 |
08 tháng 7, 2010
|
Tiểu sử: Ông Hoàng Tùng (tức Trần
Khánh Thọ), sinh năm 1920, quê quán xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân,
tỉnh Hà Nam, tham gia cách mạng khi mới 15 tuổi. Sau Cách mạng
Tháng Tám, ông lần lượt giữ nhiều trọng trách quan trọng của
Đảng, như: bí thư Thành ủy Hà Nội, bí thư Thành ủy Hải Phòng, ủy
viên Xứ ủy Bắc kỳ, phó bí thư Chiến khu tả ngạn sông Hồng, phó
trưởng Ban Tổ chức trung ương, phó trưởng Ban Thi đua trung
ương, tổng biên tập báo Sự Thật, tổng biên tập báo Nhân Dân, phụ
trách Văn phòng Tổng bí thư, chánh Văn phòng Trung ương, trưởng
Ban Tuyên huấn trung ương, bí thư Trung ương Đảng.
1945 đến 1969 (năm chủ tịch Hồ Chí Minh từ
trần), ngoài 3 năm ”công tác ở xứ, khu và tỉnh”, ông Hoàng Tùng
”liên tục công tác ở Trung ương” ở các chức vụ : phó ban tổ chức
(dưới quyền các ông Lê Đức Thọ, rồi Lê Văn Lương), chánh văn
phòng Tổng bí thư (Trường Chinh), rồi phụ trách tuyên huấn, báo
chí, ”có may mắn được dự hầu hết các phiên họp Bộ chính trị hay
Ban bí thư“.
Tác giả đã nhấn mạnh ”đây là chứng từ của
một người trong cuộc, cấp cao, bước vào tuổi gần đất xa trời,
muốn chia sẻ một số thông tin hay suy nghĩ không nằm trong những
văn kiện chính thức, về mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc”.
Những kỷ niệm về Bác Hồ

Ông Hoàng Tùng (thứ 3 từ trái qua) cùng các cán
bộ đón Bác Hồ đến thăm và làm việc với Báo Nhân dân.
Vì quan hệ của ta với Trung Quốc và Liên Xô
không được thuận tiện, cho nên khi chính quyền của ta được thành lập
thì hai nước đều không công nhận. Trung Quốc thì quan hệ không chính
thức. Hai người sang ta đầu tiên nhân danh Đảng mà cũng là Đảng địa
phương thôi, đó là Chu Nam và Trang Điền. Một người là chính uỷ, một
người là tư lệnh quân khu Hoa Nam sang nhờ ta giúp họ tiễu phỉ ở
Thập Đại Vạn Sơn. Sau đó ta có cử một trung đoàn do Lê Quảng Ba phụ
trách sang Trung Quốc. Các đồng chí Việt Nam ở Diên An và Trung Quốc
sau khi thấy cách mạng Việt Nam thắng lợi thì xin về. Lúc đầu là
Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn, Lý Ban, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến.
Trương Ái Dân trong thời gian kháng chiến chống Pháp làm công tác
công vận ở Liên khu III do tôi phụ trách. Đồng chí ấy nói với tôi
rằng, sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-31, đồng chí ấy sang Trung
Quốc hoạt động cách mạng, được đi Diên An. Trong cuộc vận động chỉnh
phong năm 1942-43, đồng chí ấy bị thẩm vấn lí lịch. Người ta hỏi
người đứng đầu Đảng Cộng sản là ai, đồng chí ấy trả lời là Trần Văn
Giàu, liền bị chôn một nửa người xuống hố sâu. Sau đó không hiểu vì
sao được thả. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đồng chí được về
nước cùng với một số người nói ở trên. Cao Tử Kiến công tác ở Yên
Bái trong thời gian kháng chiến chống Pháp.
Sau khởi nghĩa ta mở một lớp huấn luyện ở
Vạn Phúc cho cán bộ học. Nghe anh Lê Đức Thọ nói lại là đó là
Hồng Lĩnh, tức Nguyễn Khánh Toàn, nói chẳng ai hiểu gì cả. Sau
tôi nghe mấy người khác nói ông ta là một giáo sư giỏi lắm. Cả
Bùi Công Trừng đi học ở Liên Xô về nói cũng thế cả.
Về quan hệ với Liên Xô, tôi biết Liên Xô,
nhất là Stalin coi Bác là một người dân tộc chủ nghĩa cải lương
từ năm 1928. Sau lại thêm việc Bác bị bắt ở Hồng Kông rồi lại
được thả, khiến Liên Xô nghi ngờ. Stalin không hiểu được lại có
những người như Loseby. Lại thêm việc Hà Huy Tập báo cáo. Anh Lê
Duẩn có nói với tôi là Hà Huy Tập báo cáo với Quốc tế về việc
mật thám đưa bà Thanh đi Trung Quốc tìm Nguyễn Ái Quốc và ra
nghị quyết phê phán sai lầm dân tộc chủ nghĩa cải lương của
Nguyễn Ái Quốc.
Bác đến Liên Xô năm 1934-38 chỉ làm công
tác ở Ban thuộc địa của Quốc tế cộng sản, không được giao nhiệm
vụ cụ thể. Người được giao nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về
vấn đề thuộc địa. Bác xin được làm nhưng không được trả lời.
Người xin về nước. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII,
Người không tham gia đoàn đại biểu Đảng ta, chỉ là đại biểu dự
thính. Liên Xô vẫn cho rằng Việt Minh là một thế lực dân tộc chủ
nghĩa. Họ không thấy Đảng Cộng sản đâu, và vì sao Đảng Cộng sản
giải tán.
