Trường Hợp «TỔ QUỐC ĂN NĂN»
của Nguyễn Gia Kiểng
- Lê Việt Thường -
http://sachhiem.net/DOITHOAI/LeVietThuong2.php
07 tháng 11, 2010
LTS: Bài viết của Lê Việt Thường dưới đây xuất hiện như một vật chứng quan trọng để kết thúc dứt điểm một vụ án văn học "Tổ Quốc Ăn Năn" của ông "Nguyễn Gia Kiểng". Đây là một công trình rất đáng kể trong việc truy nguyên bằng chứng tội phạm. Ngòai những thái độ báng bổ tiền nhân, phủ nhận giá trị của nền văn hóa dân tộc, lật ngược lịch sử,...
mà nhiều người đã trình bày ở khắp các diễn đàn, điều mà tác giả tìm thêm được ở đây là vi phạm lĩnh vực đạo đức căn bản của người cầm bút: đạo văn. Xin cám ơn tác giả về việc nghiên cứu và tìm được kết quả rất quan trọng cho việc nhận định về lịch sử và văn hóa nước ta. (SH)
"...Về sự trông chờ từ trái núi là những kiến thức «Mới Mẻ» , «Độc Đáo» mà ông Kiểng hứa với độc giả, thì cuối cùng lại đẻ ra
con chuột «nhắt» là những ý tưởng cóp nhặt từ một tác giả ngoại quốc với sự
trùng hợp đạt đến mức độ «khủng khiếp» để một người quan sát vô tư nhất cũng phải đi tới kết luận là TỔ QUỐC ĂN NĂN của Nguyễn Gia Kiểng chẳng qua cũng chỉ là
bản sao của tác phẩm LE MAL FRANCAIS. của A.Peyrefitte mà thôi!!!..." (Lê Việt Thường)
● DẪN
NHẬP
Trong PHẦN MỘT, chúng tôi đã có dịp bàn về trường hợp của một nhà DẠY
HỌC CHUYÊN NGHIỆP(1) Trong PHẦN HAI sau đây, chúng tôi sẽ xin đề cập đến
trường hợp của một nhà chính trị CHUYÊN NGHIỆP về vấn đề nêu trên.
Như đã nói và xin được nhắc lại ở đây là sự kiện dân tộc VIỆT đánh mất
nền Độc Lập chính trị cách đây hơn 100 năm kéo theo nhiều hậu quả không
lường trước được. Thật vậy, nếu xưa kia, sự LỆ THUỘC thường được chấm
dứt với sự ra đi của kẻ xâm lăng, thì lần này trái lại, chính giới TRÍ
THỨC của nước BỊ TRỊ, vô tình hay hữu ý lại tiếp tục DUNG DƯỠNG, kéo dài
tình trạng Lệ Thuộc rất lâu sau khi kẻ xâm lăng đã ra đi. Lý do có lẽ là
vì lần này, sự đánh MẤT CHỦ QUYỀN không chỉ giới hạn ở lãnh vực Chính
Trị, mà có tính chất TOÀN DIỆN hơn nên lan rộng ra ở mọi địa hạt, nhất
là ở bình diện văn hóa, TRIẾT HỌC.
«Bóng Ma» DĨ VÃNG vẫn không thôi ÁM ẢNH giới Trí Thức và Lãnh ĐạoViệt.
Đến nỗi để biện minh cho các chiêu bài như CANH TÂN, GIẢI PHÓNG, họ vẫn
TRỞ LẠI bàn về những vấn đề, dùng những phương pháp Lý Luận, cũng như
đưa ra những GIẢI PHÁP của các thế kỷ TRƯỚC . Họ làm như hơn một thế kỷ
trôi qua, không có biến chuyển gì quan trọng đã xảy ra cả! Nói cho đúng,
họ có nhận thấy sự thay đổi, rất nhiều thay đổi là đàng khác nhưng họ
chỉ giới hạn sự QUAN SÁT ở bình diện THƯỜNG NHẬT hay ở các địa hạt như
Chính Trị, Kinh Tế, Xã Hội., còn nếu có ai «dám lân la» vào lãnh vực
văn hóa thì cũng chỉ dừng lại ở trung tầng VĂN NGHỆ, VĂN CHƯƠNG, VĂN
HỌC..Hiếm ngưới tìm cách đi xa hơn và dẫu có người thử làm khác, thì hầu
hếtï cũng chỉ đem về một mớ TỪ NGỮ, KIẾN THỨC, Ý NIỆM «có vẻ mới» ,
nhưng trong thực tế «mớ Kiến Thức Chết Khô « đó cũng CHẲNG có ẢNH HƯỞNG
bao nhiêu đến LỀ LỐI và NỘI DUNG suy tư của họ. Và họ vẫn tiếp tục suy
tư về những Vấn Đề với những phương pháp và Nôi Dung của các Thế Kỷ
Trước. Đúng là con người phần đông, kể cả giới Trí Thức, sống và SUY
NGHĨ với các ĐỊNH KIẾN «cũ kỹ» và Ảnh Hưởng của văn hóa nếu có thường
đến rất chậm!
