|
08 tháng 7, 2010
|
Đồng chí Lê Đuẩn phân tích tình hình miền Nam
từ năm 1954 đến lúc đó và trình bầy có hệ thống đường lối giải phóng
miền Nam. Đồng chí viết thành dự thảo Nghị quyết trình Bác và Bộ
chính trị thảo luận. Trong quá trình chuẩn bị các đồng chí Quân uỷ
Trung ương cũng tham gia thảo luận, góp thêm nhiều ý kliến. Quá
trình chuẩn bị Nghị quyêt này kéo dài gần một năm.
Về cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm
1968, Người đưa ra sáng kiến này là đồng chí Lê Duẩn, sau khi đã
trực tiếp chỉ đạo mọi mặt công tác ở miền Nam từ năm 1958 (nói đúng
hơn là từ năm 1946 đến 1954 và từ năm 1954 đến năm 1957). Bộ Chính
trị và Bác quyêt định mục tiêu, phương hướng và các vấn đề khác của
chiến dịch. Cuối năm 1967, Bác đi chữa bệnh ở Trung Quốc. Giáp Tết,
Trung ương họp ở Kim Bôi quyết định mở chiến dịch này. Đồng chí Lê
Duẩn trực tiếp chỉ đạo mọi công tác chuẩn bị chiến dịch này ở cả hai
miền cùng với Quân uỷ Trung ương và Trung ương cục miền Nam.
Sau đây tôi kể thêm một số kỷ niệm mà tôi không
bao giờ quên. Khi Bác đi Liễu Châu gập Chu Ân Lai, thì ở nhà chị Bác
(bà Bạch Liên) qua đời. Lúc đó Bác cùng Bộ Chính trị đóng tại xã Kim
Quan, huyện Yên sơn, tỉnh Tuyên Quang. Nhận được điện báo từ khu Bốn
đánh ra, tôi báo cáo anh Trường Chinh, anh Trường Chinh ngậm ngùi
nhưng không nói phải làm gì. Khi Bác về tôi báo cáo lại. Bác hỏi
tôi: “Thế các chú có nhân danh Bác điện vào chia buồn và xin lỗi gia
đình và địa phương là Bác bận việc không về được không? Tôi trả lời:
“Thưa Bác, không ạ”. Bác nói: “Các chú ngốc quá”.
Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Bác
giao cho tôi tham gia chuẩn bị Hội nghị chính trị đặc biệt. Bác cho
phép tôi được góp ý kiến vào bài nói của Người tại Hội nghị và bồi
dưỡng cho một số người phát biểu tại Hội nghị trong đó có anh hùng
Núp.
Năm 1968 Bác có vịệc phải ra nước ngoài, ở nhà
Ban Bí thư mà cụ thể là đồng chí Tố Hữu có chủ trương dong bọn giặc
lái Mỹ mà ta bắt được đi diễu qua các đường phố để cảnh cáo Mỹ. Khi
về Bác hỏi: “Vì sao các chú lại làm một việc dại dột như thế?” Tôi
thành thật báo cáo Bác là mình không tham gia việc này. Bác nói luôn
rằng tôi cũng ở trong Trung Ương mà lại không chịu trách nhiệm sao
được, dư luận thế giới sẽ không đồng tình về việc làm của ta.
Bác đọc báo thấy các báo đưa tin Bộ Văn hoá đúc
tượng nửa người của Bác bằng đồng (việc này do đòng chí Hà Huy Giáp
quyêt định). Bác hỏi tôi, (vì lúc đó tôi làm công tác tuyên truyền):
“Ai cho phép các chú làm? Đồng để dùng vào việc quân, không phải để
tạc tượng”.
Từ khi tôi phụ trách báo Nhân Dân và một phần
công tác của Ban Tuyên huấn, tôi thường xuyên được Bác dạy bảo, phê
bình, cho chỉ thị công tác, khi gặp trực tiếp, khi gọi qua điện
thoại, hoặc qua các đồng chí khác. Bác dạy tôi cả kinh nghiệm viết
báo. Bác viết khá đều đặn cho báo Sự Thật, báo Nhân Dân. Những bài
viêt của Bác báo Nhân Dân đã tập hợp lại. Tuy nhiên bản thảo của Bác
giữ lại không nhiều.
