!”. Sau đó vài hôm thì anh đã ra đi. Lúc ấy tôi đang ở cách xa anh 2000 dặm. Được tin anh Ba đã từ trần, tôi bàng hoàng đau thương tột độ, nước mắt tôi cứ chảy hoài… Tôi phải ra ngay Hà Nội để kịp nhìn lại anh trước khi anh về với đất Tổ. (Trích đoạn HK mục “MIỀN BẮC- 10 NĂM XA CÁCH” , trang 144-150).
Hết.
Ghi chú: Sau khi viết xong bài này, tôi đã gửi cho bà Nguyễn Thụy Nga và gọi điện vào TP HCM vào chiều ngày 2/4/2011 để hỏi thăm sức khỏe của bà đồng thời nói cho bà biết tôi đã được đọc quyển Hồi ký (chưa xuất bản chính thức) của bà từ năm ngoái 2010 và năm nay 2011 tôi mới viết bài: “TÔI ĐÃ ĐỌC HỒI KÝ CỦA BÀ NGUYỄN THỤY NGA”. Tôi nói cảm tưởng của tôi rất xúc động khi biết được nhiều chuyện riêng tư và công tác của bà trong những hoàn cảnh thật gian nan, đau khổ…nhưng bà đã kiên trì dũng cảm vượt qua số phận để vững bước đi lên trên con đường chính nghĩa mà mình đã chọn. Sau đó tôi hỏi thêm bà: “Tại sao bà không đưa cho họ xuất bản chính thức để cho nhiều người được đọc một quyển Hồi ký rất trữ tình và đầy tính chất sử liệu sống động hay như thế? Có lẽ có một số chuyện đụng chạm đến người này, người khác, nước này, nước khác không có lợi cho mối quan hệ chính trị và ngoại giao trong và ngoài nước… Bà có thể bỏ bớt những chỗ đó đi thì sẽ được xuất bản đấy. Vì cuộc đời chìm nổi của bà rất hay, có thể cho nhiều người biết để đồng cảm, chia sẻ những nỗi buồn vui…”. Bà Nga trả lời ngay với tôi: “Nếu thế thì người mà tôi hết mực thương yêu và quý trọng nhất của đời tôi đã được nhắc đến trong Hồi ký của tôi không phải là anh Ba Duẩn nữa!”. Bà nói vậy nên tôi cũng không nói gì thêm và tôi chúc bà sức khoẻ để cống hiến thêm cho đời những điều bổ ích xuất phát từ tấm lòng nhân ái của một người vợ, một người mẹ Việt Nam. Tôi quên đề nghị bà nên thay đổi một chữ trong nhan đề của HK “Bên nhau trọn đời” thành “Thương yêu nhau trọn đời” thì hợp với thực tế hơn. Mặt khác cũng để khỏi bị trùng lặp với nhan đề của một quyển HK ở Trung Quốc: “Bên nhau trọn đời” của tác giả Cố Mạn đã công bố năm 2003.
********* Nguyễn Hồng Trân (cựu GV Đại học Khoa học Huế); Phủ Cam, Phước Vĩnh, TP Huế Quý Xuân, năm Tân Mão -2011
Các bài cùng tác giả ▪ Câu Chuyện Đối Nhân Xử Thế Tài Tình Trong Một Cuộc Đón Khách Quốc Tế - Nguyễn Hồng Trân ▪ Tôi Đã Đọc Hồi Ký “Bên Nhau Trọn Đời” Của Bà Nguyễn Thụy Nga - Nguyễn Hồng Trân ▪ Động Sơn Đoòng Quảng Bình Việt Nam - Nguyễn Hồng Trân ▪ Lấy Dân Làm Gốc - Nguyễn Hồng Trân ▪ Lưu Công Danh-Nhà Tu Hành Huyền Thoại - Nguyễn Hồng Trân ▪ Những Dòng Cảm Xúc Tiễn Đưa Cố Đại Tướng - Thân Hữu của sachhiem.net ▪ Tại Sao Trung Quốc-Một Nước Lớn- Lại Hành Động Trơ Tráo Như Thế? - Nguyễn Hồng Trân ▪ ▪ | ||||||||||||||||||||
Trang Lịch Sử |