|
25 tháng 11, 2010
|
1 2
3 4
5
CHƯƠNG 36 :
VỀ ĐÂU HAI NẺO ĐƯỜNG TÌNH
Nông dân tôi đã cố gắng hết sức để học hỏi Kinh thánh Cựu uớc, chỉ mong mỏi
thấy rõ ông Trời của Do thái. Tôi rất thành thật để trình bày những hiểu
biết "cấp thấp" của mình. Tuy nhiên, tự hiểu khả năng kém cỏi, lời lẽ vụng
về. Chỉ dùng tấm chân thành để chia xẻ những cảm nghi của mình với đồng bào
Việt tộc; ngõ hầu "thấy biết như thực", để tránh những lầm lẫn đáng tiếc sau
này. Tôi vẫn uớc mong những
"bậc thầy" lấy lòng độ lượng chỉ giáo thêm cho. Dĩ nhiên, tôi vẫn chủ quan
khi hạ bút; Nhưng không hề ngoan cố, bảo thủ, cố chấp....
Mặc dù, tôi đã trích dẫn rõ ràng trong Kinh sách, từng câu, từng đoạn; hầu
thấy rõ tất cả thuộc tính của GOD Do thái. Nhưng thấy cũng cần phân biệt, so
sánh HAI ÔNG TRỜI của Do thái và Việt nam. Trước hết, một cách thông thường,
người Việt chúng ta hiểu rằng; dù nói Thượng đế, Tạo hoá, Thiên chúa, đức
Chúa trời hay Ông Trời... thì cũng cùng có một nghia. Đó là những từ ngữ cao
nhất để chỉ về một đấng TỐI CAO, là TẠO HÓA, TẠO VẬT CHỦ...mà chẳng ai hình
dung đuợc. Nhưng đối với Tây phương thì khác; Thuợng đế của họ đuợc dùng
thuần nhất là GOD, những nguời Việt theo đạo này dịch là Thiên chúa, đức
Chúa trời, Giê hô va. Vì vậy, chúng ta cần phải biết cách dùng từ của họ, để
phân biệt HAI ÔNG TRỜI này.
Ông Trời của nguời Việt được hiểu duới từ ngữ Thượng đế, Ông Trời; và dĩ
nhiên hoàn toàn khác xa Thiên chúa, đức Chúa trời Do thái. Việc cố ý cho
rằng, nguời Việt biết Ông trời, tức là biết Thiên chúa, đức Chúa trời Do
thái, là hoàn toàn sai. Sau đây, tôi sẽ xin phép đề cập đến bài viết: "Nguời
Việt nam và khái niệm về ông Trời" của Mục sư Nguyễn văn Huệ, mà tôi đọc
đuợc trên mạng luới Hoptinhhoply. Org. Cùng nhóm với Lê anh Huy.
Mở đầu bài viết, ngài dạy:"Từ lâu nguời Việt nam đã biết có ông Trời và cầu
khấn ông Trời. Niềm tin này vốn có trong tiềm thức của nguời dân Việt ngay
cả truớc khi có các tôn giáo khác du nhập vào nuớc ta..".
Sau đó, ngài viết tiếp :" Giống như nhiều dân tộc khác trên thế giới, sự
nhận biết về đức Chúa trời, có thể nói là một thứ NGUYÊN TRI TỰ NHIÊN mà ông
Trời ban cho nhân loại. Dân tộc nào cũng có chữ ông Trời hay đấng Tạo hóa
trong ngôn ngữ mẹ đẻ của mình".
Ngay tại đây, chúng ta thấy mâu thuẩn trong tư tuởng tác giả. Khi nói "người
Việt đã biết ông Trời", tức cố ý muốn đồng hoá ông Trời Việt, với ông Trời
Do thái trong kinh Cựu uớc. Nhưng sau đó, lại thừa nhận :"giống như nhiều
dân tộc khác trên thế giới..."; nghia là tác giả biết rằng, trên thế giới có
nhiều ông Trời. Nói cách khác, mỗi dân tộc, bộ lạc đều có ông Trời riêng của
họ. Hẳn nhiên, không ông nào giống ông nào. Bởi vì, khi nhận rằng Trời sinh
vạn vật; Nhưng chính chúng ta lại sinh ra ông Trời. Vì vậy, mỗi dân tộc, bộ
lạc đều gán cho ông những tính chất riêng biệt; phù hợp với luân lý, đạo
đức, tính tình ...của dân tộc, bộ lạc mình. Việc đi đồng hóa ông Trời nguời
ta, là một việc làm mang tính XÂM LĂNG VĂN HOÁ.
Ngài Huệ nói, "nguyên tri tự nhiên mà ông Trời ban cho", nghe có vẻ nguợng
nghịu quá ! Nếu đa "tự nhiên", thì không do ai cho cả. Còn như, có "ban",
thì đâu phải "tự nhiên"? Vả lại, nếu đã có "nguyên tri tự nhiên", thì ông
Trời cũng chính là "tự nhiên". như thế, làm gì có chuyện "chương trình", "kế
hoạch" của Thượng đế ??? Hơn nữa, cái "nguyên tri tự nhiên", mà ông Huệ đề
cập đến thì, mỗi dân tộc, bộ lạc, đều có cái "nguyên tri tự nhiên" khác
nhau.
Do đó, "my God" và "Trời ơi " không giống nhau như ông Huệ nói. GOD
làm Thần chiến tranh, dẫn người Do thái đi cuớp của, giết người, đốt thành
lũy, phá quê hương..... bảy dân tộc bất hạnh ở Trung đông. GOD có hiện ra
trong bụi gai, giữa mây đen...GOD có nổi giận phừng phừng, có ăn dê, bò,
chiên cả con, có vấy máu bàn thờ....GOD có đặt ra luật "thuế thân, thuế hoa
lợi muời phần trăm". GOD có bắt buộc lập bàn thờ bằng vàng, bạc, ngọc
ngà..chỉ xanh, chỉ đỏ...GOD để con lấy mẹ, cha lấy con, cô lấy cháu, anh em
ruột lấy nhau...GOD có làm hồng thủy giết con nguời và vạn vật...GOD "ghen
tương" với các thần khác, bắt "kẻ đạo" đập tuợng, phá bàn thờ....giết hai
mươi bốn ngàn nguời trong khoảnh khắc........Còn ông Trời của nguời Việt
tuyệt nhiên không có những thứ đó. Thậm chí, chúng còn chửi ông ra rả, mà
ông chẳng hề trách mắng gì cả. Hai ông Trời hoàn toàn trái nguợc; bởi vì
"nguyên tri tự nhiên" khác nhau !!!
Hãy nghe Mục su Huệ giải thích : "Tuy không biết ông Trời là đấng như thế
nào, Nhưng nguời Việt nam ai ai cũng kính ông Trời vì hiểu rằng có ta đây là
vì có ông Trời.....Nguời Tin lành thờ ngài nên gọi ngài là đức Chúa trời Tôi
xin phép nói ngay rằng, người Tin lành, là một phái trong đạo Chúa của ông
Môi se (Moses), người Do thái; cho nên, đức Chúa trời là của Do thái. Hoàn
toàn khác với ông Trời của nguời Việt.
Chính ông Huệ đã xác nhận :"Tuy không biết ông Trời như thế nào". Đúng vậy,
người Việt nói đến một ông Trời VÔ HÌNH, VÔ ẢNH, VÔ CÙNG, VÔ TẬN, VÔ THÙ, VÔ
OÁN, CÙNG KHẮP, LƯƠNG THIỆN, TOÀN TRÍ, TOÀN NĂNG, BẤT BIẾN, BẤT
TRANH.....Nghĩa là, không ai có thể hình dung được. Tại sao ? Bởi vì, khoảng
không vu trụ là vô cùng và trống rỗng. Nên dứt khoát không thể có một cái CÓ
nào có thể sinh ra cái KHÔNG ! Chỉ có cái KHÔNG mới có thể sinh ra cái CÓ !
Quả thực vậy, cho đến giờ này, các khoa Thiên văn đã khám phá ra HẰNG HÀ SA
SỐ NGÂN HÀ, nghĩa là không một ai có khả năng tính toán, đo lường cho được.
Vậy thì, biết ông Trời là như thế nầy, hay như thế nọ, là điều khó chấp
nhận. Nếu như, ông Trời để cho con người "nhận diện" được ông, thì ông không
còn là ông Trời nữa.
Chắc có vị sẽ hỏi tại sao ? Tôi xin đơn cử một thí dụ. Nói đến ông Trời, là
nói đến vị đã làm nên trời đất và vạn vật. Nhưng trời đất thì vô cùng, vô
tận. Vậy, không lẽ nào HỮU HẠN lại có thể sinh VÔ CÙNG ? Nói đến vạn vật,
thì cũng VÔ SỐ; và chúng ta không thể nào gọi cái gì là LỚN NHẤT; và cái gì
là NHỎ NHẤT. Loài nguời đã dùng bao nhiêu chữ như : phân tử, nguyên tử,
luợng tử...rồi điện tử, vi điện tử...cũng không thể giải mã nỗi một tế bào.
như thế thì, ông Trời làm ra cái nhỏ nhất, ông cũng phải ở đuợc trong cái
nhỏ nhất ấy. Ông cũng làm cái lớn nhất, vậy ông cũng phải ở đuợc trong cái
lớn nhất. Nghia là, ông Trời "biến thiên" và "tùy thuộc" trong mọi vật thể,
từ lớn nhất đến nhỏ nhất. Như vậy, làm sao chúng ta có thể "biết đuợc" ông
Trời ?
Hơn thế nữa, trí năng con nguời, dù được gọi là nhà Bác học, thông
thái...thì vẫn HỮU HẠN. như thế thì, làm sao HỮU HẠN "biết được" VÔ CÙNG ?
Chính ông Huệ cũng viết :" Trời cho không ai thấy, Trời lấy không ai hay"
kia mà. Việc Trời làm, thì chỉ có Trời mới biết, ngoài ra chẳng một "VẬT"
nào hiểu thấu. Nếu ai đó nói rằng, tôi biết đuợc ông Trời, thì ông Trời ấy,
là ông Trời giả- HOÀN TOÀN GIẢ DỐI, nếu không muốn nói là láo khoét. Vì thế,
chúng ta thường nghe nguời Đông phương nói, Ý DÂN LÀ Ý TRỜI. Nguời ta không
thể nhận biết trực tiếp về ông Trời, nên ông mới thật là Trời. Khái niệm MẠC
KHẢI ở đây rõ ràng hơn Tây phương. Bởi vì ông Trời cùng khắp, nên trong mỗi
"lòng nguời", ông Trời đều hiện diện. Không thể nào có một ông Trời sai đi
giết nguời, đi ăn cuớp, đốt phá...Bởi vì, tất cả là công trình là của chính
ông; huống chi con nguời lại là "linh vật" đuợc "yêu mến" nhất !!!
Việc sáng tạo ra một ông Trời làm THẦN CHIẾN TRANH
cho riêng mình, là một hành động Ma quỷ, Rắn rít !!!
Xin đọc tiếp :" Nguời Việt biết mình cần ăn hiền ở lành, Nhưng không biết
rằng tất cả những việc lành mình làm dù cao quí vẫn còn thiếu hụt, không thể
sánh với tiêu chuẩn trọn lành đức Chúa trời đòi hỏi, chẳng khác nào ngọn
đen cầy so sánh với ánh sáng mặt trời. Nguời Việt cần đón nhận chân la của
Chúa để bù đắp cho sự thiếu hụt của mình". (Tôi không hiểu chữ 'CHÂN LA" là
gì. Không biết có phải đánh máy lộn, hay là một từ mới do ông Huệ viết ra
?).
Xin hỏi ngay Mục sư Huệ, "tiêu chuẩn trọn lành"
trong Kinh Cựu uớc là gì ? Phải chăng, đó là TIÊU DIỆT CÁC THẦN KHÁC ĐỂ ĐỘC
TÔN ? Phải chăng HAI MƯƠI BỐN NGÀN NGUỜI DO THÁI ĐA CHẾT TRONG MỘT NGÀY LÀ
CÁI GIÁ TIÊU CHUẨN CỦA THIÊN CHÚA ? Phải chăng, GIẾT HÀNG LOẠT NGUỜI KHI
MIẾNG THỊT CÒN DÍNH NƠI CHÂN RĂNG CHƯA KỊP ĂN, là "tiêu chuẩn trọn lành"của
đức Chúa trời ? Phải chăng, vì dấu đi một lạng vàng, mà cả dòng tộc phải
chết oan, là "tiêu chuẩn trọn lành" của đức Chúa trời ? Phải chăng, trong Ê
díp tô, "một đêm mà không nhà nào chẳng có nguời chết", là "tiêu chuẩn trọn
lành" của đức Chúa trời Do thái........??????
Đức Chúa trời Do thái, không những sai kẻ khác giết, mà chính ngài ra tay
một cách độc ác; mà hậu quả là "số người bị đá lăn chết, nhiều hơn gươm
giết" !!! Chính miệng đức Chúa trời Do thái bảo :"Hãy dan ra, để ta tiêu
diệt chúng". Kinh là lời Chúa. Tất cả sự việc ấy đã được viết ra một cách rõ
ràng, như tôi đã dẫn. Vậy, Mục sư cho thiên hạ biết thêm về "tiêu chuẩn trọn
lành" nào nữa đây ? Xin quý vị đọc lại các đoạn trên để biết rõ về "tiêu
chuẩn trọn lành".
Ngài Huệ ví dụ thấy ỚN LẠNH quá ! Nếu như, vác "tiêu chuẩn" đó vào Việt nam,
chắc Dân tộc tôi chẳng còn mấy mống !!! Đọc câu :"đức Chúa trời đòi hỏi",
tôi thấy khủng khiếp hơn ! Giả sử, người ta hỏi, làm sao biết đức Chúa trời
đòi hỏi, thì Mục sư trả lời thế nào ? Chắc chắn, bởi vì theo Kinh Cựu uớc,
thì chúng ta biết Thượng đế qua các vị TIÊN TRI, phải vậy không ? Nhưng,
tiên tri là gì, nếu không phải là những ĐỒNG BÓNG, BÓI TOÁN, PHÙ THỦY ???
Tôi không dám nói nghịch Kinh, chỉ thuận theo thôi. Chính Giê hô va đức Chúa
trời đã nói, ai nói không linh nghiệm, đúng sự thật, là tiên tri giả. Ở
trên, tôi đã trích Kinh để chứng minh sự "không đúng " rồi. Không cần nhắc
lại. Hơn nữa, Chúa cũng ưng thuận cho Thiên
sứ đặt lời giả dối vào
miệng tiên tri, để lừa phỉnh người ta vào chỗ chết. Như vậy, thì tiên tri
nào là thật ??? Ngay ông Môi se, tiên tri đầu tiên, đã nói sai sự thật, như
đã trích dẫn. Vậy thì, Thiên chúa cũng không thật, lấy gì mà tin ???
Một câu khác của ông Huệ là :"..Nhưng người Việt chưa biết đức Chúa trời là
đấng tôn trọng ý chí tự do của con nguời và là đấng hay thuởng cho kẻ tìm
kiếm ngài".
Tôi không rõ tại sao, ông Huệ là một Mục sư, mà toàn nói nghịch cùng đức
Chúa trời Do thái ? Hãy HỌC LẠI CHO CHÍN CHẮN trước khi làm mục sư.
Xin lỗi ngài để nói như vậy. Sở di tôi "giận phừng phừng", là vì ngài nói
"trái Ý Chúa". Theo đúng Kinh Cựu uớc thì, khi Chúa trời biết đuợc bà Ê va
và ông A đam đã TỰ Ý ăn trái Khôn ngoan, thì ngài PHÁN : "Ta sẽ thêm điều
cực khổ bội phần trong cơn thai nghén, ngươi sẽ chịu đau đớn khi sanh con,
sự dục vọng của ngươi phải xu huớng về chồng, chồng sẽ cai trị ngươi " (Sáng
thế ký 3:16). Và :
"Vì ngươi nghe theo lời vợ mà ăn trái cây ta dặn không nên ăn, vậy đất sẽ bị
rủa sả vì ngươi , trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra
mà ăn. (sáng thế ký 3:17).
Ở đây, Chúa lại chọn làm kẻ thù cho nam giới !
Như vậy, ngay từ khai thiên lập địa, Thiên chúa Do thái, đã "tôn trọng Ý chí
tự do" chỗ nào ? Hay, mục sư cũng nói như CSVN: "tự do trong luật rừng" ???
Nếu Chúa tôn trọng Ý CHÍ TỰ DO, thì việc Ê va ăn, là quyền tự do của bà, sao
lại "giáng cho sự cực khổ bội phần trong khi thai nghén, đau đớn khi sinh
đẻ" ? như thế, Chúa trời Do thái, là kẻ thù của phụ nữ rồi ???
Khi dẫn nguời Do thái ra khỏi Ê díp tô, họ than thở, không chịu đi, Nhưng
Chúa trời đa GIẾT TẤT CẢ TRUỞNG LÃO CỦA HỌ, cộng thêm mười bốn ngàn nguời
ĐỂ BẮT BUỘC PHẢI ĐI THEO NGÀI ! Khi dân Do thái lấy người Ma đi an, chúa
cũng sai "đâm ngay dạ duới"; và sau đó "hai mươi bốn ngàn nguời phải chết".
Thế thì, sự "tôn trọng ý chí tự do" của Chúa Do thái nghe sao mà man rợ quá
!!
Và đây là một câu đầy "TÔN TRỌNG Ý CHÍ TỰ DO CỦA CHÚA TRỜI DO THÁI":
****KẺ NÀO TẾ CÁC THẦN KHÁC HƠN MỘT MÌNH ĐỨC GIÊ HÔ VA SẼ BỊ DIỆT
(xuất Ê díp tô ký -22:20). Và:
****AI KHÔNG KHỨNG VÂNG LỜI THẦY TẾ LỄ ...THÌ NGUỜI ĐÓ PHẢI CHẾT
(ptllk-17:12)
Tôi thấy thẹn thuồng khi đọc :
"Người Việt biết ông Trời có bản tính công bình, Nhưng chưa biết đức Chúa
trời là đấng đầy ân điển và yêu thương".
Ông Trời Việt ơi ! Con không dám "biết đức Chúa trời Do thái đâu" !!! Xin
đọc lại vài câu Kinh thánh để thẩm thấu :
·
Tay của nguời chứng phải tra vào mình nó đầu hết, đặng làm cho nó chết
(ptllk-17:2)
·
Mắt ngươi chớ thương xót, mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền
tay, chân đền chân (ptllk-19:21)
Thôi nhé, hai câu cũng đủ để nói lên "sự công bình", và "đầy yêu thương" của
Chúa trời Do thái ! Ô hô ! Thì ra, công bình đức Chúa trời cũng chỉ là loại
"răng đền răng " ? Hay nói như phường du côn, thì "mầy đục tau, tau đục
mầy".
Khả kính !!!Khả ái !!!
Xin đọc thêm vài câu nữa thôi, cho trọn đạo với thầy chăn:
"Người Việt biết ông Trời nhưng chưa biết đức Chúa trời là Chân thần là đấng
Tạo hóa duy nhất tối cao".
Ở chỗ này, thì tôi thấy Mục sư Huệ quá thật thà. Ngài đã nói đúng ý thánh
kinh ! Đúng lắm đấy, đức Chúa trời Do thái chỉ là một THẦN, dù cố gắng thêm
chữ Chân. Nhưng "chân", "giả, "nguỵ"; cũng đều là Thần; và chỉ là Thần thôi.
Vì vậy, Thần GOD Do thái nói là "ta ghen" ! Và ngài đã ghen thực sự với các
thần khác. Ngài bắt phải diệt hết các thần, ai thờ thần khác, thì ngài diệt
! Ân điển của thần Do thái như thế đấy
! Nhưng, Mục sư quên một vấn đề khá quan trọng. Nguời Việt thường nói TRỜI,
THẦN, QỦY, VẬT. Cái thứ tự ấy không thể đảo lộn. Trời là trên hết, thứ nhì
là Thần. Nằm chính giữa là CON NGUỜI, rồi duới đó mới đến QUỶ và VẬT. Trời,
ông Trời Việt nam nằm trên hết, là cha của tất cả, là Tạo hoá, Tạo vật chủ.
Thần cũng chỉ là một trong đám CON CÁI ngài. Trời thì có Thiên chủ, tức ông
Trời. Cùng ở chung cảnh giới với ngài còn có hằng
ha sa số Tiên ông,Tiên bà
nữa. Nhưng, Thần thì ở HẠ GIỚI, dù có cao hơn loài nguời. Thần lại có THIỆN
THẦN VÀ ÁC THẦN. Các ÁC THẦN sẽ bị đọa lạc trong ác đạo. Còn THIỆN THẦN thì
có thể vươn lên. Theo lời truyền thì, các Ác thần cũng có "tiểu thần thông"
(bùa phép), Nhưng họ hay lạm dụng để giết hại kẻ khác !!!
Cho nên, ông Trời Việt cao hơn nhiều, so với Thần. Dù đó là Thần Do thái,
hay thần Việt nam. Phải thế không Mục sư ? Vì vậy, các Thần mà lộng ngôn
xưng mình là Thuợng đế, thì sẽ bị Ác báo; vì dám lộng ngôn phạm thuợng !!!
Chúng ta lại được Mục sư khuyến khích, khi ngài viết :
"Câu tục ngữ :"Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải
thương nhau cùng" đã đuợc đem ra áp dụng thường xuyên trong những lúc hoạn
nạn tai ương với nhiều kết quả tốt đẹp. Trong quan hệ giữa nguời với nguời,
nguời Việt luôn luôn giữ lấy chữ tình:
Phàm sự lưu nhân tình
Hậu lai hảo tương kiến
CHÍNH NHỜ ĐÓ MÀ DÂN VIỆT NAM MUÔN ĐỜI VẪN TỒN TẠI (tôi viết hoa)"
Mục sư Huệ đã thấy, đã biết, đã viết đúng Y CHANG. Người Việt trọng nhân
nghĩa, biết yêu thương nhau, biết đoàn kết, nên qua bao bão táp vẫn đứng yên
như bàn thạch. Vậy thì, có cần hay không, để đi học cái văn hoá của "răng
đền răng" ? Dân Việt có câu :" Lấy ơn trả oán thì oán tiêu tan- Lấy oán trả
oán thì oán tràn lan". Xem ra, chúng hoàn toàn trái nguợc nhau rồi, phải vậy
không Mục sư ? như Mục sư trích dẫn, nếu không "lưu nhân tình", thì chắc
chắn không có cái "hảo tương kiến". Đọc thánh kinh Do thái, chắc ngài nhớ
nằm lòng chuyện một nguời lấy củi trong ngày SA BÁT bị GIẾT CHẾT chứ ? như
thế thì, Thiên chúa Do thái đâu có chút "lưu nhân tình" nào; do vậy, xin
thôi "đừng tương kiến" nữa !
Mục sư Huệ lại thân thương ghi lại câu ca dao :
Ở hiền thì lại gặp lành
Những người nhân đức Trời dành phúc cho.
Thiệt là hay và thấm thía ! Tổ tông Việt nam có thừa triết lý sống. Vậy thì,
cần gì phải tìm đến Chúa trời Do thái, trong khi ông này chỉ chủ trương
GIẾT, ĐỐT, CUỚP. Tôi nói như vậy có quá đáng không ? Thưa không. Chỉ nội một
câu :"Trời đánh cũng tránh bữa ăn" của người Việt, chúng ta hiểu thấu tâm lý
của dân tộc này cao viễn đến đâu. Trong khi, đạo Chúa của ông Môi se lại
:"Thịt vẫn còn nơi răng, chưa nhai, thì cơn giận của đức Giê hô va nổi lên
cùng dân sự, hành dân sự một tai vạ rất nặng (dân số ký 11:23)
Một câu thật đáng ghi nhớ mãi mãi của Giê hô va đức Chúa trời Do thái :
"Làm ơn cho ai ta muốn làm ơn, và thương xót ai ta muốn thương xót" !!!
Hết ý kiến với đức Chúa trời Do thái !
***050916***
CHƯƠNG 37 :
CON ƠI TA THIỆT CHỒNG NGƯƠI
Đáng lẽ ra, sau ba mươi sáu CHƯƠNG vừa rồi, tôi không cần phải HỌC thêm nữa.
Vì như đã trình bày, chúng ta không tìm thấy một Thuợng đế Tối cao nào trong
Cựu uớc; mà chỉ có Thần, như Mục sư Huệ cũng đã công nhận. Nhưng ngặt một
nỗi, tiến sỹ Lê anh Huy lại dẫn sách Khải huyền, thuộc Tân uớc, để chứng
minh Rồng Rắn, nên đành phải tốn công thêm. Lại nữa, tôi thấy người ta cho
là đức Chúa Giê su là hiện thân của Chúa Cha, tức là Thuợng đế, nên cũng cần
phải biết rõ về ngài.
Tôi xin xác nhận rõ ràng vài quan điểm truớc khi buớc vào chuyện học Tân
uớc. Thứ nhất, tôi tuyệt đối tôn trọng đức Giê su, một vị Giáo chủ của một
tôn giáo. Nhưng, tôi không thể gọi ngài là Đức Chúa Con; vì khi tìm học
trong Cựu uớc, tôi không tìm thấy đức Chúa Cha !!! Tôi dùng chữ Đức truớc
tên hiệu
của Ngài để tỏ lòng kính
mộ. Thứ hai, mặc dù tôi có đọc được một số tài liệu liên quan, Nhưng tôi
không dùng trong khi học.
Xin thưa một thí dụ, là có những tác giả viết về đức Giê su hơi khác, trong
đó có nguời cho rằng, ngài là một tu si Phật giáo, và mộ phần còn có tại
Cát-mia. Sở di tôi nhắc đến chuyện này, là vì, khi đọc trong Tân uớc, tôi
cảm nhận một vài lời dạy y như Phật giáo. Tuy nhiên, để sự tìm học vô tư,
tôi sẽ không đề cập đến. Tôi chỉ căn cứ trên cuốn kinh thượng dẫn; và nếu
cần thì sẽ so sánh với một vài bản dịch Việt ngữ khác mà thôi.
Tôi cố gắng trình bày ngắn gọn, và mong rằng, độc giả có thì giờ, thì nên
đọc thẳng vào "thánh kinh" để học cho "chắc ăn". Để tiện việc theo dõi, tôi
sẽ lần theo từng sách, đã đuợc sắp xếp trong kinh. Có nhiều vị Thánh nói lặp
lại các Thánh truớc, sẽ đuợc nhắc lại ít thôi, hoặc "thông qua". Theo hiểu
biết thiển cận của tôi, thì trong Tân uớc, duy chỉ lời dạy của một đức Giê
su, Nhưng có nhiều chỗ "nghịch" lẫn nhau. Tôi nghi rằng, do nhiều nguời
viết, nhiều lần sửa đổi để "phù hợp hoá" với "con đuờng trần gian" của các
ngài "hậu thánh"; nên Kinh đã trở thành "tréo lộn nhau". Từ chỗ suy nghỉ ấy,
tôi sẽ trình bày "ngu ý" của mình, tùy theo cảm nhận riêng tư trong từng
câu, từng đoạn. Tôi tuyệt đối trung thành với những nguyên tắc của mình : LÀ
MỘT HỌC SINH VÀ CHỈ HỌC THÔI.
Bây giờ, chúng ta sẽ đi vào sách Ma-thi-o (Matthew)
·
Song đang ngẫm nghi về việc ấy, thì Thiên sứ của Chúa hiện đến cùng Giô sép
trong giấc chiêm bao mà phán rằng: Hỡi Giô sép, con cháu Đa vít, ngươi chớ
ngại lấy Ma-ri làm vợ, vì con mà nguời chịu thai đó là bởi đức Thánh linh.
Nguời sẽ sanh một trai, ngươi khá đặt tên là Jesus, vì chính con trai ấy sẽ
cứu dân mình ra khỏi tội. (1:20-21)
·
Khi Giô sép thức dậy rồi, thì làm y như lời thiên sứ của Chúa đã dặn, mà đem
vợ về với mình, song không hề ăn ở cho đến khi nguời sanh một trai, thì đặt
tên là Jesus. (1:24-25)
Truớc hết, theo "ánh sáng" của bài viết Lê anh Huy thì :" Chỉ con người mới
sinh sản ra người, loài bò sát không thể nào sinh ra nguời". Quả thật là một
chuyện sinh vật lý tất yếu. Nhưng Huy quên đi một câu tương tự:" Chỉ con
nguời mới "lấy" con nguời và mới có thể sinh ra con nguời; các loài khác(như
chó, mèo..) không thể làm thụ thai người". Nếu có khả năng, thì ông Huy thử
giới thiệu vài người nào đã "lấy" súc vật, hay một loài nào khác, mà thụ
thai đẻ ra con người cho thiên hạ xem chơi. Nếu không, thì Kinh thánh nói
rằng "chịu Thánh linh" để "có bầu" đức Giê su, là một chuyện không tuởng.
Phải vậy không ???
Trong Cựu ước, còn có những luật "cấm nằm cùng súc vật"; Nhưng không nghe
chuyện "có bầu" với chúng. Giả sử như có đi nữa, thì cũng dễ tin hơn; bởi vì
chúng nằm trong dạng "sinh vật học" của tiến sỹ !!! Còn ở đây, Kinh bảo
rằng, bà Ma-ri "chịu Thánh linh", mà có bầu . Thánh linh là phần Tinh Thần
của Thượng đế, không thể nào có 'TINH TRÙNG" để đưa vào "tử cung" của bà
đuợc. Thế thì, làm sao "thụ thai" ???
Ở những tôn giáo khác, cũng có chuyện "giáng thần"; Nhưng họ xây dựng "chắc
ăn" hơn. Nghia là, trong khi "cha mẹ làm tình" với nhau, thần thức ấy chọn
ông bà này làm cha mẹ, nên "nhập xác" để "xuất trần", "ứng thế". như vậy,
nguời ta chỉ muợn cái xác, còn Thánh kinh Do thái lại cho "thánh linh làm
việc trực tiếp" luôn ! Nếu như vậy, thì Thánh linh vừa là CHA, vừa là CON.
Luận cứ này đã làm cho đức Giê su "chối cả cha lẫn mẹ", như tôi đã minh
chứng bằng Kinh thánh, từ đầu !!! Với truyền thống đạo đức Việt nam, chúng
tôi khó có thể chấp nhận sự VÔ LUÂN này.
Lại nữa, chúng ta sẽ gặp khó khăn hon, khi nói về người phụ nữ ! Nếu, vừa là
Cha, vừa là Con; thế thì, vai trò Phụ nữ vừa là MẸ, vừa là VỢ sao ? Vậy thì,
thưa tiến sỹ Huy, cả về mặt "sinh vật học", đến "đạo đức", và cả cái "mặt
phẳng tâm linh" đều không ổn rồi. Xin muợn câu của tiến sỹ để đáp lời chính
ngài : "Điều này là điều không thể chấp nhận đuợc về mặt sinh học và cả mặt
đạo đức".
Tôi xin phép nói một chút về chuyện "Nàng là giống Tiên, ta là giống Rồng".
Chữ Giống ở đây, có nghia "nguyên là", tức tiền kiếp của họ. Nhưng bằng vào
"tự nguyện", hoặc bị "báo ứng", cả hai đã "nhập thế". Có lẽ, Huy đã thấy rõ
rằng, câu chuyện bao gồm "lý luân hồi của đạo Phật", nên quyết tâm chống lại
! "Bò sát không thể sinh con nguời" đó là chuyện tất nhiên. Nhưng "Thánh
linh làm chửa", thì chuyện gì hả ông Huy ???
Ai bảo rằng "bò sát sinh ra nguời" ??? Bà Âu co là một con nguời. Ông Lạc
long Quân là một con nguời. Đức Giê su là một con nguời. Họ hoàn toàn bằng
da, bằng thịt. Việc gán vào đó một "lịch sử quá khứ", chỉ vì muốn nâng dòng
giống của mình lên một cấp, duới sự tuởng tuợng của con nguời thời đại ấy
mà thôi. Nếu nói rằng câu
chuyện Âu Lạc là hoang tuởng, thì chuyện ông Giê su là gì ? Ở đây, hai
"nguời thật", cuới hỏi đang hoàng, nên duyên vợ chồng. Còn bà Ma ri, thì tội
nghiệp hon, khi phải chịu tiếng "không chồng mà chửa", thì sao, hả ông Huy
???
Thế rồi, sau này, nguời ta còn gán cho bà hai chữ "đồng trinh", mới đau khổ
hơn nữa. Nguời ta chờ đợi một câu trả lời về sự ra đời của đức Giê su; Nhưng
không thấy Kinh thánh nói "ngài ra đuờng nào" ? Hơn nữa, sau khi đức Giê su
chào đời, ngài Giô sép còn tặng cho bà Ma-ri mấy ngài vừa nam, vừa nữ; vậy
thì, "chữ Trinh giá đáng ngàn vàng", nó nằm ở "mặt phẳng tâm linh" nào, hả
ông tiến sỹ Huy ? Hay cũng lặp lại câu thơ của cụ Nguyễn Du :"chữ trinh kia
cũng có ba bảy đuờng". Nhưng, dẫu thế cũng không đuợc; vì bà Ma-ri đâu phải
là Kiều. Kiều vì hiếu bán mình; còn bà Ma-ri vì ai mà "lỗi đạo" với chồng
???
Tiến sỹ Huy lại viết:" Theo khía cạnh xã hội tâm lý học, câu chuyện Lạc long
quân và Âu co là một câu chuyện buồn".
Tiến sỹ biết thương Tổ tiên như thế, thì cũng đáng khen đấy. Nhưng, thiết
nghĩ, chuyện buồn "khi chia tay", còn dễ chịu hơn là :"đem vợ về với mình
Nhưng không hề ăn ở" của ông Giô sép ! Nguời Việt có câu :"CHÀO MÀO NUÔI CON
CÀ CƯỠNG", thiệt thấy thấm thía vô cùng, tiến sỹ ơi !!! Có nỗi nghẹn ngào
nào cao hơn khi mà phải nói :"CÁ AI VÔ OI ÔNG THÌ CỦA ÔNG" ! (OI là một dụng
cụ đan bằng tre để dựng cá của dân miền Trung).
Giả sử như, trong "con chiêm bao", mách bảo ông Giô sép rằng, đứa con trong
bụng bà Ma ri là Quỷ quái, phải giết ngay, thì "niềm tin của Giô sép" sẽ tạo
nên cái gì ??? Vì tin "mộng mị", nên ông phải nuôi ông Giê su. Thế thì, cũng
"tin mộng mị", chắc chắn, ông sẽ GIẾT ÔNG GIÊ SU, theo "sự phán" !!! Có lẽ,
tiến sỹ cũng học đuợc trong truyện Kiều một vài câu như :
" Dạy rằng MỘNG HUYỄN CHẮC ĐÂU;
BỖNG DƯNG MUA NÃO CHUỐC SẦU NGHI NAO.
Và nàng Kiều đã :
"Vâng lời khuyên giải thấp cao".
Mặc dù,
"chưa xong điều nghi đa dào mạch tương".
như thế, nàng Kiều còn biết tỉnh thức, dù lòng vướng bận. Còn ông Giô sép
thì chỉ biết TIN thôi, và chịu cảnh "chèo queo một mình". Nhưng, có lẽ điều
đau đớn nhất là, chính đức Giê su lại chối bỏ Cha mình: "Chắc các ngươi lấy
lời tục ngữ.."
Nhưng thôi, chuyện trần gian để lại đó đã. Chuyện Thuợng đế quan trọng hon.
Sự khởi đầu, nói rằng ông Giê su là "ông Trời con", được bắt đầu bằng một sự
"chiêm bao" ! Hẳn là không có giá trị thực tiễn. Nói như thế, không phải tôi
có ý phủ định. Thử nghiệm xem; theo Kinh, ông Giô sép là một tay thợ mộc,
sống giữa một sự khắc nghiệt tôn giáo thời đó. Liệu ông ta có dám nói rằng,
con tôi là "Thượng đế con" hay không ? Chắc chắn là không. Bởi vì, chỉ cần
một thầy tế lễ hô lên, là ông đi xuống địa ngục ngay ! Mộng, chỉ có ông mới
biết; Nhưng ông không thể nói, thì ai nói thay cho ông ?
Có thể, có vị cải rằng, chính ông Giô sép đã nói, khi ngài Giê su được nhiều
người kính mộ rồi. Tôi xin thưa ngay rằng, bản thân "Chúa con", còn bị giết
trên ác giá, thì làm sao ông Giô sép; người nói ra, không chết cho được chứ
? Nghia là, nếu ông ấy nói về "giấc chiêm bao" của mình, thì đầu ông phải
lìa khỏi cổ ! Nhưng, tiếc thay chuyện đó không xảy ra. Như vậy, rõ ràng đây
là chuyện người đời sau đặt ra mà thôi !
Đến đây, chúng ta có thể nhận ra rằng, Cựu uớc xây dựng trên Bùa ngãi, đồng
cốt; và Tân uớc lại bắt đầu bằng Mộng mị !!!
·
Đức Chúa Giê su bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỷ Satan, ngươi hãy lui ra. Vì
có lời chép rằng: ngươi phải thờ phuợng Chúa, là đức Chúa trời ngươi , và
chỉ hầu việc một mình ngài thôi. Ma quỷ bèn bỏ đi, liền có thiên sứ đến gần
mà hầu ngài (4:10)
Đây là chuyện vui nhất trong Kinh thánh Tân uớc. Tôi thích lắm ! Chúng ta
nên nhớ rằng, Thánh linh Chúa trực tiếp "đi vào" bà Ma-ri, chứ không phải
"muợn xác" thông thường. Nghĩa là, khi nằm trong bụng mẹ, khi vừa sinh ra,
đã là Chúa rồi ! Ngài làm sao có thể "lú lẫn" được ?
Quỷ Satan lại là "một thiên sứ oai quyền" bị đạp xuống trần gian. Trong kinh
lại không nói về chuyện nó bị mất thần thông. như vậy, "cựu thiên sứ", ít
nhất vẫn còn "tha tâm thông", thế thì làm sao nó không biết đó là
đức Chúa trời, mà đi dụ dỗ ? Nhớ lại trong Cựu uớc, có kể về chuyện Satan
gặp Chúa trời, sau đó đi "hành hạ" Thánh Gióp. Thuợng đế bằng lòng theo "yêu
cầu" của Satan !!!
Như vậy thì, "quá quen nhau", làm sao nó "không ngửi" đuợc mùi Chúa Trời, mà
dám giỡn mặt cùng ngài ?
Câu chuyện trở nên vui nhộn hơn, khi mà ngài Giê su chỉ nhắc một câu "hãy
thờ phượng Chúa..", thì Satan "bèn bỏ đi. Thứ nhất, nếu Satan ngoan ngoãn
như vậy, thì nó không phải là Quỷ rồi, sao lại gọi Quỷ? Thứ hai, nếu quả
ngài Giê su là Thiên chúa, hoặc Chúa Con, thì ngài biết rất rõ Satan. Theo
lời ông Huy thì, "nó bị liệng ra khỏi thiên đuờng khi nó bắt đầu phản loạn".
như vậy, câu nói "thờ phuợng" với nó quả thật vô nghia; vậy ngài nói làm gì
? Sự thật thì, câu nói của Huy "trật lất". Từ khi Satan bảo bà Ê va "ăn trái
khôn ngoan", cho đến khi Satan ngồi chung với các bậc con trời, và yêu cầu
hành hạ thánh Gióp, rất lâu xa. Vậy thì, ai cho phép Satan vào thiên đàng
gặp đức Chúa trời ? Không những một lần, mà là nhiều lần ??? Nếu như nó
không có thần thông ngang với Chúa trời, thì làm sao nó vào đuợc ? Tại sao,
Chúa giết hết kẻ làm phản nho nhỏ; mà với Satan, kẻ đại phản, thì Chúa không
thể giết ? như vậy, chứng tỏ Satan có quyền phép "bằng hay cao hon" Thiên
chúa ! Ông Huy nghi sao ???
Tôi lại cảm thấy rộn lên trong lòng những kỳ thú chưa từng có, khi nghe mục
su Huệ viết : "Chúa Giê xu là con đức Chúa trời vốn ở trên trời, đa nhập thế
để thành con nguời sống giữa thế gian". Thế rồi, ngài lại dạy :" Chúa Giê
xu không thể xếp ngang hàng với các giáo chủ đời này. NGÀI LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI
THÀNH NGUỜI".