Tháng 7 năm 1969 tôi đưa Charles Fourniau,
phóng viên thường trú báo L’Humanité đến phỏng vấn Bác. Hai người
phóng viên cuối cùng tôi đưa đến phỏng vấn Bác là Marta Rohad của
Cuba và Charles Fourniau. Bác cho gọi tôi lên sớm để góp ý kiến về
những câu trả lời.Tôi nói chắc đồng chí đó sẽ hỏi cảm tưởng của Bác
khi Người vào tuổi 80. Bác nổi nóng, dồn cho tôi một hồi. Người nói
chúng tôi tại sao lại bày ra việc kỷ niệm 80 tuổi, so với Các Mác,
Lênin, chỉ là con cháu thôi, các chú tưởng rằng Bác cũng như người
khác hay sao? Vì lúc bấy giờ không khí chống sùng bái cá nhân rât
kinh khủng. Đúng lúc đó thì Charles Fourniau vào. Chuyện của hai Bác
cháu tạm dừng. Nhưng chủ đề câu chuyện Charles Fourniau hỏi Bác hôm
đó lại về chuyến đi của Bác từ Pháp sang Liên Xô năm 1923. Sau buổi
làm việc khi Charles Fourniau về rồi, Bác gọi tôi vào, và dường như
Người đã quên chuyện lúc trước, Người chỉ vào trong nhà và nói:
“Trong tủ lạnh có nhiều thứ, chú vào lấy mà ăn”.
Một kỷ niệm không bao giờ quên đối với tôi là
trước khi vĩnh biệt chúng ta mấy ngày Bác cho gọi tôi vào, Người giơ
tay cho tôi nắm rất lâu. Khi Bác mất tôi được tham gia công việc tổ
chức tang lễ. Túc trực bên quan tài của Người. Tôi viết phần tiểu sử
của Người. Còn bài điếu văn tôi viết dài quá, anh Lê Duẩn bảo Đông
Ngạc viết lại.
Tìm hiểu về Bác, tôi thấy Bác có 10 nỗi đau lớn
(1) :
Một là gia đình tan nát. Mẹ và
người em út mất sớm vì nhà nghèo không đủ tiền mua thuốc, không ai
chăm sóc, trong lúc Bố đi vắng. Cụ Nguyễn Sinh Sắc bị thù oán nên bị
hại. Tính cụ ngay thẳng, phê phán thẳng thắn những người xấu và làm
theo ý mình cho là phải. Bọn quan lại ghét cụ. Nhân có một người bị
phạm tội đưa đến, lệ ngày xưa trước khi xử án phải nọc người đó mấy
chục roi trước. Chẳng may người phạm tội bị bệnh từ trước nên sau
khi bị đánh trả về một thời gian người ta chết. Nhân việc này mới
cách chức cụ và đày đi biệt xứ. Còn ông anh và bà chị Bác cũng bị tù
đày, rồi sau mất sớm.
Nỗi đau thứ hai là, sau vụ
chính biến Tưởng Giới Thạch, Bác đi Liên Xô. Trước đó Bác phụ trách
phòng Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản. Bác có đi dự Đại hội V Quốc
tế Cộng sản nhưng không được bầu vào Ban chấp hành. Lần này sang, do
cách hoạt động của mình, Bác bị Liên Xô nghi ngờ là chưa đủ tiêu
chuẩn cộng sản. Sang Liên Xô Bác không được giao việc gì cả, không
có chức vụ chính thức trong tổ chức quốc tế. Bác xin về, họ không
cho tiền. Sau Bác phải xin tiền bạn bè để về. Bác về Xiêm tìm đến
các gia đình người Nghệ như gia đình cụ Đặng Thúc Hứa. Bác hoạt động
trong Việt kiều. Sau đó Bác có sang cả Lào để gây dựng cơ sở ở đó.