Nhưng có điều NGHỊCH LÝ sau đây mà hậu quả có thể rất NGHIÊM TRỌNG là
giới Trí Thức nêu trên lại TƯỞNG mình có Tư Tưởng MỚI MẺ, là lớp Trí
Thức TIỀN PHONG của Đất Nước đang có «Sứ Mạng» thực hiện một cuộc CÁCH
MẠNG TƯ DUY, CANH TÂN ĐẤT NƯỚC !!! Nguyên nhân chính yếu có lẽ là vì
những lý do khác nhau, họ KHÔNG NẮM VỮNG những KHUYNH HƯỚNG CHÍNH YẾU
của văn hóa THẾ GIỚI Ngày Nay. Do đó họvẫn còn giữ phản xạ của lớp Trí
Thức Đàn Anh như nhóm «Tự Lực Văn Đoàn» trước đây là để «Cách Mạng» ,
«Canh Tân» thì phải THEO MỚI, mà Theo Mới với họ là đồng nghĩa với THEO
TÂY, theo Tây một cách QUÁ KHÍCH, MÙ QUÁNG không một chút cân nhắc!!!
● NHỮNG
TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH VỀ VIỆC THEO TÂY MỘT CÁCH QUÁ KHÍCH
Có Bốn trường hợp sau đây được đơn cử như là thí dụ đỉển hình của
những người tuy sinh hoạt trong các lãnh vực khác nhau, nhưng cùng chia
xẻ một mẫu số chung là có cùng một thái độ như vừa được đề cập ở trên.
PHẦN MỘT:NHÀ DẠY HỌC CHUYÊN NGHIỆP
(xem bài trước)
PHẦN HAI: NHÀ CHÍNH TRỊ CHUYÊN NGHIỆP
Trường hợp thứ Hai liên quan đến hoạt động của một người làm chính trị
CHUYÊN NGHIỆP. Thay vì sinh hoạt như bao người làm Chính Trị Chuyên
Nghiệp khác, người này nghĩ là phải làm một cái gì «trội hơn» , «nổi hơn»
nhằm gây sự chú ý của người khác, chứ cứ lập đi lập lại mãi các chiêu
bài Chính Trị như DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN, HÒA HỢP HÒA GIẢI thì lâu ngày các
«Đồng Hương» của mình cũng «ngán ngẫm» như phải ăn cơm «nếp tẻ» mỗi
ngày.
Vị này mới có «sáng kiến» ghé sang lãnh vực văn hóa để mong «tô điểm»
cho «sự nghiệp chính trị» cũng chưa lấy gì làm «rạng rỡ» lắm. Nhưng điều
khó khăn là về địa hạt sau này thì trong suốt cuộc đời hoạt động, hình
như vị này chưa bao giờ chú ý đến, cũng như để thời gian đủ hầu sửa soạn
một số vốn kiến thức tối thiểu để làm công việc nêu trên, đặc biệt về
lãnh vực TRIẾT HỌC thì đương sự hình như có vẻ không có khiếu lắm, nên
có lần «tâm sự» cùng với độc giả như sau «.triết học trừu tượng không
phải là sở thích của tôi» (2)
Làm sao đây? Không lẽ đi «nhại lại» BÁ DƯƠNG, tác giả «Người Trung Hoa
xấu xí» để viết một quyển sách tương tự là «Người Việt xấu xí» ? Làm như
vậy thì không được «oai phong» lắm, mà trái lại còn có thể bị mang tiếng
là ĐẠO VĂN nữạ.