Quý vị nghỉ xem, có gì vui hơn luận lý này ? Thiệt tình, lời mục sư Huệ
không ai dám cải ! Ai mà cả gan xếp Chúa ngang với nguời thường. Để trở
thành Giáo chủ một tôn giáo, bất cứ một vị NGƯỜI nào cũng phải trải qua HỌC
TẬP, NGHIÊN CỨU, TU LUYỆN, GIẢNG THUYẾT mới thành. Họ phải có những triết
thuyết, nghi cách, luận cứ "ăn tiền", mới đuợc hậu nhân công nhận. Còn Con
Trời , hay ông Trời, thì khác ! Đúng một cái, gậy biến thành Rắn, hoặc chỉ
cần chữa vài bệnh điên, cùi, là xong !!!
"NGÀI LÀ CON ĐỨC CHÚA TRỜI"- "NGÀI LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI THÀNH NGUỜI" !!! Đố ai
biết ngài là ai ??? Nhưng cái vui vui, mà chúng ta nhận đuợc là : Nếu như,
"ngài là Đức Chúa Trời Thành Nguời", thì chuyện CỨU RỖI, chỉ là TRÒ CHƠI của
Chúa !
Ô hô ! Sao lại có chuyện, ngài hoá thành CHIÊN TẾ TRÊN THẬP ÁC ĐỂ TẾ CHO
CHÍNH NGÀI ? như thế, hoá ra ngài ĂN THỊT MÌNH chăng ? như thế, thì cái
thuyết "ngài hy sinh Con Một", lại hoá ra vô nghia ? Rõ ràng "không có con
một", mà là "chính ngài biến hoá" để lừa gạt con nguời ??? Tự lý thuyết này,
đánh đỗ hoàn toàn thuyết CỨU RỖI rồi đó ! Giảng đạo kiểu này, thì chỉ có vào
địa ngục !
Xin mạn phép nói qua một chút, về việc tôi viết "chữ thập ác". Nguời Việt
dịch ra chữ "thánh giá", tôi nghỉ không ổn ! Thánh giá, tức là giá của vị
Thánh; cung như nói Thánh kinh, là Kinh của Thánh nhân. Nhưng, thực tế thì
khác. Cái giá "chữ thập", là dụng cụ hành hình gian ác của vương triều La mã
lúc đó. Cái giá này không do đức Giê su tạo ra; nó không thuộc về riêng
ngài. Vậy nó không phải là của Thánh. Thế nên, tôi nghỉ, nói "ngài bị đóng
đinh trên cây Thánh giá", thật là tội nghiệp cho ngài. Đuợc nằm trên cái giá
của Thánh, là điều vinh hiển, chứ sao gọi là BỊ ? Hơn nữa, khi bị đóng đinh,
không những riêng mình ngài, mà còn có cả hai tên trộm nữa. Vậy thì, hai kẻ
trộm kia cũng "bị đóng đinh trên Thánh giá", và cũng nên gọi chúng là Chúa,
chứ sao lại không ??? Theo tôi, nếu gọi đó là Thánh giá, thì phải gọi vua La
mã lúc đó là Ông Trời mới đúng. Hoá ra, chúng ta tuyên xưng sự độc ác ???
Không biết các vị nghỉ sao ?
Trở lại với chuyện "ngài là đức Chúa trời thành nguời" của Mục su Huệ, tôi
thấy, ông Huệ đã nói trái lời Kinh :
·
Tức thì, có tiếng từ trên trời phán rằng : Nầy là con yêu dấu của ta, đẹp
lòng ta mọi đàng (Mt :3: 17)
Vậy, việc giảng đạo của nhóm Mục sư Tin lành có giá trị hay không, và đáng
tin hay không ?
Kinh lại tiếp :
·
Bấy giờ đức Thánh linh đưa đức Chúa Giê su đến nơi đồng vắng để chịu ma quỷ
cám dỗ (Mt-4:1)
Đọc lại các câu :"Con mà nguời chịu thai đó là bởi đức Thánh linh"; và :"Nầy
là con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng"; thì đức Thánh linh, chính là
Thuợng đế. Vậy thì, nếu nói như mục sư Huệ "Chúa Giê su là đức Chúa trời
thành nguời", thì, "Thiên chúa lấy bà Ma-ri đẻ ra Thiên chúa ! Rồi ngài
Thuợng đế lại đem Thuợng đế "ra đồng vắng cho Ma quỷ cám dỗ" chơi !!! Thiên
chúa lại "tự gọi mình là con mình", là "đẹp lòng ta mọi đang" ! Nghia là "ta
làm đẹp lòng ta".Ôi ! Có gì sung suớng bằng !
Có điều mà tôi không hiểu là, tại sao Thiên chúa toàn trí, toàn năng, dựng
nên con nguời, vũ trụ, vạn vật....lại phải dùng cách "cướp vợ Giô sép" để ra
đời ? Chán chi gái chưa chồng, cũng còn "trinh nguyên" tốt đẹp, mà ngài
không chọn, lại chọn phải Ma-ri ? Thiên chúa có cần dùng "cái cửa thế gian"
để ra đời hay không ? Giả sử, ngài chỉ YÊU Ma-ri, thì sao không ngăn chuyện
"hứa gả", mà để gả rồi mới giựt ? Hay đó, chính là đạo của Thiên chúa ? Mà
cũng đúng nhỉ ! Vì trong Cựu uớc đã có câu:
·
"Hỡi con cái bội nghịch, hãy trở về, vì ta là chồng ngươi. Trong vòng các
ngươi , ta sẽ lựa mỗi thành một nguời, mỗi họ hai nguời, mà đem đến Si ôn").
(Giê rê mi 3:14).
(Turn, O, backsliding children, saith the Lord; FOR I AM MARRIED UNTO YOU;
and I will take you one of a city, and two of a family; and I will birng you
to Zion).
Như thế, cho chúng ta hiểu rằng, không phải ngài "nổi hứng bất tử", mà "lấy"
nàng Ma-ri ! "FOR I AM MARRIED UNTO YOU". Ngài đã CUỚI, đã LẤY TẤT CẢ CON
CÁI NGÀI RỒI !!! Nghĩa là, bất cứ "đàn bà nào" cũng của ngài cả ! Lần này,
chỉ "một Ma-ri", còn truớc đó, ngài chọn mỗi "nhà" hai nàng, mỗi "thành" một
nguời. Xin hãy "làm phép cộng", xem ngài "xung xuớng" là bao ? Cái
"O...children", nghe mà khủng khiếp làm sao !!!
Cũng thế, sự "lấy Ma-ri", là "nhu cầu riêng" của ngài, khi ngài muốn; chứ
đâu phải "ra đời để cứu chuộc" ? Giê su là chính Thượng đế kia mà ! Việc tự
đem mình "ra đồng vắng cho ma quỷ cám dỗ", chỉ là một sự lừa !!! Ngài chỉ
lừa bọn "Trần truồng và đần độn"; Nhưng với Satan, ngài đâu lừa nó đuợc.
Trong trò chơi ấy, Thiên chúa và Satan đã "hợp tác chặt chẽ" với nhau, hoặc
giả "tuy hai mà một". Xin đọc lại sách Gióp để hiểu rõ vấn đề. Không ai đủ
sức biện minh !!!
Sở di tôi nêu lên mấy vấn đề trên đây, là vì tôi thấy oan cho Chúa quá !
Phải chăng, "kẻ thế gian" muốn đuợc huởng những "đặc ân" như thế, rồi HỌ bày
trò điên đảo ? Cái "máu dâm dục" đã trải từ Cựu uớc quá sổ sàng ! Không thể
có một Thuợng đế gọi con mình là vợ ! Cái "máu" này nguy hiểm cho đến hiện
tại, và trải rộng khắp thế giới. như chúng ta thấy, không có nước nào, ngoài
Mỹ, dám lên tiếng. Vì quyền hạn của Ma vương, của Thần Rắn rất to lớn ! Nó
to lớn không phải vì lương thiện, mầu nhiệm, mà chính nhờ GIẾT ĐỐT CUỚP...để
thâu tóm !!!
*****"AI KHÔNG KHỨNG VÂNG LỜI THẦY TẾ LỄ PHẢI BỊ GIẾT" *****
Là một câu Kinh "rất thế gian", hầu bảo vệ quyền lợi cho "bọn tôi tớ trung
thành". Tôi có thể nói dứt khoát, không phải là lời Thuợng đế, mà là hủy
nhục Thiên chúa.
***TÔN GIÁO KHÔNG THỂ LÀ MỘT CƯỜNG QUYỀN; VÀ CƯỜNG QUYỀN KHÔNG THỂ
LÀ MỘT TÔN GIÁO.
***050924***
CHƯƠNG 38:
GIỌT SẦU ĐẤT HỨA CÒN VƯƠNG
Mở đầu sự nghiệp Cứu chuộc của đức Giê su, là sách Ma thi o. Nhưng không
biết tại sao, sách lại ghi một câu thật đáng buồn:
·
Vả, khi đức Chúa Giê su nghe Giăng bị tù rồi, thì ngài lánh qua xứ Ga li lê
(4:12).
(Now, when Jesus had heard that John was cast into the prison, he departed
into Galilee)
Có lẽ, tôi lấy cái tâm nguời Việt để nhìn vấn đề chăng ? Cổ nhân nói rằng
:"Nhất tự vi sư, bán tự vi su". Đức Giê su đã chịu phép Báp têm với Thánh
Giăng. Dù sao, thì đó cũng là nguời thầy. Nhưng thôi, cứ nói theo Kinh thì,
Giăng đến để "dọn đường Chúa", nghĩa là "tôi tớ" hầu ngài. Là một tên đầy tớ
trung thành, loại đầy tớ Thánh, chứ đâu phải tầm thường ? Thế mà, ông chủ
Thuợng đế hay tin nó bị tù, thì đang tâm trốn mất. Đối với dân Việt, thì đây
là loại chủ không tình, không nghĩa ! "Đầy tớ ruột" mà không thể cứu chuộc,
thì làm sao cứu chuộc kẻ khác ? Chúng ta lại nghe kinh nói một cách khủng
khiếp :
·
Khi ngài đi dọc theo mé biển Ga li lê, thấy hai anh em kia, là Si môn cung
gọi Phi e ro, với em là Anh rê, đương thả luới duới biển, vì hai anh em vốn
là nguời đánh cá. Ngài phán cùng hai nguời rằng: Các nguời hãy theo ta, TA
SẼ CHO CÁC NGUỜI NÊN TAY ĐÁNH LUỚI NGUỜI (4:18-19). (And Jesus walking by
the sea of Galilee saw two brethen, Simon called Peter, and Andrew, his
brother, casting the net into the sea; for they were fishers. And he saith
unto them : Follow me, and I WILL MAKE YOU FISHERS OF MEN).
- 147 -
Như thế, rõ ràng, BA THẦY TRÒ ĐẦU TIÊN đang chuẩn bị một cuộc SĂN NGUỜI ! Đó
là, khởi đầu sự nghiệp của một "Thiên chúa giáng trần" ! Tôi không có ý chê
bai, Nhưng sự thật, hoàn cảnh gia đinh
ngài là thuộc giới nghèo khổ;
cha và mình làm thợ mộc, Mẹ và các em làm lụng vất vả, rồi đột nhiên tuyên
bố "ta là Trời con", là "Thiên chúa giáng thế làm nguời", thì làm sao thiên
hạ tin cho nỗi ?
Có thể, đó là đuờng lối lựa chọn của Thánh nhân ! Tôi vẫn tuyệt đối tôn
trọng ngài. Nhưng làm gì để chứng tỏ mình là Trời con hay Thiên chúa, lại là
vấn đề khác. Chúng ta cần phải Học sâu, Nghi kỹ mới hiểu. Hãy nghe Kinh giới
thiệu :
·
ĐứcChúa Giê su đi khắp xứ Ga li lê, dạy dỗ trong các nhà hội, giảng tin lành
của nuớc đức Chúa trời, và chữa lành mọi thứ tật bệnh trong dân. Vậy danh
tiếng ngài đồn ra khắp cả xứ Sy ri. Người ta bèn đem cho ngài mọi nguời đau
ốm, hay là mang bịnh nọ tật kia, những kẻ bị quỷ ám, điên cuồng, bại xuội,
thì ngài chữa cho họ lành cả (4:23-24)
Dù ngài là Chúa con, hay Chúa Cha thị hiện, thì ngài vẫn là Ông Trời. Đã là
Trời, tất ngài hiểu rõ thế gian ngài đang sống. Công việc của ngài, là công
việc Thiên chúa. Vậy thì, chữa lành những bệnh điên, bệnh cùi, đui,
què...quỷ ám..đuợc bao nhiêu nguời trong xứ Ga li lê, mà gọi là "cho họ lành
cả" ? Cả địa cầu có bao nhiêu nguời, đau khổ của họ do đâu; công việc của
một vỹ nhân là gì ? Không lẽ Thiên chúa chỉ làm thầy bùa chữa bệnh mà thôi ?
Nếu thế, thì thế gian này cũng có nhiều lắm, đâu cần Thiên chúa ! Có điều
hơi buồn là, Thánh Giăng đang lâm nạn, thì ngài không thể làm bùa cho Thánh
ra khỏi nhà tù, để cùng nhau tiếp tục con đuờng cao cả ! Hay chính ngài Giê
su nghi rằng, Giăng phải chết cho ngài sáng sủa hơn ? Để ngài đuợc độc tôn ?
Câu hỏi này sẽ có sự trả lời sau này. Xin đợi xem Kinh ghi như thế nào.
Sự khởi giảng của đức Giê su thật cảm động. Những "Tin lành" đưa tới cho
nhân loại đã được ngài rao truyền như sau:
·
Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nuớc thiên đang là của những kẻ ấy.
·
Phước cho những kẻ than khóc, vì đuợc yên ủi.
·
Phước cho những kẻ nhu mì, vì sẽ huởng được đất.
·
Phước cho những kẻ đói khát công bình, vì sẽ được no đủ.
·
Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ đuợc thương xót.
·
Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy đức Chúa trời.
·
Phước cho những kẻ làm cho người hoà thuận, vì sẽ đuợc gọi là con đức Chúa
trời.
·
Phước cho những kẻ bị bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của kẻ
ấy.
·
Khi nào vì cớ ta mà nguời ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu
cho các ngươi , thì các ngươi sẽ đuợc phuớc. Hãy vui vẻ và nức lòng mừng rỡ,
vì phần thuởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì nguời ta cũng từng
bắt bớ các đấng tiên tri truớc các nguời như vậy. (5:3-12).
(Blessed are the poor in spirit; for theirs is the kingdom of heaven.
Blessed are they that mourn; for they shall be comforted. Blessed are the
meek; for they shall inherit the earth. Blessed are they which do hunger and
thirst after righteousness; for they shall be filled. Blessed are the
merciful ; for they shall obtain mercy. Blessed are they the pure in heart;
for they shall see God. Blessed are the peacemaker; for they shall be
called the
- 148 -
children of God. Blessed are they which are persecutted for righteousnenss
sake; for theirs is kingdom of heaven. Blessed are ye, when men shall revile
you, and persecute you, and shall say all
maner of evil against you falsely, for my sake. Rejoice, and be exceeding
glad for a great is your reward in heaven; for so persecuted they the
prophets which were before you
Để xác suất niềm tin cao hơn, tôi thấy cần ghi lại bản dịch của linh mục
Nguyễn ngọc Tính, trên mạng Thanhlinh.net:
·
Phước thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì nuớc trời là của họ.
·
" " hiền lành, vì họ sẽ đuợc đất Hứa làm sản nghiệp
·
" " sầu khổ, vì họ sẽ đuợc Thiên chúa ủi an
·
" " khát khao nên nguời công chính, vì họ sẽ đuợc Thiên
chúa cho thỏa lòng.
·
" " xót thương nguời, vì họ sẽ đuợc Thiên chúa xót
thương.
·
" " có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ đuợc nhìn thấy
Thiên chúa.
·
" " xây dựng hoà bình, vì họ sẽ đuợc gọi là con Thiên
chúa.
·
" " bị bách hại vì sự sống công bình, vì nuớc trời là
của họ.
·
" " anh em vì thầy mà bị nguời ta sỉ vả, bách hại, vu
khống đủ điều xấu xa.
·
Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thuởng dành cho anh em ở trên trời thật
lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những nguời đi truớc anh em cung bị nguời
ta bách hại như thế.
So sánh chút xíu hai bản dịch trên đây, chúng ta thấy có những tương đồng và
dị biệt. Truớc hết, THE POOR IN SPIRIT, nhóm "Tin lành" dịch là "có lòng khó
khăn"; Nhưng "công giáo", lại dịch thành "tâm hồn nghèo khó". Theo ngu ý, cả
hai đều có dấu diếm một vấn đề; và đa dịch chữ POOR thành ra tính từ. Nhưng
văn kinh trong Anh ngữ đã dùng The Poor, và In Spirit. Vậy thì, chúng đều là
danh từ. Không biết có đúng không ? Tôi không hiểu "tâm hồn nghèo khó" là gì
? Lại càng không thể biết "có lòng khó khăn", là nghia làm sao ? Do đó, xin
phép trích ra mấy định nghia của hai chữ này. POOR: nghèo, xấu, thô thiển,
đáng thương, tầm thường, hèn hạ. SPIRIT : tinh thần, linh hồn, thần linh,
nhiệt tình, nghị lực, khí thế, cột trụ, bộ óc...NHƯ vậy, nếu ôm sát nghia,
thì phải dịch là "kẻ nghèo về tinh thần". Nhưng "nghèo về tinh thần" là gì,
nếu không phải là "dốt nát, mê muội" ? Thế thì, không lẽ nuớc thiên đang chỉ
dành cho lớp nguời này ?
Trong bản dịch của linh mục Tính, chúng ta thấy ngài để lộ “bản chất Môi se”
rất cao ! Blessed are the meek, for they inherit the earth"; lại được dịch
là :"Phước thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất Hứa làm sản nghiệp". Đất Hứa
chỗ nào ? Đất Hứa, đã tạo nên một tội ác ghê gớm trên bảy dân tộc, chứ không
phải tốt lành gì ! Đất Hứa là muu đồ của kẻ cuớp. Không có Thiên chúa nào
lại lấy đất nước của nhóm dân này, Hứa cho kẻ khác. Nhắc đến đất Hứa, là
nhắc đến mưu đồ xâm lăng, diệt chủng, tiêu diệt tôn giáo kẻ khác ! Xin hãy
chấm dứt những ý tuởng đó đi, cho nhân loại sống yên bình một chút. Thử xem
lại lịch sử La mã, để xem nguyên nhân nào khiến Hồi giáo gây nạn khủng bố
hiện nay !
Trong bản dịch của linh mục Tính, cũng thêm vào hai chữ Thiên chúa. Việc
ấy, có thể làm tăng niềm tin cho "ngu dân", Nhưng lại làm giảm giá trị lời
đức Giê su. Thí dụ trong câu :"Blessed are they that mourn, for they shall
be comforted". Ông ta dịch thành :"Phước thay ai sầu khổ, vì họ sẽ đuợc
Thiên chúa ủi an".
Tôi nhận thấy, tư tuởng đức Giê su cao vời vợi, lại bị linh mục này giới hạn
trong ích kỷ. SHALL BE COMFORTED, không chỉ có Chúa mới an ủi. Hẳn nhiên,
trong câu tiếng Anh không có chữ GOD. Vậy, linh mục Tính lấy đâu ra ? Sự an
ủy có thể đến từ gần đến xa. Truớc hết, con nguời cần sự an ủy từ nguời
thân, xóm giềng, bè bạn; rồi đến cộng đồng dân tộc, cộng đồng thế giới.
Thượng đế thì xa vời, khó biết. Vậy, chỉ cần ngài thể hiện qua người thân,
cộng đồng... là đủ; vì trong mỗi con người Thuợng đế đều hiện hữu. Tại sao,
chỉ nói đến Chúa, mà bỏ lơ những thực tại gần gủi ? Tôi thấy, linh mục này
đã muốn lặp lại câu :
"NGÀY NAY, MỖI NGƯỜI TRONG VÒNG CÁC NGƯƠI HÃY DÂNG TAY MÌNH CHO ĐỨC GIÊ HÔ
VA, CHẲNG SÁ CHI ĐẾN CON TRAI, HAY LÀ ANH EM MÌNH, HẦU CHO CÁC NGƯƠI ĐUỢC ƠN
PHUỚC (Xuất Ê díp tô ký 32: 28-29).
Như vậy, họ không cần đến con cái, anh em...mà chỉ cần đức Chúa trời an ủi.
Họ Lê vi không cần an ủy của nguời thân, nên chỉ trong một khoảng thời gian
ngắn, mà họ giết BA NGÀN ANH EM không gớm tay. Nguợc lại, họ hãnh diện là
những thầy tế lễ (linh mục, mục sư) ngoan ngoãn, và đầy ƠN PHUỚC !!!
Trong truờng hợp trên đây, tôi thấy tư tuởng ngài Giê su khoáng đạt, bao la
hơn. "Shall be comforted", bởi bất cứ ai; mà truớc hết là nguời thân, bạn
bè, làng xóm, cho đến dân tộc, quốc gia, nhân loại. Sau cùng, chúng
ta mới nói đến Thiên chúa. Tại sao ? Bởi vì, trong lòng mỗi nguời đều có
Thiên chúa ! Không cần đến ngƯời thân...là chối từ Thiên chúa. Do vậy, không
thể nói đến một Thiên chúa ở đâu đâu; mà chính sự an ủi của ngài nằm trong
tâm khảm mỗi nguời bên cạnh. Nếu diệt anh em, kể cả con trai mình...thì
chính những kẻ ấy là phản bội Thiên chúa. Mỗi một xác thân và linh hồn là do
Chúa tạo dựng. Hủy hoại thân xác ấy, là hủy hoại công trình, máu thịt của
Chúa. Mấy chữ "hầu cho các ngươi đuợc on phuớc" của ông Môi se, là một thủ
đoạn độc ác, lừa gạt con nguời, để hiến dâng mạng sống cho chính mục tiêu
Xâm lăng của ông.
Cho nên, nguời theo đạo Thiên chúa, truớc hết, phải là một nguời biết kính
cha mẹ, yêu anh em, thương bà con xóm giềng, bảo vệ Dân tộc, Tổ quốc của
mình. Không thể nào "dâng cánh tay mình cho đức Giê hô va", để uống máu, ăn
xương, của BA NGÀN ANH EM trong một lúc. Đó là một sự phản bội Thiên chúa
đáng ghê tởm nhất. Vì vậy, truớc đây, tôi xác quyết rằng, trong Cựu uớc chỉ
có Thần Rắn, chứ không phải Thiên chúa
Trong câu :"Blessed are the peacemaker, for they shall be called the
children of God"; thì sách Tin lành dịch là :"Phuớc cho những kẻ làm cho
nguời hoà thuận, vì sẽ đuợc gọi là con đức Chúa trời". Còn linh mục Tính,
lại dịch là :"Phuớc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ đuợc gọi là con
Thiên chúa".
Theo thiển ý, lời dịch trong sách Tin lành là đúng đắn, nghiêm chỉnh. "Câu
phuớc cho những kẻ", chỉ thị rõ ràng cho mệnh đề kế tiếp. Còn hai chữ "phuớc
thay", chỉ là một tán thán ngữ có tính cách bao quát, không chỉ thị rõ ràng.
Lại cung khác nhau trong "làm cho nguời hoà thuận", và "xây dựng hoà bình".
Chúng ta thấy rõ tâm sự của vị linh mục này ! "Xây dựng hoà bình", đã nói
lên tinh thần "hoàn vũ" của hệ thống mà ngài đang làm"tôi tớ". Tôi nghỉ, đức
Giê su không có cái nhìn như thế. Ngài muốn trước hết cần phải "làm cho
người hoà thuận". Anh em hoà thuận, xóm giềng hoà thuận, rồi đến thế giới
hoà bình. Nhưng, nếu khởi đầu không có; nghia là trong nhà không hoà thuận,
thì làm sao thế giới hoà bình ? Hỡi ôi !dưới cánh tay Môi se, đệ tử Thần
Rắn, thì "phải dâng cánh tay mình cho Giê hô va, sá chi đến con trai hay là
anh em mình". Thế thì, trong nhà đã giết hại lẫn nhau, làm sao có hoà bình
thế giới ???
Vậy, phải chăng, linh mục Tính đã mang tấm bình phong "xây dựng hoà bình",
để thực hiện Cựu uớc của Môi se ? Trong câu trên của đức Giê su, nói rất
thực tế. Phải phát đi từ điểm nhỏ, tức hoà thuận trong anh em. Nói khác đi,
ngài chúc phúc cho những ai, là những người làm cho kẻ khác hoà thuận. Sau
này, chúng ta sẽ đuợc chiêm nghiệm thêm những lời lẽ khác với Môi se của
ngài.
Nếu lấy cái nhìn từ Cựu uớc để xem xét, thì câu sau đây thật nguy hiểm :
·
Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy đức Chúa trời.
Trong Cựu uớc, Giê hô va đức Chúa trời từng phán rằng :
" KHÔNG AI THẤY MẶT TA MÀ CÒN SỐNG".
Như vậy, phước hay hoạ, khi đuợc nhìn thấy đức Chúa trời ? Có thể, có vị cho
là tôi lẩm cẩm, thậm chí cho là "đần độn". Vì họ nghỉ là, sau khi chết, hoặc
lên thiên đang, hoặc xuống địa ngục chờ ngày "phán xét". Tuyệt nhiên không
có luân hồi chuyển kiếp. như thế thì, chết được lên thiên đang gặp Chúa, thì
có chi sung sướng hơn ? Ở đây, tôi không bàn cải chuyện có hay không có
thiên đang, mà chỉ nói chuyện THẤY CHÚA. Lời Thiên chúa, không phải là đua
giỡn : "Không ai thấy mặt ta mà còn sống". như vậy, dù lên thiên đàng chăng
nữa, thì chắc chắn bạn cũng không muốn Thấy Ngài !!! Vì, như Chúa nói :"Thấy
ngài phải chết". Vậy, từ thiên đang chết đi, thì bạn về đâu ? Chỉ có một con
đuờng là Địa ngục. Chúa không chấp nhận chuyện "luân hồi", "nhân quả". như
vậy chỉ có hai đuờng, hoặc thiên đang, hoặc địa ngục !!!
Cho dù về được thiên đang, thì bạn cũng chỉ là "tôi tớ" mà thôi ! Bạn không
có một cơ hội nào để "nâng cấp" đời mình, dù bạn làm tốt đến đâu. như thế,
không phải khi ký hợp đồng với Chúa, thì muôn vạn kiếp về sau, bạn cũng chỉ
là tôi tớ hèn mọn ??? Điều này chứng tỏ, với Chúa, con nguời không thể nào
tiến lên đuợc. Nhưng, khi đối chiếu với thực tế cuộc sống, chúng ta thấy nó
"không vững" cho lắm !
Trong ca dao. tục ngữ Việt nam có câu :" Không ai giàu ba họ, chẳng ai khó
ba đời". Mới nghe qua, chúng ta tưởng chừng như nó rất đơn giản, thấp thỏi
so với triết lý Tây phương. Nhưng, khi suy nghỉ, bạn sẽ thấy, trăm kinh, vạn
quyển cũng không bằng.
Không có gì đứng yên một chỗ. Tất cả phải chuyển động để tồn tại. Cục đá
cũng có sự sống; nó cũng có sinh, và có diệt. Nói một cách khác SỰ SỐNG VỐN
LÀ CHUYỂN ĐỘNG. Tư tưởng cũng chuyển động; vật chất cũng chuyển động, thế
tại sao những giá trị con nguời lại không thể chuyển động ? Trời không chỉ
có Mưa và
-
150 -
Nắng; mà nó còn có dâm mát. bão tố, sấm sét, tối và sáng...Vậy thì, con
nguời cũng có lúc giàu, lúc nghèo, lúc giận, lúc vui....Có khi làm vua, làm
quan, làm dân, làm tôi tớ, làm ông chủ...Có khi chí thiện, lúc chí ác, lúc
phi thiện, phi ác...Vậy, tại sao, chúng ta không thể tu tập để thành tiên,
thành thánh, thành vua, thành trời...???
Lẽ thường, nếu chịu học tập, thì một con nguời có thể tiến từ không biết
chữ, lên tiểu học, trung học, đại học...Từ một công nhân tầm thường, lên
truởng toán, lên cai đội, lên giám đốc, ông chủ....thì chắc chắn không thể
nào cứ muôn kiếp vẫn là "tôi tớ hèn mọn", dù ở đó là thiên đang đi nữa. Dứt
khoát, thiên đàng cũng phải chuyển động mới có thể tồn tại. Mà thiên đang
chuyển động, thì mọi thành phần của thiên đàng cũng phải bị chuyển động, giá
trị của nó cũng chuyển động. Và, như vậy con nguời phải tiến hay lùi, chứ
không thể nào đứng yên ở địa vị "tôi tớ hèn mọn" mãi !!!
Nếu không chỉ có Đúng và Sai, thì cũng không thể nào chấp nhận chỉ có hai
con đuờng là thiên đang và địa ngục. Ai chấp nhận như thế, xin cho biết
rằng, một nguời làm đúng năm mươi phần trăm, sẽ ở địa vị nào trong nấc thang
Sai và Đúng ??? Và kẻ làm tốt sáu mươi phần trăm, cùng nguời làm tốt chín
mươi chín phần trăm có cùng giá trị hay không ???
Nhưng dù cho dịch là "xây dựng hoà bình", hay "làm cho hoà thuận", đi nữa,
để đuợc gọi là con Thiên chúa. Thì dứt khoát, những nguời theo Cựu uớc, sẽ
không được làm con Thiên chúa. Bởi vì, trong Cựu ước, ông Môi se, Đạo tổ,
chỉ áp dụng những hình thức GIẾT, CƯỚP, ĐỐT đối với các dân tộc khác; và
ngay chính cà nguời Do thái với nhau nữa. Vậy, ông Môi se không phải là con
Thiên chúa. Người làm theo lời dạy của ông cũng không phải con Thiên chúa
!!!
Chúng ta lại xót xa, khi nghe đức Giê su nhắc nhở :
·
Các ngươi có nghe lời phán cho nguời xưa rằng: ngươi CHỚ GIẾT AI; và rằng :
Hễ ai giết nguời, thì đáng bị toà án xử đóan. (5:21).
Đây là một điều trong CHƯƠNG 5, câu 17 của Phục truyền luật lệ ký. Một trong
những điều răn. Quý hoá thay ngôn ngữ của ông Môi se ! Nhưng những hành động
thực tế của ông lại hoàn toàn khác một trăm phần trăm !!! Xin hãy đọc lại
vài câu cũng trong Phục truyền luật lệ ký cho vui :
·
Giê hô va đức Chúa trời ngươi sẽ phó vào tay ngươi , rồi ngươi GIẾT HẾT THẢY
NGUỜI NAM BẰNG LUỠI GƯƠM. SONG ngươi PHẢI THÂU CHO MÌNH NHỮNG ĐÀN BÀ, CON
TRẺ, SÚC VẬT, VÀ MỌI VẬT CHI Ở TRONG THÀNH, TỨC LÀ MỌI CỦA CUỚP ĐUỢC....THÌ
CHỚ ĐỂ SỐNG MỘT VẬT NÀO BIẾT THỞ; KHÁ TẬN DIỆT DÂN HÊ TÍT, DÂN A MÔ RÍT, DÂN
CA NA AN, DÂN PHÊ RÊ SÍT, DÂN HÊ VÍT, DÂN GHÊ BU SÍT, Y NHƯ GIÊ HÔ VA ĐỨC
CHÚA TRỜI ngươi ĐÃ PHÁN DẶN.( Phục truyền luật lệ ký 20: 13- 17).
Chỉ một câu "chớ để một vật nào biết thở" thôi, cũng đủ tố cáo những ngôn
ngữ LOÀI RẮN ĐỘC lừa gạt dân lành! "Chớ giết ai", mà TIÊU DIỆT TẬN GỐC RỄ
BẢY DÂN TỘC. Không những giết người, mà những thú vật không thể mang theo,
chúng cũng tiêu diệt sạch.
Đối với ngoại đạo đã đành như thế, còn với dân Do thái thì sao ? Chỉ xin
nhắc một thí dụ:
·
Đức Giê hô va phán cùng Môi se rằng: Hãy bắt các đầu truởng của dân sự, và
treo lên truớc mặt Giê hô va, đối cùng mặt trời, để cơn giận của đức Giê hô
va xây khỏi Y sơ ra ên. Vậy Môi se nói cùng các quan án Y sơ ra ên rằng :'
MỖI NGUỜI TRONG CÁC ngươi PHẢI GIẾT NHỮNG KẺ NÀO THUỘC VỀ BỌN CÚNG THỜ BA
ANH PHÊ Ô.......PHI NÊ A .....THẦY TẾ LỄ......ĐÂM NGANG DẠ DUỚI CỦA NGUỜI Y
SO RA ÊN VÀ NGUỜI NỮ, tai vạ giữa dân Y so ra ên bèn dừng lại. Vả, có HAI
MƯƠI BỐN NGÀN NGỪOI CHẾT VỀ TAI VẠ NÀY (Dân số ký 25:4-9).
như thế, đã đủ biết về điều răn ghê gớm này. "ngươi CHỚ GIẾT AI", CHỈ ĐỂ
CHÚA GIẾT THÔI !!! Chỉ một chuyện nhỏ là dân Y sơ ra ên quá thèm khát, vì
phải đắm mình trong cuộc chiến triền miên, nên khi vào Mô áp, họ lấy dân đó.
Thế mà Chúa trời trực tiếp ra lệnh giết hết các đầu truởng và hai mươi bốn
ngàn nguời !!!
Cái mặt nạ đã bị lột trần rồi, xin đừng le luỡi RẮN để lừa bịp dân lành vô
tội.
***050925***
CHƯƠNG 39 :
ĐỪNG LÀM NHƯ BỌN GIẢ HÌNH
Tiếp theo sách Ma thi o, chúng ta thấy những lời dạy của đức Giê su rất thân
thương với môn đồ :
·
Song ta phán cho các ngươi biết: Hễ ai ngó đờn bà mà động tình tham muốn,
thì trong lòng đã phạm tội tà dâm cùng nguời rồi. Vậy, nếu con mắt bên hữu
xui cho ngươi phạm tội, thì hãy móc mà quăng nó cho xa ngươi đi; vì thà chịu
một phần thân thể ngươi phải hư, còn hơn là cả thân thể bị ném vào địa
ngục.(5:28-29).
"Trong lòng đã phạm tội", một xác ngữ về "ý nghiệp". Cái ý nghiệp nầy rất
quan trọng. Nó là khởi đầu cho mọi ngôn ngữ và hành động sai quấy. Cho nên,
ngài dạy, chúng ta cần "đoạn ý nghiệp" đi, thì mọi tội ác sẽ không đuợc
thành lập. Ở đây, ngài chỉ nói qua thôi, không dạy phương pháp"đoạn ác ý".
Ngài chỉ nêu lên một thí dụ, là "móc mà quăng nó cho xa".
Xin lưu ý, đây chỉ là thí dụ, đừng vội vâng lời một cách mù quáng để thành
đui. Ý ngài nói rằng, ở đâu tâm ý khởi ra, thì phải nhận kỹ nó, mới có thể
dứt đuợc. Còn như, dùng tiền bạc, quyền lực thế gian để che đậy cho nhau thì
hỏng việc. Che con mắt đời rất dễ, Nhưng che cái tâm mình, thì không thể.
Nguời Việt có câu : "Kim găm trong túi, bày múi ra ngoài", là một lời giáo
dục cấp cao đấy. Che dấu dễ, Nhưng nó chỉ trong một giai đoạn mà thôi. Đến
khi vỡ lỡ, thì dù đó là cá nhân, giáo hội... cũng không còn uy tín. Vì càng
che dấu, thì tội càng nặng thêm. Tâm ô nhiễm càng lớn, thì địa ngục càng sâu.
Tiếc thay, những "kẻ xưng Thánh" đời này, không học, không hành theo lời dạy
của ngài ! Cứ mãi mang "tâm ô nhiễm" chạy theo dục vọng đê hèn, thấp kém.
Cái tâm ô trược ấy, lại đuợc bao phủ bởi mớ lý luận tồi tàn :"Trong phúc âm
có con nguời, nên ngài có quyền làm chính trị". Chúng không hiểu rằng, chỉ
vì muốn đưa con nguời lìa xa cái "thế gian xác thịt", về nơi cõi "thiên đang
trong sạch", ngài mới chịu "hoá thân nơi hang lừa, máng cỏ". Ngài làm thợ
mộc, không phải ngài muốn dạy cho chúng ta, là phải đục đẽo những xấu xa,
xây dựng những tốt đẹp hay sao ? Ngài dạy rất rõ ràng:"vì thà chịu một phần
thân thể hư, còn hơn là cả thân thể bị ném vào địa ngục". Chí tha, chí thiết
với con nguời như thế đó, mà hậu nhân lại bỏ lơ, để chạy theo thác loạn cuộc
đời. Phúc âm là nước thiên đàng; chứ đâu phải cái "chính trị thế gian" !!!
Luận điệu "thiên đang trần thế", chỉ có thể thực hiện đuợc, khi những kẻ
"tôi tớ" ngài chịu vâng lời "móc mà quăng nó cho xa". Nhưng ngày nay thì
trái lại. Không những không "móc mà quăng", bọn gian trá, lại còn "gắn thêm"
những con mắt tham lam khác !!! như vậy, đạo lý của ngài, đã trở thành tấm
bình phong cho Ma quỷ ! Tiếc thay, hận thay, cho đức Giê su !!!
·
Các ngươi có nghe lời phán rằng : Mắt đền mắt, răng đền răng. Song ta bảo
các ngươi , đừng chống cự kẻ dữ. Trái lại, nếu ai vả má bên hữu ngươi , hãy
đưa má bên kia cho họ luôn. (5:38-39).
Như thế, ngài đã hủy bỏ lời dạy "ăn miếng trả miếng" của nguời xưa ! Ngài ra
đời "để làm cho trọn" (5:17); nghĩa là, ngài sửa sang lại căn nhà lỗi thời,
xiêu vẹo ! Rõ ràng, đạo lý của ngài rất nhân từ. Tuy nhiên, nếu hiểu sai,
thì trở thành nguy hiểm. "Đừng chống cự kẻ dữ", không có nghia là HÙA THEO
CHÚNG; mà là dùng từ tâm để hoá giải sự ác. "Đừng chống cự kẻ dữ", không có
nghia là tìm sự 'TƯƠNG ĐỒNG" với kẻ ác, mà phải khuất phục chúng bằng con
đuờng thánh thiện. Nhìn một người đàn bà mà động tình, cũng như nhìn quyền
lực thế gian mà tham đắm. Tất cả thứ đó đều là tội ác, chúng sẽ làm hư mất
"thân thể thánh thiện". Và từ đó, chúng ta sẽ rời xa thiên đang, gần gủi địa
ngục !
"Vả má bên này đưa má bên kia", một câu rất hay, đã bị "kẻ tục" lợi dụng.
Ngay ở đầu, tôi đã lên án cái "mặt tục" của nó. Đây, vốn là cái đạo cao viễn
của chữ NHẪN. Nhưng, nhẫn không phải là cúi đầu vâng chịu. Nhẫn để tăng
cuờng ý chí, thánh hoá tội lỗi. Đó cũng là con đuờng đấu tranh"bất bạo
động". Thêm một lần nữa, đức Giê su đã phản đối đường lối bạo hành của ông
Môi se ! Nhưng, như ngài đã nói, "không phải đến để phá, song để làm cho
trọn". Ngài đã dùng lời lẽ rất nhu mì để cải hoá con nguời, mà không gây nên
những tổn hại. Đó là một phương cách rất hay !
"Vả bên này, đưa bên kia", là để cho bộ mặt gian ác của chúng hiện nguyên
hình. Là để chứng tỏ chữ NHẪN, vốn là đạo rất khó giữ. Ai giữ đuợc, mới là
Thánh nhân. Xin đừng theo lời "tục" của bọn nguời lợi dụng "lòng tin" ! Nhẫn
là để hoá giải tội ác, chứ không phải cúi đầu chấp nhận bọn cướp nuớc, cướp
nhà. Đã lắm nguời lầm tuởng, nên cuối cùng đã khóc :"Khi họ đến, trong tay
họ có Thánh Kinh, chúng tôi có đất đai- Khi họ đi, trong tay chúng tôi có
Thánh kinh, còn họ có đất đai" !!!Nhớ cho kỹ rằng, HỌ là kẻ "thế gian gian
dối", mới làm như vậy. Chứ Chúa nào có dạy đi cuớp của ai ? "Vả bên này, đưa
bên kia", là một đạo lý
- 152 -
thoát tục, để về nuớc thiên đang. Vậy thì, cần hiểu rằng, kẻ nào manh tâm
cưóp nước của dân tộc khác, chính là kẻ "lợi dụng Thiên chúa", là kẻ "phản
bội Thiên chúa".