Như thế việc Bác về Xiêm là do Bác chủ động chứ không phải là do
Quốc tế phân công. Nghe tin ở nước nhà giải tán Thanh niên cách mạng
đồng chí hội để lập Đảng cộng sản, Bác cho rằng chưa phải lúc. Bác
cho rằng lúc đầu hãy tập hợp thanh niên và giương cao ngọn cờ yêu
nước đã. Có tổ chức Đảng cộng sản chỉ là tổ chức bí mật chứ chưa đưa
Đảng cộng sản ra và nói đấu tranh giai cấp vội, cứ nói đánh Tây cho
quần chúng dễ hiểu. Theo tôi vì sao lại lập Đảng cộng sản ? Chuyện
này có lẽ bắt nguồn từ Đảng cộng sản Pháp. Đảng cộng sản Pháp sợ
liên luỵ không dám bênh vực phong trào cách mạng ở các nước thuộc
địa nữa. Sau cách mạng tháng Mười, hai người cộng sản Pháp sang Liên
Xô gặp Lenin là Frossard và Cachin. Frossard không đồng ý với Lenin
một số điểm cho nên về nước không được dùng mà chỉ có Cachin được
dùng. Những điều này tôi đoán lúc đầu Bác không biết, vì lúc đó Bác
đang là một nhà cách mạng chân thành, trong sáng, không nghĩ đến
những điều phức tạp bên trong. Đảng cộng sản Pháp cho rằng Bác không
lập ra Đảng cộng sản mà chỉ tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, lại phê
phán Đảng cộng sản Pháp khá nhiều, trên báo chí và ở Đại hội Quốc tế
Cộng sản. Đảng Cộng sản Pháp có ý không tán thành Bác. Năm 1923,
Nguyễn Văn Tạo là học sinh bãi khoá ở Sài Gòn được sang Pháp học,
được kết nạp vào Đảng cộng sản Pháp, rồi vào Trung ương ngay. Nguyễn
Ái Quốc không được bầu vào Trung ương, Bác làm ở Ban thuộc địa. Đảng
Cộng sản Pháp cử 3 người trong đoàn Pháp sang Đại hội VI Quốc tế
cộng sản, trong đó có Nguyễn Văn Tạo. Nguyễn Văn Tạo đề nghị là ở
Đông Dương điều kiện đã chín muồi, đề nghị cho thành lập Đảng Cộng
sản. Sau đó mới tác động đến nhóm Bắc Kì _ Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong
Sắc, Nguyễn Đức Cảnh, ba người hăng hái nhất lập ra Đông Dương cộng
sản đảng, đề nghị giải tán Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội. Việc đó chính là phê phán Nguyễn Ái Quốc, hay gọi là sự sửa sai
đối với Nguyễn Ái Quốc. Nhưng Bác vẫn im lặng tìm cách sửa sai việc
đã rồi, vì ba tổ chức tìm cách chống nhau, gây chia rẽ. Sau Lê Văn
Lương nói với tôi là khi Bác về Trịnh Đình Cửu có hỏi Bác giấy uỷ
nhiệm của Quốc tế cộng sản, vì Bác nói là Quốc tế cử về. Bác trả lời
: ” Đồng chí thử tưởng tượng xem, nếu tôi mang trong người giấy uỷ
nhiệm của Quốc tế Cộng sản, thì liệu tôi có về được đến đây không ?
“. Trong số những người dự hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản có
Lê Hồng Sơn (Đông Dương cộng sản đảng). Có người nói không có Đông
Dương cộng sản đảng là không đúng. Người sáng lập An Nam cộng sản
đảng là Hà Huy Giáp, nhưng anh theo quan điểm công nông, đưa công
nhân lên là chính, nên mới đưa Hạ Bá Cang lên. Hạ Bá Cang, Nguyễn
Thiệu, Châu Văn Liêm được cử đi dự hội nghị hợp nhất. Nhưng Hạ Bá
Cang bị bắt ở Hải Phòng nên không dự được. Đại diện cho Bắc Kì là
Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh. Bác đưa ra Chính cương vắn tắt và
điều lệ vắn tắt, thật sự là Bác đã trở lại đường cách mạng với 3 mục
tiêu : Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Mà dân tộc độc lập, dân quyền tự
do, dân sinh hạnh phúc chính là tư tưởng của Tôn Văn. Nhưng cách
thực hiện khác hoàn toàn. Tôn Văn dùng cách mạng tư sản. Bác là làm
cách mạng nhân dân, cách mạng quần chúng rồi tiến dần lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa thực sự. Bác nói là làm từ từ, dần dần. Tiến lên
chủ nghĩa xã hội ngay làm sao được với một nước có nền nông nghiệp
lạc hậu. Mẫu của Stalin không phải đâu cũng áp dụng như thế. Nhiều
ông cách mạng còn trẻ, kinh nghiệm ít, cứ tin theo sách, nhưng Bác
không khờ như thế.