Năm 1948, cả hai nước đều tìm hiểu xem Việt
Nam là gì. Đảng ta cử Nguyễn Chương (cùng ở Xứ uỷ với tôi) làm
phó cho Lê Đức Thọ sang Xiêm tổ chức lại tổ chức của ta ở đó.
Trong khu uỷ của khu bốn, mọi người mâu thuẫn với nhau, mà toàn
những lão thành cả như Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Hoan, Hồ Tùng Mậu,
Trần Hữu Dực. Ông Hoàng Văn Hoan thì nổi tiếng về những chuyện
kèn cựa ngay từ đầu. Ta cử Hoàng Văn Hoan bàn với Nguyễn Chương
(có thể là do gợi ý của Trung Quốc) là cử Nguyễn Chương sang
Trung Quốc để nghiên cứu. Nhưng thực tế Trung Quốc muốn qua
Nguyễn Chương để tìm hiểu tình hình Việt Nam. Nguyễn Chương đến
Trung Quốc báo cáo tình hình. Phương hướng báo cáo cũng hữu
khuynh đúng như họ đánh giá, nói là ta dân tộc chủ nghĩa, đề cao
địa chủ quan lại, không nêu cao vai trò của Đảng và liên minh
công nông.
Đại diện của Liên Xô ở Praha gặp hai đại
diện của ta là Trần Văn Danh và Lê Hy hỏi tình hình. Hai người
này nói cũng khớp với Nguyễn Chương nói. Nói khớp như nhau bởi
vì chúng tôi lúc đầu nghiên cứu theo cương lĩnh của đồng chí
Trần Phú, nghĩa là cương lĩnh thứ hai của Quốc tế Cộng sản, tức
là làm cách mạng tư sản dân quyền, lấy công nông làm trụ cột, do
giai cấp công nhân lãnh đạo, lập chính quyền xô viết… Chỉ đến
khi cách mạng Trung Quốc thắng lợi, Bác trực tiếp sang mới trình
bày rõ vấn đề. Việc này tôi không được nghe trực tiếp, nghe anh
Lê Văn Lương nói lại. Khi gặp Bác, Lưu Thiếu Kỳ nói ngay rằng :
các đồng chí giải tán Đảng, các đồng chí tưởng lừa được địch,
nhưng địch không lừa được mà lại lừa chính chúng tôi, vì chúng
tôi hiểu rằng các đồng chí giải tán Đảng thật. Còn địch nó thừa
hiểu các đồng chí không giải tán Đảng.
Hôm tuyên bố giải tán Đảng tôi không được
dự, nhưng nghe nói lại rằng, quyết định này của Bác thật là táo
bạo. Lúc đó không làm thế cũng nguy, vì âm mưu của Tưởng là đánh
đổ Cộng sản. Với bọn Lư Hán, Tiêu Văn, Đảng Cộng sản tồn tại là
nó chết, vì sẽ bị Tưởng trị. Nên ta mới lập mẹo tuyên bố giải
tán Đảng, chỉ tuyên bố về danh nghĩa mà thôi, còn trên thực tế
Đảng vẫn tồn tại. Khi đưa ra bản tuyên bố giải tán Đảng ở Thường
vụ, người không tán thành nhất là đồng chí Trường Chinh. Sau
Tưởng không có lí do gì thúc ép khi Đảng đã tuyên bố giải tán.
Sang Trung Quốc, Mao đưa Bác vào quỹ đạo
của Mao. Sang tới Liên Xô, Stalin lại đưa Bác vào quỹ đạo của
Stalin. Chuyến đi Trung quốc và Liên xô năm 1950 của Bác là
chuyến đi gian khổ. Khi đó Stalin nói : Bây giờ cách mạng Trung
quốc thành công rồi, Trung quốc có trách nhiệm giúp đỡ các nước
phương Đông, cũng như Liên xô có trách nhiệm giúp đỡ các nước
châu Âu và châu Mỹ. Trung quốc cho như thế là Quốc tế cộng sản
đã phân công Trung quốc phụ trách châu Á. Bám vào ý kiến ấy, sau
này Trung Quốc coi như là người đỡ đầu ta. Tôi cho rằng vì lý do
đó như thế mà mấy lần Bác từ chối làm Tổng bí thư. Ngoài việc
Ban chấp hành Trung ương trong nước chỉ định đồng chí Trường
Chinh làm Tổng bí thư, có lẽ Bác cho rằng nếu Bác nhận làm Tổng
bí thư thì Liên xô sẽ gây chuyện.
Từ Đại hội Đảng ta lần thứ nhất ở Macao, Hà
Huy Tập đã phê phán Bác như Quốc tế cộng sản đã phê. Bác không
nhận là chủ tịch nước cũng là thật lòng chứ không khách khí. Sau
này anh Lê Đức Thọ nói với tôi rằng khi đề nghị Bác làm chủ tịch
nước Bác từ chối mãi, Bác nói mình là chủ tịch nước à ? mình chỉ
đứng đằng sau thôi, còn tìm người khác làm. Người còn nói nếu
tìm khó quá cứ đưa Bảo Đại ra làm rồi mình thu xếp. Bác thực sự
vì cách mạng chứ không vì mình.
1 2
3
nguồn
https://www.danchimviet.com/archives/12514 ngày 4/7/2010
|