Tất cả con người đều là con cái của ngài, thì làm gì có một nguời CHA lại
đang tâm "cuớp của đứa này đem cho đứa khác" ??? Những kẻ xúi dục như thế,
là con của RẮN. Một loại RẮN ĐỘC không thể tưởng tượng nỗi.
Thử bình tâm suy nghỉ xem, Chúa trời làm nên tất cả; vậy làm gì có chuyện
ngài bắt "con chiên" phải đóng thuế thân, đóng thuế lợi tức mười phần
trăm... ???" Ngài lấy thuế để làm gì ? Chúa ăn ở trong đại định. Chúa vui
chơi ở trong đại định. Còn cái cảnh giới "trần gian tồi tệ" này, Chúa đâu
thèm vật chi. Nếu Chúa trời biết ăn bò, chiên, cu...thì ngài đâu phải Chúa;
mà là THẦN RẮN ĐỘC. Nếu ngài muốn ngồi trên "bàn máu", vấy máu chung quanh,
thì rõ ngài đó là ngài "Ẩm huyết quỷ vương", chứ đâu phải Thiên chúa ?
Muốn hòan thiện con nguời; hoàn thiện thế gian, thì truớc hết, những TRƯỞNG
TỬ của ngài, tức linh mục, mục sư... phải thực hành những lời giáo duỡng ấy.
Thử nghiêm xem, những bậc ấy đã làm gì trong hai ngàn năm qua, để xứng đáng
truyền thừa giáo điển ấy ? Có lẽ, rất nhiều nguời đã hiểu vấn đề liên quan
rồi ! Ai tiêu diệt nguời Do thái, khi trút tội giết đức Giê su lên đầu họ ?
Một vô lý rõ ràng là ; "Thập giá", là dụng cụ hành hình của vua La mã, người
Do thái làm gì có quyền trong lúc bị đô hộ toàn diện ? Nếu người Do thái
giết ngài, thì luật pháp họ là NÉM ĐÁ, chứ đâu phải "lột truồng đóng đinh" ?
Thế mà, cho đến nay, những kẻ gây tội ác, vẫn chưa xin lỗi dân Do thái !!!
Ai xúi dục "thập tự chinh" ? Ai tiêu diệt người Tin lành ? Ai chia giáo hội
thành đông tây, mà mãi tới đức Phao lồ đệ lục mới cúi xuống hôn nhẫn giáo
hoàng Chính thống giáo ? Ai ra lệnh chia địa cầu cho Bồ và Tây đi ăn cuớp ?
Ai tiêu diệt các nền văn minh Nam mỹ ? Ai diệt dân Phi líp pin ? Ai làm tiền
phương và hậu thuẫn cho các chính sách xâm lăng tại châu Á ? Ai hủy hoại văn
minh và tổ tiên Mễ tây cơ....Ai lập toà Dị giáo ? Ai giết các nhà khoa học,
triết gia ? Ai gây nên "thời đại đen tối" tại Tây phương ??? Tất cả những
thứ ấy đều TRÁI ĐẠO ĐỨC GIÊ SU !!!
·
Vậy khi ngươi bố thí, đừng thổi kèn truớc mặt mình....Song khi ngươi bố thí,
đừng cho tay tả biết tay hữu làm việc gì , hầu cho sự bố thí đuợc kín nhiệm
(6:2-4).
Lời dạy của đức Giê su rất rõ ràng, và rất ân cần. Làm việc thiện, là chuyện
"thi ân bất cầu báo". Bởi hai lẽ. Thứ nhất, theo lời ngài thì; "Cha ngươi là
đấng thấy trong chỗ kín nhiệm". Là một nguời có đức tin lớn, ngài bảo chúng
ta không nên cầu sự biết của thế gian. Bởi vì trên trời cao kia Thiên chúa
rõ lòng nguời, và ngài sẽ ban thuởng. Còn như, cần sự thấy của kẻ "được
cho", chính là một hành vi giả dối, nếu không muốn nói là "chủ tâm lợi
dụng". Và khi Tâm khởi lên như thế, thì công đức vụt mất ngay; vì việc cho
không vì lòng thương xót.
Ai đã từng coi Ti vi về cứu trợ Iraq trong và sau trận chiến, thì thấy rõ;
không những tay hữu thấy tay tả, mà họ muốn tất cả người nhận lãnh, phải
nhận luôn Kinh đính kèm. Thế thì, hành động trên, không phải là thiện; mà là
sự trả giá mua chuộc. Vậy, có nên cảm thấy tiếc cho những tấm lòng nhân hậu,
đã hiến dâng cho Ma quỷ hàng tỷ bạc, để chúng đi buôn người ???
Lý do thứ hai của sự "bố thí kín nhiệm" là, những ai tin vào Nhân Quả tự
nhiên, sẽ không ngại ngùng hay hối tiếc, khi mình làm việc bố thí kín nhiệm.
Nguời ta tin rằng, khi Tâm thoạt khởi lên MỘT NIỆM TỐT, thì QUẢ TỐT sẽ đi
kèm. Nguợc lại, Tâm khởi lên một niệm xấu, thì quả xấu cũng đi theo như bóng
với hình. "Trồng dưa, có dưa; trồng đậu, có đậu", là thế. Nguời Việt chúng
ta nói rất nôm na :"CỦA CHO KHÔNG BẰNG CÁCH CHO". Thế mới hay, Cái Tâm làm
chủ mọi hành vi của vạn loại hữu tình. Trên thế gian này, các toà án cũng đã
phân định các tội CỐ TÂM, và VÔ TÂM để điều hành theo luật tự nhiên ấy.
·
Các ngươi chớ chứa của cải ở duới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và
kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; Nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là
nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch, khoét
vách mà lấy. (6:19-20)
Đạo lý thứ ba, mà đức Giê su dạy dỗ, chính là xa lòng tham dục. Tham rất là
nguy hiểm. Chỉ "diệt trừ" một chữ này thôi cũng đã nên Thánh. Lòng tham làm
cho con nguời mất lý trí, sa đoạ vào tội lỗi. Cho nên, ngài thị hiện với
cuộc sống thanh bạch. Ngài dạy:
·
Đừng vì sự sống mà lo đồ ăn uống. Cung đừng vì thân thể mà lo đồ mặc (6:25)
Ngài không chỉ trích thẳng vào Cựu uớc, để chê bai Môi se tích tụ vàng, bạc,
của cải...Ngài nói rất nhẹ nhàng :"đến để làm cho trọn". Đúng là hành vi của
Thánh nhân ! Ngài không bảo ai phải bỏ tế lễ bò, dê, chiên, cu....ngài không
kêu gọi chống lại Cựu uớc. Ngài chỉ nói đơn giản "đừng lo ăn, đừng lo mặc"
!!!
Nhưng, lìa xa đuợc hai thứ này không phải dễ. Vì vậy, hai ngàn năm hơn,
chúng ta chỉ thấy toàn những kẻ "miệng nói thờ ngài, mà toàn làm chuyện
ngược lại" ! Những "kẻ thế gian gian dối" ấy, không
những chỉ tham ăn, tham
mặc; mà còn tham cả đất nuớc kẻ khác. Và điều tham quan trọng hơn cả, vẫn là
lòng tham độc tôn ! Chính lòng tham ấy đã đẩy đưa thế giới con nguời vào
trong thảm cảnh.
Trước mắt chúng ta, chắc quý vị đã thấy ứng nghiệm lời ngài. Những kẻ "chứa
của cải ở duới đất", đang bị "mối mọt, ten rét", và "kẻ trộm đao ngạch,
khoét vách" để lấy. Chỉ tại một nuớc Mỹ thôi, cũng đã nhiều kẻ tuyên bố "phá
sản". Vấn đề đặt ra là, "sản" của ai bị "phá" ? Di nhiên không phải của kẻ
"xài tiền"; mà là của "khách muời phương trần truồng và đần độn". Những kẻ
không biết vâng lời dạy dỗ của đức Giê su, lợi dụng ngài, phản bội ngài,
đang phải trả cái giá "địa ngục trần gian". Và rồi đây, khi các nhược tiểu
vùng lên nữa, thì "tội báo" ấy sẽ không đuợc Thiên chúa Thực sự tha thứ. Hãy
cẩn thận !
Tôi kêu gọi "kẻ có đạo" hãy mạnh dạn sống như lời đức Giê su. Và quan trọng
hơn cả, là phải nhìn vào "những ông chủ" của mình. Họ kêu gọi "con chiên" hy
sinh, giữ gìn...Nhưng bản thân họ sống như thế nào ? Họ có lìa xa đuợc chữ
THAM, họ có rời được sự "lo cái ăn, cái mặc" ? Họ có "bố thí kín nhiệm", hay
đem cho để kéo bè, kéo lũ ? Họ có thực hành "vả má này, đưa má kia", hay họ
bắt tay với mọi "quyền lực thế gian" để khuynh loát, thủ lợi , tiêu diệt kẻ
khác ?
·
Các ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét.....Sao ngươi dòm thấy
cái rác trong mắt anh em ngươi , mà chẳng thấy cái đa trong mắt mình (7:1-3)
Đây lại là một điều rất khó cho kẻ học đạo. Nhưng, không khó thì làm sao
trở thành thánh giả ? "Đừng đóan xét" kẻ khác, trong tận cùng ý nghia, thì
thật quá cao thâm. Chúng ta, hãy tuần tự tập làm vài việc nhỏ như, đừng dòm
ngó đời tu kẻ khác; đừng dòm ngó nuớc khác; đừng ôm lòng tự tôn; đừng âm mưu
khống chế kẻ khác; đừng tham sự chiếm hữu kẻ khác; đừng xu phụ kẻ cầm quyền,
đe doạ kẻ yếu thế...…..Hãy thử rà soát hành vi của mình, xem có xứng đáng
làm môn đồ của ngài hay không ?
Qua vài đoạn trên đây, chúng ta thấy rõ rằng; đạo lý của đức Giê su rất gần
gủi với đạo lý phương đông. Đặc biệt, với câu sau đây "
-Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận,
-Nhiêu, nhiêu, nhiêu, thiên tai vạn hoạ nhất tề tiêu.
-Mặc, mặc, mặc, vô tận thần tiên tùng thử đắc,
-Hửu, hửu, hửu, cái thế công danh bất tự do.
"Vả má bên này, đưa má bên kia", chính là chữ "nhẫn";
"Đừng xét đoán", chính là tha thứ, tức là chữ "nhiêu";
"Kín nhiệm", chính là chữ "mặc";
Vô tham", chính là chữ "hửu".
Trên đây, tôi chỉ lược trích vài dòng làm tiêu biểu, chứ thực sự, ngài dạy
nhiều lắm. Riêng chỉ chuyện cầu nguyện thôi, ngài cũng ân cần nhắc nhở:
·
Khi các ngươi cầu nguyện, đừng làm như bọn giả hình (đạo đức giả); vì họ ưa
đứng cầu nguyện nơi nhà hội, và góc đường để cho thiên hạ đều thấy. Quả
thật, ta nói cùng các ngươi , bọn đó đã đuợc phần thuởng của mình rồi. Song
khi các ngươi cầu nguyện, hãy vào phòng riêng, đóng cửa lại, rồi cầu nguyện
Cha ngươi , ở nơi kín nhiệm đó, và Cha ngươi là đấng thấy trong chỗ kín
nhiệm, sẽ thưởng cho ngươi (6:5-6).
Cần chú ý ngay ở câu, "bọn đó đã đuợc phần thuởng của mình rồi". Phần thưởng
gì cho kẻ đạo đức giả ? Ngài nói một cách "kín nhiệm". Không lẽ, trên thiên
đàng lại dung túng kẻ giả hình ? Chắc chắn là không, không bao giờ có chuyện
ấy. Vậy thì, phần thưởng cho bọn "đạo đức giả", chính là "luyện ngục"!!! Cầu
nguyện một cách khoe khoang, giả dối, mà đã chuốc lấy như thế, thì bọn người
"lợi dụng Thiên chúa" để tham cầu lợi lộc, chắc chắn phải ở "đời đời" trong
đó. "Vào phòng riêng, đóng cửa lại", tức là tìm cảnh "tinh mặc". Dồn hết tâm
trí
- 154
-
vào cầu nguyện, thì sự cầu ấy mới có ảnh huởng tốt . Nói cách khác, Tâm có
Định, thì Đạo mới có giao cảm. Nghia là, hãy gọi tên Thiên chúa và nguyện
cầu bằng tất cả sự lắng đọng của tâm hồn. Chúa ở trong Định, và kẻ nào muốn
tìm gặp ngài, thì tâm họ cũng phải Định. Xem thế, đức Giê su rất gần với đạo
Phật. Chúng ta lại thấy ngài dạy rằng:
·
Chẳng ai được làm tôi hai chủ (6:24)
Người đời, thường nói câu này như vẹt :"Trung thần bất sự nhị quân". Mà họ
không hiểu cái chữ "đạo" nó vô cùng cao viễn. Đây là đạo, chứ không phải là
"thế gian". Khổng tử dạy làm chuyện thế gian; còn đức Giê su dạy đạo giải
thoát. Ngài dạy rời xa "thế gian xác thịt"; để tiến về "thiên đang tốt đẹp
vinh cửu". Đây, mới là vế thứ nhất. Khi đạt được diệu cảnh này, chúng ta gặp
được Thiên chúa, ngài sẽ dạy cho một tầng khác cao hon. Câu chuyện thiên
đàng, và Hoá thành trong đạo Phật rất giống nhau. Câu "chẳng ai đuợc làm tôi
hai chủ", là một câu rất khó, khi học đạo. Theo tôi, chủ ở đây không phải
bằng da, bằng thịt; mà là HAI TÂM. Nghĩa là, kẻ học đạo với ngài, giữ chuyên
nhất tâm mình; không nên nương tựa vào lý của kẻ khác. Đó không phải là sự
độc tôn theo kiểu Cựu uớc; mà là con đuờng "tỉnh lặng nguyện cầu". Thứ nữa,
nếu muốn về thiên đang, thì Tâm mình phải giữ lấy nó, không rời một ly. Muốn
vậy, phải "đừng lo cái ăn, cái mặc"; hà huống ôm lấy mộng tưởng tranh danh,
đoạt lợi cùng thế gian. Thế nên, thấy buồn cười thay cho kẻ "huớng đạo", lại
tự cho mình "có quyền làm chính trị".
Vì vậy, chúng ta nghiệm đuợc Ý của ngài. Một kẻ vừa muốn về thiên đang, nên
theo ông chủ "Thiên chúa"; lại một nửa hồn muốn làm chính trị, nên theo ông
chủ "thế gian". Cái Tâm như vậy, là Tâm dao động, là thờ "hai chủ"; thì làm
sao đạt đến thiên đang ??? Những kẻ dạy đạo như thế là lừa nguời nhẹ dạ; là
phản thầy, là tự chuốc lấy ngục hình cho chính mình và kẻ khác. Không thờ
"hai chủ", không phải là "diệt hết kẻ khác" cho chủ mình lên ngôi độc tôn.
Ngài nói rõ ràng:
·
Các ngươi không thể làm tôi đức Chúa trời, lại làm tôi Ma môn nữa (6:24).
Mà ở đây là tất cả sự tham đắm dục lạc của "thế gian xác thịt": Danh,Tài,
Sắc, Thực, Thùy.Vậy, muốn về thiên đang thì đừng đắm say "xác thịt thế
gian"; bỏ lòng tham tiền bạc, vật chất; không bao giờ mơ danh quyền hão
huyền, tạm bợ; bớt ăn, bớt ngủ; và chăm lo cầu nguyện. Ngược lại, là đi theo
Ma môn, quỷ quái. Hãy sống một cuộc đời thanh bạch, tỉnh lặng; với tâm
chuyên nhất cầu nguyện, mới may ra tìm gặp Thiên chúa thực sự !!! Đức Giê su
giảng itếp:
·
Hãy xem loài chim trời; chẳng có gieo gặt, cũng chẳng có thâu trữ vào kho
tàng, mà Cha các ngươi ở trên trời nuôi nó....Nhưng ta phán cùng các ngươi ,
dẫu vua Sa lô môn sang trọng đến đâu, cũng không được mặc áo tốt, như một
hoa nào trong giống đó......Vậy, chớ lo lắng chi ngày mai; vì ngay mai sẽ lo
về ngày mai. (6:26-34).
Như thế, đức Giê su dạy, hãy đừng lo, chí tâm cầu nguyện, thì mọi chuyện sẽ
đuợc như ý. Vậy thì, những kẻ hô hào tranh dành quyền lực, thâu tóm tiền tỷ,
mua bán tín đồ, tiêu diệt kẻ khác....có sống đúng với đạo lý ngài hay không
? Hiển nhiên là không. như thế, họ, và những nguời theo họ sẽ đi về đâu;
ngoài địa ngục ra ?
Chúng ta lại suy gẫm câu :"Ngày mai sẽ lo về ngày mai". Thật là thâm diệu !
Ngài không nói thẳng rằng, hãy lo vun bồi cho hiện tại. Vun bồi cái chữ Đức
của sự tỉnh lặng cầu nguyện. Chỉ có con đuờng "tỉnh lặng" mới làm cho thế
gian này yên lặng, thái hòa. Hãy thấy thiên đuờng ngay truớc mắt. Hãy tự
sống trong thiên đuờng của chính mình bằng con đuờng "tỉnh lặng", ngay bây
giờ và ở đây. Trái lại, mang tâm hồn "bạo động", là rời xa thiên đang, là tự
hủy lẽ đạo, là trái ý đức Giê su. Sự bạo động không chỉ ở chỗ giết nguời,
cuớp của, cuớp nuớc...mà, bạo động từ trong tâm thức, như ngài đã dạy: "Hễ
ai ngó đàn bà, mà động tình tham muốn, thì trong lòng đã phạm tội tà dâm".
Cái sự "bạo động" nho nhỏ ngay trong tâm khảm; chưa bộc phát ra ngoài, đã
là một chướng ngại của đạo; hà huống nói đến chuyện giết, cuớp, đốt...trong
đường lối Môi se !!!
Qua đó, chúng ta hiểu rằng, THIÊN CHÚA LÀ TỈNH LẶNG, THIÊN ĐANG LÀ TỈNH
LẶNG. Có TÂM TỈNH LẶNG, tức thì Chúa hiện đến, thiên đàng lộ rõ ra. Còn
nguợc lại, những chủ trương "bạo hành", duới bất cứ hình thức nào, cung PHẢN
LẠI LẼ ĐẠO NHIỆM MẦU, và Ý MUỐN THIÊN CHÚA
***050929***
CHƯƠNG 40:
VẬT ĐÂU TÂM ĐÓ ĐÂU SAI
Trong sách Ma thi o có một câu thật là thấm thía :
Hãy coi chừng tiên tri
giả, là những kẻ mang lốt chiên đến cùng các ngươi , song bề trong thật là
muông sói hay cắn xé. Các ngươi nhờ trái nó mà nhận biết đuợc. Nào có ai hái
trái nho hay trái vả nơi bụi tật lê ? (7:15-16)
Hoàn toàn đúng như ngài nói, cây nào thì trái đó ! Làm chi có chuyện "hồn ma
bóng quế làm bầu" ? "Hãy coi chừng tiên tri giả", đó là việc là của những kẻ
khôn ngoan ! Nhắm mắt tin càn, là lũ "trần truồng và đần độn". Không thể có
trái vả nơi bụi tật lê, cũng như không thể có "lòng yêu nuớc nơi bọn đã bán
đứng linh hồn". Ngài dạy rõ ràng, mạch lạc như thế, mà tiếc thay con nguời
lại nhắm mắt làm ngơ, tự dẫn mình vào ngõ tối ! Đừng tuởng rằng:
·
Lạy Chúa, lạy Chúa thì vào được nước thiên đàng đâu (7:21)
Đúng vậy, thiên đang là cõi thanh sạch, tỉnh lặng. Vậy thì, làm sao bọn "vấy
máu" có thể chui vào ? Chúng "mang lốt chiên" non tơ óng ả, mà lòng dạ độc
ác nham hiểm. Chúng là loại "muông sói hay cắn xé", núp sau tấm bình phong
"tôn giáo", đội trên đầu hình ảnh Chúa, mà tâm hồn ma quỷ, đạo tặc. Làm gì
có chuyện "đi giết nguời", mà lên ở thiên đàng ? Làm gì có chuyện "đi cướp
của, cướp nước", mà lên ở thiên đàng ? Làm gì có chuyện tích trử, "chứa của
cải dưói đất" hàng tỷ, hàng tỷ; mà lại lên ngồi thiên đàng với Chúa ? Nói
như vậy, không lẽ thiên đàng là lò chứa của tham lam và tội ác ?
"Không thể có trái vả nơi bụi tật lê", cũng như không thể có "nước thiên
đàng" nơi lòng nguời tham dục, độc ác ! Những kẻ chất chứa của cải, thì tâm
hồn chúng cũng nặng nề vì vật chất; và chỉ có thể sa vào địa ngục. Ngài đã
dạy :
·
Vì chung của cải ngươi ỏ đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó.(6:21). (For where
your treasures is, there will your heart be also)
Đối với ngài, chữ TÂM thật quan trọng. Một tâm hồn luôn luôn mang nặng tiền
tài, danh lợi, sắc dục, ăn, ngủ; thì làm sao bay bổng lên cõi vinh quang?
Mang những thứ đó, cung như nguời cột đá vào cổ, làm sao ngóc đầu lên khỏi
mặt nước ???Chỉ có CHÌM, CHÌM... mỗi ngày một sâu hơn trong lòng đại dương
tội lỗi ! Vì vậy, ngài dạy :"đừng lo ăn, đừng lo mặc", đừng "tích trữ" của
cải ở duới đất.
Hữu hình tất hữu hoại, chỉ có cái tâm mới quan trọng. Tâm huớng về đâu, thì
cảnh giới ở đó mà thôi. Xem thế, ngài đã hiểu thấu tất cả, và ân cần nhắc
nhở chúng ta "Hãy coi chừng tiên tri giả". Vâng, "cây nào quả nấy". như thế,
những kẻ từng giết nguời, cuớp của, cuớp nuớc, tiêu diệt văn hoá các dân tộc
khác...đều là bọn GIẢ HÌNH (hypocrites); không phải vì thiên đàng thuợng
giới; mà VÌ DỤC VỌNG ĐÊ HÈN. Chúng không phải là con Thiên chúa, mà là CON
CỦA RẮN !!!
"Nhờ trái nó mà nhận biết đuợc", một lời dạy chí cao, chí thâm ! Do đó, nhìn
lại lịch sử thế giới, chúng ta biết ngay ai là kẻ tìm về thiên đang, ai tìm
và dẫn kẻ khác vào địa ngục ? Chỉ toàn là LỜI CỦA RẮN !!!
Đọc toàn bộ sách Ma thi o, chúng ta lại cảm thấy tiếc nuối. Ngoài những lời
dạy thoát tục, siêu phàm của đức Giê su như vừa kể, nguời ta lại gán cho
ngài chuyện làm bùa ngãi, chữa bệnh. Tôi nghỉ, có thể trong lúc ứng thế,
ngài đã làm một vài việc cần thiết để giúp con nguời. Nhưng dù sao, đó không
phải là công việc chính. Thế nhưng, nguời đời buộc đó là "phép lạ", và xem
nó như một "dấu hiệu con Trời" !!! "Cứu nhơn độ thế", là chuyện tất yếu;
Nhưng Thánh giả không làm thay những kẻ "trần gian gian dối". Chữa lành TÂM
BỆNH mới là chuyện quan trọng.
Ngài đã từng dạy rằng:
·
Ai giữ gìn sự sống mình thì sẽ mất (11:39)
Tại sao GIỮ mà MẤT ? Thoạt nghe như vô lý, mà thực tế thâm diệu khôn luờng !
Sự sống có hai phần : Hồn và Xác. Cứ bo bo giữ gìn cái xác phàm hôi thúi, lo
phục vụ cho nó; thì sẽ mất linh hồn thanh cao. Tâm ở đâu, Cảnh ở đó, ngài đã
xác quyết rõ ràng rồi.
Do đó, việc của ngài, là việc chữa Tâm bệnh để nâng con nguời lên một tầng
cao; chứ không phải là lo cho cái xác phàm ấy. Vậy thì, buộc ngài vào chuyện
bùa ngãi vu vơ, là hạ nhục ngài, phỉ báng ngài, là lìa xa đạo ngài. Loài
nguời thì nhiều lắm, bàn tay ngài đã chữa đuợc bao nhiêu, mà dám nói là
"chữa lành hết" ? Cho nên, những kẻ rêu rao "phép lạ", chỉ là "phường Rắn
lục", như ngài đa quở trách. Giữ cái xác, thì mất cái Hồn, không lẽ ngài dạy
một đuờng, mà làm một ngã ? Hoá ra, ngài cũng chỉ ra đời để lừa đảo con
nguời ? Tôi không nghỉ như thế.
Những phường lợi dụng đã đẩy ngài vào bóng tối; chỉ nhằm một mục đích là
"vinh thân phì da"; duới chiêu bài tôn giáo. Thật là tội lỗi !!! Nếu như có
thể dùng "phép lạ" để "cho nguời ta biết", thì ngài đâu dạy: "Hãy vào phòng
kín, đóng cửa lại để cầu nguyện" ? Chỉ một chuyện "bố thí kín nhiệm", cũng
đủ lên án "bọn đầu cơ phép lạ" rồi . Ngài đã chọn cách nhập thế trong "hang
lừa, máng cỏ", đi giảng đạo trong manh áo rách đơn sơ mộc mạc, rồi chết trên
Ác giá của bọn thống trị dân ngài; đủ để nói lên tư cách của một con nguời
"thích đời sống đạo, ưa rèn luyện Tâm thức".
Đúng NHƯ câu :
"Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngoc-
Tâm trung thường thủ tự kiên kim".
Cái tâm mới là chủ yếu. Thiên đường hay địa ngục là ở cái Tâm, chứ không
phải nơi hình hài huyễn thể. Thiên đuờng nào lại chứa đựng "cái túi dơ" đầy
tham lam vật dục ? Không, nhứt định không.
Trong đời sống thực tế của ngài, chúng ta nhận thấy, ứng thân như thế, lại
chọn những nguời bạn Thánh từ trong dân dã. Vị thì đánh cá, vị thì làm nghề
thu thuế...Để làm gì ? Để nói lên rằng, chức quyền, địa vị thế gian, không
phải là "thước đo thiên đang". Cơm ăn, áo mặc không phải là chât liệu làm
nên thiên đàng; mà là cái tâm của con nguời. Hãy nghe ngài dạy các Thánh:
·
Đừng đem vàng, hoặc bạc, hoặc tiền trong lưng các ngươi , cũng đừng đem cái
bao đi đuờng, hoặc hai áo, hoặc giày, hoặc gậy; vì các ngươi làm việc đáng
được đồ ăn (10:10).
Chỗ này rất gần với câu :"Nhất bát thiên gia phạn". Một nguời tu hành, hãy
rủ bỏ tất cả, để đuợc tất cả. Nguợc lại, muốn ôm tất cả, thì sẽ mất tất cả.
Ý của ngài lặp đi lặp lại nhiều lần về chuyện này. Chứng tỏ, ngài là vị tu
hành cao thuợng; "lìa vật, tu tâm'", "xa huyễn, thấy đạo". Vậy thì, bùa ngãi
là "huyển sự", làm sao buộc ngài vào trong đó ? Từ đó, chúng ta thấy thật là
trơ trẽn cho những ai lấy chuyện này làm tôn chỉ. Đạo của ngài trở thành ĐẠO
BÙA NGÃI VU VƠ !!!
Chúng ta lại buồn hơn, khi một đoạn khác, trong sách này, lại lên án ngài là
đứa con bất hiếu, trái hẳn lời dạy "phải hiếu kính cha mẹ" :
·
Có nguời thưa cùng ngài rằng: Đây nầy, mẹ và anh em thầy ở ngoài muốn nói
cùng thầy. Ngài đáp rằng : Ai là mẹ ta, ai là anh em ta ? Ngài giơ tay chỉ
các môn đồ mình, mà phán rằng : Nầy là mẹ ta và anh em ta (12:47-49)
Thật là quái đản ! Một vị đuợc tuyên xưng là Con Trời, thậm chí còn nói là
ông Trời hiện thân, lại có thể nhẫn tâm không nhận Mẹ ? Thế thì, ông Trời
Cha, Trời Con ấy, chui từ đâu ra ? Loài súc vật như Ngựa, dù bao xa cách,
vẫn nhận ra Mẹ mình; không lẽ Chúa không bằng nó ??? Nói như thế, không phải
tôi phạm thượng với đức Giê su, mà là vạch mặt kẻ gian lợi dụng ngài như một
tấm bình phong để "làm rối đạo". Chúng ta thấy càng rõ hơn âm mưu thâm độc
của "Đảng tôn giáo", khi đọc "Phải hiếu kính cha mẹ", rồi thì "Ai là mẹ ta".
Sự "láu lỉnh" này đã phơi bày mặt nạ của chúng !
"Hiếu với Mẹ", Nhưng Mẹ thật sự, mà từ nơi đó chui ra, thì không phải Mẹ. Mẹ
là môn đồ, là Giáo hội. Thế thì, "Hiếu với Mẹ" đã trở thành "Hiếu với giáo
hội". Sự "LÉO LẬN TRƠ TRẼN" đến mức quá độ không thể chấp nhận. Mẹ đẻ, còn
không biết là ai; thế thì, làm sao chúng biết đuợc quê hương, dân tộc ???
Bỏ qua những lời dạy của bậc chí tôn, bọn "thời cơ cướp đạo", đã lấy chuyện
Bùa ngãi làm chính. Nhưng nghiệt thay, Ngãi bùa chỉ ứng dụng vài khi có hiệu
quả mà thôi. Nên, khi làm không đuợc, thì chúng lại bày trò giải thích:
·
Ở đó, ngài không làm nhiều phép lạ, vì chúng không có lòng tin (13:58).
Thiệt là trơ trẽn. Cái câu "Linh tại ngã, bất linh tại ngã", tự nhiên lại
làm thầy cho thầy bùa cấp thấp. Không làm đuợc, thì nói không làm đuợc, còn
dễ nghe hon. Chống chế, giải thích, càng thêm nhục nhã. Với kẻ lạ, thì gạt
gẫm dễ dàng, Nhưng với người quen thân, thì làm sao lừa dối ? Chuyện buồn
cuời là, đổ vấy cho ngài là Trời Cha, Trời Con; thế sao, trước "nguời không
có lòng tin", lại không thể làm phép lạ cho người ta tin ??? Thế thì, "tin
thì có, không tin thì không có"; chứ chẳng phải "tin hay không tin, Trời vẫn
thế" ? như vậy, ông Trời lại bị lệ thuộc con nguời. Nguời ta không tin, thì
ông Trời cũng phải chịu. Chính chỗ này, đã tự tố cáo sự lạm dụng ngôn từ dao
to búa lớn, để khoe khoang, khoác lác, mà thực chất thì chẳng ra gì.
Đã là ông Trời, mà không thể chuyển hóa lòng nguời, thì còn thua anh hát
Xiệc. Làm gì có chuyện như thế nhỉ ? Từ đó, những anh chàng "Sơn Đông mãi võ
bất lương", lộ nguyên hình rồi ! Thế mà, cho đến bây giờ, những cặp mắt "bị
nhặm đỏ", vẫn còn "thấy gà hóa cáo". Thương thay ! Hận thay !
Tôi thật sự không hiểu tại sao, người "học đạo", lại không học, không làm
theo những lời giáo chỉ này:
·
Các người không hiểu vật chi vào miệng, thì đi thẳng xuống bụng, rồi phải bỏ
ra nơi kín sao ? Song những lời bởi miệng mà ra là từ trong lòng, thì những
điều đó làm dơ dáy nguời.(15:17-18).
Chữ "từ trong lòng" ấy, xác định đường hướng TU TÂM DUỠNG TÁNH là "chính
đạo" của ngài; chứ không phải ngãi bùa bậy bạ. Đã ăn vào, thì tất phải nhả
ra, đó là cảnh giới vật chất phù phiếm, giả huyễn. Bùa ngãi lại là Huyễn
trong Huyễn, thì làm sao một bậc Trí năng tốt, lại dùng nó làm chính chứ ?
Ngài dạy con nguời rời xa "vật chất tạm bợ", để lo cho "cái lòng". Vì "lời
bởi miệng mà ra, là từ trong lòng"; cho nên, phải làm cho "lòng" mình đuợc
tốt, để nó không nhả ra những thứ làm "dơ dáy nguời".
Đó, chính là lúc ngài nói về "khẩu nghiệp". Từ chỗ "động tình thì đã", cho
đến đây, ngài đã thuyết giảng việc "trau dồi linh hồn" cho khế hợp với thiên
đang. Và chỉ bằng cách này, mới có thể về thiên đàng được mà thôi. Bùa ngãi
không thể tạo nên thiên đàng, mà là "giả dối trong giả dối"; đó là cảnh giới
của Ma quỷ, lừa đảo hạ cấp; không những không làm thăng tiến con nguời, mà
còn đẩy lùi con nguời vào mê tín. Thế mà, buồn cuời thay, nghe nguời ta nói
mới hôm qua đây, trên truyền hình SBTN lại có linh mục trao truyền "Bảy phép
trừ quỷ". Không biết chuyện này có ứng nghiệm lời xưa :
·
Người này chỉ nhờ Bê ên xê bun là Chúa quỷ mà trừ quỷ đó thôi (12:24)
Trong thực tế, chuyện "vác thập tự giá" đã làm ô nhiễm lời dạy đức Giê su.
Ngài dạy:
·
Nếu ai muốn theo ta, thì phải liều mình, vác thập tự mình mà theo ta. Vì ai
muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mà bị mất sự sống, thì sẽ
đuợc lại (16:24-25)
"Phải liều mình", không có nghia là làm liều mạng, đi tiêu diệt kẻ khác.
"Vác thập tự mình" mà theo ngài, nghia là phải sống chết trong niềm tin của
đạo. Sống chết với niềm tin, là thực hiện lời dạy: "đóng kín cửa mà cầu
nguyện". Là làm cho ý trong sạch, miệng trong sạch, và thân trong sạch, như
đã dẫn. Thế mà, trong quá khứ, những kẻ Ma quái lợi dụng, vì mê chấp vào
quyền lực thế gian đã tạo "chiến tranh thập tự", làm vấy bẩn lời dạy cao
khiết của ngài. Khi đôi tay vấy máu anh em, thì làm sao đuợc trong sạch để
đi vào cảnh giới trong sạch của thiên đàng ? Đức Giê su đã từng nhắc nhở :
·
Người nào nếu được cả thiên hạ, mà mất linh hồn mình, thì có ích gì
?(16:26)
Thế nhưng, bọn thiếu lương tâm vẫn tiếp tục con đuờng "đi chiếm thiên hạ",
"đi cuớp thiên hạ"; lại xưng mình là Thánh. Thậm chí, còn nói rằng :"Trong
phúc âm có con nguời, nên ngài (giáo hòang) có quyền làm chính trị" !
Đức Giê su đâu ngăn cấm người ta làm chính trị. Nhưng, anh muốn làm chính
trị, thì cứ ở nhà học hành, theo đảng, kết bè, mà làm. Còn như, anh muốn về
thiên đang, thì, theo lời đức Giê su, anh phải "đừng mê khác phái, đừng lo
cái ăn, cái mặc, đừng đeo vàng bạc, thậm chí đừng có hai áo, và đóng cửa mà
cầu nguyện, gột rửa tâm hồn, lời nói và hành động". Chỉ có thế, mới gọi là
Đạo của ngài.. Còn việc, vừa muốn lên thiên đang, vừa muốn làm vua thế gian
để hốt của, thì theo lời ngài :"For where your treaures is, there your heart
will be also". Đã làm vua, mà muốn vào thiên đàng thì dễ. Đã làm tu sỹ, mà
lại muốn làm vua, thì chỉ có xuống địa ngục thôi !!!
Từ câu trên, ngài cho chúng ta hiểu rằng, khi lòng mình "Muốn được thiên
hạ", thì "lòng ấy" phải sa vào đấu tranh, giành giựt; chứ thiên hạ đâu có
"chỗ hở", cho mình "tự dưng" mà có. Đã đấu tranh, giành giựt, thì phải dùng
mưu ma chước quỷ, xảo ngôn, ỷ ngữ, thậm chí còn phải gian ác, thủ đoạn...như
thế thì, "cái lòng" bị ô nhiễm, bị lôi cuốn bởi hai chữ "thiên hạ". Nhưng
"vật đâu, tâm đó"; cho nên, kẻ muốn tranh giành chỉ có "lặn xuống vung bùn
danh lợi" mà thôi. Linh hồn vụt mất !!! Ích gì, Ích gì ?
Trong CHƯƠNG 4, câu 4, đức Giê su có nói cùng Ma quỷ rằng :
·
Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ
miệng đức Chúa Trời.
Tuyệt hảo, tối hảo !!! Sống thì phải ăn, lý đương nhiên. Không bánh thì chết
đói. Nhưng, bánh không phải là toàn thể của sự sống. Cho nên, kẻ theo đạo,
là kẻ muốn tìm cuộc sống cao hơn bánh; cuộc sống tâm linh. Không bánh thì
chết, Nhưng không "thế gian", thì chẳng chết ai. Đi tìm cái "thế gian" là
nguợc với đi tìm "tâm
linh". Tham đắm thế gian, tức xa lìa LẼ ĐẠO; vì chỉ chú tâm vào chuyện ăn,
quên mất tinh thần. như vậy, "đuợc thế gian", thì coi như đa "mất linh hồn".
Đấu tranh, thì không thể TỈNH LẶNG, mà DAO ĐỘNG, thì không phải nẻo đến
thiên đang. Dù anh có thể thè luỡi che khuất mặt trời, cũng không thể nào
biện bạch.
Không phải tự dưng, vô cớ, mà tôi dám lẻo mép như thế, Nhưng chính đức Giê
su dạy bảo:
·
Quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không đổi lại, và nên như đứa
trẻ, thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu (18:3).
"Không đổi lại" cái gì, để "nên như đứa trẻ" ? Một đứa trẻ, thì tâm hồn nó
hiền lành, vô tham, vô cầu; không thủ đoạn, tranh giành quyền lợi thế gian.
Nó chỉ có một nhu cầu là "ăn để sống". Còn nguời lớn thì khác, họ có nhiều
thứ để tham lam, quyến luyến, để dành giựt, cướp bóc lẫn nhau, thậm chí tiêu
diệt, đốt phá, khi cơn "thịnh nộ" nỗi lên. Do đó, lời dạy trên của ngài,
không phải là bảo chúng ta, những người "mộ đạo", phải xa rời những "tham
muốn thế gian" hay sao ? Đó là nói chung chung. Còn đối với nguời, đã được
coi là truởng tử (linh mục, mục sư..), người sẽ "gần gủi Chúa", sẽ "về đến
thiên đàng", thì thậm chí, ÁO KHÔNG NÊN CÓ HAI, huống hồ "đi dành giựt thế
gian" cho lao tâm, mệt trí.
Vì vậy, tôi nói rằng, kẻ nào "muốn làm người lớn", "muốn đuợc thế gian"; mà
xưng mình là Linh mục, Mục sư...là thay mặt Thiên chúa...đúng là phường láo
khoét, giả dối, LÀ CON CỦA RẮN.
Chúng ta lại cảm thấy tội lỗi, xót xa thay, cho những nguời nhân danh Thiên
chúa, trong quá trình lịch sử thế giới con nguời; khi đọc những lời dạy này
của đức Giê su :
·
Nếu anh em ngươi phạm tội cùng ngươi , thì hãy trách người khi chỉ có ngươi
và một mình nguời (18:15)
Thế mới biết, lẽ đạo nó dung thông khắp cả Tâm nguời. Từ xưa, chúng ta đã
nghe tổ tiên dạy :
-Khôn ngoan đóng cửa dạy nhau
-Đừng nên mở cửa đàng sau thá dòm. (chữ THÁ, tức là thế gian)
Một quá khứ lịch sử của ông Môi se. Một quá khứ lịch sử của Giáo hội La mã.