◄►
Năm 1931-32, ở Hương Cảng, Bác
không có chức vụ gì, nhưng vì sự nghiệp cách mạng Bác vẫn làm. Bác
gửi thư cho Quốc tế cộng sản đề nghị giao việc, vì thời gian đó Bác
chỉ làm nhiệm vụ một hộp thư. Đường giao thông của ta với Pháp bị vỡ
do một anh thuỷ thủ Pháp bị bắt khai ra. Khi tôi ở trong tù thì được
thông báo cho biết là Trần Văn Giàu bị bắt khai ra đường dây, nhưng
sau này tôi hỏi lịch sử Đảng Sài Gòn, họ nói có tài liệu chứng minh
là không phải Trần Văn Giàu khai. Mật thám tìm được chỗ Bác ở và bắt
Bác. Việc Bác được tha là nhờ luật sư Loseby. Ông luật sư cãi cho
Bác là ông Stafford Cripps sau này là bộ trưởng dưới thời thủ tướng
Churchill. Việc Bác bị bắt rồi lại được tha, Liên Xô không hiểu, họ
nghi ngờ có điều gì phức tạp trong vụ án. Tại sao lãnh tụ cộng sản
mà được đế quốc tha yên ổn, cho nên trong vòng 4 năm họ không giao
việc gì. Bác là nhân viên thường ở Ban thuộc địa. Sau đó Bác nhận
làm nghiên cứu sinh phó tiến sĩ, nhưng Người rất chán. Đại hội lần
thứ VII của Quốc tế cộng sản Bác không có cương vị gì cả. Đại hội
lần thứ nhất của Đảng ta họp trước đó, bầu Bác là Uỷ viên dự khuyết,
và còn ghi rõ là chỉ công tác ở nước ngoài. Chính vì thế nên Bác
không có tên trong đoàn đại biểu của Đảng ta sang dự Đại hội lần thứ
VII của Quốc tế Cộng sản. Đoàn đại biểu của Đảng cộng sản Việt Nam
chỉ có Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong. Sau khi xin việc mãi
không được, Bác xin về nước. Gần đây tôi có gặp một nhà trí thức
Việt Nam, người này có gặp một nhà trí thức Pháp, họ nói Bác suýt bị
hạ vì những chuyện lôi thôi này. Ông lãnh tụ Nhật Bản Nosaka Sando
cũng bị làm rầy rà. Những chuyện này Bác biết cả.
Thời gian này quan hệ với Trung
Quốc không gay go, vì tình bạn của Bác với Chu Ân Lai, Lí Phú Xuân,
Diệp Kiếm Anh… khi bác ở Quảng Châu là thân thiết. Năm 1938-39 Chu
Ân Lai cũng giúp đỡ Bác nhiều. Chỉ có sau này với Mao Trạch Đông là
Bác gặp khó khăn thôi.
Về việc Bác bị bắt năm 1942 ở
Trung Quốc, tôi được biết như sau : chuyện này do Hoàng Điền, đại tá
về hưu, người đước dự các lớp huấn luyện ở Liễu Châu năm 1944, nói
với tôi. Mục đích chuyến đi này của Bác là gặp Chu Ân Lai để hỏi
thăm tình hình quốc tế. Lúc Bác bị bắt, trong người có tấm danh
thiếp : Hồ Chí Minh, Việt Nam hoa kiều kí giả và một số giấy tờ
khác. Hoàng Điền nói Trương Bội Công đứng đầu bọn tình báo của
Trương Phát Khuê đã bố trí Trần Báo ở với những người cách mạng của
ta thường đi qua để bắt. Tên này là em bà Ngô Khoả Duy, vợ ông Hồ
Học Lãm, người đã biết rõ Bác Hồ. Bác bị hành hạ khổ sở. Nhưng nỗi
đau nhất của Bác là Người bị bắt trong lúc tình hình thế giới và
trong nước có nhiều biến động. Nếu ở nhà lúc đó không có anh Trường
Chinh thì thật sự chúng ta cũng không có ngày nay đâu. Tả lại phần
nào nỗi đau của mình trong những ngày bị bắt giữ, Bác có viết bài
thơ : ” Trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất tự do
“. Càng cay đắng hơn là Bác bị bắt trong lúc Cách mạng rất cần
Người.