Cả hai quá khứ ấy đều trái nguợc với tinh thần Giê su. Tôi không muốn nhắc
lại lần nữa, sợ rằng mọi người sẽ cảm thấy ỚN LẠNH về những kẻ nhân danh
Thiên chúa. Có điều mà tôi thấy lạ lùng, là nguời ta cột Hổ và Chiên vào một
chuồng. Phải chăng, duới thời hình thành Giáo hội La mã của Constantine đệ
tứ, nguời ta đa cố gắng hoà quyện vào một mối để lừa dân lành vô tội ? Theo
hiểu biết cá nhân, tôi cho rằng, ông Môi se hoàn toàn sử dụng bạo lực. Ông
thờ Thần RẮN. Còn đức Giê su mới thờ Chúa; đạo của ngài hiền lành, tỉnh
lặng.
Qua những lời dạy, như đã trích trên đây, hoàn toàn trái nguợc với Cựu uớc.
Và như thế thì, hoặc có một đức Giê su NHÂN TỪ, KHIÊM TỐN, KÍN NHIỆM, đã bị
Giáo hội lùa vào tinh thần Cực đoan, bất khoan dung của Môi se. Hoặc chỉ có
một Giê su cũng cuờng hào, độc tôn, độc ác...đã đuợc giáo hội, qua nhiều lần
sửa chửa “thánh kinh”, để thánh hóa cho phù hợp với trào lưu tư tuởng của
con nguời. Xin các nhà nghiên cứu giải thích dùm cho.
***051001***
CHƯƠNG 41:
KHÔNG THEO ĐÂU HẲN LÀ THÙ
Tôi rất thích thú, khi đọc đoạn văn kinh sau đây, trong sách Ma thi ơ:
·
Nầy, có một người đến hỏi ngài rằng: Thưa thầy, tôi phải làm việc lành chi
cho được sự sống đời đời ? Đức Chúa Giê su đáp rằng : Sao ngươi hỏi ta về
việc lành ? Chỉ có một đấng lành mà thôi. Nếu ngươi muốn vào sự sống, thì
phải giữ các điều răn. Nguời hỏi những điều răn gì ? Đức Chúa Giê su phán
rằng : Những điều này : Đừng giết nguời, đừng phạm tội tà dâm; đừng ăn trộm
cắp; đừng làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và hãy yêu kẻ lân cận như
mình. Nguời trẻ đó thưa rằng : Tôi đã giữ đủ các điều này; còn thiếu chi cho
tôi nữa ? Đức Chúa Giê su phán rằng: Nếu ngươi muốn đuợc trọn vẹn, hãy đi
bán hết gia tài mà bố thí cho kẻ nghèo nàn, thì ngươi sẽ có của quý trên
trời, rồi hãy đến mà theo ta. Nhưng khi nguời trẻ nghe xong lời này, thì đi,
bộ buồn bực; vì chàng có của cải nhiều lắm (19:16-22).
- 159
-
Đây là một chuyện tu hành theo đạo lý của đức Giê su. Gần với năm giới "tại
gia"của Phật giáo : Bất sát, bất đạo, bất tà dâm, bất vọng ngữ. Không có bất
ẩm tửu. Có lẽ nguời Do thái uống rượu nhiều chăng ? Riêng chuyện "Hãy thảo
kính cha mẹ, và yêu nguời lân cận mình", thì chắc chú bé giàu có ấy hơi
buồn. Vì không biết đây là đức Giê su nào chăng ? Vì như đa nói; trong Tân
uớc, khi đọc, tôi nhận ra có HAI đức Giê su trái ngược nhau.
Nếu, thảo kính cha mẹ; mà cha mẹ là "cha mẹ mình", thì chắc chú ấy làm đủ
rồi. Còn, nếu như, "cha mẹ" là Giáo hội, thì chắc chú ấy không đồng ý. Bởi
vì, đã có một đức Giê su Từ Mẹ, và Chối Cha; chỉ vào môn đồ mà nói :"Đây là
cha mẹ ta", thì thật tình, làm sao tin nỗi chứ ? Học đạo với Thầy, nghĩa là
"Làm theo Thầy làm, nói theo Thầy nói, và lâu ngày tiến đến, nghỉ như Thầy
nghỉ". Nhưng, ở đây, Thầy nói một đuờng, mà làm một ngã, thì làm sao tin
Thầy, mà học đạo ? Trong truờng hợp đó, quả thật khó; trừ ai muốn học ĐẠO
LỪA !!!
Còn chuyện, "yêu người lân cận như mình", là một điều quá tốt. Lòng BÁC ÁI
BAO LA. Nhưng, khổ nỗi rất khó tin lời. Vì, nếu đức Chúa Giê su thứ nhứt,
thì được; Nhưng nếu gặp đức Chúa con của Cựu uớc, thì hỏng bét. Trong Cựu
uớc từng dạy :"Hãy dâng tay cho Giê hô va đức Chúa trời, sá chi con trai hay
anh em mình"; vậy thì, nói "yêu người lân cận như mình", là điều NÓI DỐI,
NÓI LỪA. Con trai, mà còn giết, anh em mà còn giết; thì làm thế nào để yêu
nguời khác ? Bàn tay của những Thầy Tế Lễ Lê vi (Linh mục, Mục sư.) mới chỉ
"dâng có một đêm", mà MUỜI BỐN NGÀN NGƯỜI THÂN BỊ GIẾT. Vậy, nếu các ngài
"YÊU MÃI", thì trần gian còn ai mà học đạo, hỡi Thiên chúa ???
Lại một chuyện khác trong khi rời Ê díp tô, Chúa dạy, Hãy TRẤN LỘT NGƯỜI LÂN
CẬN, thế thì, "Yêu người lân cận" nghĩa là "thế" đó sao ? Tôi nghe mà rùng
mình mấy tháng. "Yêu nguời lân cận" bằng cách 'GIẾT CẢ ĐÀN ÔNG, ĐÀN BÀ, TRẺ
THƠ VÀ TRẺ BÚ, GÁI ĐÃ CÓ BẠN TRAI đó sao ? Ôi tình yêu thật là quái đản !!!
Tại sao chú bé giàu có, lại bỏ đi với "bộ buồn bực" ? Tôi nghỉ, hắn thấy rất
khó tin. Vào thời kỳ đó, nguời Do thái nào mà không biết Cựu uớc ? Họ biết
và họ thấy gì ? Bàn thờ Thiên chúa toàn là MÁU, chung quanh VẤY MÁU, ai tới
gần bàn thờ, thì bị XỬ TỬ...Các thầy tế lễ giàu có mà không làm; vì "sự
nghiệp của họ là Giê hô va đức Chúa trời". Do đó, họ "ăn cây không trồng,
uống nuớc không đao giếng". Đó là Thiên lệnh, ai dám cải ? Cho nên, nghe
nói, "hãy theo ta", chú ấy thấy sợ rồi. Chú nghi ngờ, bán hết của cải để "bố
thí" hay lấy tiền MUA CHUỘC kẻ khác theo phe mình ? Hoặc giả, thuê muớn
những bàn tay khủng bố kẻ khác ?
Trên đây, chỉ mới luợc qua "tính thế gian" của đạo. Còn về mặt cao hơn, thì
có mấy vấn đề sau :
Có ai tự hỏi rằng, tại sao chú bé xuất hiện hay không ? Tại sao, chú bé
không hỏi nguời khác, mà hỏi "đức Chúa Con" ? Hỏi tức là trả lời ! Theo chỗ
hiểu biết "nông cạn" của tôi thì, chính vì "gọi là đức Chúa con", nên Chú Bé
mới xuất hiện để hỏi "cái đạo làm Trời". Nhưng, chú đã thất vọng hoàn toàn.
Chú Bé, không phải là kẻ bình thường; vì chính Chú đã xác nhận : "Tôi đã giữ
đủ rồi". Thế thì, chú cần một thứ khác nữa. Tiếc thay, người đuợc hỏi không
hiểu Ý của Chú. Nên đành giã từ cho sớm. Bởi vì, BỐN THỨ ĐẠO mà đức Giê su
vừa dạy, chỉ mới tạm đủ để làm người lương thiện. Còn, ở đây, chú muốn hỏi
ĐẠO LÀM TRỜI, Nhưng "Chúa Con" không trả lời thỏa đáng! Tiếc thay !!!
Có lẽ, Chú ấy cho rằng, Tu Bốn thứ Đạo trên, và kể cả "bán tài sản để bố
thí", cũng chưa đủ "tư cách làm Trời". Nói đến loài Trời, là nói đến một
"Cấp cao hơn" về cả Lý Trí, và Hưởng thụ. Nhưng, muốn có Lý trí loài Trời,
chắc phải có những Pháp tu cao hơn những thứ bình thường vừa kể. Bốn pháp
trên, chỉ mới là bậc Trung học; còn muốn tốt nghiệp Đại học, thì cần phải có
công học tập, nghiên cứu, thực nghiệm....Chú Bé, đa hoàn thiện các pháp tu
ấy, Nhưng vẫn thấy mình cũng chỉ là nguời thôi. Do vậy, chú mới đi vấn đạo.
Nào ngờ, đức Giê su không biết Chú là ai, nên chẳng "giảng "cho.
Theo lời Kinh, chúng ta thấy rằng, Họ nghỉ, do "lòng bỏn xẻn", nên Chú Bé
không bằng lòng "bán tài bố thí". Đó là một hiểu lầm đáng tiếc. Họ không
biết rằng, mỗi hành vi sẽ có những quả báo tương ứng. Bố thí tài sản, chỉ là
một trong nhiều thứ bố thí. Bố thí tài sản, thì sẽ nhận đuợc sự giàu có
tương lai. Nhưng, dù giàu bao nhiêu đi nữa, thì con nguời, cũng chỉ là con
nguời. Đó là điều Chú không muốn. Không phải là chủ đích của cuộc hội ngộ mà
Chú chủ tâm đi tìm.
Duới những lý luận khác, thì Chú Bé là "nguời điểm chỉ", "nguời khai đạo"
cho đức Giê su. Tiếc thay, ngài không tiếp thu đưọc !!! Nhưng, dù sao, thì
chỉ hoàn thiện con nguời cũng đã khá rồi. Chúng ta tiếp tục đi tìm thêm
những chứng lý cụ thể trong Kinh, để xem ngài Giê su có phải là Thượng đế
hoá thân, hay Thượng đế con hay không ?
-
160 -
Từ đầu, chúng ta thấy có một đức Giê su Nhân Từ, tiên phong đạo cốt. Nhưng,
bỗng chốc, ngoài hoá thành ông Môi se trong Cựu uớc! Thật đáng tiếc cho
những ai kỳ vọng vào ngài :
·
Đức Giê su vào đền thờ đuổi hết kẻ bán nguời mua ở đó; ĐỔ BÀN của nguời đổi
bạc, và GHẾ của nguời bán bồ câu. Ngài phán cùng họ rằng: Có lời chép : Nhà
ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện, Nhưng các ngươi thì làm cho nhà ấy thành ra ổ
trộm cướp (21:12-13)
Cái cảm giác tiếc nuối của tôi thật mãnh liệt trong lúc này. Không phải tiếc
"đức Giê su làm bậy"; mà tiếc cho những người "mê đắm bạo lực" đã buộc ngài
vào. Tôi vẫn không tin đức Giê su làm như thế. Nhưng dù sao, đây gọi là
KINH, nên vẫn phải đành nghe theo vậy ! Đọc câu trên, tôi tuởng chừng đức
Giê su đã hiện thân tại Việt nam sau năm 1975 để làm "du kích giữ chợ" !!!
Tôi đã tận mắt chứng kiến cái cảnh "đổ bàn đạp ghế" của những kẻ khốn cùng,
nên rất căm hận. Tôi tự hỏi, có một ông Trời Cha, Trời Con nào như thế
không ? Rồi buồn bực như chú bé hồi nảy. Nên tin hay không nên ? Và cuối
cùng, xin nói một câu :"thôi hãy rời xa bạo lực" !!!
Tôi vẫn không đồng ý với chuyện "NHÀ THỜ THÀNH Ổ TRỘM CUỚP"; Nhưng cách xử
lý vấn đề chỉ dựa theo "bạo lực", không phải là hành động của một kẻ lương
thiện ! Nói khác đi, đó là hành động DU CÔN ! Sao lại có một ông Trời như
thế nhỉ ? Không, không thể nào ? Thế thì, lời Kinh không lẽ bỏ đi sao ? Cũng
không thể. Thôi thì đợi các nhà Thần học vậy.
·
Sáng mai, khi trở lại thành thì ngài đói. Thấy một cây vả ở bên đuờng, ngài
bèn lại gần, song chỉ thấy những lá mà thôi, thì ngài phán cùng cây vả rằng:
Mầy chẳng khi nào sanh ra trái nữa. Cây vả tức thì khô đi. (21:18-19)
Đây là màn tung hô BÙA NGÃI. Người viết truyện tuởng ghi như thế, là làm
sáng giá đức Chúa con. Nhưng hỡi ôi ! Nó hoàn toàn trái nguợc. Một nguời
từng dạy:" Đói không chỉ nhờ có bánh", sao bây giờ ra nông nỗi này ? Thế mới
biết :"QUÂN TỬ CỐ CÙNG BẤT CÂU LIÊM SI" !!! Một người đã từng "dùng một cái
bánh để cho năm bảy ngàn người ăn", sao bây giờ không "hoá phép", mà lại đi
quở, đi giết một cây vả "trái mùa không trái" ???
Sự việc trên, không những nói lên lòng dạ ĐỘC ÁC CỦA CHÚA CON, HAY ÔNG TRỜI
HIỆN THÂN; mà còn nói lên sự thiếu vắng "hiểu biết" của một con nguời bình
thường. Vậy thì, nói Chúa Cha, Chúa Con "toàn trí" ở chỗ nào ? Hay là, ngài
mãi say mùi thuợng giới, nên quên mất rằng mình làm ra nó, và hẹn mùa mới
sinh hoa kết trái ? Chúa "tạo nên trời đất và muôn vật", thế mà không thể
làm bánh để ăn, lại đi nguyền rủa vu vơ; vậy làm sao tin cho nỗi ??? Thật
khó nuốt loại "lý luận nhà nghề "này !
·
Đức Chúa Giê su đáp rằng: Quả thật ta nói cùng các ngươi , nếu các ngươi có
đức tin, và không nghi ngờ chi hết, thì chẳng những các ngươi làm được điều
đã làm cho cây vả mà thôi, song dầu các ngươi biểu hòn núi này rằng: Hãy cất
mình lên và quăng xuống biển, điều đó cũng sẽ làm đuợc (21:21-22)
Đọc đoạn này tôi thấy trẽn lắm đó ! "Dời non lấp biển thì đuợc, mà đói bụng
thì chịu", đúng là ông Trời Do thái !!! Hay chính ngài dạy rằng, kẻ nào
không cho ăn thì phải bị giết ? Nếu thế, thì đúng là "Lòng lành vô cùng" rồi
đó ! Ngài biểu "nếu có đức tin thì đuợc...."; vậy không lẽ ngài chưa đủ đức
tin, nên không có bánh để ăn khi đói ? Chúng ta lại thấy hơi buồn, khi nghe
ngài dạy tiếp:
·
Trong khi cầu nguyện, các ngươi lấy đức tin xin việc gì bất kỳ, thảy đều
được cả (21:22)
Tôi bàng hoàng, chợt nhớ chuyện đức Giáo chủ Hoàng đế John Paul II bị bắn
trọng thương hồi nào. Thì ra, làm đến chức VUA THẾ GIAN, mà đức tin cũng
chẳng đủ, nên đi đâu cũng phải mang "xe chống đạn". Vậy thì, ai mới có đủ
đức tin ??? Thế mà, có đám bạo gan ở Florida, Massachusetts...lại dám
"nguyện cầu thôi !", khi bị ung thư; chẳng thèm tới bệnh viện, để rồi chết
oan uổng. Thế mà, các vị "Khoa học tin lành" ở tiểu bang Florida đuợc luật
pháp miễn tội, mới lạ chứ ? Đúng là "lý kẻ mạnh" !!!
·
Cũng đừng gọi người nào ở thế gian là cha mình, vì các ngươi chỉ có một Cha,
là đấng ở trên trời. Cũng đừng chịu ai gọi mình là chủ, vì các ngươi chỉ có
một chủ là đấng Christ. (23:9-10) And call no man your father upon the
earth; for one is your Father. which is in heaven. Neither be ye called
masters, for one is your Master, even Christ)
Truớc hết, về chuyện thế gian. Thật là khó cho con quá ! Người "lấy Mẹ con"
đẻ ra con, lại không đuợc gọi bằng cha; thế thì tại sao lại tìm "CHA CHÀI
CHÚ CHÓP" làm cha ? Không lẽ, con gọi cha bằng thằng ? Gọi mẹ là Mụ kia, như
Giê su ? Văn hoá phong tục Việt nam không cho phép làm việc này, thưa các
thầy tế lễ Do thái. Khi không gọi bằng cha nguời đẻ ra mình, thì hoá ra con
người đa trở thành thú vật. Nhưng thú vật, vẫn có tình cảm
- 161
-
thân thương, và cảm niệm an toàn đối với cha mẹ nó. Vậy thì, theo Chúa là bỏ
Cha Mẹ, tông môn, chứ gì nữa. Ai cải lại, thì lên tiếng đi ???
Về chuyện đạo, thì lại có mấy thắc mắc sau đây. Hiện nay, Giáo chủ Hoàng đế,
được gọi là Thánh Cha, Giám mục là đức Cha, Linh mục là Cha. Vậy thì, có ai
trong đám họ là môn đồ Giê su ? Không những chỉ gọi Cha, mà là "Cha của
Thánh" (Thánh cha). như vậy, ông Giáo hoàng là lớn hơn đức Chúa trời, và ông
Chúa Christ con nào đó ! Xin cho biết, chúng tôi nên tin ai ?
Chuyện đau lòng là, giáo hội "duới thế" được lập nên bởi đức Giê su. Thế mà
giờ đây người điều hành giáo hội, lại làm cha đức Giê su và lớn hơn cả
Thuợng đế. Chúa Con bảo đừng gọi ai là cha cả, Nhưng giáo hội không những
"làm cha thiên hạ", mà còn Cha của Thánh. Thiệt là khó hiểu quá đi thôi.
Vậy, không lẽ đạo này chẳng có đầu đuôi, xuôi nguợc ??? Ô hô ! Lại gặp nan
đề của Cao bá Quát : QUÂN THẦN ĐIÊN ĐẢO- PHỤ TỬ VÔ LUÂN.
Điều khó hiểu thứ hai là, "chỉ có một chủ là đấng Christ". Nhưng hiện nay,
tất cả Linh mục thuộc hệ La mã, đều là Chủ chăn ! Vậy thì, tất cả "chỉ là
một đấng Christ hoá thân", phải vậy không ? Có thể lắm chứ; vì ngài là Trời
Con; hoặc người Tin lành còn nói là "đức Chúa trời hiện thân làm nguời" nữa
kia ! Vậy thì, ngài hoá ra mấy mà không đuợc. Quả thật, khi đã tin, thì
đường nào cũng đúng. Chính tôi, cũng muốn tin như thế. Chỉ ngặt một nỗi, các
vị Chủ chăn ở Mỹ đang gặp phải chuyện rắc rối về Sexual abuse, đang làm sạt
nghiệp mấy giáo khu !!! Khó khăn hơn nữa, là cả giáo chủ Hồng Y cũng bị kiện
về tội "che dấu". Còn "chuyện ấy", thì tôi không biết.
"Chúa Giê su chịu hy sinh trên thập giá để chuộc tội cho thiên hạ", đó là
câu thường được nghe. Người ta nhận ngài là con Chúa trời. Nhưng ngài dạy
"đừng gọi ai là cha cả", thì giáo hội cho tất cả Linh mục đều là Cha. Ngài
biểu "đừng chịu ai gọi mình là chủ", thì giáo hội cho tất cả linh mục là
"chủ chăn" !!! Vậy thì, giáo hoàng thật sự lớn hơn Chúa con. Nhưng Chúa con
nói lời của Chúa Cha, nên giáo hoàng lại lớn hơn Chúa Trời. Vậy, ai thực sự
là đức Chúa Trời ???
Đứng về mặt "thường tình thế gian" thì, học trò phải vâng lời thầy. Nhưng ở
đây, giáo hoàng không nghe theo lời thầy dạy; vậy giáo hoàng có phải là môn
đồ Giê su hay không ? Thật khó lòng giải quyết nhỉ ? Hạng "thấp kém chúng
tôi", thì sẽ nhận rằng; KHÔNG PHẢI ĐÂU. Tôi thường nghe câu, "TÔN SƯ TRỌNG
ĐẠO". Nếu như không "kính thầy", thì làm gì có chuyện "trọng đạo" của thầy.
Vấn đề khác lại đuợc đặt ra là : Không tôn trọng Thầy, không vâng lời thầy";
Nhưng lấy DANH THẦY LÀM CÁI KHIÊN, thì họ là ai ??? Xin những bậc cao minh
chỉ giáo cho.
Chúng tôi rất thông cảm với hạng "chiên lành". Các vị không thể nào hỏi,
không thể nào thắc mắc; bởi vì :"AI KHÔNG KHỨNG VÂNG LỜI THẦY TẾ LỄ PHẢI BỊ
GIẾT". Đây là một tôn giáo rất đặc biệt trong thế gian. Trong đó bao gồm
nhiều chi phái hiện nay. Nhưng do sơ hở, mỗi phe lại giải thích tùy hứng,
nên những cuộc tranh chấp đẫm máu đã, đang và sẽ xấy ra. Đặc biệt là phe Hồi
và La !!! Thế thì, các loại chiên, phải làm sao ??? Thật khó cho quý vị lắm
đấy. Tôi chỉ xin một điều :"ĐỪNG QUAN NIỆM THẦY NÀO TỚ NẤY". Hãy nghe, hãy
đọc, hãy nhìn, hãy suy gẫm thật kỹ...để đừng "lạc nẻo thiên thai" ! Thiên
đàng hay địa ngục chỉ cách nhau một sợi tóc; và thời gian chỉ có một phần
TỶ, mà thôi ! Hãy cẩn thận !!!
·
Ai không ở cùng ta, thì nghịch cùng ta. Ai không thâu hiệp với ta, thì tan
ra (12:30).
(He that is not with me, is against me, and he that gathereth not with me
scattereth abroad).
Sở di, tôi để câu này lại cho đến bây giờ mới nhắc, là vì nó liên quan đến
đoạn này. Đây là một lập luận rất nguy hiểm về mặt thế gian, mà hình như
Tổng thống Bush cũng đã lập lại ! Rất tiếc, rất tiếc cho Hoa kỳ !!!
Trên phương diện đạo giáo, ý nghia của câu này hoàn toàn khác với thực tế
"thế gian gian dối". Với Chúa, thì chỉ có hai con đuờng mà thôi : "Thiên
đang và địa ngục". Do vậy, "con đuờng hẹp này", dẫn đến một sự thuận nghịch
chiều với nhau, mà không có lối thoát. Hoặc lên, hoặc xuống, không có nẻo
thứ ba. Vì vậy, ngài nói, không ở thiên đang, thì chỉ vào địa ngục; hay rộng
rãi hơn một chút, thì chúng ta có thể nói :"Thiện Ác tương khắc". Nhưng, đó
là lý thuyết của Chúa. Còn các tôn giáo khác, thì không phải vậy. Họ có
nhiều đuờng, nên tín đồ họ có thể hát :"ĐUỜNG ĐỜI VẠN NẺO VỀ ĐÂU EM ơi ".
Nhưng về mặt thế gian gian dối, thì hệ lụy của câu này rất khủng khiếp. Quan
niệm ấy dẫn đến nghi ngờ lẫn nhau, tiêu diệt lầm lẫn nhau. Tôi xin phép nhắc
lại là, "không chỉ có hai đuờng; "sai và đúng"; mà thực tế vẫn có chuyện
"không đúng không sai". Trong thực tế, bạn có thể chứng nghiệm rằng : Một
nguời "không theo đạo", không phải là "chống đạo". Cái quan niệm, "không
theo là chống" nó đa trở thành thừa thải rồi, sau những tai vạ khủng khiếp.
Tại sao chỉ có hai đuờng ? Vì sự phát triển TÂM THỨC GIỚI HẠN, không có gì
khác ! Các
- 162
-
ngành toán học, không gian, vi tính...đã chứng minh "vạn nẻo đuờng tình"
rồi. Bây giờ, mà còn ngồi ôm câu "ai không theo là chống", nó khổ sở lắm;
nó tội lỗi lắm. Cứ ôm ấp cái ý thức tồi tàn này :THEO VÀ CHỐNG, thì chỉ có
xuống địa ngục mà thôi.
Bởi quan niệm, "không theo là chống", mà chống, thì phải đỡ. Xa hơn nữa, thì
lý luận rằng :"TIÊN HẠ THỦ VI CUỜNG". Kết quả là, tâm hồn con nguời sa đọa
vào tội lỗi. Không có hành vi tàn ác nào mà không dám làm. Không có lời thô
bỉ nào mà không dám nói. Lại còn dùng ngoa ngôn, ỷ ngữ để tuyên truyền, lừa
mị....Nghĩa là, bạn đã vong thân vào TỘI ÁC, TRÁI LỜI CHÚA DẠY. Thế thì, con
đường nào sẽ dành cho bạn. Tự hiểu là vừa rồi !!!
Xin nhắc lại với mọi nguời là, đức Giê su trước, đã dạy những điều răn :
Không giết nguời, không trộm cắp, không tà dâm, không chứng dối. Vậy thì,
bất cứ hành động "phạm luật" nào, cũng sẽ đưa bạn về địa ngục cả. Đừng nghe
người khác dạy : GIẾT NGUỜI CHO CHÚA THÌ VỀ THIÊN ĐANG !!! Bạn nghỉ sao ?
Còn tôi, tôi nghi7, khi bàn tay mình tắm máu con nguời, thì tự nó tanh hôi
đã đành, mà nguời thấy cũng sinh lòng "thù ghét". Có khi nào bạn suy nghỉ về
cõi "trong sạch thượng giới" hay không ? Chắc chắn là có. Vì đó là chỗ bạn
đang muốn trở về. Vậy thì, bạn có thể tưởng tượng được, một nguời vấy máu
hôi tanh của đồng loại, lại có thể chễm chệ ở đó không ? Nếu thiên đường
cũng vấy máu của bạn, thì đó chính là địa ngục, chứ đâu phải thiên đường ?
Vậy hãy suy nghỉ về một cảnh giới; mà ở đó tất cả đều tỉnh lặng, trong sạch.
Nhưng muốn trở về với tỉnh lặng, thì truớc hết tâm hồn bạn phải tỉnh lặng.
Muốn có sự trong sáng, thì tâm bạn phải trong sáng. Nguời Việt có câu
:"NGUỜI BUỒN CẢNH CÓ VUI ĐÂU BAO GIỜ". Bạn thử suy nghỉ xem thế nào ?
Tôi xác quyết một điều ; KHÔNG THEO KHÔNG HẲN LÀ CHỐNG. Người ta chưa theo
bạn; vì bạn không thể làm cho nguời ta tin. Hoặc giả, người ta chưa muốn.
Hoặc giả hoàn cảnh chưa cho phép theo bạn....Có hàng tỷ lý do. Có hàng tỷ
cách đối xử, chứ không phải chỉ có hai đuờng. Khi trời lụt, bạn có thể đứng
để chứng nghiệm một điều. Có hai dòng nước nghịch chiều, vậy thì một khúc
cây sẽ chảy theo dòng nào ? Trong truờng hợp, nó kẹt giữa hai dòng, nó sẽ
đứng yên. Vậy thì, cớ gì, bạn chấp nhận chuyện "không theo là chống".
Đạo và đời là hai lãnh vực khác nhau. Lợi dụng lòng mê tín để giải thích
"mối đạo", thành "tình đời", là một hành động khó tha thứ. TÔN GIÁO LÀ TÔN
GIÁO, KHÔNG THỂ NÀO BIẾN NÓ THÀNH CHÍNH TRỊ. Tôi tuyệt đối chống lại việc
tục hoá tôn giáo.
***051002***
CHƯƠNG 42:
TREO ĐẦU HEO BÁN THỊT CHÓ
Tiếp tục học sách Ma thi ơ, tôi thấy đức Giê su dạy một câu chí thiết với
môn đồ :
·
Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và nguời Pha ri si, là kẻ giả hình ! Vì
các ngươi đi khắp duới nuớc trên bộ để khuyên một người vào đạo mình; và khi
đã khuyên đuợc rồi, thì các ngươi làm cho họ trở nên người địa ngục gấp hai
các ngươi (23:15). (Woe unto you, scribe and Pharisees, hypocrites! for ye
compass sea and land to make one proselyte, and when he is made, ye make
him twofold more child of hell than yourselves)
Đọc, suy nghỉ, so sánh câu này với những điều răn dạy của các vị khác; tôi
thấy thật giống nhau về nghia lý. Đạo là cái gì đó, nó cao thâm diệu vợi.
Đạo không phải là bè đảng, hội hè, phe nhóm..., mà là nơi con nguời hội tụ
với nhau để thực hành một phương pháp vuợt khỏi cuộc sống tối tăm, thấp
kém... hiện tại. Phương pháp nào đó, tùy vào sự chọn lựa của mỗi nguời, một
cách tự do, và tự nguyện, sau khi đa học hỏi, hiểu rõ. Còn như, chỉ lùa vào
một nhóm để tranh chấp quyền lợi thế gian, làm chuyện thế thường....thì nó
đã trở thành bè đảng thô tục.
Ngài đã ân cần nhắc nhở rằng :"thầy thông giáo và nguời Pha ri si là
kẻ đạo đức giả"; do đó, dù cho lặn lội đó đây, để "khuyên một nguời vào đạo
mình", mà kết quả thê thảm thay, chỉ là làm cho họ "nên người địa ngục gấp
hai", mà thôi ! Tại sao ? Bởi vì, nguời đi "khuyến dụ" kia, là bọn "đạo đức
giả"; bọn mạo danh Thượng đế ! Chúng khổ công đi tìm kiếm nguời theo chúng,
không vì mục đích của đạo; mà là vì tiền tài, danh lợi....của chúng. Vì vậy,
sau khi đưa nguời vào đạo, chúng đã huấn luyện họ trở thành những "tôi tớ"
để phục vụ cho mưu đồ cá nhân ích kỷ; thậm chí chúng bắt họ trở thành những
đảng viên muôn kiếp nô lệ.
-
163 -
Chúng buộc cho họ "những món nợ không bao giờ trả đuợc". Chúng làm
cho họ phải kinh hãi, khiếp phục, để muôn đời chỉ còn là một "con thú trung
thành". Và chính vì, khi có "tôi tớ" làm thay các chuyện ác cho chúng, thì
tội nghiệp của "kẻ nhẹ dạ" càng tăng lên gấp bội, bọn chúng chỉ ngồi chỉ huy
và huởng thụ. Chúng không trực tiếp làm tội ác, nên tội không cao bằng những
kẻ "trần truồng và đần độn". Điều này, có thể một số vị cho rằng, tôi chạy
tội cho kẻ "chỉ huy" chăng ? Không phải thế ! Ý nghiệp, là do kẻ chủ mưu.
Nhưng, chúng sẽ không vấp vào "khẩu nghiệp" và "thân nghiệp". Miệng
chúng luôn luôn nói lời đạo đức, tay chúng không trực tiếp nhuộm máu. Vậy
thì, trên thực tế, hai tội này không thể thành lập.
Còn "loài thú kia", vì tin lời "thủ lãnh", nên vẫn suy nghi, nói
năng và hành động theo ý chúng, nên cả ba tội đều đuợc hình thành. Họ tự
nguyện làm "tôi tớ", nên việc làm của họ phát ra từ tự tâm, không còn là một
hành vi bị thúc ép nữa. Bởi "trần truồng và đần độn", họ đã tự nhận những
suy nghỉ của "chủ" thành của mình; mà không hề biết đến hậu quả. Trong hiện
tại, những kẻ ôm bom khủng bố, là một ví dụ rõ nhất.
Đúng NHƯ lời ngài dạy, truớc mắt, THẾ CHIẾN THỨ BA ĐÃ ĐƯỢC HÌNH THÀNH BỞI LÝ
DO TÔN GIÁO. Cuộc chiến chắc chắn sẽ xẩy ra, với một mức độ khủng khiếp chưa
từng có !!! Tại sao ? Lý do đơn giản là; các cuộc chiến khác, do cá nhân
hoặc tập thể nhỏ nhoi chủ xuớng. Chính vì vậy, mà người tham chiến không dốc
lòng phụng vụ, họ chỉ bị bắt buộc mà thôi. Còn trong chiến tranh tôn giáo,
mỗi thành viên là "một con thú tự nguyện", nên nó hung hăng, dữ tợn gấp trăm
ngàn lần vu bão cuộc đời ! Chúng sẽ làm tất cả những gì có thể. Chúng sẽ tập
trung tất cả những gì chúng có, để thi hành MỆNH LỆNH THƯỢNG ĐẾ !!!
Chuyện buồn cười là, người ta tin rằng, sau khi họ hy sinh, sẽ đuợc về ngồi
dưới chân NGƯỜI. Làm tôi tớ cho NGƯỜI, với tất cả sung suớng của thiên đàng
thượng giới. Có cả năm bảy hay nhiều hơn nữa, những nàng tiên phơi phới xuân
tình làm vợ. Họ muốn gì, CHỦ đều ban cho cả ! Họ quên đi rằng, khi ông CHỦ
sai "tôi tớ" đi làm việc cực nhọc ngoài đồng ruộng về; chân lấm tay bùn, thì
làm sao ông ta cho "tôi tớ" vào NHÀ TRÊN" được chứ ? Tôi e rằng, để khỏi bẩn
mắt, ông CHỦ sẽ nhốt chúng vào chuồng lợn. Hoặc giả, đuổi chúng ra khỏi nhà.
Thậm chí, ông còn sai kẻ khác THỊT những kẻ "trần truồng và đần độn", cho
đáng kiếp ước mơ hão huyền, dại dột.
Hãy bình tỉnh học lại lời đức Giê su : Đừng giết người trong bất cứ truờng
hợp nào. "Đừng trộm cắp trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả tham nhủng hối lộ,
khi mình đuợc chức quyền. Đừng tà dâm với bất cứ ai. Đừng làm chứng dối cho
bất cứ kẻ nào. Phải hiếu kính với cha mẹ, thương mến anh em, đồng bào, đồng
loại. Tất cả những điều ấy là "lời Chúa". Nếu làm trái lại thì "địa ngục gấp
hai", là chuyện chắc !!!
·
Khi ấy, nếu có ai nói với các ngươi rằng : Kìa đấng Christ ở đây hay là, ở
đó, thì đừng tin. Vì nhiều Christ giả, và tiên tri giả dấy lên, làm những
dấu lớn, phép lạ, nếu có thể đuợc, thì họ cũng DỖ DÀNH chính những người
được chọn (24:23-24).
Những lời này tha thiết, ân cần quá đi thôi ! Ngay cả những người làm được
"dấu lớn phép lạ"; mà còn là phường LỪA ĐẢO GIẢ DỐI, ngài dạy "đừng tin".
Huống hồ, những CỤC THỊT NGUỜI đang đam mê quyền lực, tham ăn, mê khác
phái....Vì vậy, bàn tay chúng nhuộm đỏ máu tanh, thân thể chúng hôi mùi dục
lạc, tư tuởng chúng chìm trong tội lỗi. Ngài cũng đã nói :
·
Nơi nào có xác chết, thì những chim ó sẽ nhóm tại đó (24:28).
Ngài diễn tả một cách đơn sơ, mà thâm thúy ! Tại chỗ có xác chết, không lẽ
là nơi nhóm họp của người thanh sạch, của kẻ đạo đức ??? Không, ở đó chỉ có
loài CHIM Ó, một loài mà mủi chúng chỉ thích ngửi mùi tử khí. Chính chỗ này,
nói cho chúng ta thấy rằng, kẻ nào kêu gọi chiến tranh, dù Thánh chiến hay
Quỷ chiến, cũng đều là phường CHIM Ó. Những xúi dục điên loạn như thế, dù âm
thầm hay công khai, cũng đều là những lời "khai mở địa ngục", chứ đâu thể
"mở nuớc thiên đang" ??? Chính ngài đoan quyết rằng :
·
Trời đất sẽ qua, Nhưng lời ta nói chẳng bao giờ qua đi (24:35). (Heaven and
earth shall pass away, but my words shall not pass away)
Tôi tin như thế, bởi vì ngài là nguời lương thiện, lời ngài nhứt định không
hư dối ! Nhưng, có điều rất khó, là làm sao chúng ta biết đuợc lời nào do
ngài nói ra; lời nào do bọn Satan viết rồi chụp vào cho ngài ??? Đây là một
nhức nhối cho người học đạo.
Như tôi đã trình bày, trong kinh này có HAI ĐỨC GIÊ SU TRÁI NGUỢC NHAU. Một
đấng nhơn từ, và một người quái ác ! Chúng ta đi tìm đạo, là đi tìm những
con nguời, hành vi, lời nói đạo đức; chứ không thể tìm đến những kẻ tội lỗi.
Do vậy, người học đạo phải biết lựa chọn. như ngài đã nói :"những Christ,
những tiên tri giả sẽ
-
164 -
dấy lên", nó không những dụ dỗ kẻ bình dân; mà còn dụ dỗ cả "người được
chọn". Xem thế, thì biết ngay rằng, việc "đập bàn đổ ghế", không phải là
hành động Giê su. Việc tuyên bố "ta đến để đem gươm giáo", không phải là lời
Giê su; mà là của bọn Satan mạo viết, rồi gán cho ngài ! Phải bám chặt
những lời răn trên đây, rồi quán sát thật kỹ những kẻ cho mình là "thầy
thông giáo", để khỏi bị Ma quỷ dụ dỗ. Thiên đang là cõi thiện, là thanh
sạch, là tỉnh lặng; nên nó không bao giờ dung túng những kẻ độc ác, giết
người, cuớp của, đốt thành, phá hoại quê hương người khác. Cũng thế, một tâm
hồn vọng động, tham lam, ích kỷ, huớng ra ngoài thân tâm mình, không thể nào
"thể nhập" vào cảnh giới tỉnh lặng đuợc.
Một kẻ luôn luôn giữ nơi cửa miệng hai chữ "tôi tớ", nghĩa là không "tự làm
chủ đời mình", làm sao có thể bước vào "cuộc đời tự chủ" ? "Tôi tớ", nghĩa
là mọi hành vi, ngôn ngữ, suy nghỉ, đều bị động, bị sai khiến bởi một lực
bên ngoài, thì Hậu Quả không do chính họ tạo ra. Cho nên, tội phuớc không
"tự tạo", mà không "tự tạo", thì không thể "tự hưởng". Và như thế, thì họ đã
VONG THÂN VÀO CẢNH GIỚI CÔ HỒN !!!
"Luật pháp công bình thế gian", cũng không buộc tội kẻ VÔ TÂM, thì làm gì có
chuyện Thượng đế coi "hành động tôi tớ" là một "hành vi luật pháp' để ban
thưởng ? Không thọ đại hình, Nhưng phải gánh tiểu hình, bởi vì Ý không khởi,
nhưng thân làm ác. Tội ấy, là tội "trần truồng và đần độn" !!! như thế, kẻ
"tôi tớ" không công mà phải tội .
·
Quả thật, ta nói cùng các ngươi , hễ các ngươi đã làm việc đó cho một nguời
trong những nguời rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình
ta vậy (25:40). (Veryly I say unto you, Inasmuch as ye have done it unto one
of the least of these my brethren, ye have done it unto me).
Như thế, "sự phán xét sau cùng" của Chúa trời cũng chỉ căn cứ trên sự công
bình, mà lấy "tha nhân" làm đích. Không cần phải trực tiếp cho Chúa ăn,
Chúa mặc....mà chỉ cần biết làm việc ấy với người khác; dù là kẻ hèn mọn
nhất, tức là là làm cho đức Chúa trời vậy.
Từ đó, chúng ta hiểu rằng, làm chuyện ác với tha nhân, cũng chính là làm đối
với đức Chúa trời; không hai, không khác. Giết người ta, tức giết Chúa. Cướp
của nguời, tức cuớp của Chúa. Đốt phá làng mạc, tức phá công trình
Chúa....Ngài dạy rất rõ ràng rằng, "bất cứ hành động nào cũng mang lấy một
hậu quả tương ứng", dù cho làm đối với Trời hay nguời. Vì vậy, ai nói "giết
người vì Trời", là lời của RẮN, hoàn toàn sai lời đức Giê su.
Tha nhân, là thước đo lòng người đối với Thượng đế. Hãy coi bất kỳ ai cũng
như chính mình, cũng chính là thân thể Thượng đế, tài sản Thượng đế. Do đó,
mọi tư tuởng ÁC nẩy sinh, chính là xa rời Thượng đế, hủy diệt Thượng đế.
Đừng nghỉ đến một Thượng đế xa xôi nào khác; người bên cạnh, người trước
mặt, chính là Thượng đế. Hãy đối xử tốt với anh em; vì việc ấy ngang bằng
giá trị với kính yêu Thượng đế. Câu nói nhân từ này đã hủy diệt câu trước
:"Ai không theo ta là kẻ thù của ta".
Theo lời ngài, thì thương yêu kẻ "hèn mọn", là thương yêu ngài và Cha ngài.
như vậy, thù ghét một người, là thù ghét chính ngài và Thượng đế. Cho nên,
khi TỪ TÂM khởi, chính là lúc CÓ THƯỢNG ĐẾ. Khi ÁC TÂM khởi, là lúc THƯỢNG
ĐẾ BỊ TIÊU DIỆT. Vậy thì, khi đặt câu hỏi :"CÓ HAY KHÔNG CÓ THUỢNG ĐẾ",
chúng ta chỉ cần tự hỏi :" CÓ HAY KHÔNG CÓ TỪ TÂM". Nếu lòng yêu thương kẻ
khác không có trong tâm mình; nếu thù hận nổi lên; nếu tham lam sắc dục bừng
khởi...là chúng ta tự hủy Thượng đế; chứ không phải ai khác.
Từ Ý niệm này của ngài, dẫn chúng ta đến một tham cứu cần thiết : SỰ BAN ƠN,
GIÁNG HỌA DO AI SẮP ĐẶT ??? Hãy đọc lại câu :"làm việc đó cho một nguời
trong những người rất hèn mọn này của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình
ta vậy". Câu này, và một câu trong đạo Phật hoàn toàn giống nhau :"cúng
duờng chúng sanh, tức cúng duờng chư Phật".
Như thế, Phật, Chúa đều có một quan niệm giống nhau. Không phải cúng Phật,
tế lễ Chúa, thì khác với bố thí cho chúng sanh. Hai hành động ấy, có kết quả
giống nhau. Nghĩa là gieo nhân gì, thì gặt quả đó; cho dù gieo vào bất cứ
đất nào. Nó chỉ sai khác nhau ở phẩm chất mà thôi. Nhưng phẩm chất, tùy
thuộc vào các trợ duyên như đất, nuớc, phân...Do đó, phải tìm "duyên tốt",
chứ "gieo trên đá", thì đời đời chẳng mọc, tệ hơn nữa, thì mục rã với thời
gian. Cái duyên của thế gian là thầy hay, bạn tốt, tập thể trong sáng....,
nếu nhận lầm thì uổng công biết mấy !
Cũng từ khái niệm ấy, cho chúng ta thấy, ơn phuớc, không tự nhiên mà có; tai
hoạ nào chẳng phải khi không. Trời, Phật không tự ý mà Ban. Mà chính là kết
quả của một hành động. Chúa đã nói đến hai chữ "công bình", nghĩa là "cán
cân nhân quả" không thể nào lệch lạc. Chúa không thể nào cho một THẰNG ÁC
đến ngồi bên mình. Nước của ngài không thể dung chứa những bàn tay đẫm máu,
những kẻ gian manh, trụy lạc. Ngài chỉ
-
165 -
ban ơn cho những kẻ biết làm ơn. Ngài sẽ giáng họa cho những kẻ làm ác. Tin
vào điều ấy, tức là NHÂN QUẢ TỰ NHIÊN vậy.
Cho nên, không thể nói rằng, tôi vì ngài mà giết người, giữ đạo !!! Cũng
không thể nói rằng, cái này Chúa ban cho, khi nó ở trong tay kẻ khác. Chẳng
thể đi cướp nước người, rồi bảo Chúa hứa cho ! Tóm lại, ban ơn hay giáng
hoạ, là chính tự Tâm làm chủ. Tâm ở đâu, thì Trời Phật ở đó. SỰ SẮP XẾP LÀ
DO MÌNH VẬY !
Thượng đế, là một khái niệm cao viễn. Nó không phải của riêng ai. Mọi dân
tộc đều có, mọi con nguời đều có. Thượng đế, nếu có, thì chắc chắn không
cao, không thấp, không lớn, không nhỏ, không trong, không ngoài, không
trước, không sau. Thượng đế bất động, bất di, bất dịch, không thiên vị,
không bất công. Mọi sự HOẠ HÌNH THƯỢNG ĐẾ để tranh chấp lớn nhỏ, cao
thấp...đều là trò "thế gian gian dối", do những tổ chức thế gian lừa đảo con
nguời. Vì vậy, nguời tìm đạo, là tìm về TÁNH BỔN THIỆN, vì uyên nguyên là
tỉnh lặng, tịch mặc, vô tranh, vô chấp. Do đó, mọi "vọng động" của thế gian
đều nghịch chiều với Thượng đế.
Ai nhân danh Thuợng đế để tiêu diệt kẻ khác, nô lệ hoá kẻ khác, chính là :
"NÒI GIỐNG RẮN LỤC KIA, THẾ NÀO MÀ TRÁNH KHỎI SỰ ĐOÁN PHẠT NƠI ĐỊA NGỤC
ĐƯỢC"(23:33)
Câu nói nầy, ngài nói về các "thầy thông giáo", những kẻ giả hình (đạo đức
giả), bởi vì chúng, nhìn bên ngoài thì "xây đắp mồ mả của các đấng tiên tri,
trau gồi mồ mả của nguời công bình"; Nhưng thực tế, thì chúng "hùa theo
nguời, mà làm đổ máu các đấng tiên tri" (23:29-30)
Đấy là một điều đáng lo, đáng sợ, bởi vì con nguời thường mê muội dễ tin.
Thoát khỏi lòng mê tín để thấy đuợc sự thật, thấy được chân tuớng của kẻ giả
hình, là một điều rất khó. Bên ngoài, chúng khoác lớp áo đạo đức, miệng
chúng nói những lời nhân nghia; Nhưng tâm chúng là cả một bồ dao găm. Phải
đủ can đảm mới có thể đi tìm Thượng đế. Nếu không, là chỉ "hùa theo người,
mà làm đổ máu các đấng tiên tri", mà thôi. Cái khốn nạn là ở chỗ đó ! Hãy
đọc và suy nghi chữ WOE của ngài một cách chân thật.
Khốn nạn thay cho con nguời, khi miệng thì tung hô Thiên chúa, mà hành động
thì lại "khai tử" ngài. Chính những kẻ "giả hình", chứ không ai khác, đã đẩy
đưa con người mê tín vào địa ngục; nơi mà chúng gọi là "thiên đàng vỉnh
cửu". Hãy bừng tỉnh giấc mơ điên rồ, dại dột. Bàn tay Thiên chúa chỉ có thể
tiếp nhận kẻ nào đã, đang và sẽ sống theo lời dạy của đức Giê su :
KHÔNG GIẾT NGUỜI, KHÔNG TRỘM CẮP, KHÔNG TÀ DÂM, KHÔNG CHỨNG DỐI, KHÔNG BẤT
HIẾU, BIẾT THƯƠNG YÊU MỌI NGUỜI VÀ MỌI DÂN TỘC. HÃY NHỚ KỸ RẰNG, LÀM ƠN VỚI
KẺ HÈN MỌN, CHÍNH LÀ LÀM ƠN VỚI THUỢNG ĐẾ. TÔN SÙNG THƯỢNG ĐẾ LÀ TÔN SÙNG
CON NGUỜI, ANH EM.
***051008***
CHƯƠNG 43:
DẪN SOI ĐÂU PHẢI CẦM TAY
Sau bốn mươi hai CHƯƠNG, học sơ luợc về kinh Thánh để tìm đức Chúa trời . Và
đến đây, tôi bắt đầu tìm hiểu về "đức Chúa trời hiện thân", hay "đức Chúa
con" của đạo Chúa Do thái. Một thuận duyên đã đến; đó là lời chỉ dạy của
Thầy tế lễ Nguyễn quang Minh. Tiếp theo, là lời "bình" của ngài An phong
Nguyễn văn Diễn. Ông Diễn viết:"Thực tình, đây là lần đầu tiên tôi đuợc đọc
một bài luận văn rất thông suốt về Thiên chúa giáo (nói chung cho các hội
thánh thờ Thiên chúa). Nghĩa là, ông Diễn hoàn toàn tán dương bài viết của
ông Minh. Vì vậy, tôi xin đề cập đến vài điểm có liên quan đến vấn đề chính
mà thôi.
Trong bài "Ông Bảo quốc Kiếm hiểu sai về đạo Cơ đốc", thầy Minh viết :
"Bốn sách Phúc âm trong Tân ước kinh là câu chuyện của mười hai nhà
cách mạng chính trị Do thái đi theo một lãnh tụ là ông Giê xu để mưu cầu lật
đổ sự thống trị La mã để giải phóng đất nuớc, chứ không phải là những người
đi tìm đạo. Nhưng mộng bất thành, họ đã đuợc phép lạ biến thành những nhà
cách mạng tôn giáo, và đã cho ra đời Cơ đốc giáo".
Ở trên, thầy tế lễ, tiến sỹ Nguyễn quang Minh đã cho chúng ta thấy rõ về
ngài Giê su. Ngài chỉ là một lãnh tụ chính trị, chứ không phải một giáo chủ.
Nhưng, thật trớ trêu, ông Minh gọi "Tân uớc kinh"; nghĩa là đem bốn
-
166 -
sách "là câu chuyện của mười hai nhà cách mạng", biến thành Kinh !!! Nếu,
"không phải là những người đi tìm đạo", thì "đạo" ở đâu để truyền ? Do vậy,
những ai theo đức Giê su, chỉ là những nguời "học làm cách mạng", chứ đâu
phải là "tín đồ" một đạo ? Và như thế, "Cơ đốc giáo" là một "Đảng chính
trị", chứ không phải là Tôn giáo !!!
Đã làm chính trị, tất phải có trăm phương ngàn kế để "tôn vinh lãnh tụ"; do
đó, việc tuyên truyền "những phép lạ" chỉ là một trong những "thủ đoạn" mà
thôi ! Chúng ta cũng từng nghe CSVN viết về "lãnh tụ họ Hồ" biết trước gián
điệp Tạ đinh Đề nằm trên máng xối, nên bảo đem thêm đủa mời khách !!! Hoặc
giả như anh hùng Lê văn Tám, Nguyễn văn Trỗi...
Quay về xa xưa, Việt nam chúng ta cũng có Thánh Gióng, Thánh Trần.....Vậy
thì, có nên hay không nên, khi cổ võ đi học "làm chính trị kiểu Do thái cổ";
vì Do thái và Việt nam có những đặc tính dân tộc không giống nhau ???
Nếu không có chuyện "mộng bất thành", thì không có Cơ đốc giáo ! Nói cách
khác, sự "cách mạng tôn giáo" để trở thành "Cơ đốc giáo" chỉ là một trò
"biến ảo chính trị" mà thôi. Lời dạy này của Thầy tế lễ Minh đã giải thích
cho chúng ta, tại sao họ ghép Cựu uớc và Tân uớc làm một. Nếu đã "cách
mạng", thì sao còn dùng Cựu uớc làm Kinh ? Đon giản thôi ! Vì, ở đây chỉ là
biến thiên chính trị. Một Đảng chính trị núp duới hình thức tôn giáo! Đó là
sự tài tình của đức Giê su trong hoàn cảnh Do thái bấy giờ. Và như vậy, đức
Giê su là "lãnh tụ chính trị Do thái", chứ không phải là "ông Trời con", như
những nguời tuyên truyền quá lố.
Xin quý vị vui lòng đọc mấy đoạn sau đây của một Thầy tế lễ khác, ông Nguyễn
văn Huệ, để thấy sự sai biệt về nhận diện đức Giê su :
1-Có rất nhiều lý do để chúng ta tin chúa Giê xu chính là ông Trời giáng
thế để cứu vớt nhân loại nói chung, và nguời Việt chúng ta nói riêng.
2-Chính Chúa Giê xu tuyên bố ngài là con đức Chúa trời.
3-Chúa Giê xu làm những việc phi thường mà chỉ có ông Trời mới có khả năng
làm.
4-Chúa Giê xu nói những lời mà chỉ có ông Trời mới có đủ thẩm quyền nói
đuợc.
5-Nhiều nhân chứng đáng tin xác tín Chúa Giê xu là con đức Chúa trời.
6-Sự chết đền tội của Chúa Giê xu xác nhận ngài là Chúa cứu thế.
7-Sự sống lại khải hoàn của Chúa Giê xu chứng minh ngài là con đức Chúa
trời như ngài tuyên bố.
8-Lịch sử nhân loại chứng minh Chúa Giê xu là đấng cứu thế.
Trong lúc đó, Thầy tế lễ Minh lại viết :
"Thí dụ một câu Kinh thánh tiếng Việt đã bị dịch sai như sau, đã làm nhiều
nguời thắc mắc về Tân uớc. Câu ghi rằng: Các môn đồ thưa rằng: Lạy Chúa..
Khi nghe câu này, thì những người Việt nam chưa theo "đạo" chúa, hoặc là
đang theo "đạo" chúa có thể hiểu lầm như sau: Đó là hình ảnh một số đệ tử
tôn giáo đi lang thang theo một ông đạo sỹ vừa lạy vừa sợ sệt gọi là Chúa
(ông Trời). Trong khi đó, trong thực tế chỉ là một
số "chiến hữu" cách mạng đi theo một vị lãnh tụ có sức thu hút quần chúng để
làm một lực luợng cho ngày phục quốc chống lại quân đội viễn chinh La mã
đang cai trị nước Do thái của họ. Thế thôi. Ở đây, không có ai lạy ai cả, mà
cũng không có ai đang tầm sư học đạo cả, mà cũng không có ai là ông Trời,
ông Chúa nào cả".
Vậy, chúng ta tin ai ???
Theo ngu ý, thì lập luận của ông Minh khá vững vàng, trong lúc ông Huệ đã bị
"thủ đoạn chính trị" làm mê mờ. Ngài Giê su làm
chính trị cho nuớc Do thái, hầu "giải phóng dân tộc" khỏi ách thống trị La
mã. Việc bất thành, ngài phải chịu chết trên thập ác giá, một dụng cụ hành
hình độc ác của chính quyền La mã thời đó. Câu "cứu vớt nhân loại nói chung
và nguời Việt nói riêng" của ông Huệ, đã trở thành lố bịch. Đức Giê su muốn,
và chỉ muốn cứu dân Do thái, ngài chết vì hành vi chính trị, chứ không phải
hành vi tôn giáo. như thế, "cứu hay chuộc", chỉ có giá trị với nguời dân Do
thái; làm gì có ảnh huởng đến người Việt chúng ta ?
Ông Nguyễn quang Minh, một thầy tế lễ, đã phủ nhận hoàn toàn lời ông Huệ
:"KHÔNG CÓ AI LÀ ÔNG TRỜI, ÔNG CHÚA NÀO CẢ". Hai chữ :"THẾ THÔI", thật đơn
giản và rõ ràng. Đã không phải ông Trời, ông Chúa, thì vấn đề "CỨU THẾ",
cũng hoàn toàn bị phủ nhận. Nhưng, không "cứu thế", thì không còn là một tôn
giáo; mà
- 167 -
đó là một "đảng chính trị" của Do thái. Đến đây, một vấn đề khác, lại đặt ra
cho ông Minh. Nếu đã không là ĐẠO, thì sao ông gọi Cựu uớc, Tân uớc là Thánh
Kinh; và chính ông lại rao truyền kinh ấy ?
Ông Minh viết tiếp : "Thánh kinh của Tin lành là do cụ Phan Khôi phiên dịch
ra tiếng quốc ngữ (rất hay và tài tình). Nhưng cụ không là tín đồ Cơ đốc
giáo, mà cũng không là người học thần học Cơ đốc giáo bao giờ, cụ là một nhà
Nho, là một người lương, còn các giáo sỹ Mỹ bây giờ cho dù có giỏi tiếng
Việt bao nhiêu cũng không thể hiểu thấu đáo được tiếng Việt để mà hiệu đính
bản dịch này cho đúng với văn chương và ngôn ngữ của người Việt nam đuợc.
(Chỉ nói một câu ngắn này đã sai mấy chữ như: Thưa thầy thì nói là lạy
Chúa)".
Đọc đoạn này, tôi thấy ông Minh vô cùng lúng túng, và đã quên mất chính
mình. Ông nhắc đi, nhắc lại :"cụ không là tín đồ..không học thần học...là
nguời lương..". Còn mấy chữ "rất hay và tài tình", thì lại cho vào trong dấu
ngoặc đơn !!! Rồi thì "giáo sỹ Mỹ không đủ..". Thế thì, còn ông và các Thầy
tế lễ Việt nam ở đâu ???
Đến bây giờ, mà ông vẫn chưa thể nhận ra rằng, người "ngoại đạo" có thể hiểu
thấu tận cốt tủy của Thánh kinh; trong lúc những nhà "thần học" vẫn chưa
hiểu thấu chút nào. Ông đã biết nó sai, tại sao ông không dịch lại, mà dồn
tội cho người Mỹ ? Từ lúc cụ Phan Khôi dịch cho đến giờ đã bao lâu, đã có
bao nhiêu tiến sỹ "thần học" tốt nghiệp trong lò rèn ra, mà không thể dịch
lại; đủ chứng tỏ, cụ không hề sai. Quả thật vậy, nếu thay chữ "lạy Chúa",
thành "thưa thầy", hay "thưa đồng chí", thì còn "đạo" đâu mà giảng ???
Cho nên, cứ nói với người, thì bảo "lạy Chúa", mà thực chất, thì "thưa đồng
chí lãnh đạo", là "Thần học cao cấp nhất", không có lối nào khác, phải không
nhỉ ? Điều này, nhắc tôi nhớ lại chuyện ông Nguyễn học Tập nói :"Ngài (GH)
có quyền làm chính trị", là hơi thừa. Vì rõ ràng, đây là "đảng chính trị
kiểu Do thái cổ", chứ đâu phải tôn giáo :"không có ai là ông Trời, ông Chúa
nào cả" !
Đúng như nhận định của ông Minh, ông Trời, ông Chúa, chính là "đồng chí lãnh
tụ tối cao" của đảng. THẾ THÔI !!!
Ông Minh lại chỉ giáo :
"Thánh kinh Do thái (sau biến thành của Cơ đốc giáo) chỉ là một bộ lịch sử
với một số nguyên tắc về luân lý. Tân uớc thì có thêm về phương thức giải
thoát chúng sinh qua ơn cứu độ của Thuợng đế. Chỉ đơn sơ vậy thôi".
"Chỉ là một bộ lịch sử". Vâng, đúng thế. Chỉ là một bộ lịch sử chiến tranh
Do thái với tất cả sự tàn ác của Môi se. Tiêu diệt bảy dân tộc anh em !!!
"Giết cả đàn ông, đàn bà, trẻ con và trẻ bú, con gái đã có bạn trai" đã biến
thành KINH. Vậy thì, học Kinh ấy để làm gì, ngoài việc "HỌC CÁCH GIẾT NGUỜI"
bằng chủ trương "giết lầm hơn bỏ sót", "nhổ tận gốc, trốc tận rễ".. ???
"Với một số nguyên tắc về luân lý". Vâng, đúng thế. Nhưng luân lý mỗi bộ
lạc, mỗi dân tộc một khác. Luân lý trong "kinh thánh" bao gồm nhiều chuyện :
"Con lấy cha, lấy mẹ, lấy cô, dì, dì ghẻ, anh, chị, em ruột..." Thứ luân lý
này không phù hợp với luân thường đạo lý người Việt. Vậy thì, học nó để làm
gì, ngoài việc hủy hoại nền văn hoá cổ truyền rất tốt đẹp của dân tộc Rồng
Tiên ???
Chúng ta lại thấy, ông Minh nói hơi "tréo cẳng ngỗng". Đã "không ai là ông
Trời, ông Chúa nào cả"; và sự hình thành Cơ đốc giáo là do "mộng không
thành", mà ra. Vậy thì, làm gì có Thượng đế mà "giải thoát chúng sinh" ?
Thượng đế được sinh ra để phục vụ "nhu cầu cách mạng", nghĩa là "một thủ
đoạn chính trị" mà thôi ! Đức Giê su là một "nhà chính trị", ngài không phải
"một đạo sỹ", "không tầm sư học đạo", thì đạo ở đâu mà rao giảng ? Ngài dùng
thánh kinh Do thái để làm "phương tiện cách mạng", cho nên, trong kinh đã
ghi lại chuyện người Do thái đòi ném đá ngài ! Vậy thì, từ "mưu cầu lật đổ",
đến "cách mạng tôn giáo", chẳng qua là "trò biến hoá" để "sinh tồn" của đảng
Giê su, chứ đâu phải là tôn giáo thực sự ???
Nguyễn quang Minh dạy tiếp:
"Kinh Thánh có câu: "Cả kinh Thánh đều được Thượng đế soi dẫn". Xin nhớ cho
là SOI DẪN, chứ không phải là ngài CẦM TAY tác giả để viết".
Đọc câu này nghe vui vui. Không biết, thầy đang nói với ai. SOI DẪN chứ
không phải CẦM TAY, khác nhau ở chỗ nào ? Chỉ nói với trẻ thơ thôi chứ ! Soi
là cho ánh sáng, Dẫn là dắt đi. Vậy, Dắt và Dẫn có khác không nào ? Không
"cầm tay", Nhưng điều khiển linh hồn ! Ngày nay, chắc thầy biết cái Remote
Control rồi chứ ? Nó đâu có "cầm tay" vệ tinh vào sao Hỏa, thế mà vệ tinh
vẫn làm theo lệnh nó. Bào chữa kiểu này, thôi hãy về dạy lớp "vỡ lòng" là
vừa !
-
168 -
Một điều khích lệ khác, mà thầy ban cho tôi là :
"Đọc kinh thánh để tìm đạo thì sẽ thấy đạo, Nhưng để moi móc đúng sai, thì
sẽ không bao giờ thấy đạo". Khổ cho tôi quá ! Như vậy, "đường đạo đồng nghĩa
với đuờng mù" hay sao ? Chỉ cúi đầu làm một "con chiên ngoan" để cho người
ta dẫn dắt đi đâu cũng mặc. Ra đồng hoang, vào truớc mặt Thiên chúa, rồi
"nhận tay lên đầu", rồi "thọc huyết", rồi "vấy máu trên bàn thờ, chung quanh
bàn thờ", rồi "lấy mỡ trái cật"..., rồi "xông mùi thom"....rồi "vặn đầu rứt
cổ" như con chim"....để "tế thần". Chao ôi, làm không được, thầy ơi !!! Tìm
hiểu đúng hay sai, sao thầy gọi là Moi Móc ? Nếu biết đúng sai thì không
thấy đạo, sao ngài nói như chuyện Adam và Êva quá vậy ? Hèn chi, khi vừa mới
biết đúng sai thì Thượng đế lo âu và lập tức đuổi ra khỏi vườn địa đang và
nguyền rủa thậm tệ ? Vậy, sao ngài nói theo đức Giê su, là theo "cách mạng
tôn giáo" ?
"Đọc kinh thánh để tìm đạo thì sẽ thấy đạo". Chuyện ấy khó quá. Vì như trên,
thầy đã nói:"Kinh thánh Do thái chỉ là một bộ lịch sử với một số nguyên tắc
luân lý". Và "Bốn sách phúc âm trong Tân ước kinh là câu chuyện của 12 nhà
cách mạng", và "không phải là những người đi tìm đạo". Vậy thì, cả Cựu ước
lẫn Tân ước không "hàm chứa đạo"; mà chỉ có "luân lý", và "cách mạng". Thế
thì, "tìm đạo" ở đâu ? Như vậy, đọc “thánh kinh” là để học "luân lý Do
thái", và "cách mạng Giê su", chứ đào đâu ra ĐẠO ? Sao thầy lại gạt tôi như
vậy nhỉ ?
"Nhưng để moi móc đúng sai, thì sẽ không bao giờ thấy đạo" , nghĩa là gì ?
Nếu không phải là chủ trương "ngu dân" ? Riêng tôi và dân tôi thì suy nghỉ
hơi khác đấy. Muốn học đạo, thì phải nghiên cứu kỹ
luỡng. Không nhắm mắt tin theo những gì nguời ta cho là Kinh điển, là lời
thánh hiền, là cổ đức dạy....mà phải chính mình chứng nghiệm được, suy nghỉ
đuợc, lúc đó mới tin. Theo một tôn giáo, là làm cho mình tăng truỡng trí
huệ, tu duỡng đạo đức, khử ác, hành thiện, cứu mình, cứu nguời....Tình yêu
không có trí huệ, là tình yêu mù quáng, và sẽ dẫn đến những tai hại khôn
luờng. Trí huệ không có tình yêu sẽ trở thành kẻ bạo ác, làm hại nhân sinh
và vạn vật. Do vậy, học đạo mà không biết "đúng sai", chính là nguyên nhân
của cuồng tín, dẫn đến những hành động u mê hại người, tổn vật !!!
Tôi thấy hơi lạ trong mớ lý luận này. Chính bản thân thầy tế lễ là tiến sỹ
(theo ông Diễn). Vậy sao thầy biểu kẻ khác là đừng thấy "đúng sai"? Vậy, xin
hỏi học vị tiến sỹ của thầy, có phải là "tiến sỹ không biết đúng sai" hay
không ? Đã từng một thời lâu xa, ai nói trái Thánh kinh là bị giết chết trên
giàn hỏa bởi tòa dị giáo. Phải chăng, thầy thông cảm với quần sinh về kinh
nghiệm này, nên bảo chúng tôi đừng biết đúng sai để khỏi chết cháy ? Nhưng,
thưa thầy, ngày nay là thế kỷ 21 rồi; dù chết, con nguời cần phải thấy đuợc
chân lý. Mà không biết đúng sai, thì làm gì có hai chữ "chân lý" ? Có chăng,
là nói càn, nói bậy, nói theo lệnh truyền; còn tư tuởng thì chỉ "trần truồng
và đần độn" như thuở "ban sơ" !!!
Tôi lại lạnh nguời, khi nghe thầy dạy :
"Đọc Kinh thánh phải bằng thái độ phá chấp của một nguời Phật tử thuần
thành, nghĩa là đuợc ý thì quên lời. Phải nhìn Kinh thánh bằng một hình ảnh
"lớn" của nó, thì mới thấy được ý nghĩa của nó"
Tôi không hiểu tại sao thầy lại viết như thế ! Tại sao phải đọc kinh thánh
"bằng thái độ phá chấp của nguời phật tử thuần thành" ? Tôi không lạm bàn
hai chữ "phá chấp" ở đây, Nhưng tạm biết rằng, thầy không hiểu, hoặc cố ý
hiểu sai. Nếu dùng "phá chấp" khi đọc Kinh thánh, thì tư tuởng: "vô ngã, vô
nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả" sẽ hiện tiền. như thế, thì còn đâu Thiên
chúa để theo ??? Khi thầy bảo như thế, thì nguời đọc sẽ "phá ngã chấp", tức
không thấy có mình; mà mình đã không thấy mình, thì làm sao thấy kẻ khác,
tức Thiên chúa ? Họ lại tiếp buớc thứ hai, là "phá pháp chấp"; như vậy, làm
sao thi hành chuyện kinh thánh dạy ? Xin đưa vài ví dụ cho rõ vấn đề :
·
Nhưng các ngươi hãy phá hủy bàn thờ, đập bể pho tuợng và đánh hạ các thần
chúng nó" (xedtk34:13)
Xin hỏi thầy, trong truờng hợp này "được ý thì quên lời" như thế nào ? Hay
là, được "cái ý" của ngài, là muốn "đánh hạ các thần", thì phải "diệt hết kẻ
thờ thần" chúng nó ???
·
Thịt vẫn còn nơi răng, chưa nhai, thì cơn giận của Giê hô va nổi lên cùng
dân sự, hành dân sự một tai vạ rất nặng (dsk-11:33).
Ở đây, theo ý thầy, thì "đuợc ý" như thế nào; "quên lời" như thế nào ? Hình
ảnh "lớn" của nó ra sao ? Hay chính là nơi chôn muời mấy ngàn mạng kêu ca
đói khổ trong cuộc đi cuớp nuớc nguời ? Nó lớn thật, đáng sợ thật. Nhưng cái
"lớn" này không thu phục được sự "kính mến", mà chỉ nhận lấy sự "nguyền rủa"
của hậu nhân ? Cái "đạo lớn" là giết nguời không gớm tay. Mấy chữ "Kíp rốt
ha tha va", đuợc ghi chú là "căng ra để phơi khô", thật khủng khiếp. Ôi! đó
là "đạo lớn" đấy ư ? Cái "hình ảnh lớn của nó", trong toàn bộ Cựu ước kinh,
là hình ảnh
-
169 -
"lớn" thật; vì xưa nay, và khắp cả đông tây, không có đạo nào chủ trương
tiêu diệt kẻ khác bằng bạo lực, để độc tôn. Nếu ngồi bình tinh lâu ngày để
đếm chữ Giết, và chữ Máu, thì nó thật vỹ đại hơn cả các bộ sử hai trận chiến
tranh thế giới !!!
Tôi nực cuời nhất, là lúc đọc đoạn văn này :
"Kinh thánh cũng do con người ghi chép, dưới nhiều hoàn cảnh, bởi nhiều
nhân vật. Mà đã là con nguời thì làm sao tránh được những lỗi lầm và áp lực
do ngoại cảnh".
Là một thầy tế lễ, lại là một tiến sỹ, tôi tin chắc, thầy biết rõ tiến trình
hình thành Kinh thánh. Bỏ qua đi chuyện quá khứ, Nhưng thầy trả lời thế nào
về việc sửa đổi sau bao nhiêu thế kỷ ? Cho đến nay, các Giáo hội, Hội thánh
vẫn còn giữ nguyên Kinh thánh này. Nghĩa là chấp nhận mọi giáo lý lưu truyền
hiện nay là chân lý tối thuợng, trong đó có cả thầy nữa đấy. Thời nay không
còn khắc nghiệt như xưa, không có toà dị giáo; vậy tại sao các bậc Hoàng đế-
Giáo chủ không sửa ? Đặc biệt đối với những người "cải cách" như thầy ?
Tôi thấy khó lòng đồng ý với thầy về câu :"Mà đã là con nguời thì làm sao
tránh được những lỗi lầm và áp lực do ngoại cảnh". như thầy biết, những vị
viết ra kinh đều đuợc tôn lên hàng THÁNH. Họ không là "con nguời bình
thường" như chúng ta. Nếu như còn "lỗi lầm", thì không phải là Thánh; và
ngược lại. Nếu như bị "áp lực do ngoại cảnh", thì họ cũng quá "thường" rồi,
đâu còn là Thánh mà tin ? Sau hơn hai ngàn năm rồi, những lỗi lầm nếu có,
sao không ai sửa lại ? Những áp lực ngoại cảnh cũng đổi thay, sao không ai
hiệu đính ??? Sự chống chế của thầy, nghe ra khó chịu quá.
Nếu kể chung tất cả các giáo phái, thì số nguời theo Cựu uớc có cả hàng mấy
tỷ. Cho đến giờ này, nguời ta vẫn chấp nhận như thế. Có nghia là "không thể
đổi" đuợc. Một điều dễ hiểu là, nếu thay đổi Kinh, thì "mất hết quyền hành
của thầy tế lễ". Thì làm sao gọi "tín đồ" là "con chiên", mình là "chủ
chăn"; để "xỏ mủi" dắt đi dễ dàng được. Phải vậy không thầy ?
Đọc qua những lời thầy, tôi thấy có cảm tình hơn với những bài viết của nhóm
thầy Huệ. Nhưng, đang nào cũng có một mục đích giống nhau :"LÙA CHIÊN VÀO
CHUỒNG MÌNH". Càng có nhiều Chiên, thì càng giàu, càng có quyền thế. Những
con chiên ngoài chuồng, chúng đâu bị ảnh huởng của lời kinh vỹ đại :
AI KHÔNG KHỨNG VÂNG LỜI THẦY TẾ LỄ PHẢI BỊ GIẾT
Cho nên, các thầy cố tìm mọi cách lý giải để kéo về "chuồng mình". Khi đã
vào "chuồng" rồi, thì chuồng nào cũng một "lệ" giống nhau, bởi vì GIỀNG MỐI
chỉ có một : "Kinh thánh" giống nhau. Sự "tự biến hoá", để "phù hợp căn cơ",
hầu "làm giàu" cho phe phái, là nhu cầu thời đại. Chính vì vậy, những ai học
đạo, mà không học “kinh thánh”, là một lầm lẫn lớn. Chỉ nêu ra hai ông thầy
Minh và Huệ, quý vị đủ thấy sự khác biệt một trời, một vực của các giáo
phái. Do vậy, là một kẻ đang tìm đuờng, tôi chỉ Y KINH, chứ không thể nào
theo "lời giảng phương tiện".
Ông Trời Thánh kinh Do thái, là ông trời của dân Do thái. Chúa Giê su là
Chúa của dân Do thái. Hay đúng như thầy Minh nói, là một nhà cách mạng Do
thái đi tìm đường cứu nuớc. Khi bị lộ, ngài bị giết chết trên ác giá của bạo
quyền La mã. THẾ THÔI.
Vì vậy, khi đọc lời của thầy Huệ : "Lịch sử nhân loại chứng minh chúa Giê xu
là đấng cứu thế". Tôi giật mình nhiều lần lắm. Kể từ khi ngài chết trên thập
giá đến nay, nhân loại trải qua những trận kinh hoàng nhất. Từ Thập tự
chinh, đến Toà dị giáo và xã hội tối đen của Tây phương trong mấy thế kỷ. Từ
những cuộc xâm lăng toàn cầu của Bồ-Tây-Pháp... đã tiêu diệt bao nhiêu dân
tộc Bắc Mỹ, Nam Mỹ, và Mễ tây cơ, đến Phi luật tân, châu Á, và châu Phi…. Và
đặc biệt đã chứng nghiệm trên dân tộc Việt nam trong mấy thế kỷ. Bao nhiêu
máu đã đổ xuống, bao nhiêu đinh chùa bị chiếm, bàn thờ bị đạp xuống. Nhưng
đau đớn nhất là theo giặc bỏ quê hương !
Và rồi, chúng ta đã chứng kiến hai trận thế chiến kinh hoàng nhất lịch sử
con nguời. Hai quả bom nguyên tử của con cái Chúa đã đổ xuống trên đất Nhật,
thay vì Đức quốc? Và ngày nay, bom đạn lại đổ xuống trên đầu dân Hồi giáo
Trung đông ! Lịch sử nhân loại đã chứng minh như thế đó. Và sự cứu thế đã
thể hiện như thế đó. Dân tộc Chúa chọn Do thái cũng đang trả lại vùng Tây
ngạn để chứng minh sự cứu chuộc ấy. Nhưng thôi, tôi không muốn bàn nhiều về
những ý kiến cá nhân, dù đó là của Thầy tê lễ. Chúng ta sẽ tiếp tục HỌC
trong Tân uớc để thấy cuộc đời và sự nghiệp của ngài Giê su, để có thể biết
rằng ngài có phải là ông Trời cha, ông Trời con, hay một nguời làm cách
mạng.....
- 170
-
Đến đây, có thể bàn thẳng vào chuyện "hiểu lầm Cơ đốc giáo" hay không. Tôi
thành kính cám ơn thầy Minh, về "nhận định quý báu" ấy. Tôi cũng tạm biết,
Cơ đốc giáo không phải là Do thái giáo. Nhưng thầy nghỉ thế nào khi cả Cựu
ước lẫn Tân ước đuợc gộp chung gọi là “Thánh kinh” ? Bởi vì, nếu không có
Cựu uớc, thì làm sao dùng lời các tiên tri để giảng rằng Chúa Giê su là "con
một đức Chúa trời"; thậm chí còn cho ngài là "Thuợng đế hiện thân" ? Nói
cách khác, không có Cựu uớc, thì không có Tân uớc. Vì như thầy đã dạy, đức
Giê xu không phải là đạo sỹ, không đi tìm đạo, ngài chỉ là nhà cách mạng Do
thái. Vậy thì, ngài đâu có đạo mà giảng cho ai ? Giáo chủ đã không có
"giáo", thì làm "chủ" cái gì ?
Không thờ Cựu uớc, thì Thiên chúa ở đâu mà có ? Nhưng khi đã thờ Cựu uớc,
thì hẳn nhiên đa xem đó là KINH MẸ. Đức Giê su từ đó mà trở thành Giáo chủ
của "cách mạng tôn giáo", sau khi "mộng bất thành", trong chính truờng. Do
vậy, trước đây, tôi đã nói trong Tân ước có hai đức Giê su. Thật ra, đây là
cái tài "biến hóa" của "trần gian gian dối", Người ta gán ghép cho ngài
những gì họ muốn. Vừa rao giảng "bác ái", lại vừa dùng "quyền phép Môi se".
Nhưng, có thực hành "bác ái" hay không, thì cả địa cầu đã hiểu rõ trong hơn
hai ngàn năm rồi.
Nếu ông tuyên dương "bác ái"; La mã tuyên dương "bác ái"...thì sao Cựu uớc
vẫn còn nằm trước nhất trong tuyển tập “Thánh kinh” hiện nay ? Nếu không thi
hành những chủ trương của Môi se (Moses), thì cái gì làm nên chiến tranh
thập tự ? Cái gì là nguyên nhân của Toà dị giáo đã giết chết nhiều nhà khoa
học, trí thức Tây âu ? Lý do gì đã bắt "con chiên" phải đạp đổ bàn thờ ?
Chứng cớ gì trong thuyết "bác ái" để xây dựng chuyện "trừ ma yếm quỷ" ? "Bác
ái" nào đi gọi tổ tiên nguời là ma quỷ, Giáo chủ đạo khác bằng "thằng", và
với những lời tục tỉu như Đắc lộ ? "Bác ái" gì khi đem nhau đi giết dân
ngoại đạo, đốt làng ngoại đạo, cuớp chùa chiền miếu vu làm nhà thờ ???
Xin thầy cho biết ý kiến về "thuyết bác ái", trong câu sau đây":
· Chớ tuởng rằng ta đến để đem sự bình an cho thế
gian; ta đến không phải đem sự bình an; mà là đem gươm dáo. Ta đến để phân
rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; và nguời ta sẽ có kẻ
thù nghịch, là nguời nhà mình (MT 10: 34-36). (Think not that I am come to
send peace on earth; I Came not to send peace, but a sword. For I am come to
set a man at variance against his father, and the daughter against her
mother, and the daughter in law against her mother in law. And a man's foes
shall be they of his own household).
Chính đức Giê su đã thực hiện lời này, khi có một môn đồ xin chôn cha truớc
khi theo ngài. Ngài liền dạy:
·
Hãy theo ta, để kẻ chết chôn kẻ chết (MT 8:22)
Lòng bác ái "cao" đến như thế là cùng rồi; chưa nhắc lại chuyện ngài chối
cha mẹ mình !!!
Và để xác minh, tôi có lầm hay không, xin thầy đọc lại câu:
·
Các ngươi đừng tuởng ta đến đặng phá luật pháp hay là lời tiên tri; ta đến
không phải để phá, song để làm cho trọn (MT5:17)
Như thế, ngài xác quyết, ngài đến để "làm cho trọn" luật pháp Môi se. Sự
liên kết rất rõ ràng giữa Tân uớc và Cựu uớc do chính ngài thực hiện, do
chính ngài nói ra. Ai có quyền làm trái ?
Vậy, trong truờng hợp này, tôi hoàn toàn không "hiểu lầm" gì cả, mà chính
các thầy; chủ ý làm cho vấn đề méo mó. Vừa muốn thế này cho êm tai (nói bác
ái); lại muốn thế kia (thi hành Cựu uớc) để ôm quyền Thượng đế mà làm "sự
nghiệp", như ông Môi se đã phán:"Giê hô va đức Chúa trời là sự nghiệp của
các thầy tế lễ" !!!
Sau hết, tôi muốn đặt vấn đề với thầy là :
Đức Giê su "không phải đạo sỹ", "không đi tìm đạo", thì thuyết Bác ái do ai
lập ra; Đạo do ai sáng chế ? Trong ba năm xuất hiện, theo kinh, thì ngài đã
nói mấy câu về thuyết này ? Nói như thế nào và tại sách nào ghi rõ ?
Tôi chỉ muốn học thêm, chứ không hề có ý tranh luận; bởi vì tôi là kẻ bắt
đầu "tìm đuờng" theo lời của tiến sỹ Lê anh Huy; truớc khi "chối bỏ nguồn
gốc quỷ tính con Rồng cháu Tiên và trở lại cùng đức Chúa trời", mà thôi.
Những mong các bậc cao minh chỉ giáo thêm cho.