Nỗi đau thứ tư là sau năm 1945,
Liên Xô, Trung Quốc không công nhận ta. Đảng cộng sản Pháp cũng nghi
ngờ.
Nỗi đau thứ năm là 1950-52, Mao
Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang phê phán gay gắt, buộc phải thay
đổi đường lối, dẫn ta đến sai lầm trong cải cách ruộng đất. Tuy
nhiên Trung Quốc giúp ta chỉnh lại quân đội có phần đúng. Mục đích
của họ là sửa lại cả quân sự, chính trị, tổ chức, cách dùng người.
Nhân nói về chính sách dùng người của Bác, tôi muốn kể chuyện này.
Có lần trong một cuộc hội nghị về công tác tổ chức, Lý Ban nói : ”
Đối với con cán bộ khi kết nạp vào Đảng không cần phải thời gian dự
bị, mà được chính thức ngay “. Bác nói ngay : ” Chú nói như thế
không đúng. Đối với cách mạng phải xem cụ thể người ấy như thế nào.
Vì có chuyện hổ phụ sinh khuyển tử, tức là hổ đẻ ra con là chó. Phan
Bá Ngọc là con của Phan Đình Phùng đã đưa mật thám bắt Phan Bội
Châu. Nhưng cũng có những địa chủ lớn như Bành Bái, địa chủ nổi
tiếng ở tỉnh Quảng Đông lại là người tiến bộ, Đảng cộng sản coi là
anh hùng. Cho nên không được máy móc, không được xem nguồn gốc xuất
thân, lí lịch làm quan trọng “.
Họ sửa khá nhiều nên Bác đau
lòng. Bao nhiêu nhân sĩ Bác lôi kéo tranh thủ, sau đó phải gạt hết,
có những người còn bị đấu tố nữa.
Nỗi đau thứ sáu là Bác không
ngờ Liên Xô và Trung Quốc lại xung đột, mâu thuẫn đến gay gắt như
thế. Bác nói phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô và Trung Quốc lãnh đạo.
Nhưng Liên Xô và Trung Quốc cùng lãnh đạo thế nào được. Một nước chỉ
có một mặt trời. Mao Trạch Đông là mặt trời hay Stalin là mặt trời
đây. Liên Xô hay Trung Quốc đứng đầu lãnh đạo. Chỉ có một mà thôi.
Hai bên xung đột nên bên nào cũng muốn lôi kéo Bác về phía mình. Bác
bị giằng xé trong suốt những năm cuối của cuộc đời.
Nỗi đau thứ bảy là sự bất hoà
giữa mấy người lãnh đạo của ta. Không phải mọi việc đều êm đẹp cả.
Họ nhất trí với nhau về quan điểm đánh Mĩ, nhưng quan điểm quốc tế
không thống nhất, về quan hệ cá nhân với nhau không thuận lợi. Sau
này Bác bảo tôi viết bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Ý Bác là muốn nói mấy ông này. Bài đó tôi viết Bác
sửa lại nhiều. Sau Bác nói anh Tố Hữu cùng sửa nữa. Tôi được biết từ
năm 1966, cứ mỗi buổi chiều thứ bảy, Bác lại cho làm cơm và nói : ”
Mấy chú cứ đến đây ăn cơm vui vẻ với nhau, có gì khúc mắc cứ nói hết
ra. Không nên để bụng “. Anh Nguyễn Chí Thanh làm thư kí cho những
cuộc đó cho đến khi anh đi vào Nam. Sau anh Lê Văn Lương nói lại với
tôi là họ cứ đến ăn cơm, chén hết rồi họ về, chẳng ai nói với ai
điều gì. Nếu không biết việc này thì không hiểu hết tại sao trong di
chúc Bác lại dặn phải đoàn kết toàn Đảng, từ Trung ương đến địa
phương. Trên mà đã đoàn kết rồi thì cần gì nói đến cơ sở nữa. Trên
đoàn kết mà dưới không thì lôi thôi to, các ông trị cho chết. Chính
vì thế mà Bác rất buồn. Có thể có một vài hiện tượng, có đồng chí
nào đó muốn vượt Bác. Bác biết hết nhưng Bác không quan tâm.