***051022***
CHƯƠNG 44 :
MẸ AI RƠI LỆ CHO AI
Vừa trao đổi với quý vị về những luận giải của Thầy tế lễ Nguyễn quang Minh,
thì thêm một thuận duyên lại đến. Đó là chuyện báo chí và trên Net đăng tải
Tuợng đức Mẹ Maria ở nhà thờ đức Bà ở Saigon khóc. Mỗi vị, theo cảm tính của
mình đã đưa ra những nhận định khác nhau. Người tin, kẻ không tin. Nguời cho
là Phép lạ, kẻ nói là mê tín dị đoan....Nhưng chưa có một nguời nào đưa ra
đuợc những luận chứng khả tín. Vì vậy mà đức Hồng Y Phạm minh Mẫn đã lên
tiếng, ngài kêu gọi hãy bình tinh, đợi ngài lập phái đoàn điều tra sự thật.
Điều đó rất đúng đắn, bởi vì khi chưa đuợc “Toà thánh Vatican” chấp nhận,
thì mọi chuyện còn hư không, thế sao chúng ta lại tự ý bàn xuôi tính ngược ?
Nhưng theo tôi thì, dù “Toà thánh” có lấy quyền tối thượng để xác nhận đi
nữa, vấn đề cần đặt ra là, "Vai trò của đức Mẹ trong Kinh thánh ra sao" phải
được tôn trọng tuyệt đối. Vì là Kinh, nên “Kinh thánh” phải là giềng mối
đạo. Bất cứ ai tự tạo ra những gì sai Kinh đều là kẻ phản lại tôn giáo mình
đang theo. Do vậy, cần tìm hiểu trong Kinh thánh thì hay hơn.
Về chuyện của đức Mẹ Maria, thì không những ngoại đạo, mà ngay cả những
nguời tin “Kinh thánh” cũng có những cái nhìn khác nhau. Tuy nhiên, với tôi,
thì đó là chuyện "nội bộ". Tôi đi tìm Chúa Trời theo lời khuyên của tiến sỹ
Lê anh Huy, nên tôi chỉ biết Kinh, tin Kinh mà thôi. Chúng ta hãy bắt đầu đi
nhé. Hãy lần theo các sách “Phúc âm” để biết Mẹ là ai, đức Giê su đối với Mẹ
như thế nào, dân Do thái xem Mẹ ra sao ?
Sách Ma thi o (Matthew) ghi lại như sau :
·
Vả sự giáng sinh của đức Chúa Giê su-Christ đã xảy ra như vầy: Khi Ma ri, mẹ
ngài, đã hứa gả cho Giô sép, song chưa ăn ở cùng nhau, thì nguời đã chịu
thai bởi đức Thánh linh. Giô sép, chồng người, là nguời có nghĩa, chẳng muốn
cho người mang xấu, bèn toan đem để nhẹm. Song đang ngẫm nghi về việc ấy,
thì thiên sứ của Chúa hiện đến cùng Giô sép trong giấc chiêm bao, mà phán
rằng: Hỡi Giô sép, con cháu của Đa vít, nguời chớ ngại lấy Ma ri làm vợ, vì
con mà người chịu thai đó là bởi đức Thánh linh. Nguời sẽ sanh một trai,
ngươi khá đặt tên là Jesus, vì chính con ấy sẽ cứu
dân mình ra khỏi tội. Mọi việc đã xảy ra như vậy, để cho ứng nghiệm
lời Chúa đã dùng tiên tri mà phán rằng : Nầy một gái đồng trinh sẽ chịu
thai, và sanh một con trai. Rồi nguời ta sẽ đặt tên con là Em ma nu ên.
Nghia là đức Chúa trời ở cùng chúng ta . Khi Giô sép thức dậy rồi, thì làm y
như lời thiên sứ của Chúa đã dặn, mà đem vợ về với mình, song không hề ăn ở
với cho đến khi nguời sanh một trai, thì đặt tên là Jesus (1:18-25).
Như thế, cuộc đời của MẸ đã tạo nên từ những oái oăm. Tại sao, Mẹ của đức
Chúa con (hay ông Trời giáng thế) lại phải sinh ra từ một hoàn cảnh rắc rối
như thế ? Mẹ, "không chồng mà chửa", trong lúc đã gả cho người khác ? Hai
vấn nạn được đặt ra là : Nếu ông Trời Cha muốn Con ra đời để cứu hộ trần
gian, thì tại sao không đặt để ông Con trong một hoàn cảnh tốt đẹp? Tại sao
để Mẹ ông Con mang tiếng lăng loàn ? Nếu như, ở trần gian, Ngài Cha chỉ yêu
một mình Ma ri a, thì sao ngài để cha mẹ nàng gả cho nguời khác, rồi sau đó
ông Trời mới "hạ thủy", và sai thiên sứ đến bảo "hãy nhìn đi, vì đó là con
Trời"?
Câu chuyện của Mẹ thật thương tâm, và nó phát xuất từ "mộng mị" ! Lấy gì để
bảo đảm rằng, ông Giô sép đem nàng về mà "không ăn ở với" ? Chữ "đức Thánh
linh", là phần "tinh thần" của ông Trời, làm sao có thể "làm bầu" cho một
nguời bằng da, bằng thịt ? "Rồi nguời ta sẽ đặt tên", hoàn toàn gượng gạo.
Không phải "người ta đặt", mà "thiên sứ đã bảo đặt" để cho phù hợp với lời
thánh tiên tri Ê sai. Từ những câu hỏi ấy, toát lên một ý tuởng khôi hài khi
đặt để câu chuyện, gán ghép cho Mẹ đức Giê su !!!
Tôi không biết cái khái niệm "đồng trinh" của nguời Do thái như thế nào;
Nhưng với nguời Việt, thì đồng trinh nghĩa là chưa "làm tình", "chưa đẻ".
Vậy, nay gọi đức Mẹ đồng trinh có đúng không ? Khi còn là nàng Ma ri son
trẻ, chưa chồng, thì hẳn nàng còn trinh tiết thật. Nhưng, lúc đó chưa phải
là Đức Bà kia mà ! Nàng Ma ri cũng như tất cả các cô gái trần gian, không có
gì khác biệt. Sau khi "chịu thai với Thánh linh", thì "nàng" đã trở thành
"Bà" rồi. Hơn thế nữa, Bà không chỉ sanh một "đức Chúa Con"; mà còn có cả
sáu bảy anh chị em. Bà thật to gan, bạo tính. Đã lấy Thượng đế để sanh đức
Chúa Con, thế mà Bà còn dám làm nhục Thiên chúa, khi Bà còn "cho ra một
loạt"; bởi nguời tình khác !
Không những đối với Thánh linh, bà phải chịu tội lăng loàn; mà ngay với dân
Do thái thời đó, bà cũng phải bị "ném đá" mới đúng. Ngày xưa, nước ta cũng
ban hai chữ "trinh thuận" cho những bà giữ vững khí tiết sau khi chồng mất,
chứ chưa bao giờ nghe một người lấy Hai chồng được ca tụng như thế ! Phải
chăng, đó là sự khác biệt trong phong tục ? Hoàn toàn không phải. Vì “Thánh
kinh” cũng ghi lại những trừng phạt cho kẻ Hai chồng thật đáng sợ. Vậy tại
sao có biệt lệ nầy ? Xin các bậc Thần gia giải thích cho.
-
172 -
Trong sách Ma thi ơ, chỉ có ghi qua như vậy thôi, nên vai trò "Thánh" của bà
không đuợc xác nhận rõ ràng. Bây giờ chúng ta học sách Thánh Mác (Mark).
·
Có kẻ thưa rằng: Nầy, Mẹ và anh em thầy ở ngoài kia, đương tìm thầy. Song
ngài phán cùng họ rằng: Ai là Mẹ ta, ai là anh em ta ? Ngài lại đưa mắt liếc
những kẻ ngồi chung quanh mình mà phán rằng: Kìa là Mẹ ta và anh em ta ! Ai
làm theo ý muốn đức Chúa trời, nấy là anh em, chị em, và Mẹ ta vậy.
(3:32-35).
Thánh Mác chỉ có nhắc chừng ấy chuyện đối với Đức Bà. Nhưng, dù chỉ vài câu,
cũng đủ cho một nguời Mẹ đau đớn suốt đời, suốt kiếp. Chính Bà đã "chịu
tiếng mang lời" để sinh ra ngài, nuôi duỡng thành nguời. Cha là Giô sép (cha
ghẻ) cũng chăm sóc, dạy cho ngài nghề thợ mộc để kiếm sống. Nhưng khi đuợc
vài nguời "kính trọng"; thì ngài đã "chối mẹ", “từ cha”. Có nỗi đau đớn nào
hơn không, hỡi những nguời "nhân thế" ?. Vì thế, tôi nghỉ là, nếu Mẹ do
thống khổ, đau sầu vì "lời con phản nghịch", mà chết đi, nên rơi vào cảnh
sống "cô khổ", "không định vị" được, thì bà sẽ than khóc thiên thu ! Cho
nên, nếu hôm nay, nơi tượng bà có chảy nuớc mắt "thật sự", thì đó là giọt
nuớc mắt của một nguời Mẹ khóc con bất hiếu, mà thôi. Không có gì khác !!!
Tiếp tục tìm Mẹ trời, chúng ta học trong sách Lu ca (Luke):
·
Khi cha mẹ thấy ngài, thì lấy làm lạ, và Mẹ hỏi rằng: Hỡi con sao con làm
cho hai ta thể này ? Nầy, Cha và Mẹ đã khó nhọc lắm mà tìm con. Ngài thưa
rằng: Cha mẹ kiếm tôi làm chi ? Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi sao ?
(2:48-49)
Câu trả lời đơn giản ấy, đã làm đau lòng Mẹ đến chừng nào ? Giê su "chối
cha" mình truớc mặt Mẹ, không phải là một cái tát vào mặt bà hay sao ? Đứng
truớc mặt cha mẹ, lại nói rằng "Tôi phải lo việc Cha tôi", là một câu hết
sức tàn nhẫn, mà một kẻ bình thường không thể nào nói đuợc ! Đúng như thầy
Huệ nói :"Ngài nói những lời mà chỉ ông Trời mới có quyền nói" !!! "Con tỏ
lòng Mẹ", ngạn ngữ Việt nam nói là thế đấy. Giê su không chửi thẳng Mẹ mình
là thứ Lăng Loàn, Nhưng câu này lại đau hơn thế; vì đuợc nói ngay truớc mặt
Giô sép; người tình của bà !!! Thế thì, VAI TRÒ ĐỨC MẸ, ngay cả đối với CON
BÀ ĐẺ RA, cũng không có giá trị gì cả; vậy thì, ai đưa bà lên thành ĐỨC BÀ
MA RI A TRỌN ĐỜI ĐỒNG TRINH, để thờ lạy ? Xin hãy nghe thêm cho thỏa dạ :
· Nếu có ai đến theo ta mà KHÔNG GHÉT CHA MẸ, vợ con, anh em, chị
em mình, và chính sự sống mình nữa, THÌ KHÔNG ĐUỢC LÀM MÔN ĐỒ TA (Lu ca
14:26) (If any man come to me, and hate not his father,and mother, and wife,
and children, and brethen, and sisters, yea, and his own life also, he
cannot be my disciple).
Như thế, quá rõ ràng, là ngài GHÉT CHA MẸ đến cực độ rồi. Vai trò Mẹ, đối
với ngài, là một thứ đáng nguyền rủa. Do vậy, đảng của ngài chỉ chấp chứa
những thành phần như ngài "long trọng tuyên bố". Vậy thì, kẻ nào nâng bà Ma
ri lên thành bà Mẹ đồng trinh, là một hành vi phản bội đức Giê su; là những
"môn đồ giả dối", "lợi dụng", đáng nguyền rủa. Có lẽ, lòng căm hận của ngài
đối với Mẹ Ma ri, là do chính sự phản bội của bà. Khi còn mang ngài trong
bụng, thì bà đa về ăn ở với ông Giô sép rồi. Cho nên, khi nghe kể về Mẹ,
ngài đa quá uất ức tột cùng, không kềm chế nỗi !!! Phải chăng, đối với ngài,
thi Ma ri là đáng sỉ nhục ??? Sự kiện này cũng đuợc Thánh Giăng (John) xác
nhận :
·
Vừa khi thiếu ruợu, Mẹ đức Chúa Giê su nói với ngài rằng: Người ta không có
ruợu nữa. Đức Chúa Giê su đáp rằng: Hỡi đàn bà kia, ta với ngươi có sự gì
chăng ? Giờ ta chưa đến. Mẹ ngài nói với những kẻ hầu bàn rằng : Nguời biểu
chi hãy vâng theo cả (2:3-5).
Trong đoạn kinh văn trên, có câu tiếng Anh như sau : "Woman, what I have to
do with thee"; mà dịch như trên là chua đúng nghia. Không thể dịch "có sự gì
chăng" từ "what I have to do with thee". Xin đề nghị dịch lại cho rõ ý :"Mụ
kia, mầy muốn tao đối xử thế nào ? Hoặc lịch sự hon thì :"Mụ kia, bà muốn
tôi đối xử thế nào ? Tôi đề nghị như thế, vì đức Giê su muốn làm phép lạ,
Nhưng đã nhiều lần, gặp người quen, thì không làm đuợc. Cho nên, sự xuất
hiện của bà, có thể làm ngài không thi triển đuợc pháp thuật. Nên ngài giận
dữ. Ý ấy, đuợc chứng minh trong nhiều đoạn. Tôi không nhắc lại.
Qua câu nói trên, sự COI THƯỜNG MẸ của ngài Giê su đã rõ ràng hơn. Gọi Mẹ là
woman, thật là khó lắm đó ! Chỉ có "ông Trời mới nói được (NVH)". Nhưng ,
khi chính ông Trời Con, (hay ông Trời Cha) đã GHÉT MẸ, thì việc dựng tuợng
MẸ để thờ, để ÔM ĐỊA CẦU, là một chuyện TRÁI ĐẠO hoàn toàn. Nếu chừng đó
chưa đủ, thì xin mời quý vị nghe thêm một câu nữa :
·
Tại một bên của thập tự giá của đức Chúa Giê su, có mẹ ngài đứng đó, với chị
mẹ ngài là Ma ri, vợ Cô lo ô ba, và Ma ri ma đo len nữa. Đức Chúa Giê su
thấy Mẹ mình và một nguời môn đồ ngài yêu đứng gần nguời, thì nói
- 173 -
cùng mẹ rằng :"HỠI NGUỜI
ĐAN BÀ KIA, ĐÓ LÀ CON CỦA ngươi .(19:25-26). (Now there stood by the cross
of Jesus his mother, and his mother sister, Mary, the wife of Cleophas, and
May Magdalene. when Jesus therefore saw his mother, and the disciple
standing by, whom he loved, he said unto his mother: Woman, behold thy son).
Như thế, cho đến truớc khi chết, Mẹ vẫn là một kẻ xa lạ, không đáng kính :
KÌA, MỤ KIA, CON MỤ ĐÓ. như thế thì, Mẹ không khóc làm sao đuợc ? Tôi nghỉ,
Mẹ Ma ri a đã khóc quá nhiều bên thập giá, mà không ai diễn tả lại đó thôi.
Nước mắt Mẹ đã chảy dài suốt hơn hai ngàn năm rồi, không chỉ hôm nay Mẹ mới
khóc . Hãy thương Mẹ thật nhiều, cầu nguyện cho Mẹ, giải oan cho Mẹ, thông
cảm sâu sắc với Mẹ. Mẹ đã quá khổ đau, khi những kẻ "lợi dụng Mẹ" cố tình
đưa Mẹ lên thật cao; chính là lúc chúng làm cho Mẹ thêm đau khổ. Chúng nhắc
đến hai chữ "đồng trinh", làm cho CON CỦA MẸ, càng giận, càng hờn, càng
khinh, càng ghét; cho đến lúc sắp chết trên thập giá, cũng còn khinh khi Mẹ
: MỤ KIA, CON MỤ ĐÓ (woman, behold thy son) ! "Con của Mụ đó, chứ không phải
tôi. Tôi có một người cha khác, chứ chẳng phải Giô sép. Mụ đã phản bội cha
tôi, mụ đâu xứng đáng là nguời Mẹ của tôi nữa". Những ý niệm ấy đeo đẳng
theo linh hồn của Mẹ, một linh hồn chẳng bao giờ có thể tìm ra ánh sáng. Mẹ
choáng ngợp với niềm đau, tâm thần réo rắc, ngụp lặn trong bể khổ vô bờ,
không biết ngày nào thoát khỏi. Thương ôi !
Về phía người Do thái, thì tội của Mẹ Ma ri a, là tử tội ném đá, theo luật
Môi se. Bà là người Do thái, dòng họ Đa vít tôn kính; Nhưng dân Do thái
không nhận Mẹ Linh Thiêng. Chính "nguời con" của bà không nhận, không tôn
kính...Và chính bà chẳng có vai trò gì trong “kinh thánh”. Vậy thì, hình
tuợng của Bà đặt khắp nơi có ý nghĩa gì ? Tôi nghỉ, các nhà kinh giáo, các
vị "chủ chăn cần giải thích rõ ràng cho "con chiên" biết rõ.
Ngoài việc sinh ngài Giê su ra, trong một tình cảnh đáng thương; bà Ma ri a,
không hề biết đạo, giảng đạo, tế lễ. Bà cũng không có phù phép chi cả. Vậy
thì, tôn thờ bà mang ý nghia gì, ngoài việc bắt chuớc phương đông ? Từ
chuyện đạo, cho đến chuyện đời, “Kinh thánh” không cho chúng ta thấy một
khái niệm tốt về bà,. ngoài sự "hất hủi" của người con là đức Giê su. "Mẹ
hiển linh", thì Mẹ phải là "Thánh"; Nhưng “Thánh kinh”, trong bốn sách Phúc
âm, đâu gọi bà là Thánh bao giờ ? Ai cải lại, xin viết rõ sự thành lập "tín
lý" này lúc nào và như thế nào ?
Ở Việt nam, Mẹ Ma ri a lại xuất hiện vào những nơi đầy tai tiếng. Nhà thờ La
vang chính là ngôi chùa tranh Lá vằng. Nhà thờ Đức bà ở Saigon, lại cũng là
một ngôi chùa nữa. Những chuyện tranh cải này còn kéo dài, và mới đây, một
bức thư gởi Giáo hoàng La mã đã được đăng tải lên Nét cũng đã đưa ra. Thì
lập khắc, chuyện Mẹ khóc tại nhà thờ Đức bà cũng bùng phát. Hãy chờ xem kết
quả điều tra của Toà Giám mục Việt nam. Chúng ta đã “kinh qua” những việc
như "Tấm vải liệm Chúa Giê su", rồi thì "Thánh tuợng chảy máu" ở Úc
châu...Xin bình tỉnh.
Tôi không phủ quyết niềm tin của ai cả. Ai tin sao cũng mặc. Nhưng nói Mẹ
khóc cho Việt nam, thì hơi vô lý. Mẹ là nguời Do thái, mà Do thái không
nhận. Nếu Bà khóc chăng là khóc cho Do thái mất giải Gaza. Bà khóc chăng, là
khóc, vì có nguời muốn đòi lại nhà thờ Đức bà, nơi bà đang ngụ. Có nguời lại
khôi hài nói rằng, dù không thật, Nhưng dùng nó để "diệt cộng" thì cũng hay.
Không dám nói ấu trỉ, Nhưng thật sự những nguời này chẳng biết gì về Cộng
sản; đặc biệt là Cộng sản Việt nam. Thế mà đòi đấu tranh tiêu diệt chúng,
thì thiệt là tội lỗi. Tôi nghỉ, không chừng "chiêu" này là của chính chúng
đưa ra, để kết tội "tôn giáo là mê tín", cho dễ bề tiêu diệt !!!
Tóm lại, khi tìm trong Kinh thánh, thì vai trò của Mẹ Ma ri a không đuợc xác
nhận là Trời Bà, là Thánh bà...thì sự "hiển linh" của bà khó có thể xác
nhận. Việc Giáo hội La mã đặt ra, và con chiên muốn tin, thì cứ mặc. Nhưng
có một điều chắc chắn, là Bà không phải Mẹ của nguời Việt nói chung. Xin
đừng lạm dụng. Ngay cả các giáo phái khác cũng không công nhận, Nhưng họ
cũng không thể bắt ai đừng tin.
Các tôn giáo hầu như đều có nói đến chuyện này; Phật giáo gọi là thần thông
(supernatural power), Thiên chúa giáo gọi là phép lạ (miracle), Lão giáo thì
kêu là linh phù (talisman-charm)...Nhưng tôn giáo nào cũng nhắc người học
rằng, Ma quỷ cũng làm đuợc như thế. Vậy, có thấy buồn chăng, khi có nguời
Phật tử nói là đi học thần thông ? Vậy, có đáng cuời chăng, khi Con chiên
thấy gì khác thường cũng gọi là phép lạ của Chúa ?
Nói như thế, tôi không có ý cho rằng mọi thứ đều mê tín. Mà chỉ xin nhắc là,
theo Phật giáo thì, thần thông không thể học mà có đuợc. Cái thứ học đuợc
chỉ là bùa ngãi, tà thần !!! Còn phía đạo Chúa, thì học mấy đoạn sau đây của
Thánh Giăng, trong sách Khải huyền :
·
Đoạn tôi thấy một con thú có muời sừng, bảy đầu, trên những sừng có muời hai
cái mão triều thiên, và trên những đầu có danh hiệu sự phạm thuợng. Con thú
tôi thấy đó giống như con beo, chân nó như gấu, miệng như miệng sư tử, và
con rồng đã lấy sức mạnh, ngôi, và quyền phép lớn mà trao cho nó (13:1-2)
- 174 -
Như thế thì, con rồng, con thú đều có “quyền phép lớn”, chúng có thể làm bất
cứ phép lạ nào mà Chúa trời làm đuợc. Chúng chiến đấu với Chúa trời. Vậy,
chúng ta làm sao phân biệt đuợc, đâu là phép lạ của Trời, đâu là của Satan ?
"Muời hai cái mủ triều thiên", ai đội lên đầu con thú ? Chúng ta lại gặp một
rắc rối khác, khi ngài Giăng viết :
·
Nó lại ĐƯỢC PHÉP GIAO CHIẾN CÙNG CÁC THÁNH ĐỒ VÀ ĐƯỢC THẮNG. NÓ CŨNG ĐƯỢC
QUYỀN TRỊ MỌI CHI PHÁI, MỌI DÂN TỘC VÀ MỌI NUỚC.(13:7)
Câu hỏi đặt ra cho nguời học là : Ai giao quyền cho nó, ai ban phép lạ cho
nó ? Tại sao ? Nó không những đánh ngƯời thường, mà còn THẮNG CÁC THÁNH ĐỒ
nữa kia mà. Nó lại ĐUỢC QUYỀN CAI TRỊ các dân tộc....mọi nuớc. Tại sao và
tại sao ??? Trong lúc đó, các thiên sứ của Chúa trời lại đi hủy phá thế
gian, tiêu diệt con nguời. Vậy thì, ai là Trời, ai là Satan ?
·
Vị thiên sứ thứ bảy trút bát mình trong không khí, thì có tiếng lớn trong
đền thờ vang ra, từ ngôi đền mà phán rằng: Xong rồi. Liền có chớp nhoáng,
tiếng rầm,, sấm vang và động đất dữ dội. Động đất lớn lắm đến nỗi từ khi có
loài nguời trên đất chưa hề có như vậy. Thành phố lớn bị chia ra làm ba
phần, còn các thành của dân ngoại đều đổ xuống, và đức Chúa trời nhớ đến Ba
by lôn lớn đặng cho nó uống chén rượu thịnh nộ ngài (16:17-19)
Như vậy, tất cả thiên tai địa hoạ đều do Chúa trời tạo ra cả. Bảy thiên sứ
làm bảy cách để tiêu diệt địa cầu. Đặc biệt đối với DÂN NGOẠI. Ngài đã dùng
QUYỀN PHÉP như thế đó ! Thế thì, tại sao lại trách con người thờ con thú ?
·
Nó làm những PHÉP LẠ LỚN, ĐẾN NỖI KHIẾN LỬA TỪ TRÊN TRỜI RƠI XUỐNG ĐẤT TRUỚC
MẶT NGUỜI TA. Nó lừa dối dân cư trên đất bằng những phép lạ nó đã đuợc phép
làm ra truớc mặt con thú; và khuyên dân cư trên đất tạc tượng cho con thú đã
bị thương bằng gươm và đã sống lại (13:12-14)
Như thế, quyền phép Satan rất lớn, nó có thể lấy lửa trên trời xuống, huống
hồ những chuyện nhỏ nhen !!! Điều oái oăm là NÓ ĐUỢC QUYỀN, chứ không phải
nó tự ý làm . Ô hô ! AI TRAO QUYỀN CHO NÓ ??!!! Vì vậy, khi thấy phép lạ,
đừng vội cho là của Mẹ, của Trời chi cả; mà có thể đó là của Satan. Trời còn
“xất bất xang bang” vì nó, huống hồ con nguời. Đó là lời Thánh dạy, chứ
không phải tôi tự đặt ra. Xin cẩn thận !
Có một điều đáng lưu ý nữa là, trong sách Khải huyền, Thánh Giăng có phát
thệ rằng :""Nếu ai thêm vào sách tiên tri nầy điều gì, thì đức Chúa trời sẽ
thêm cho nguời ấy tai nạn đã ghi chép trong sách nầy. Và kẻ nào bớt điều gì
trong những lời ở sách tiên tri nầy, thì đức Chúa trời sẽ cất lấy phần họ về
cây sự sống và thành thánh mà đã chép ra trong sách nầy (-Kết luận 18-19).
Vậy thì, kẻ có đạo phải biết tuân thủ lời Kinh, chứ đừng vì lời giả dối, lừa
mỵ của Satan, mà nghiêng ngữa lòng tin nơi Chúa. Tôi không nhắc chuyện ai
thêm, ai bớt, vì mọi "con chiên" chắc chắn đã học Kinh nhiều hơn tôi rồi.
Hơn nữa, trong hai ngàn năm qua, ai thêm, ai bớt cũng đã LỘ NGUYÊN HÌNH.
***051105***
CHƯƠNG 45 :
CHA ƠI ĐỪNG BUỘC CHÉN NÀY
Bây giờ chúng ta tiếp tục học trong sách Ma thi Ơ, để hiểu về sự chết, và sự
chuộc tội của đức Giê su. Đọc đoạn văn kinh sau đây, tôi thấy thật cảm động:
·
Khi đương ăn, đức Chúa Giê su lấy bánh, tạ ơn rồi bẻ ra đưa cho môn đồ mà
rằng: Hãy lấy ăn đi, nầy là thân thể ta. Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi đưa
cho môn đồ, mà rằng: Hết thảy hãy uống đi, vì nầy là huyết ta, huyết của sự
giao ước được đổ ra cho nhiều người được tha tội. (26:26-28).
Một tình cảnh thật là bi tráng, nghe mà không cầm được nuớc mắt. Tuy nhiên,
tôi không hiểu được chắc chắn rằng, đây là tình đồng chí, hay tình thầy trò
trong đạo ? Nhưng, dù tình nào đi nữa, thì tình ấy cũng thắm thiết vô bờ.
Một thủ lãnh nói với huynh đệ, hay một giáo chủ nói với môn đồ, cũng đều có
giá trị của tấm chân
-
175 -
tình ! Ở đó, chúng ta
nhận ra một "tình người cao cả". Nếu như, tình nầy đuợc tiếp nối một cách
trong lành, thì hay biết mấy !!! Tiếc thay ! Hận thay !
Có một điều hơi khó hiểu là, trong đoạn kinh trên nói rằng :"huyết của sự
giao uớc đổ ra cho nhiều nguời đuợc tha tội", mang ý nghia gì ? Ai giao ước,
và giao ước những gì ??? Trong chặng đuờng đời ngắn ngủi ba mươi ba năm; mà
thực tế chỉ ba năm, chúng ta không thấy Kinh ghi lại một lời giao uớc nào
của đức Giê su. Cũng không thấy có sự "muốn cho nhiều nguời đuợc tha tội"
nào đã được thốt ra từ miệng ngài. Để xác minh điều này, chúng ta đọc thêm :
·
Ngài bèn phán: Linh hồn ta buồn bực cho đến chết, các ngươi hãy ở lại đây và
tỉnh thức với ta. Rồi ngài buớc tới một ít, sấp mặt xuống đất mà cầu nguyện
rằng: Cha ơi , nếu có thể đuợc, xin cho chén này lìa khỏi con ! Song không
theo ý muốn con, mà theo ý muốn Cha. (26:38-39).
Như thế, mặc dù biết cái chết sẽ đến với ngài, Nhưng ngài KHÔNG MUỐN. Ngài
cầu nguyện cho thoát khỏi chén này. Vậy thì, cái chết này ngài không tự
nguyện. Ngài muốn "thoát khỏi" kia mà. Hai câu trên đây nghịch lại nhau hoàn
toàn; và đà tự tố cáo nguời viết "đem ý mình", buộc vào "chuyện nguời". Nỗi
đau khổ truớc cái chết, đa làm cho lòng ngài đau đớn lắm. Vì vậy :
·
Ngài trở lại lần nữa, thì thấy môn đồ còn ngủ; vì mắt họ đã đừ quá rồi.
Đoạn, ngài bỏ mà đi cầu nguyện lần thứ ba, VÀ LẶP XIN NHƯ LỜI TRUỚC.
(26:43-44).
"Xin cho chén này lìa khỏi con", lặp đi lặp lại Ba lần, đã chứng tỏ ngài rất
sợ cái chết. Ngài không muốn, hoàn toàn không muốn. Do đó, ngài không tự
nguyện chết để cứu hay chuộc cho ai cả. Sự việc ấy, đuợc chính ngài nói ra:
·
Uớc chừng giờ thứ chín, đức Chúa Giê su kêu lớn lên rằng: Ê li, Ê li, lam ma
sa bách ta ni, nghia là : Đức Chúa trời tôi ơi ! Đức Chúa trời tôi ơi ! SAO
NGÀI LÌA BỎ TÔI (27:46)
·
Đức Chúa Giê su kêu lên một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn (27:50).
Lời thống hận "Sao ngài lìa bỏ tôi" đã chứng tỏ Thuợng đế không còn lưu tâm
đến ngài, nên ngài phải chết. Chết một cách đau đớn vô cùng trên ác giá của
bạo quyền La mã. Cũng từ hai thánh Ma thi Ơ và Mác ghi lại như nhau các câu
trên, chứng tỏ, đó là một sự thật. Nghĩa là, họ cùng xác nhận, đức Giê su
chẳng muốn chết; Nhưng vì Ông Trời bắt phải chết. Đành vậy thôi !
Nhưng, nếu "ngài lìa bỏ tôi", thì làm sao xác nhận đuợc tinh thần của câu
nói sau đây:
·
Thầy cả thuợng phẩm lại hỏi : Ấy, chính ngươi là đấng Christ, con đức Chúa
trời đáng ngợi khen phải không ? Đức Chúa Giê su phán rằng: Ta chính phải
đó, các ngươi sẽ thấy Con nguời ngồi bên hữu quyền phép đức Chúa trời, và
ngự giữa đám mây từ trên trời mà đến. (Mác14:61-62).
Nếu như, ngài biết truớc rằng, sau khi chết đi ở thế gian u mê này, thì ngài
sẽ được về ngồi bên tay phải của Thuợng đế, với tất cả oai quyền của một
Thiên thái tử. Thì hẳn nhiên, chết là một vinh dự. Chết là trò chơi, có
"đuợc", mà không "mất" gì cả. Thế sao, ngài lại khóc than, trách hờn Thuợng
đế ??? Đọc câu :"Đức Chúa trời tôi ơi ! Sao ngài lìa bỏ tôi", có lương tâm
một kẻ nào mà bình tỉnh đuợc ? Chúng ta nghe từ đó một tiếng khóc não nề,
chua xót, đắng cay, và sầu hận chất ngất. Một nỗi nuối tiếc, bỏ lỡ; chứ
không phải hoàn thiện, thỏa mãn, hy sinh !!!
Cũng trong một trạng thái bị giết chết, lịch sử Việt nam ghi lại chuyện Ông
Nguyển thái Học, và mười ba đồng chí lên đoạn đầu đài một cách oai dũng.
"VIỆT NAM MUÔN NĂM", một tiếng hô bất diệt. Họ an nhiên bước vào cảnh giới
bất tận của dân Việt, trong ý niệm "CHẾT CHO TỔ QUỐC TỒN SINH". Nhát gươm
thù cắt cổ họ đi. Máu tuôn ra để nuôi sống hồn dân tộc; làm chất xúc tác cho
thế hệ tương lai để giữ gìn non nước. Do đó, chết đối với họ, là sống mãi
thiên thu. Họ không hề kêu ca, khóc lóc !
Như thế, từ VIỆT NAM MUÔN
NĂM, đến SAO NGÀI LÌA BỎ TÔI, chắc quý vị thấy hai đuờng khác biệt !!!
Tuy nhiên, ông thánh Giăng, lại viết khác đi một chút :
·
Khi đức Chúa Giê su chịu lấy giấm ấy rồi, bèn phán rằng : Mọi việc đã được
trọn; rồi ngài gục đầu mà trút linh hồn. (19:30)
Ông thánh Lu ca lại ghi hơi khác nữa :
-
176 -
·
Đức Chúa Giê su bèn kêu lớn rằng:' Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay
Cha. Ngài vừa nói xong thì tắt hơi (23:46)
Như thế, cùng một cái chết, và cùng được gọi là “Thánh kinh”, đã ghi lại
những điều không đồng. Vậy thì, nên tin ông nào ? Theo tôi, hai ông Ma thi ơ
và Mác, đã được liệt vào hàng đầu, thì chắc chắn nguời ta cho là khả tín
hơn. Nhưng nghiệt một nỗi, nếu tin vào hai ông thánh này, thì "đức Giê su
không tự nguyện dâng hiến đời mình để cứu chuộc"!!!
Đọc câu "Linh hồn ta buồn bực cho đến chết", chúng ta nghe thấy nơi ngài một
niềm đau da diết; một tiếc nuối khôn nguôi. như thế, rõ ràng ngài không bằng
lòng với cái chết. Ngài không chấp nhận nó. Ngài tha thiết kêu Trời "cho
chén này lìa khỏi con", đủ chứng tỏ trạng huống tinh thần hoàn toàn bất mãn.
Nếu chết đi để đuợc thăng hoa, thì ngài đã cười truớc cái chết. Ngài đa
tuyên bố "Ta chết cho loài nguời"; chứ sao lại "buồn bực cho đến chết" ?
Linh hồn là chủ thể của xác thịt. Khi linh hồn "buồn bực", thì xác thịt cũng
"rã rời". Trạng thái tâm lý này hoàn toàn sợ sệt, lo âu. Ngài không đủ can
đảm để chấp nhận nó, nên kêu Trời van xin tha thứ "cho chén này lìa khỏi
con". Vậy thì, câu nói:"huyết của sự giao ước đổ ra cho nhiều nguời được tha
tội"; là sự gán ghép vụng về của tác giả. Giả như, ngài biết rằng, ngài đã
giao ước chịu chết cho nhiều nguời đuợc tha, thì tại sao phải "buồn bực cho
đến chết" ? Ngược lại, phải lấy đó làm vui; phải thấy hãnh diện truớc cái
chết, mới đúng chứ ?
Nếu nói rằng "đã có giao uớc", thì việc "xin cho chén này lìa khỏi con", là
một “phủ nhận”. Ngài đã từ chối lời giao ước đó rồi. Vậy thì, máu ngài đổ
xuống không mang tinh thần vì giao uớc, vì chuộc tội nữa. Ngài chết, vì
chính ngài xác nhận rằng: Ngài là con đức Chúa Trời, là vua dân Giu đa.
Chính vì "nói phạm thuợng", (MT 26:65-67) nên ngài phải bị xử tử trên ác giá
!!!
Nếu thực sự là Con đức Chúa trời, và tự ngài xưng ra; thì ắt phải dùng quyền
phép tối thượng của mình để hóa giải thế gian, chứ sao lại phải chịu chết ?
Trong các tôn giáo khác, cũng có những chuyện "hoá sinh" tương tự; Nhưng
không vị thánh nào lại tự xưng mình cả. Sau khi hoá độ xong rồi, các ngài để
lại một dấu tích gì đó, để người sau suy gẫm và tôn vinh. Đằng này thì khác,
ngài tự xưng mình có tất cả "quyền phép" Thượng đế ban cho, Nhưng ngài không
thể thay đổi "lòng nguời" lúc đó. Tại sao ? Với tất cả "quyền phép" trong
tay, sao ngài không thể cứu dân Do thái khỏi bọn cuờng quyền La mã; mà lại
nghiễm nhiên nhìn nuớc mất nhà tan, nhân dân thống khổ ? Chính bản thân ngài
là Con Một Thuợng Đế, mà cũng phải chịu chết, thì dân ngu ai giúp đuợc ?
Chết như thế, không những không cứu chuộc dân Do thái, mà còn làm mồi cho
bọn đế quốc lên cao. Chúng sẽ hả hê, vì Con Trời cũng bị giết, thì đám dân
man rợ ra gì. Đối với dân đen cũng vậy; họ sẽ suy nghi rằng, Thiên chúa cũng
không thể thắng bạo quyền, thì làm sao họ dám chống lại. Cái chết của ngài
đã làm nhụt ý chí chiến đấu của nguời dân. Nếu như, ngài chỉ là một nhà cách
mạng thông thường; ngài không xưng Thuợng đế con, thì hậu quả nhẹ nhàng hơn
nhiều. Tiếc thay !!!
Dù duới hình thức cách mạng, hay tôn giáo; chúng ta cũng thấy tiếc thay cho
ngài, khi đọc câu :
·
Kế đó, ngài trở lại với môn đồ, thấy đang ngủ, thì ngài phán cùng Phi e ro
rằng: Thế thì các ngươi không tỉnh thức với ta trong một giờ đuợc......Ngài
trở lại lần nữa thì thấy môn đồ còn ngủ, vì mắt họ đã quá đừ rồi (Ma thi ơ
26:40-43).
Tôi không cầm được nuớc mắt trước hoàn cảnh của ngài. Có nỗi đau đớn nào
hơn, khi đồng đội, đồng chí, hay môn đồ của mình đã quá dửng dưng trước cái
chết cận kề của vị thủ lãnh. Có xót xa nào hơn nữa, hỡi Trời !!! Nhưng cũng
từ đó, một niềm oán hận dâng lên, đối với những con nguời quá bạc bẽo, vô
tình. Họ đã chung sống với đức Giê su trong ba năm, chịu sự điều động, hướng
dẫn của ngài. Thế mà, chỉ "tỉnh thức một giờ" với ngài truớc khi chịu chết,
cũng không đuợc. Quả thật là Thánh mới có tâm hồn loại này !!!
Khi suy nghỉ sâu hơn một chút, tôi thấy có hai lý do, để câu chuyện được ghi
lại như thế. Một là, họ không coi đức Giê su là vị thủ lãnh thực sự; mà chỉ
có lợi dụng thôi. Hai là, chính họ âm muu bán đứng ngài. Trong số những cao
đồ ấy có nguời là đàn em ruột của ngài : Phi e ro (Peter) .Thế mà mắt có
thể "đừ" đi, mới là lạ !!! Tình thương yêu anh em, đồng đội, lòng tôn kính
lãnh tụ; và hơn nữa, một tập thể cách mạng (hay tôn giáo) đang lâm nguy, mà
họ có thể ngủ được sao ? Một ngu dân bình thường cũng không thể nào làm được
như thế, thì Thánh nhân sao có thể làm ? Ai trả lời được một cách khác, xin
vui lòng lên tiếng dạy dỗ cho ???
Một câu hỏi khác được đặt ra là, nếu lãnh tụ bị bắt và giết, thì làm sao môn
đồ hay đồng chí có thể an nhiên được ? Tại sao chỉ có đức Giê su mới chịu
đóng đinh, trong lúc anh em, đồ đệ của ngài không hề bị xử,
-
177 -
dù chỉ là phạt vạ vài ngày ? Chúng ta lại thấy, người viết cố tình tuyên
dương Cựu ước, nên cố gán ghép vào tình trạng đức Giê su :
·
Nhưng mọi điều ấy phải xảy đến, hầu cho những lời các đấng tiên tri đã chép
được ứng nghiệm. Khi ấy, hết thảy môn đồ bỏ ngài mà trốn đi (Ma thi ơ
26:56).
Chúng ta thử suy nghỉ vài điều xem sao. Trong đoạn văn này có hai ý :Một là
"cho ứng nghiệm lời các tiên tri". Đây là cung cách người viết :"giải thích
tùy tiện". Việc ngài Giê su bị bắt và giết trên thập tự đã được nhiều người
ghi lại. Có hai tội chính : "xưng là Trời con- xưng là vua dân Giu đa".
Thiết tưởng, hai tội này đều bất khả lập; vì ngài không nhân danh Trời để
giết nguời như ông Môi se. Ngài cũng không có quân đội, chính quyền gì trong
tay, nên xưng vua cũng chẳng hại ai cả. Nếu nói đến tội phạm thượng và giết
người, thì ông Môi sẽ mới phải gánh chịu. Nhưng tại sao coi ông Môi se là
Đạo tổ, còn giết ngài Giê su ???
Thứ hai, nói là người Do thái giết ngài, thì lại càng không đúng; vì lúc đó,
Do thái bị La mã chiếm ngự rồi. Họ không có quyền giết người theo ý họ. Nói
rằng "tùy ý dân", thì hoá ra, đã tôn xưng bạo quyền La mã là công bình !!!
Do ý nầy, tôi thấy, kẻ viết nên truyện ngài, chính là Bạo quyền, chứ không
phải nguời Do thái. Đổ tội giết đức Giê su cho dân Do thái để vừa chạy tội,
vừa nâng giá trị bọn ác ôn La mã, vừa lợi dụng được Bá đạo của ông Môi se;
bằng cách nói "ứng nghiệm lời tiên tri". Cái đau khổ cho một con nguời như
đức Giê su, là chính ngài, một người Do thái; được xem như một "con chiên tế
thần", để thỏa mãn cuồng vọng của bọn lưu manh ác bá. Cái chết "vì dân tộc"
của ngài đã trở thành hại dân tộc ngài cho đến bây giờ. Nhân dân Do thái đã
bị tru diệt trong bao thế kỷ, chỉ vì cái chết của ngài. Vậy, sự thực ở đâu ?
Nếu nói rằng :"Khi ấy hết thảy môn đồ bỏ ngài mà trốn đi", lại càng vô lý.
Trong ba năm trời chung sống, hành hoạt với nhau giữa lòng dân Do thái, ai
mà không biết họ. Họ cùng có mặt tại hiện truờng, sao trói đức Giê su, mà
không trói các môn đồ hay đồng chí của ngài ? Làm sao họ có thể trốn thoát,
khi mọi nguời đều biết tên, biết mặt ? Chúng ta lại thấy đau xót cho dân Do
thái khi đọc câu:
·
Phi Lát thấy mình không thắng nỗi chi hết, mà sự ồn ào càng tăng thêm, thì
lấy nuớc rửa tay trước mặt thiên hạ, mà nói rằng: Ta không có tội về huyết
của người này. Điều đó mặc kệ các ngươi . Hết thảy dân chúng đều đáp rằng :
Xin huyết người lại đổ trên chúng tôi, và con cái chúng tôi (Ma thi ơ
27:24-25).
Sự "chối phăng" tội ác giết người của Bạo quyền La mã quá rõ ràng, không thể
chối cải vào đâu được ! Việc ca ngợi bạo quyền cũng được nâng cao chưa từng
có. Ai có thể chứng minh được rằng, một tên bạo ngược cướp nước, tiêu diệt
dân tộc khác, lại tổ chức "trưng cầu dân ý" như vậy, truớc một bản án ghê
gớm bao giờ Chúng ta lại thấy câu :"xin huyết người lại đổ trên chúng tôi,
và con cái chúng tôi"; lại là một âm muu tiêu diệt Do thái, đáng phỉ nhổ,
đáng nguyền rủa. Bạo quyền đã trở thành Thuợng đế !!!
Một quan Tổng đốc, thay mặt "Vua Xâm lăng" để xử án, lại phải chịu thua "dân
chúng nô lệ"; và phải rửa tay để nói rằng "mặc kệ các ngươi ", là một trò hề
lịch sử. Nhất là lịch sử thống trị của bọn ác ôn La mã. Đem trộn lẫn "để
ứng nghiệm lời tiên tri", với "rửa tay" để chạy tội, thật là bỉ ổi. Nếu như,
lời tiên tri đã như thế, thì dân Do thái chẳng có tội gì, và ngược lại. Tại
sao đổ cho dân Do thái giết ngài ? Nếu đã có "lời tiên tri" và "tin" như
vậy, thì việc giết người là do Thượng đế bày trò. Thủ phạm chính là Thượng
đế. Nhưng cái nguợc ngạo ở đây, là Thượng đế được tôn vinh, còn Do thái bị
tiêu diệt. Tại sao và tại sao ???
Có một chuyện, tôi thấy không chịu nỗi, đó là; các vị được gọi là Thánh tông
đồ, lại "trốn đi", khi "Chúa" mình gặp nạn ! Sau ba năm sinh hoạt, hẳn môn
đồ đã có nhiều. Vậy tại sao không một ai có mặt tại phiên tòa "nhân dân" để
nói lên lời công đạo cho ngài ? Tình thương, lòng kính mến không thể hiện
được trong cái chết của "Chúa" mình, thì ai đưa ra thuyết Bác Ái ? Bác ái
với ai ? Bác ái thế nào ? Bác ái để làm gì ??? Giả sử nói rằng, đức Giê su
dạy thuyết Bác ái, thì chứng tỏ ngài không giáo dục đuợc các Đại tông đồ. Và
như thế, làm sao đạo Bác ái được chân truyền ??? Nếu nói rằng đạo Bác ái do
các Thánh tông đồ truyền lại, thì thật oái oăm thay ! Kẻ không làm đuợc, mà
dạy người khác làm, thì ai mà tin cho đuợc ???
Trong một bài viết gởi cho tôi được đăng trên mạng luới Diễn đàn chính trị,
Thầy tế lễ, tiến sỹ Nguyễn quang Minh dạy rằng:" Vì hiểu sai mục đích của
thầy mình, cho nên đa số tín đồ xưa và nay đã hiểu lầm rằng Giu đa phản
Chúa, Nhưng thật ra là Giu đa được thầy (lãnh tụ mình) nhắc nhở là cuộc cách
mạng đã đến lúc "khai pháo" rồi, nên đi báo với "phe địch" là phe ta sẽ ra
mắt để khởi nghĩa đó".
Tôi không có tài liệu và cũng không cần sưu tập về chuyện này, vì tôi chủ
trương chỉ học Kinh thôi. Tuy nhiên, vấn đề này cũng làm tôi cảm động. Nếu
quả thật như thế, thì hơn hai ngàn năm qua, "tín đồ" vẫn hiểu
- 178 -
sai hay sao ? Trong lúc thực tế, Thánh kinh đã đuợc sửa đổi nhiều lần, Nhưng
"Giu đa" vẫn bị "phản Chúa", và đau đớn hơn là những kẻ "BỎ NGÀI MÀ TRỐN
ĐI", lại được phong là Thánh Tông đồ !!!
Câu hỏi cần được giải thích là tại sao "kẻ vì Chúa mình mà tự tử", lại bị
khép tội "phản Chúa" ? Trả lời câu hỏi này, thì tiểu sử của đức Giê su sẽ
sáng tỏ, và hệ thống bạo quyền La mã sẽ bị vạch ra truớc công luận. Phải
chăng, đây là sự tráo trở trong việc "tạo dựng vai trò Giê su" để diệt Do
thái của La mã ? Những ai trung thành đều bị buộc tội phản, còn ai bán đứng
ngài lại cho là Thánh. Thật đáng buồn, đáng tủi, đáng hận cho tập thể tín đồ
lớn mạnh nhất thế giới cho đến nay vẫn hiểu lầm Chúa mình !!!
Tôi lại băn khoăn hơn khi nghe ông Minh giảng rằng :"Ở đây không có ai lạy
ai cả, mà cũng không có ai đang tầm sư học đạo cả, mà cũng không có ai là
Ông Chúa, ông Trời nào cả".
Vậy thì, đức Giê su là ai, ngài có "chịu chết để chuộc tội cho thiên hạ"
hay không, vẫn còn là một vấn nạn cho tập thể tín đồ của ngài. và nếu như
lời ông Minh thì, lời của ngài Mác :
·
Ai tin và chịu phép Báp têm, sẽ được rỗi, Nhưng ai chẳng tin sẽ bị đoán phạt
(Mác 16:17)
Còn có giá trị hay không ? Điều này còn đợi các bậc thông thái trên toàn địa
cầu giải thích cho.
***051112***
CHƯƠNG 46 :
MÁU CHƯA ĐỔ XUỐNG CHƯA THA
Trong mục đích đi tìm ông Trời của “Thánh kinh Do thái”, tôi đã phải trích
dẫn rất nhiều kinh văn, hầu mọi nguời thấy được những gì cần thấy. Tôi cho
là tạm đủ. Nhưng, thấy trên mạng Hoptinhhoply.com, tiến sỹ Lê anh Huy đã
đăng một bài triết lý sống động của Mục su Nguyễn văn Huệ; với đề biểu là
"Chúa Giê su là hiện thân "Ông Trời" giáng thế". Thật là một bậc kỳ vỹ, lạ
lùng! Ngay cái tựa đề cũng đã hấp dẫn rồi, phải không nè ?
Sáu chữ "hiện thân Ông trời giáng thế", cũng đủ làm rùng mình người đọc cỡ
lớp ba như tôi. Tôi không hiểu rằng, đây có phải là một từ, mà Thầy tế lễ
dịch từ chữ Incarnation hay không.(di nhiên không phải từ Christmas). Nếu
quả đúng thì có thể viết lại như sau :"Hiện thân ông Trời hiện thân- giáng
thế ông Trời giáng thế", nghe mà vui vẻ lạ thường ! Ở một khía cạnh khác,
khi đã hiện thân, thì không có nghĩa giáng sinh nữa. Nhưng ở đây, do "dư dã"
chữ nghĩa, nên có cả hai cùng một lúc. Đẹp quá ! Quả tình chân nhân thì có
khác. Chân nhân ca ngợi chân thần quá đúng thôi ! Và như thế, nối tiếp đến
chân lý, chân tình, chân cẳng....Nó chính là nó....Tuyệt vời !!!
Mở đầu bài viết, ông Huệ giảng rằng :
" Có rất nhiều lý do để chúng ta tin Chúa Giê xu, chính là ông Trời giáng
thế để cứu vớt nhân loại nói chung, và người Việt chúng ta nói riêng".
Rồi ông dẫn 8 lý do thật sắc bén "không thể chối cải". Thử nghiệm xem nó như
thế nào để chung vui cùng chân nhân mới ?
1/"Chính Chúa Giê xu tuyên bố ngài là con đức Chúa trời".
Sự xác định này coi như "huề cả làng". Vậy thì ông Mohammed cũng tự coi ông
là tiên tri thứ nhất, cũng đúng luôn. Và mới đây, một mụ nào đó tự xưng Vô
thuợng sư, tức thầy của Trời nguời, cũng "không thể chối cải"....Hơn hai
trăm ông Trời của "trần gian gian dối" đều "không thể chối cải". Vậy thì, ai
nói làm sao, nghe làm vậy, rồi tin, rồi đi diệt ông Trời khác cho Trời mình
độc tôn...là thông minh hay trần truồng và đần độn ???
Để biện minh cho lập luận của mình, ông Huệ không ngần ngại viết:
"Ngài còn phán : Ai đã thấy Ta, tức là đã thấy Cha. Rồi ngài phán tỏ tuờng:
Ta với Cha là một"(Giăng 10:30).
Chỗ này hơi nhạy cảm đây nhé. Theo thiển kiến cá nhân, tôi thấy; giả như
thật sự, ngài Giê su có nói "Ta với Cha là một", thì ý nghĩa không phải như
ông Huệ diễn cảm. Ta với Cha là một, nghĩa là cái "tánh đồng nhất", chứ đâu
phải hai nguời là một. như đã nói, nếu Cha Con lẫn lộn, thì thân phận bà
Maria thật đau khổ. Vừa là Mẹ, vừa là Vợ. Hữu tình hay vô ý, ông Huệ đã biến
ngài thành Vô luân. Hơn thế nữa, ngay trong câu thầy Huệ trích dẫn :"Ngài
khẳng định: Sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là đức Chúa trời có một và
thật, cùng Giê xu
Christ là đấng Cha đa sai đến (Giăng 17:3). Trong câu ấy, rõ ràng có hai ông
riêng biệt. Vậy, sao có chuyện ông "Trời sai ông Trời đi" ! Ông Trời lấy
"nguời ta" để đẻ ra ông Trời !!!Ông Trời nói "ta là con ông Trời”, rồi "ta
cũng chính ông Trời" ???
Nếu thực sự có một ông Trời thật như định nghia là toàn năng, toàn
trí...thì, ông có cần dùng "cái cửa thế gian" để ra đời hay không ? Tôi nói,
dứt khoát là không; vì toàn năng, tức thiên biến vạn hóa; thì tại sao phải
dùng cái "xác thịt dơ dáy" của con nguời mà thị hiện ??? Ngay trong “Thánh
kinh” đã ghi lại nhiều lần chuyện ông Trời Thị Hiện để huớng dẫn, điều khiển
ông Môi se đi diệt bảy dân tộc mà về đất Hứa
Trong Tân uớc, ông Trời cũng la lên rằng :"Này là con yêu dấu của Ta, đẹp
lòng ta mọi đàng(Ma thi ơ 3:17). Vậy, không lẽ ông Trời "thật và chỉ một",
lại gọi chính mình là con mình ? Tôi nghỉ, ông Trời không thể "lẩm cẩm" đến
thế !!!
Chúng ta lại nghe ông Huệ nói rằng :"Một người tự xưng mình là ông Trời
giáng thế, thì ta chỉ có thể đưa đến kết luận (1) đó là nguời điên, (2)đó là
người lừa dối, hoặc (3) đó là người nói thật. Cuộc đời và ảnh huởng của Chúa
Giê xu chứng tỏ ngài không phải người điên. Ngài không hề lừa dối. Ngài luôn
nói thật".
Quả là lý luận chắc như cua gạch, tôi không dám mạo phạm. Tuy nhiên, tôi chỉ
không mạo phạm với Chúa, còn phần thế gian thì xin bàn luận với mục sư xem
sao.
Ông Trời sai Con xuống, hoặc chính ông thị hiện chỉ vì hạ giới khổ đau. Ông
xuống để cứu chuộc. Xin hỏi ông Huệ rằng, Trời xuống để cứu, sao chần chờ
đến Ba mươi năm để đi làm thợ mộc? Ông Trời sống thản nhiên giữa nỗi khổ vô
bờ của nhân loại cần cứu gấp. Ba mươi năm, đối với con nguời là quá xa dài.
Thế mà, ông chẳng nói một lời, làm một tí việc gì cả; mà cứ ngồi đục đẽo, là
nghĩa làm sao ??? Ngay lúc ông giáng sinh, thì mục đồng đã theo lời Trời Cha
mà loan báo tin mừng; vậy thì, cả thế gian sao ngu đần đến nỗi, không tới
cầu ông xuất chiêu cho sớm để nhân loại bớt khổ đau ? Và sau khi ông đã chịu
chết để chuộc tội cho thiên hạ, thì thiên hạ đã sống như thế nào ? Ai gây
nên chiến tranh thập tự ? Ai tạo ra Toà Dị giáo ? Ai truy sát Tin lành ? Ai
chia rẽ thành Chính thống giáo, Anh giáo ? Ai gây hai cuộc thế chiến ? Ai
tiêu diệt các dân tộc Mễ, Nam Mỹ...Phi luật tân..Việt nam ???
Nếu nói cứu, thì cứu bằng cách nào ? Nếu gọi là chuộc, thì chuộc với ai ?
Giả sử thứ nhất, ngài Giê su là Con Trời. Thì phải chăng, chúng ta buộc tội
cho ông Trời gian ác ? Tại sao, ông bắt Con Một của ông đưa cho Quỷ Ma đóng
đinh, trong lúc ông là kẻ có "toàn năng", để xử lý mọi việc ? Tại sao phải
chết, phải giết, mới có thể chuộc tội ? Tội gì ? Nếu nói rằng, ngài là Ông
Trời giáng thế, thì chúng ta lại buộc ông Trời là kẻ "vô năng", đầu hàng Ma
quỷ ? Lừa dối thế gian ? Nếu nói không lừa dối, thì tại sao, quả thiệt là
ông Trời, mà nói là con mình ? Quả thiệt ông Trời, mà phải chịu gục đầu trên
thập tự, mà không xuống tay diệt bạo quyền La mã ? Vậy, cái chết của ông để
chuộc tội hay để tôn vinh bạo quyền ?
Khi nói "Chúa Giê su là hiện thân ông Trời giáng thế", cũng đồng nghĩa với
buộc tội ngài Giê su là lừa dối; vì trong Kinh ghi lại lời ngài minh xác
nhiều lần rằng ngài là con Trời, kia mà. Thế sao, ông Huệ lại nói "ngài luôn
nói thật", mà chính ông không tin ? Đức Giê su chưa từng tuyên bố ngài chính
là ông Trời. Vậy thầy tế lễ lấy đâu ra chuyện này ? Hãy đọc lại :
·
Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi sao (Lu ca 3:49).. (lời lúc 12 tuổi)
·
Ê li , Ê li, lam ma sa bách ta ni (Ma thi o 27:46)
Đó là câu cuối cùng, truớc khi tắt thở trên thập ác của bạo quyền La mã !!!
Người sắp chết hay nói thật đấy !
Trong câu nói "Hãy trả cho Sê sa vật gì của Sê sa" (Ma thi ơ 22:21) đã chứng
minh một phần luận điểm nói trên. Đó là một câu chuyện, khi nguời ta hỏi
ngài về chuyện nộp thuế cho Sê sa (Vua). Trong một đoạn khác, đức Giê su
cũng bảo Phi e ro đi câu cá để nộp thuế: "Hãy lấy đồng bạc đó, và đem nộp
thuế cho ta và ngươi " (Ma thi ơ 17:27).
Như vậy thì, ông Trời cũng bảo con dân phải cúi đầu nộp thuế cho bọn bạo
quyền!!! Chính ông đã từng nói :"Song le, để chúng ta khỏi làm gương xấu cho
họ.." (Ma thi o 17:27). Thế thì, ai không nộp thuế cho bạo quyền là "xấu" !
Chính ông Trời cũng phải nộp kia mà !!! Ngài làm gương tốt đấy ! Ông Huệ
giải thích thế nào nhỉ ?
Nếu nói theo kinh thì, "đức Chúa Giê su biết ý xấu của họ, bèn đáp
rằng....". như vậy, lời của ngài nói :"Hãy trả cho Sê sa vật gì của Sê sa",
là một lời "không thật". Ngài đã "lừa" những nguời tới hỏi để thoát tội "về
lời nói". Trong truờng hợp này, thì dù chỉ là nhà Cách mạng cũng không xứng,
chứ đừng nói đến Con Trời !!! Có
lẽ, Mục sư Huệ chưa học đoạn kinh văn này, nên mới viết "ngài luôn nói thật"
chăng ? Cái thành ngữ Sê sa này, cũng đã dẫn nhiều người vào một lầm lẫn
lớn. Người ta cứ ngỡ đây là một câu "công bình", mà thật sự chỉ là một câu
để "lừa" của ngài mà thôi. Cũng như câu "vùng đất Hứa", đã chứa đầy "tội ác
diệt chùng bảy dân tộc", mà người đời tuởng là một "tương lai rạng rỡ" !!!
Mỗi chúng ta thử suy nghỉ vài câu, xem câu nào thật, câu nào không thật:
·
Chớ tuởng rằng, ta đến để đem sự bình an cho thế gian; ta đến không phải đem
sự bình an, mà là đem gươm dáo. Ta đến để phân rẻ con trai với cha, con gái
với mẹ, dâu với bà gia, và nguời ta sẽ có kẻ thù nghịch, là nguời nhà mình
(Ma thi o 10:34-36).(thật)
·
Quả thật ta nói cùng các ngươi , trong các ngươi đứng đây, có một vài kẻ sẽ
không chết trước khi thấy Con Nguời ngự đến trong nước ngài (Ma thi o
16:28).(không có)
·
Quả thật, ta nói cùng các ngươi , trong những nguời đứng đây, có mấy kẻ sẽ
chẳng chết khi chưa thấy nuớc đức Chúa trời lấy quyền phép mà đến (Mác
:9:1). (không có)
·
Ngài đáp rằng : Ai là mẹ ta ? Ai là anh em ta ? (Ma thi o 12:48). (Giả dối,
bất hiếu)
·
Vả, khi họ điệu các ngươi đi nộp, chớ có ngại điều mình sẽ nói, Nhưng đến
giờ đó, hãy nói theo lời đã ban cho; vì ấy không phải các ngươi nói, bèn là
đức Thánh linh vậy( Mác13:11). (Trốn hết còn đâu mà điệu ? Thánh linh cũng
chẳng bảo nói gì?)
·
Đức Chúa Giê su đáp rằng: ngươi thấy các nhà lớn nầy ư ? Rồi ra sẽ không còn
một hòn đá sót lại trên một hòn đá khác nữa: cả thảy đều đổ xuống (Mác 13:2)
. (lâu rồi chua thấy).....
·
Dầu vậy, Ê li chẳng đuợc sai đến cùng một nguời nào trong đám họ, Nhưng đuợc
sai đến cùng một nguời đờn bà goá ở Sa rép ta, xứ Si đôn (Lu ca 4: 26). (một
sự thật)
Ông Huệ nói " Chính Chúa Giê su tuyên bố ngài là con đức Chúa trời", liệu có
lầm lẫn chăng ? Theo “Kinh thánh” thì, chính ông Giô sép, "cha ghẻ" của ngài
mới biết đầu tiên. Nhưng ngặt một nỗi, Kinh không hề đặt vai trò nào cho ông
cả. Mà thực tế, phủ nhận ông, là phủ nhận toàn bộ. Tiếc thay ! Kẻ nói thứ
hai là bọn mục đồng, theo lời "thiên sứ dạy", mà tuyên xưng ngài tại "hang
lừa". Nguời chính thức gọi ngài là Christ, chính là đàn em ruột ngài : Phi e
ro. "Ngài phán rằng: Còn các ngươi thì xưng ta là ai ? Si môn Phi e ro thưa
rằng: Chúa là đấng Christ, con đức Chúa Trời hằng sống (Ma thi o 16:15-16).
Và truớc khi chết, thì ngài mới nói "thật như lời", khi bị quan án hỏi rằng,
"có phải là đấng Christ, con đức Chúa Trời chăng". Thế thôi !
Xem thế, người gọi là Christ đầu tiên, là đàn em ruột, Nhưng chính nguời này
lại chối Chúa ba lần; và bỏ ngài mà đi. Tại sao ??? Xin mỗi độc giả, và mỗi
tín đồ hãy tự tìm hiểu để thấm thía tinh thần của “Thánh kinh”. Bây giờ,
chúng ta tìm hiểu một câu khác.
Ông Huệ viết :
"2/ Chuá Giê xu làm những việc phi thường mà chỉ có ông Trời mới có khả năng
làm", rồi ông dẫn như sau: "Ngài chữa lành mọi bệnh tật, khiến người mù được
thấy, người điếc đuợc nghe, nguời phung đuợc sạch, người què bại đuợc đi,
thậm chí khiến kẻ chết sống lại". Tuyệt diệu quá thôi ! Nhưng tiếc thay,
tổng số quá ít ỏi trên dân số địa cầu; và như thế đáng gọi là ông Trời hay
thầy bùa chữa bệnh ?
Tôi không dám phủ nhận "những việc Ông Trời" như thế. Nhưng, nếu ông Trời đã
làm ghê gớm như vậy, thì xin hỏi, hiện nay không có nguời mù, nguời què,
nguời điếc....và không có nguời chết hay sao ??? Nếu ngài "chữa lành mọi
bệnh tật", thì những bệnh tật ngày nay như Sida, cúm gà....sao "thoát sổ" ?
Trời đã chữa hết rồi mà !
Chúng ta lại rùng mình khi nghe ông Huệ nói : "Ngài có quyền đuổi quỷ. Ma
quỷ biết Chúa Giê xu và run sợ truớc uy danh của ngài. Khi ngài phán, ma quỷ
liền vâng lệnh ra khỏi nhiều người bị quỷ ám".
Thật tài tình ! Nhưng, ma quỷ là cái gì, chúng ta chưa thấy. Truớc mắt ngài,
bọn "ma quỷ sống" đang làm thịt ngài để tế thần chúng, sao chúng không vâng
lệnh ngài, sao chúng không sợ ngài chút nào nhỉ ? Xin hỏi rằng, bọn quỷ
vương, nó cũng có quyền phép, mà chúng sợ ngài, thì tại sao con nguời chẳng
tin, chẳng sợ, ngay cả những nguời em ruột cùng mẹ với ngài ???
Xin hãy nghe ngài dạy :
·
Những Christ giả, tiên tri giả sẽ nổi lên, làm những dấu lạ, phép lạ, nếu có
thể đuợc, thì họ cung dỗ dành chính những người đuợc chọn. Hãy giữ lấy, ta
đã nói truớc cho các ngươi cả. (Mác 13:22-23)
Vì vậy, kẻ học đạo Chúa phải cẩn thận, chớ đừng nghe theo "phép lạ", như
"Thánh tuợng chảy máu", rồi ra chỉ là hoá chất. Nay lại có đức Mẹ khóc ở
Saigon; liệu có phải bọn Việt cộng "khóc" hay không ? "Tin, tin, dạ hãy còn
phòng". Bởi vì, chính bản thân ngài cũng:
·
Ở đó, ngài không (thể) làm nhiều phép lạ, vì chúng không có lòng tin (Ma thi
o 13:58)
·
Ở đó, ngài không làm phép lạ nào đuợc, chỉ đặt tay chữa lành một vài người
đau ốm; và ngài lấy làm lạ, vì chúng chẳng tin (Mác 6:5-6)
Đặc biệt trong bài ấy có một câu :"Ngài động lòng thương xót khi thấy đoàn
dân đông như chiên không có nguời chăn".
Chỗ này thật khó khăn cho người đọc. Ngài thấy không ai chăn, sao ngài không
ở lại mà chăn, lại phải chịu đóng đinh trên thập ác của bạo quyền La mã ?
như vậy, hoá ra ngài vô trách nhiệm quá chăng ? Ngài đa bỏ mặc, ngài đã trốn
chạy; một mình về thiên đàng an nghỉ, bỏ lại đằng sau những khổ đau của nhân
loại, đặc biệt đối với dân Do thái của ngài. Thế thì, ngài "xuống thế" đâu
có chuộc được ai. Ngược lại, ngài nâng giá bạo quyền lên cao một tầng nữa:
"con Trời (hay ông Trời) cũng phải bị xử tử" ! Thương ôi !
Khi đọc câu :"Ngài có lòng thương xót, quãng đại. Ngài tha thứ cho nguời tội
lỗi và khuyên họ đừng tái phạm". Tôi không biết nghĩ làm sao khi đọc:
·
Sáng ngày, khi đã lìa làng Bê tha ni, thì ngài đói. Vừa thấy đằng xa một cây
vả có lá. Ngài đến đó xem hoặc có chi chăng; song tới gần rồi, chỉ thấy có
lá mà thôi, vì bấy giờ không phải mùa vả. Ngài bèn cất tiếng phán cùng cây
vả rằng: Chẳng hề có ai ăn trái của mầy nữa! Các môn đồ đều nghe lời ấy.
(Mác 6:12-14).
Thế là cây vả chết tiệt luôn ! Nói làm sao, khi lòng nhân không có với một
cây vả trái mùa, nên không có trái ? Phải chăng, vì quá đói, nên giận lây
thảo mộc trái mùa, ngài đa nhổ gốc nó ? Đối với cây cỏ, mà còn lên giọng
nguyền rủa, thế thì "quãng đại" thế nào với loài biết "phản ứng" như con
nguời ???
·
Bởi đó, ai xưng ta truớc mặt thiên hạ, thì ta cũng sẽ xưng họ truớc mặt cha
ta; còn ai chối ta truớc mặt thiên hạ, thì ta cũng sẽ chối họ truớc mặt cha
ta ở trên trời (Ma thi o 10:32-33)........ĐỦ RỒI !!! Ăn miếng trả miếng !
·
Và quăng những người đó vào lò lửa, là nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng
(Ma thi o :13:42).
Ôi "công bình" đến thế là cùng!
·
Cây nào mà trên trời cha ta không trồng thì hãy nhổ đi. Hãy để vậy: đó là
những kẻ mù mà làm nguời dẫn đưa (Ma thi o 15:13-14). Khủng khiếp !
Ông Huệ viết:
"3/ Chúa Giê xu nói những lời mà chỉ ông Trời mới có đủ thẩm quyền nói
đuợc". Vâng, đúng vậy, trong những câu nhu:
·
Ai là mẹ ta ? Ai là anh em ta ? (Ma thi o 12:48)
·
Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và
chính sự sống mình nữa, thì không đuợc làm môn đồ ta (Lu ca:26).
Thế thì, "theo ta", nghĩa là phải bỏ hết cha mẹ, anh em...tổ tiên...nòi
giống, Tổ quốc...? mới trọn !!! Đúng là ông Trời thật đó. Vì chỉ có ông Trời
mới "không có" các thứ vừa nêu, nên ông dễ nói !
·
Hãy theo ta, và ta sẽ khiến các ngươi nên tay đánh luới nguời (Mác 1:17).
Theo ngài để trở thành bọn "đánh luới nguời", chứ không phải tìm đạo, học
đạo, cứu hay chuộc...gì cả. Ngài nói thật đấy !!! Ngài đã thành công !!!
·
Hãy theo ta, để kẻ chết chôn kẻ chết (Ma thi o 8:22). Chỉ có ông Trời mới có
loại lý luận này, vì ông Tự hữu !!!
Ông Huệ viết :
"4/ Đức Chúa Giê xu không bị giới hạn bởi không gian và thời gian".
Thật vĩ đại ! Tuy nhiên, cuộc đời ngắn ngủi của ngài, ba mươi ba năm; thực
tế chỉ có ba năm, đã làm nên những gì; ngoài chuyện bùa ngãi chữa bệnh ? Nếu
không bị giới hạn bởi thời gian, thì ngài phải "hiện thân" lâu để cứu chuộc
mới đúng chứ ? Đằng này, ngài chỉ cứu có mấy nguời Do thái, còn dân cả hoàn
cầu ở đâu, ngài
đâu có biết ? Nếu không bị giới hạn bởi không gian, thì ngài đa hiện thân
khắp noi, chứ sao chỉ có "ra từ một người đan bà "ở tại Do thái ? Ngài có
ngày sinh và ngày chết rõ ràng đấy mà, sao không bị thời gian hạn chế chứ ?
Trong ba năm ấy, ngài đa chuộc đuợc ai ra khỏi tội lỗi, và bằng cách nào ?
Chính ngài nói, ngài "đến để đem gươm dáo...", sao ai lại buộc chữ cứu chuộc
vào ngài ? Nếu quả thật ngài nói với môn đồ rằng: " Hết cả quyền phép trên
trời duới đất đã giao cho ta". Thì ngài tự làm nhục mình đó thôi ! Ngài có
tất cả "quyền phép ông Trời", sao ngài không dẹp được bọn cường quyền La mã,
mà để dân ngài chịu đựng mãi khổ đau ? như thế, chẳng cứu, chẳng chuộc gì
cả, mà chỉ làm cho thế lực Ma quỷ lớn thêm lên ! Ngài dạy ai đuợc, khi chính
ngài cung phải chịu gục đầu trên thập ác của Ma vương ? Vậy, phải chăng,
ngài dạy phải đầu hàng Bạo lực Ma quỷ, phải chết trong tay chúng ?
Nếu quả thật, ngài có tất cả quyền phép trên trời duới đất, thì sao ngài
không biến đổi lòng dạ của những kẻ độc ác, thành hiền từ ? Ngài không tạo
cho con nguời một đời sống vô bệnh, no đủ...? Nếu nói, con nguời phản Chúa,
sao ngài không khiến nội tâm chúng "thôi phản", mà phải bị Ma quỷ hành hình
độc địa trên thập giá ? Những việc ngài làm, thì ngày nay cũng có nhiều
người làm đuợc, hoặc làm hơn. Không những cở vừa, mà chúng còn thay gan,
thay tim, thay não...thậm chí, còn "làm nguời" nữa chứ ! Đó là chưa nói đến
chuyện máy điện toán, điện thoại, phi thuyền....
Trong phần 5, ông Huệ tìm chứng nhân, trong đó có tiên tri Ê sai, Thiên
sứ...Nhưng lòng kẻ ngoại đạo như tôi có nhiều thắc mắc. Phải chăng, từ những
điều gọi là tiên tri ấy, ngài Giê su sinh trong những ngày mà Đa ni en nói,
rồi vì thế mà bị các nguời tin Cựu uớc đóng đinh ngài để tuyên dương Cựu uớc
là đúng ? Ông lại nhắc đến Thánh đồ Phi e ro quả quyết :"Chúa là đấng cứu
thế, con đức Chúa trời hằng sống". Tôi cảm thấy buồn rười rượi. Nếu biết
chắc đàn anh mình là con Trời hay ông Trời, thì sao ông ta chối Chúa ba lần
? Thế mà, ông được, đàn anh (Giê su) giao hội thánh cho, thì mới lạ. Từ ngày
khởi đầu sự nghiệp, Giăng giải thích tường tận như sau :
·
Trong hai người đã nghe điều Giăng nói và đi theo đức Chúa Giê su đó, một là
Anh rê, em của Si môn Phi e ro. Trước hết nguời gặp anh mình là Si môn, thì
nói rằng, chúng ta đã gặp đấng Mê si (nghĩa là đấng Christ). Người bèn dẫn
Si môn đến cùng đức Chúa Giê su. Ngài vừa ngó thấy Si môn, liền phán rằng;
ngươi là Si môn, con của Giô na, ngươi sẽ đuợc gọi là Sê pha (nghia là Phi e
ro). (Giăng 1:40-43).
Vậy là, BA ANH EM ta, bắt đầu một cuộc "ĐÁNH LƯỚI NGƯỜI"( Mác 1:17). Vậy
thì, dẫn lời "phe ta", làm chứng cũng bằng thừa thôi. Một chuyện lạ, là ngay
từ khi ba anh em (thầy trò)gặp nhau để thi hành kế hoạch "đánh luới nguời",
thì ngài đã loại cha mẹ ra ngoài vòng thân quyến.!!! Nói như thế, không phải
tôi trách ngài, mà có lẽ như thầy tế lễ Nguyễn quang Minh nói "ngài đi làm
cách mạng", "chứ không phải ông Trời, ông Chúa gì cả"; thì việc ngài "chối
cha mẹ", là một điều khôn ngoan "rất nguời", để tránh sự liên lụy; mà thời
đệ nhất Cộng hoà gọi là "gia đình liên hệ" ! Tôi suy nghỉ, và đồng ý với
thầy Minh về vấn đề này: "Đức Giê su chỉ là một nhà Cách mạng Do thái".
Trong phần 6, ông Huệ viết :
"Chúa Giê xu giáng thế không phải để dạy triết
lý về sự cứu rỗi hoặc chỉ cho nguời ta con đuờng tu luyện để tự cứu rỗi.
Ngài giáng thế là để thực hiện sự cứu rỗi bằng cách chịu chết để đền tội cho
cả loài nguời".
Xin thưa rằng, tội chết của ngài được “Kinh thánh” ghi rõ là "tội xưng Con
Trời, xưng mình là vua Giu đa". Vậy thì, thế gian này có ai làm ra hai tội
này đâu mà cứu ? Ngài làm, ngài chịu. Thế thôi ! Còn chuyện, "Bởi Ta mà biết
Cha Ta", lại càng sai. Vì nguời ta đa biết Thiên chúa từ đời ông Áp ra ham,
rồi đuợc "hình hoá" bởi ông Môi se (Moses) . Đợi chi đến ngài mới xưng con
Trời, mà biết ?
Trong câu triết lý "không phải....chỉ cho nguời ta con đuờng tu luyện để tự
cứu rỗi", lại càng nghịch lý ! Không tự cứu, thì ai cứu ? Nếu muốn Thiên
chúa cứu, thì truớc hết phải TIN VÀ THỜ PHUỢNG CHÚA. Vậy thì, TIN, THỜ là
một hành động do TỰ mình làm ra, nghia là muốn cứu hay không cũng do mình
quyết định, chứ không phải do Chúa. TIN là một cách TỰ CỨU. Chúa không thể
và chưa bao giờ khiến chúng ta tin; bởi vì, nếu vậy, thì kẻ tin hay không
cũng đuợc cứu. Mẹ cứ trông ngóng con, Nhưng con xây lưng lại đi mãi, thì làm
sao gặp đuợc? Cho nên, gặp hay không là tự con quyết định.
Chúng ta lại nghe ông giảng rằng: "Con đường thập tự giá là dủng khí của
tinh thần bất bạo động". Tôi bùi ngùi nhớ lại những nạn nhân của hàng chục
cuộc thánh chiến "Thập tự quân". Tiếc thay, Chúa Giê su đã chết để tuyên
dương bất bạo động, thì những người nhân danh ngài lại vác thập giá để TIÊU
DIỆT ANH EM, chứ đừng nói người ngoại đạo ! Vậy thì, sự hiểu biết của Mục
sư, có khả tín hay không ? Tôi lại nghẹn ngào khi đọc :"Vì
thương xót loài nguời, Chúa Giê xu kiên quyết tiến đến thập tự giá với tinh
thần quả cảm, hy sinh". Có lẽ thầy Huệ chưa học mấy câu này chăng:
·
Ngài bèn phán: Linh hồn ta buồn bực cho đến chết, các ngươi hãy ở đây và
tỉnh thức cùng ta (Ma thi o 26:38)
·
Cha ơi , nếu có thể đuợc, xin cho chén này lìa khỏi con (Ma thi o 26:39)
·
Đoạn ngài bỏ mà lại đi cầu nguyện lần thứ ba, và lặp xin NHƯ lời truớc (Ma
thi o 26:44)
·
Uớc chừng giờ thứ chín, đức Chúa Giê su kêu tiếng lớn lên rằng: Ê li, Ê li,
lam ma sa bách ta ni, nghia là Đức Chúa trời tôi ơi , đức Chúa trời tôi ơi !
Sao ngài lìa bỏ tôi...Đức Chúa Giê su lại kêu một tiếng lớn nữa, rồi trút
linh hồn (Ma thi o 27:46-50).
"Chúa Giê xu chịu chết đổ huyết để thỏa mãn đòi hỏi của luật pháp, theo đó,
"không đổ huyết thì không có sự tha tội"
Đây là một câu đáng buồn của ông Huệ ! 'KHÔNG ĐỔ HUYẾT THÌ KHÔNG CÓ SỰ THA
TỘI", nghĩa là gì, nếu không phải là cái luận thuyết "ăn miếng trả miếng",
"mắt đền mắt.." Có ai tưởng tượng đuợc rằng, khi giết xong, thì gọi là tha
tội không nhỉ ? Đây là một "quái luận" ! Nó chỉ đuợc thực hiện đâu từ trên
thiên đàng, còn thế gian này khó chấp nhận. Đã uống máu kẻ thù, mà còn nói
đến tha! Tha cái gì nữa, khi đã lấy đi mạng sống kẻ khác ? Như vậy, ai muốn
THA, thì phải ĐỔ MÁU để tế thần truớc đã !!!
"Đổ huyết để thỏa mãn đòi hỏi của luật pháp", là vì vi phạm luật pháp, mới
bị xử. Như vậy, thầy Huệ cho rằng Cường quyền La mã đã làm đúng rồi sao ?
Con Trời hay Ông Trời hiện thân, cũng phải chịu sự "thoả mãn cho Luật pháp
Ác ôn", mà không hề chống lại chúng. Câu này đã giải thích lý do tại sao, ba
mươi năm qua, họ vẫn tìm sự "tương đồng" với Cộng sản để tồn tại. Cứ "thỏa
mãn luật pháp", mà không cần biết luật đúng hay sai, hợp với lòng dân hay
không. Lạ nhỉ ???
Như thế, cái chết của đức Giê su, là để thỏa mãn cho luật pháp La mã, để
tuyên xưng nó là đúng; chỉ có hại cho nhân loại, chứ đâu phải cứu nhân loại
??? Ngài chỉ nói "Ta là con Trời- Ta là vua Giu đa", chưa làm nên tội gì, mà
cũng phải cúi đầu chấp nhận bị tử hình, huống chi nguời dân chống lại chúng
bằng hành động cụ thể ? Theo lý luận của ông Huệ, thì ngài chết cho Bá quyền
La mã, đâu phải chết vì nhân loại; vì luật ấy chỉ là luật La mã, có can hệ
gì đến các quốc gia khác ? Nếu vào thời điểm ấy, ngài sinh tại Việt nam, hay
một nuớc ở đông phương, thì đâu có ai giết ngài vì tội lạm ngôn khi nhân
danh Thuợng đế. Ngài chết vì truyền thống bạo nguợc của ông Môi se, không
liên can đến nhân loại !