Nỗi đau thứ tám là tình hình
trong nước và thế giới trước khi Bác qua đời đều căng thẳng, nên đầu
óc Bác không được thư thái. Cuộc kháng chiến chống Mĩ kéo dài, nhân
dân ta hi sinh nhiều của, nhiều người, Bác rất đau lòng. Tuy Bác nói
là trường kì kháng chiến nhưng thực sự Bác không muốn cuộc chiến
tranh phải kéo dài. Từ đầu đến cuối, Bác không muốn có chiến tranh.
Cho nên mới có cuộc hoà hoãn với Pháp. Đối với Mĩ cũng thế, Bác muốn
tranh thủ, nhưng không được mới phải đánh. Cộng thêm những năm tháng
ốm đau kéo dài (trên 3 năm), có lúc Người cáu gắt cũng vì lẽ đó. Tất
cả những nỗi đau này Bác không thố lộ cùng ai, kể cả với anh Lê
Duẩn, anh Trường Chinh. Nếu chúng ta không hiểu những nỗi đau của
Bác, không hiểu được sự chín chắn, đúng đắn của Bác trong chính trị
thì ta sẽ giáo điều, nói không sát.
Tổng kết lại, cho đến nay Đảng
ta có 4 thắng lợi lớn và 4 thất bại. Bốn thắng lợi thì đã rõ : thứ
nhất là Tổng khởi nghĩa, thứ hai là Kháng chiến chống Pháp, thứ ba
là Kháng chiến chống Mĩ, thắng lợi thứ tư là thực hiện công cuộc Đổi
mới đang thắng lợi dần dần. Thắng lợi trong công cuộc đổi mới tuy
Bác không còn, nhưng đường lối, tinh thần độc lập tự chủ, tức là trở
lại với chính mình, trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh mới đổi mới
được. Cứ để như cũ chắc hôm nay nước đổ rồi. Bốn thắng lợi đều do tư
tưởng độc lập tự chủ, do tư tưởng Hồ Chí Minh quyết định.
Bốn lần thất bại là do học theo Trung Quốc, học
theo Liên Xô. Đó là cứ xông thẳng tới chính quyền mà là chính quyền
công nông thôi, đó là cải cách ruộng đất, đấu địa chủ. Bác không
phải là không nói tới đấu tranh giai cấp. Cụ nói đấu tranh giai cấp
phụ thuộc vào đấu tranh dân tộc. (…)
Sai lầm lớn nhất của chủ nghĩa xã hội là cứ
xông thẳng tới chính quyền. Và khi đã nắm được chính quyền rồi, đáng
lẽ phải thực hiện dân chủ thì lại nhấn mạnh chuyên chính. Cái sai
nữa là, sau khi giành được chính quyền rồi thì thực hiện công hữu
ngay lập tức, công hữu cực đoan, tức là vô sản hoá hơn cả tư sản.
Mọi người không ai có gì cả, chỉ là người làm công ăn lương, nên
động lực mới yếu đi. Marx dự báo khoa học có cái đúng có cái trật.
Nhưng về xu thế lịch sử là Marx nói đúng. Chủ nghĩa tư bản không thể
tồn tại dài lâu mà nó phải thay thế bằng công bằng hơn, cuối cùng là
chế độ công hữu. Hiện tại không phải là công hữu hết mà chỉ cần xây
dựng một nền kinh tế hợp tác là đủ. Chúng ta chưa dám nói khác.
Người cầm quyền lại càng sợ nói khác đi.
© Hoàng Tùng
(1) Sau đó chỉ thấy kể ra 8 nỗi đau, không rõ
người kể đếm nhầm, hoặc không kể hết, hay người ghi chép thiếu.
Chúng tôi không nghĩ rằng bản này (được chuyền tay trong giới cán
bộ) đã bị kiểm duyệt. Đây cũng không phải là sự bất nhất duy nhất
trong hồi kí này.
1 2 3
nguồn
http://www.danchimviet.com/archives/12514 ngày 4/7/2010
|