***051116***
CHƯƠNG 47 :
BẤT BÌNH RÚT KIẾM XÔNG PHA
Tiếp tục tìm hiểu lời dạy của thầy tế lễ Nguyễn văn Huệ, tôi thấy cần đưa ra
ánh sáng vài vấn đề mà ông đề cập đến. Trong phần 8, được gọi là "Lịch sử
nhân loại chứng minh chúa Giê xu là đấng cứu thế, ông viết :
-"Trải qua hai ngàn năm, thế giới có dân Do thái tản lạc, tồn tại và hồi
hương lập quốc."
Cách chứng minh này, thật quả tài tình không ai bằng. Nhưng có dân Do thái
thì sao ? Nó liên quan gì đến chuyện đức Giê su là cứu thế hay không ? Hay
nó chứng minh ngược lại ?
Xin đưa ra vài lý lẽ xem sao. Hai ngàn năm qua, quả thật có dân Do thái tản
lạc và hồi hương lập quốc. Và điều đó chứng tỏ rằng, đức Giê su, một nhà
cách mạng (tôn giáo) Do thái, đã không cứu đuợc dân ông. Ông ra đời, và xưng
mình là Con trời, là vua Giu đa. Thế nhưng, chỉ nói để mà chết cho vẻ vang,
chứ thực tế, ông không làm gì cả. Ngoài việc chữa một vài bệnh nhân đâu đó,
thì chuyện chính trị và tôn giáo không có gì gọi là cách mạng. Kinh ghi rằng
:
·
Lúc bấy giờ, đức chúa Giê su phán cùng chúng rằng: Các ngươi đem gươm và gậy
đến bắt ta, khác nào như ta là kẻ cuớp..Ta thường ngày ngồi trong đền thờ
và giảng dạy tại đó, mà các ngươi không bắt ta. Nhưng mọi điều ấy phải xảy
đến, hầu cho những lời các đấng tiên tri đã chép được ứng nghiệm. Khi ấy hết
thảy môn đồ bỏ ngài mà trốn đi. (Ma thi o 26:55-56).
Và một câu này nữa :
·
Đứa phản ngài lại trao cho bọn đó dấu này: Ngưòi nào mà tôi sẽ hôn, ấy là
nguời đó, hãy bắt lấy (Ma thi o 26:48)
Có buồn cười không, khi một nguời nổi tiếng như ngài, mà quan quân của bạo
quyền La mã không hề biết mặt mui ra sao. "Ta thường ngày ngồi trong đền thờ
và giảng dạy..", đa tự tố cáo sự sắp xếp quá thừa về tình trạng ngài. Để
cho Giu đa trao nụ hôn nồng lên lãnh tụ, sẽ đưa đến hai việc. Một là, cho
rằng bạo quyền La mã quá đạo đức! Hai là cho rằng ngài Giê su chẳng có giá
trị gì trong chính trị cũng như tôn giáo !!!
Vậy, kẻ ngoại đạo có quyền tin rằng, cái chết của ngài là một sự sắp đặt sẵn
"hầu cho ứng nghiệm" cuốn sách Cựu uớc, mà thôi. Do đó, chuyện xung Con
Trời, sự đóng đinh, việc sống lại, thăng thiên...đều do Cựu uớc mà ra. Khổ
thay cho ngài, sinh nhằm ngày giờ của nguời "đoán trước" trong lúc ngài
chẳng có tội vạ gì cả.
Suốt ba mươi năm truờng, theo cha làm nghề đục đẽo, bỗng chốc phải chết một
cách đau đớn vô cùng trên thập ác giá !!! Vâng, thầy Huệ ạ, có dân Do thái,
có ngài tên Giê su đã chết oan uổng, Nhưng ngài không phải con Trời, không
cứu ai cả, kể cả dân ngài. Và tội khổ hơn nữa là, để bêu lên tiếng con Trời,
người ta bắt ngài phải từ cha, chối mẹ; thậm chí còn ghi lời ngài nói Ông
kia, Mụ nọ với phụ mẫu của ngài !!!
Mấy trăm năm nay, lại có chuyện tôn Mẹ đồng trinh linh hiển nữa chứ ! Nhưng,
không biết nguời ta lấy đâu ra chuyện này. Còn Kinh thì viết :" Mụ kia,
ngươi muốn Ta đối xử thế nào" ? Mẹ, mà còn gọi WOMAN (Mụ kia-Bà kia - Nguời
đan bà kia : Woman, what I have to do with thee (Giăng 2:4). Thế mà, có thầy
lại dịch : "Thua mẹ", từ chữ "Woman", mới thật tài tình vô kể chứ !!! Mẹ
ngài, ngài gọi Mụ kia, không nhận, mà bỗng chốc thành Mẹ thế giới, Mẹ Việt
nam, quả thật linh ứng vô vàn !!!
Xin mọi nguời hãy lắng lòng mình, nghe tiếng kêu đau đớn của ngài : TRỜI ơi
.............TRỜI ơi ................(Ê li, Ê li..) trước khi gục đầu tắt
thở. Từ đó, chúng ta thấy rõ, có phải ngài "quyết tiến đến thập tự giá với
lòng quả cảm hy sinh" hay không ? Hay chính ngài chịu nhục hình đau đớn một
cách oan uổng ? Người ta đa xây dựng hình ảnh ngài một cách quái lạ: Báo tin
Con Chúa ra đời là bọn mục đồng; loan báo ngài sống lại là mấy mụ đàn bà;
làm phép xức dầu "sửa soạn để chôn xác Ta đó" (Ma thi o 26:12)cũng là một
người đàn bà; bị đóng đinh cùng hai tên cuớp; làm con của một nguời đã gả
chồng (hoang thai); sinh ra trong hang lừa; ba mươi năm không học hành chi
cả; chối cha, bỏ mẹ; tuyên bố đến để đem gươm dáo...Tại sao ??? Không lẽ làm
Con Trời hay Ông Trời, thì phải đủ các hình tuớng, và tính chất này sao ???
Nơi câu kế tiếp, thầy Huệ chứng minh rằng: "Nhân dân khắp năm châu có Cơ đốc
giáo, có lễ Giáng sinh và lễ Phục sinh, có ngày Chúa nhật, có niên hiệu
dương lịch truớc Chúa (TC) và sau Chúa (SC), hằng năm có hàng triệu người
hành hương thánh địa, có di tích ngôi mộ trống, có một phần ba dân số thế
giới xưng mình là Cơ đốc nhân (Christian) có nhà thờ, bệnh viện, có các
truờng đại học, có các đại chủng viện, có Hội Hồng thập tự, và các tổ chức
bác ái từ thiện, có nền văn minh, văn hoá hiện đại, có khoa học kỹ thuật
tiên tiến, đời sống trẻ em và phụ nữ đuợc nâng cao, nhân quyền được tôn
trọng..v.v."
Như thế, thầy vơ hết thảy chuyện tốt thế gian cho Chúa cả. Cũng đúng thôi,
vì là Ông Trời thì chẳng gì là không của ông ? Chỉ tiếc là ông viết hơi
thiếu, nên xin thêm vào chút đỉnh. Khi nói "khắp năm châu có cơ đốc giáo",
thì cũng phải ghi nhận thêm rằng: "khắp năm châu đã có những dân tộc bị
tuyệt diệt. Tổ tiên họ bị giết, văn hoá họ bị biến dạng, ngôn ngữ họ bị thay
đổi, Tổ quốc họ bị xâm lăng...Thần tuợng bằng vàng của họ bị nấu chảy, bàn
thờ tổ tiên họ bị đạp xuống, chùa miễu họ bị biến thành nhà thờ......Khi nói
đến "hành hương thánh địa, mộ trống", lại quên nói đến "tấm vải liệm Chúa
Giê su giả", thánh tuợng chảy máu "hoá chất"...Khi nói đến "văn minh, văn
hóa", lại thiếu mất chuyện Galille, Bruno...toà dị giáo..Khi nói, "một phần
ba thế giới xưng Cơ đốc nhân", lại quên chuyện "cải nhau, giết nhau, chia rẽ
thành Chính thống , Anh giáo, Tin lành...cả hàng triệu người phải chết oan
uổng. Khi nhắc lại "bệnh viện, đại chủng viện, truờng đại học.." , lại không
nói đến việc cướp của, giết nguời, vơ vét mười phần trăm lợi tức, tiền đền
bù Sexual abuse....Khi nói về bác ái, từ thiện, hồng thập tự..lại bỏ quên
chuyện tiền hồng thập tự được dùng để làm gì, chuyện mua xe hơi cho "nguời
mình dùng" ở Iraq đã bị một Mục sư đưa lên báo, tay cầm cái này, tay cầm cái
"kia", buộc bệnh nhân bỏ tổ "trở lại"...Nói đến "phụ nữ được nâng cao", lại
quên họ chỉ có tu tới Chị, trong lúc nam giới trèo lên Cha thiên hạ. Nhân
quyền thì có thật đó giữa xã hội Tây phương, Nhưng thực sự có còn nằm trong
hai chữ "Chủ chăn", và "con chiên" không ???
Ông Huệ viết tiếp :
"Tất
cả những thực tế đó mặc nhiên chứng minh rằng Chúa
Giê xu là đấng Cứu nhân độ thế và thế giới không được như ngày nay nếu không
có ngài. Rồi còn bao nhiêu cuộc đời đã đuợc đổi mới với kinh nghiệm ngọt
ngào, vui tươi sống động, khi gặp gỡ Chúa cứu thế Giê xu".
Vậy thì, khi tôi nhắc lại những thực tế sau khi ông viết, ông sẽ có kết luận
thế nào ? Kinh nghiệm ngọt ngào hay cay đắng khi "con cùng một mẹ giết nhau"
trong hàng chục thế kỷ ? Vui tươi hay lệ đổ khi bàn thờ tổ tiên bị đạp xuống
, tuợng thần bằng vàng bị nấu chảy ? Sống động bao nhiêu khi nạn khủng bố
tập thể đang diễn ra truớc mắt cũng chỉ vì tranh nhau ông Trời ? "Cứu nhân
độ thế" thế nào khi tuyên bố "ta đến không phải đem hoà bình, mà là đem gươm
dáo. Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà
gia.."??? Kiểm điểm một cách trung thực về kết quả "khi gặp gỡ Chúa Giê xu"
sau hơn hai ngàn năm, có bao nhiêu triệu nguời bị chết thảm vì "nạn tôn
giáo" ở châu Âu, Châu Mỹ La tin, châu Á, Châu Phi....Mễ tây co..., thì chúng
ta biết ngay "cứu" hay "diệt" thế giới con nguời ??? Bao nhiêu đất nuớc, dân
tộc, bao nhiêu con nguời; kể cả triết gia, khoa học gia, thiên văn, địa
lý....đã chết hay sống duới bàn tay "chúa" ???(chữ này tôi không viết hoa)
Phải ! Phải lắm. "Thế giới không được như ngày nay, nếu không có ngài". Nếu
không có ngài, thì Âu châu đâu có bị chìm trong biển máu của thập tự chinh,
của toà dị giáo, của thời đại đen tối (dark age) suốt ngàn năm ? Và từ đó,
thế giới con nguời đã chuyển mình qua huớng khác rồi. Nếu quả đất đuợc "quay
quanh mặt trời" sớm hơn, thì vi trùng HIV đã chết sớm, H5N1 đã không còn,
bọn khủng bố Hồi giáo đã không mang xe bom tự sát....Đã không có hàng ngàn
vụ Sexual abuse làm sạt nghịệp, thay vì hàng triệu triệu vụ trên thế giới
còn chưa thấy mặt trời. "Không có ngài", thì dân Phi, Mễ, Nam Mỹ ...đâu biết
tiếng Tây ban nha..các Thần bằng vàng đâu ai dám nấu chảy thành thỏi mà mang
về bên kia bờ đại dương cho bọn Đại Độc Hoàn cầu...Thì đâu có phim Sex,
thuốc kích thích, bom nguyên tử; đâu có thế chiến..và đang đối diện với họa
diệt vong vì tôn giáo...Đó cũng là "kinh nghiệm ngọt ngào, vui tươi, sống
động", phải không nhỉ ??? Xin lỗi thầy tế lễ, tôi chỉ biết ít thôi.
Trong tiểu tiết "Con đuờng sống", ông Huệ viết khá dài để kêu gọi người Việt
"từ giả đường củ để theo con đường mới", tôi chỉ xin bàn luận vài vấn đề nhỏ
thôi. Ông hạ bút :
"Người Việt chúng ta có truyền thống thờ Trời. Các tôn giáo và tín nguỡng Á
đông đã góp phần tốt đẹp cho truyền thống nầy. Đây cũng là ơn phúc đức Chúa
trời dọn đuờng để cho chúng ta đón nhận đạo Trời do Chúa cứu thế đem đến".
Thật là vui khi đọc mấy dòng chữ đó. Đúng là thầy nầy đã làm như lời dạy của
đức Giê su :"Hãy khôn khéo NHƯ Rắn" (Ma thi o 10:16). Người đọc nghỉ gì khi
đọc "truyền thống thờ Trời", rồi "ơn phúc đức Chúa trời dọn đường để cho
chúng ta đón nhận đạo Trời" ???
Như vậy, rõ ràng có hai ông Trời khác biệt phải không ? Cái "đạo Trời" không
phải là "truyền thống thờ Trời" của người Việt. Nhưng "con rắn" này đã cuộn
đuôi đầu lại một đống ! Nếu đã có "truyền thống thờ Trời", thì đâu cần ai
"dọn đuờng đón nhận đạo Trời" nào nữa ? Nói theo thế gian, đây là lời "lẻo
mép". Đã có ông Trời của mình rồi, sao lại phải đi tìm một ông Trời xa lạ
khác ?
Nói khác hơn, ông Huệ đã dẫn "đạo Trời" của ông "xâm lăng" ông Trời Việt
nam; phá vỡ "truyền thống thờ Trời" của dân tộc Việt. Ông Trời của Do thái,
là của Do thái. Ông Trời Việt nam, là của dân Việt. Mỗi dân tộc tạo ra ông
Trời của mình với những tính chất hoàn toàn khác biệt để nương tựa.
Nếu căn bản của đạo Chúa Do thái là đi tiêu diệt bảy dân tộc khác,
diệt thần khác để độc tôn, thì đạo Trời của Việt nam không hề có chuyện này.
Nguợc lại, ông Trời Việt nam dung chứa tất cả. Ông không chống lại bất kỳ
ai. Ông không lập thầy tế lễ, hội thánh (?), giáo hội hoàn vũ. Ông không
dùng chính trị, kinh tế..để mua chuộc hay đe dọa kẻ khác. Ông Trời Việt là
tất cả, là siêu việt; do đó, ông không hề tranh chấp với các thần khác. Ông
không có lịch sử, không có hòm bằng chứng, bởi vì ông là trên hết, là đầu
tiên, là sau hết. Còn kẻ nào đi tranh chấp, nghia là còn biết có kẻ ngang
hay cao hơn mình. Ông Trời Việt không thèm làm chuyện ấy, chứng tỏ không có
Trời nào bằng ông cả. Vậy, có nên bỏ "lớn" tìm "nhỏ" hay không ??? Bỏ hoà
bình đi tìm chiến tranh hay không ? Bỏ bao dung đi tìm ích kỷ, ti tiện hay
không ?
Chúng ta đã kinh qua và chứng kiến lịch sử Việt nam từ quá khứ lâu xa cho
đến hiện tại trong "truyền thống thờ Trời". Chúng ta đã chứng kiến sự xâm
lăng của ông "Chúa Trời Do thái" từ thế kỷ 16. Những gì đã xảy ra trên đất
nước quê hương chúng ta đã giải thích rõ ràng những "khái niệm" này của hai
dân tộc.
Chúng tôi không chống lại ông "Chúa trời Do thái", hay bất cứ ông nào; vì đó
là "truyền thống nhu hoà" của người Việt. Nhưng chúng tôi sẽ không nhắm mắt
truớc bất cứ sự "xâm lăng" nào, và bất kể "từ đâu đến"; vì đó là "truyền
thống chống ngoại xâm" của dân tộc chúng tôi. Ai hoà hợp, chúng tôi hoà hợp.
Ai gây chiến, chúng tôi chống trả. Mọi âm muu "chia để trị", chúng tôi đã
biết. Những độc chiêu "ngu để dẫn", chúng tôi đã hay. Thế thì, dù con Rắn có
"khôn khéo" tới đâu, cũng khó lòng thành tựu !!!Dù ngày nay, con Rắn đang
giả vờ "ngây thơ như bồ câu", cũng khó lòng qua mặt !
Ông Huệ viết tiếp :
"Con đường theo Chúa là con đuờng thập tự giá nghĩa là
con đuờng hẹp. Có thể bạn sẽ trả giá khi bị nguời thân hiểu lầm hoặc bạn bè
chê bai".
Ngay tại chỗ "eo" này, chúng tôi không hiểu mục sư này muốn diễn tả "tâm
trạng" gì ? "Con đuờng thập tự giá" là gì, và tại sao nó "hẹp" ? Tại sao nó
bị "hiểu lầm" và bị "chê bai" ? Thật bí hiểm ! Thử đưa ra vài suy nghỉ.
Trước hết, đức Giê su phải vác thập giá là vì chính ngài xưng mình là Con
Trời, và vua Giu đa.(theo kinh Tân uớc). Tội trạng này được ghi lên rõ ràng
trên thập giá. Nhưng cả hai lý do này đều không thật. Ngài làm thợ mộc ba
mươi năm cùng ông Giô sép, cha ngài. Ngài không có khả năng gì cả, ngoài
việc ghi nhận vài cuộc chữa bệnh trong ba năm cuối đời. Vậy, việc "buộc" cho
ngài cái tội xưng Con Trời, e không đứng vững.
Nếu thực sự Con Trời sao ngài không chuyển đổi được thế gian; đặc biệt là
cứu dân Do thái khỏi bàn tay ác độc của bọn xâm lăng La mã ? Nếu ngài là vua
Giu đa, sao ngài không giữ nuớc mình, mà để cho ngoại bang xâm lấn ? Ngài
lại còn bảo "trả lại cho Sê sa những gì thuộc về Sê sa", nghĩa là đầu hàng
vua giặc ? Ngài làm vua sao không có dân, không có quân, không có chính
quyền ? Nếu nói ngài có dân, thì ai xử ngài tội chết cho ngài (theo Kinh) ?
Nếu có quân, sao không đánh đuổi giặc (ngài không chống gì cả) ? Nếu có
chính quyền sao không điều hành đất nuớc, mà lại chết vì tội tử hình trên
thập ác của giặc ? Vậy, con đuờng ngài đi, không mang lại kết quả gì cho
dân, cho nuớc, cho bản thân, gia đinh và xã hội.
Việc ngài chết chỉ có một lý do duy nhất; đó là làm "ứng nghiệm" Cựu uớc đầy
máu và nuớc mắt của bảy dân tộc bất hạnh, và ngay cả nguời Do thái !!!
Do vậy, xin phép để nói rằng, bảo ngài chết để "chuộc tội cho thiên hạ", e
không đúng. Chuyện nói về Chúa trời đã có từ truớc, không phải do ngài nói
ra. Kẻ xử tử ngài, theo Kinh, là dân Trời, thầy tế lễ đạo Trời, chứ có phải
kẻ ngoại đạo tà giáo, ma quỷ nào đâu !!! Vậy thì, nói ngài chết để vinh danh
ông Trời cũng không đúng. Ngài nói ngài là con MỘT cũng sai (đã chứng minh
bằng Kinh Cựu ước). Và nói rằng đạo Trời của ngài khác đạo Trời trong Cựu
uớc lại càng trật, vì chính ngài tuyên bố "ta đến để làm cho trọn", kia mà
(theo Tân uớc)...Qua các sự kiện trên, cho chúng ta thấy, cái chết của ngài
mang theo "tham vọng Con Trời"(không rõ của ai), thậm chí ngày nay còn có
mục sư cho lên "Ông Trời hiện thân"; và như thế, đó là con đuờng "thênh
thang", chứ sao lại gọi con đuờng "hẹp" ???
Thứ hai, tại sao theo đạo Trời Giê xu, lại bị người thân hiểu lầm ? Lại bị
bạn bè chê bai ? Thông thường, bị nguời ta hiểu lầm là VÌ ĐÃ CÓ MỘT QUÁ KHỨ
SAI TRÁI, dù ngày nay đã hối cải. Toà án thế gian gọi là "tiền án". Nhưng,
hối cải thật sự hay không là tùy vào "chủ thể" thực hành trong một thời gian
dài để chứng minh. Đừng tuởng rằng giả vờ "đơn sơ như bồ câu", là có thể
thực hiện trò "khôn như Rắn" được đâu ! Nếu quả Rắn là khôn, thì thế giới
này e chết tiệt rồi. Đây là một lời KHEN quái lạ ! Rắn là loài không có linh
hồn (theo Kinh ), thì khôn làm sao được ? Khen một thứ không khôn, thì họ là
ai ? Xin trả lời đi !!! Thứ nữa, theo Chúa sẽ bị "bạn bè chê bai", tại sao ?
Cái gì xấu thì bị chê; còn tốt, thì làm sao nguời ta chê cho đuợc ? Và cuối
cùng, khi đã bị "hiểu lầm", "chê bai", thì làm sao mà "theo Chúa là con
đuờng dẫn đến sự bình an" cho đuợc chứ ?
Ông Huệ viết tiếp :
"Đây là một vấn đề sống chết cần quyết định ngay, không
thể chần chờ. Có ai biết lúc nào mình về chầu Trời ? Mong bạn chọn ngay cho
đời mình con đuờng đẹp lòng Trời. Mong bạn mau mau điều chỉnh tín nguỡng cho
hợp ý Trời. "
Hay, hay, hay ! "Có ai biết lúc nào mình về chầu Trời". "Xung Xuớng" thật !
Không biết lúc nào, Nhưng đã chắc chắn "về chầu", thì cần chi phải thờ lạy
ai ? Chỉ sợ "không chầu" mà xuống "hoả ngục"mới khổ chứ ! Vì vậy, xin phép
sửa câu này lại cho ra "đạo" một chút : "Có ai biết lúc nào mình chết và về
đâu", thì mới đúng, mục sư ạ !
Còn cái "đẹp lòng Trời", thì khó đấy. Trước hết, phải hỏi là ông Trời nào
cái đã. Hiện tại, trên thế giới có trên HAI TRĂM ÔNG TRỜI. Ông thì thiện,
ông thì ác, ông thì không thiện không ác. Ông thì vô truớc, vô sở hửu, NHƯ
NHƯ bất động...Ông thì có "lịch sử xác thịt", có xâm lăng, có bói toán, có
phù phép...có nâng lên, có đạp xuống, có đe dọa, có giận phừng phừng, có
hung hăng bọ xít, có chém giết, có đổ bàn thờ thần khác, đập bể tuợng thần
khác ..có diệt ngôn ngữ văn hoá dân tộc khác, có loài để chăn, có nguời đi
chăn... Vậy hãy chọn một ông là điều tiên quyết. Tôi không hô hào cho ông
nào cả. Tùy quý vị. Nhưng tôi thấy khó nhịn, khi ông Huệ viết rằng " mau mau
điều chỉnh tín nguỡng cho hợp ý Trời".
Dân tộc Việt, hiện đang thờ ông Trời Việt nam; nghĩa là chúng tôi cũng có
Trời. Vậy, tại sao chúng tôi phải "điều chỉnh tín nguỡng cho hợp ý Trời" ?
Tuyên truyền như thế, là ông Huệ đã vi phạm tự do tín nguỡng của dân tộc
Việt. God hay Thiên chúa, hay đức Chúa tròi của Do
thái, dứt khoát không phải là ông Trời Việt nam; đừng "mập mờ đánh lận con
đen".
Truyền thống thờ Trời, không hề và chẳng bao giờ liên quan đến God, Thiên
chúa, đức Chúa trời Do thái. Chúng tôi đang làm những việc "hợp ý Trời" của
chúng tôi, thì tại sao phải "điều chỉnh" ? "Điều chỉnh tín nguỡng", tức là
phản bội ông Trời Việt nam, phản bội Tổ tiên Việt nam, phản bội dân tộc Việt
nam, phản bội Tổ quốc Việt nam !!! Tại sao ?
Xin đua một thí dụ đon giản thôi. Nếu một đứa trẻ "không có cha", thì nó tự
đi tìm cha nó, hay nhờ nguời khác chỉ dùm. Nhưng một đứa bé "đã có cha", mà
"bỏ cha, chối mẹ" để đi tìm cha mẹ khác, thì có phải là tên phản bội hay
không ? Nếu việc ấy có xảy ra, thì chỉ có mấy lý do sau đây :
-Một là, thằng bé "trần truồng và đần độn", nên bị nguời ta dụ dỗ bỏ cha.
-Hai là, thằng bé tham ăn, khát dục, nên bị nguời ta đem tiền tài, sắc dục,
danh vọng làm cho nó mê hoặc đi.
-Ba là, nguời ta dùng thủ đoạn đe hèn để gạt gẫm nó, đe dọa nó....
Tôi chỉ biết đơn sơ vậy thôi. Xin các bậc thức giả dạy dỗ thêm cho.
Bây giờ, xin đọc tiếp lời ông Huệ:" Bạn là môn đệ của Khổng giáo chăng ? Hãy
nhớ lại lời thánh hiền: Hoạch tội u thiên, vô sở đảo giả, nghia là đa phạm
tội với Trời thì không thể cầu đảo ở đâu khác đuợc. Khổng giáo nhấn mạnh đến
nhân đạo, không rành thiên đạo".
Lầm, lầm, lầm !!! Hay giả vờ lầm ? Chữ thiên trong Khổng học không phải là
ông Trời kiểu Do thái, là tạo vật chủ; mà chỉ là "nhất đại vi thiên, duy
thiên vi đại". Cái đạo Trời ở đây, là "đạo tự nhiên", cái "đạo cao viễn"
không ai nắm bắt đuợc, không ai làm chủ đuợc. Vì nó cao viễn, nên không có
thuộc tính nào cả. Vì vậy, Nho học thấy rằng, chỉ nhìn "nhân tâm", mà hiểu
"thiên ý". Lòng nguời không khác với ý Trời, chính là "nhân bản" vậy. Cho
nên, việc tế cáo Trời Đất trong Khổng học không có chuyện nhằm làm thỏa mãn
ý Trời, mà chỉ làm thỏa mãn lòng nguời.
Phạm tội với Trời, tức là phạm tội lớn với con nguời. Không phải ông "không
rành thiên đạo", mà với ông "chẳng có thiên đạo, ngoài nhân đạo". Do đó, ông
không vẽ vời ra một Thuợng đế biết ăn thịt chiên, bò, lấy mỡ sa, mỡ lòng, mỡ
trái cật...; cung chẳng có hòm bằng chứng...biết đi xâm lăng... Bởi vì, còn
có bằng chứng, còn có ý hệ..là còn có giả dối, lừa bịp. Thử tuởng tuợng một
nguời ngồi trong một trái cầu tròn bịt kín, thì khi hỏi trái cầu thế nào,
làm sao trả lời đuợc ? Nếu còn biết trái cầu tròn méo..., thì nhất định
không phải kẻ đang ở trong trái cầu, mà chỉ là kẻ bịp !!!
Ông Huệ tiếp :"Bạn đang là đạo hữu Phật giáo chăng ? Phật giáo là tôn giáo
chính của nhiều nước Á đông. Nhưng triết lý Phật giáo rất cao siêu, ít nguời
đạt tới mục đích giác ngộ. Vì thế, người Phật tử khổ công tu luyện vẫn không
biết chắc khi nào được giải thoát".
Thiệt là "thâm", và "thúy" đấy. Dùng cái "cao siêu"; rồi chơi ngay "ít ai
đạt đến". Tuyệt chiêu ! Nhưng ông Huệ lại để lộ ra cái "thiếu hiểu biết" cái
mà mình muốn nói tới. Đạo Phật không cho lên Trời dễ dàng vậy đâu. Phật giáo
có nhiều tầng tu học, gọi là Ngủ thừa. Tôi không bàn nhiều về chuyện này; mà
chỉ muốn nói đến một mà thôi, đó là chuyện lên Trời trong Phật giáo.
Đạo Phật và đạo Chúa khác xa về quan điểm này. Trong đạo Chúa, chỉ cần tin
và cầu nguyện là đuợc về chầu Trời, làm tôi tớ ngài. Nhưng ông Phật nói
khác. Muốn làm Trời, dù chỉ là Trời dân, và là ông Trời thấp nhất trong các
tầng Trời, thì phải tu muời điều thiện một cách trọn vẹn; chứ không phải
TIN, CẦU là đuợc. Không có chuyện một nguời chỉ tin rằng có Trời và cầu Trời
mà đuợc về Trời dễ dàng như vậy. Không có công làm sao huởng quả ? Tôi không
có tham vọng bàn sâu, chỉ xin đưa một ví dụ. Một nguời tin rằng nuớc Mỹ rất
tốt đẹp, và cầu đươc đến Mỹ. Ông ta đặt hết tin tuởng và mãi mãi cầu nguyện
như thế. Vậy ông ta có đến đuợc Mỹ không ? Tin và cầu là cần thiết, Nhưng
ông ta không thể đến đuợc vì :
-Thứ nhất: không có nguời dẫn đuờng.
-Thứ hai : không biết thủ tục nhập cảnh.
-Thứ ba: không rõ điều kiện nhập cảnh.
-Thứ tư : dù có ba điều trên, Nhưng không đi thì không đến.
Một trong những vấn đề khó khăn là "điều kiện". Mà muốn có điều kiện, thì
chính ông ta phải "tự có", chứ không thể xin ai đuợc. Thí dụ, hiện nay, Mỹ
cần một kỹ sư không gian chẳng hạn; vậy thì, ông ta phải tạo cho mình trở
thành tiêu chuẩn ấy, mới đuợc.
Xin đừng nghỉ đến chuyện hối lộ, bằng giả, vì thiên đang là cõi trong sạch,
không như thế gian gian dối (dù là Mỹ). Chuyện lên Trời của Phật giáo cũng
hơi tương tự như thế. Không tu theo thập thiện, thì nhứt định không lên
Trời, dù cho Tin, Cầu, Thờ lạy, khóc lóc cũng bằng thừa.
Thứ nữa, giác ngộ trong Phật giáo là giai đoạn không tiến đến dễ dàng như
nguời ta tuởng. Phải tiến tu từng buớc một, chứ không có chuyện tự nhiên
nhảy lên Trời mà ở. Phật phải nói rõ, là ngài phải trải qua ba vô số kiếp,
mới thành đạo. Nghe vậy, thất vọng không nhỉ ? Chắc có nguời nói vậy rồi.
Nhưng hãy suy nghi xem, một anh chàng không học hành chi cả, lại xưng mình
là tiến sỹ, thì có ai tin không ? Tùy bạn !
Còn thông thường thì, phải học từ lớp một, lớp hai...trung học, đại học, hậu
đại học. Nếu có một vài thần đồng, thì cũng không thể nào nhảy nhiều lớp quá
mức quy định. Đó là chưa nói tới chuyện tại sao trở thành thần đồng. Từ chỗ
ấy, chúng ta thấy rằng, không dễ gì một con nguời không hoàn thiện chỉ do
tin và cầu, lại nhảy xổm vào thiên đang để ngồi huởng thụ. Chỉ có trong
tuởng tuợng mà thôi !!!
Qua vài thiển kiến như trên, một Phật tử được dạy, đuợc học, đuợc tu chính
chắn, sẽ thấy mình về đâu rất rõ, chứ không phải tin mù loà, thụ động. Nếu
muốn đuợc thân nguời trở lại, thì phải tu năm giới. Muốn lên trời phải tu
hoàn chỉnh muời điều thiện....Mỗi một công trình, có một kết quả. Còn các
bậc thuợng căn sẽ tiến nhanh hon. Nhưng, thuợng căn là do tích luy từ nhiều
kiếp truớc; chứ không phải Trời cho. Vì vậy, nguời tu theo Phật giáo sẽ nhận
diện đuợc chính mình, khi suy tư về hành động và Tâm thức của mình. Họ biết
rõ rằng, không thể chỉ tin và cầu là đuợc lên trời làm tôi tớ. Cái phong
cách ông trời, dù chỉ là trời dân, cung khác hẳn con người trần thế.
Đừng tuởng rằng đôi tay đẫm máu kẻ thù để thỏa lòng Chủ, là có thể lên thiên
đang ngồi xổm. Đã là tiên giới, tất nhiên phải sạch sẽ, khoáng đạt, chứ đâu
chịu mùi máu hôi tanh. Ở đó, chắc cũng không có cái "giận phừng phừng" như
lửa đốt; bởi vì, còn có Sân, thì còn có Si. Nhưng Trời thì đâu phải là ngu
mà có "giận phừng phừng". Cái "phừng phừng" chính là lửa địa ngục. Xin đừng
nói nguợc !
Hãy nghe thầy Huệ dạy tiếp:" Phật giáo chủ trương tự giác, cậy sức mình tu
luyện là chính. Phúc âm chủ trương tin cậy ân huệ và sức Chúa hoàn toàn".
Ở đây, tôi không lạm bàn chuyện giáo điển, chỉ ngẫm nghi vài điều rất thường
tình, và hậu quả của nó. Có hai anh chàng cùng sống trong một hoàn cảnh như
nhau. Một nguời suy nghi về cách làm giàu bằng đôi tay, trí óc của mình, và
sự giúp đỡ của thầy bạn. Nguời kia, nghi đến việc làm giàu bằng ân huệ ai
đó. Chuyện gì sẽ xảy ra ? Di nhiên, nguời thứ nhất sẽ nghiên cứu, học hỏi,
làm việc bằng đôi tay của anh. Anh không nghi đến tiền từ ân huệ nào cả. Làm
việc và sống theo khả năng, điều kiện của chính mình. Nhưng nguời thứ hai
thì sao ? Anh ta chỉ mơ uớc, cầu nguyện, tin tuởng vào của rơi từ trên không
trung mà thôi. Đói nghèo đến với anh ta là chuyện chắc.
Nhưng, thế thường, "túng thì biến"; và khái niệm ấy sẽ dẫn anh ta đến một
hành động khác không tự chủ. Không nói đến chuyện cuớp giựt, chém giết gì
cả; chỉ đơn sơ như khi gặp một túi tiền rơi, thì anh ta sẽ hiểu ngay, đây là
của Trời cho, nên anh bỏ túi. Trong lúc đó, nếu anh thứ nhất gặp đuợc, thì
nhất định anh ta không bỏ túi; nguợc lại anh ta sẽ đem số tiến trên trả lại
khổ chủ, nếu biết; hoặc giả, anh ta mang đến cho co quan công quyền. Tại sao
? Vì "vô công bất thọ lộc", là một trong những ý thức tự chủ, tự giác của
anh.
Trong lòng con nguời tự chủ, tự giác, không có tư tuởng "ăn cây không trồng,
uống nuớc không đào giếng". Còn trong lòng kẻ cầu ân huệ thì khác. Để đuợc
huởng thụ, anh ta có thể chịu mọi nhục nhã, cúi lòn; không cần biết đến
liêm sỉ, danh dự..gia đinh..Tổ quốc chi cả. Miễn sao không làm mà có là
đuợc.
Tạm nghi như vậy, chúng ta hiểu về cái "tiêu cực", và "tích cực" như thế nào
? Ảnh huởng của hai thái độ trên đây ra sao ? Khi đã có tư tuởng "nương cậy
ngoại lực", thì di nhiên "vong thân cho ngoại lực" ấy; chịu sự điều động,
sai khiến, của ngoại lực ấy. Mà đã "nương cậy", thì sự sống không chắc chắn,
mong manh như bọt biển. Mọi sự sống chết, vui buồn, thành bại...đều nằm
trong tay ông Chủ. Thế thì, kẻ nương cậy chỉ có thể trở thành Nô lệ đời đời
mà thôi !!!Còn kẻ chủ trương tự chủ, tự giác, thì họ làm bao nhiêu, huởng
bấy nhiêu, không cầu, không oán. Họ an nhiên đi trên con đuờng của mình,
không một ai có thể sai khiến họ. Vậy, điều nào sẽ tốt hon cho bản thân, gia
đinh và xã hội ???
Đó là chưa nói đến tư cách của ông Chủ. Gặp một ông Chủ tương đối hiền
lương, thì còn đỡ khổ. Còn như gặp phải ông Chủ Mafia thì lại khác. Muốn
đuợc xe hơi, nhà lầu ư ? Dễ ợt. Hãy buôn súng đạn, hãy bán thuốc phiện, hãy
đi giết nguời, hãy đi cuớp nuớc...Bạn sẽ có tất cả. Thực đấy mà. Lịch sử
nhân loại hôm qua, ngày nay còn rành rành ra đó. Nếu ai chưa tin, thì về
Việt nam xem thử. Bọn đảng viên mới khố rách, áo ôm hôm nào, nay lại có năm
bảy TỶ trong nhà băng ngoại quốc. Một chú "làm phuờng" nay cũng ngồi xe hơi
chễm chệ ! Nếu không bóc lột, ăn cuớp..thì tiền đâu ra ? Mà muốn có đuợc ân
huệ này thì phải cúi lòn ông Chủ Đảng, bóp cổ dân đen; tham nhũng, hối lộ,
chứ có con đuờng nào khác ! Ôi ! "Tu tuởng nương cậy", là thế đó !!!
Một câu sau rốt, tôi muốn bàn tới, đó là khi ông Huệ viết :"Khi về chầu
Trời, thì không vị giáo chủ nào bênh vực, khấn đảo cho chúng ta đuợc. Chính
bản thân của họ là nguời cũng phải chầu Trời để bị phán xét. Lúc đó chỉ có
Chúa Giê xu là Con Trời hiện đang ngồi bên hữu đức Chúa Trời cầu thay cho
chúng ta mà thôi".
Đây là một câu nói đầy ngạo mạn, vô lễ; nhục mạ giáo chủ các tôn giáo khác.
Bạn có quyền tin tuởng của bạn. Trong lòng bạn di nhiên cho giáo chủ mình là
trên hết. Điều đó đúng thôi. Tuy nhiên, đối với nguời khác, giáo chủ khác;
câu nói trên đây đã chứng tỏ sự thiếu vắng tinh thần tôn trọng kẻ khác. Và
chính từ điểm này, người ta thấy ngay "Thầy" của bạn ở tầm mức nào; chứ đừng
nói đến cá nhân bạn.
Điều thứ hai, là tín đồ các tôn giáo khác sẽ cuời chê bạn, trình độ thấp hèn
mà hay nói leo. Bạn có biết rằng, trong giáo lý đạo Phật, Trời vẫn còn trong
ngủ thú, chịu sự chi phối của luân hồi. Trời lại còn có nhiều tầng bậc, và
có vô số cảnh Trời, chứ không phải chỉ có MỘT NHƯ bạn học, bạn nghỉ, bạn
biết. Theo đạo Phật, các vị Trời khi hết phuớc vẫn phải đọa làm nguời, làm
thú, thậm chí còn rơi vào cảnh giới ngạ quỷ, địa ngục !!! Và cũng theo lý
thuyết ấy, các vị Trời phải là những nguời tu thập thiện nghiệp đạo; chứ
không thể là những tên đi cuớp nuớc, giết nguời, bóc lột....mà có thể thành
được đâu.
Một con nguời có học, bao giờ cũng phải thận trọng, phải chừa lối thoát.
Không nên húc đầu vào tuờng lửa một cách mù quáng. Ông Phật nói lên những
điều đó khi chưa có đạo Chúa (Tân uớc), chứ không phải tôi dẫn ra để đối đáp
đâu. Tôi không có khả năng, và cũng không cần tranh chấp; mà chỉ có điều là
"giữa đuờng thấy chuyện bất bình ra tay".
Nếu như "tội" chỉ "cầu" mà hết, thì còn đâu công lý, công bằng, công nhiên
nữa. Nó đa hoá thành "cong queo" rồi ! Nguời đời còn nói đuợc :"thiên tử có
tội không khác thứ dân", huống hồ ông Trời. Ông cầm cán cân công lý, mà ai
năn nỉ ỷ ôi, thì ông tha. Vậy thì ông cũng chỉ là tham quan ô lại, đâu xứng
làm Trời. "Có công thì thuởng, có Tội thì hành"; đó là chân lý bất di, bất
dịch. Van nài cung vô ích !!!
***051120***