Nhà Chính Trị «giàu sáng kiến» của chúng ta mới nghĩ ra một «kế» là đi
tìm một tác phẩm có đề tài tương tự đã được viết từ lâu, đã in ra một
lần nhưng chưa được tái bản, ở tận bên trời Tây. để TÌM SÁNG KIẾN cho
«công trình vĩ đại» sắp tới của mình Ngoài ra, để dễ tránh né «búa rìu
dư luận» và sự tò mò của độc giả, tác giả lấy cớ là «do thời gian eo
hẹp, đã tự cho phép bỏ qua phần chú thích sau mỗi chương» (3).
Đúng là «nhất cử lưỡng tiện» tha hồ «nói hươu nói vượn» với độc giả, mà
không sợ bị mang tiếng là ĐẠO VĂN! Không may cho tác giả là tình cờ
chúng tôi cũng có đọc qua tác phẩm nêu trên nên mới tìm ra MỎ VÀNG là
NGUỒN «sáng kiến» của nhà Chính Trị «giàu sáng kiến» của chúng ta .(4)
Chúng tôi xin được liệt kê sơ qua dưới đây một số «sáng kiến» và NGUỒN
«sáng kiến» để độc giả có thể so sánh.
A) SO SÁNH NỘI
DUNG «TỔ QUỐC ĂN NĂN» VỚI «LE MAL FRANCAIS»
1) MỘT DÂN
TỘC KHÔNG MAY MẮN:
a) «Sáng Kiến» : «Nhân nói về cuộc nam tiến, cũng cần nhận định rằng
lịch sử nước ta có cái gì đó thực u uất; trong suốt quá trình mở nước và
dựng nước của ta hình như các biến cố trọng đại lúc nào cũng khởi đầu từ
những SỰ KHÔNG MAY.» (5)
b) NGUỒN «Sáng Kiến» : Có điều tôi thâm tín từ rất lâu là nước Pháp luôn
luôn gặp SỰ KHÔNG MAY.Về những vị anh hùng mà chúng ta được dạy là phải
ngưỡng mộ, thì không một vị nào không kết thúc trong tình cảnh bi đát
hay thất bại, từ Vercingétorix đến Jeanne d' Arc, từ Henri IV đến Louis
XIV, từ Robespierre đến Napoléon, từ Gambetta đến Clemenceau.» (6)
2) XỨNG
ĐÁNG VỚI SỐ PHẬN CỦA DÂN TỘC:
a) «Sáng Kiến» : «Một dân tộc không nhiều thì ít cũng xứng đáng với số
phận của mình» (7)
b) NGUỒN «Sáng Kiến» : Plutarque viết là Số Phận của các dân tộc là kết
quả của sự phối hợp giữa Thời Cơ Vận Số và Nỗ Lực của mình. Nhưng nếu
một dân tộc luôn luôn gặp vận xấu, thì không thể đổ thừa là chỉ do sự
không may. Về lâu về dài, phải chăng một dân tộc xứng đáng với số phận
của mình» (8)
3) TÍNH
GHEN GHÉT:
a) «Sáng Kiến» : Ils ne s'aiment pas» (9)
«Người Việt Nam tìm mọi lý do để ghét nhau» (10)
b) NGUỒN «Sáng Kiến» : «Người Pháp ghét nhau» ( Les Francais ne s'aiment
pas) (11)
Các nhà quan sát ngoại quốc thường nhận xét là người Pháp có tính ganh ghét và «tố tụng» (12)
4) THIẾU ĐÒAN KẾT QUỐC GIA:
a) «Sáng Kiến» : «..người Pháp nhìn nhau như những người Pháp trước khi
là người ủng hộ đảng Xã Hội hay đảng De Gaulle» «Họ là những dân tộc.
Hơn hai ngàn năm lịch sử dựng nước của ta không đem ta lại gần nhau mà
còn khiến ta thù nghịch với nhau» (13)
NHẬN XÉT:
Có lẽ điều trên không đúng với trường hợp ngưới Pháp, mặc dầu tác giả
người Việt muốn độc giả nghĩ như vậy, như câu văn trên cho thấy. Lý do
là theo tác giả người Pháp mà đương sự «nhại lại» ý tưởng trên thì người
Pháp trên thực tế, có thái độ hoàn toàn ngược lại với điều mà tác giả
người Việt vừa tuyên bố ở trên, vì:
b) NGUỒN «Sáng Kiến» : «Về hai nước Pháp nêu trên (tức hai phe TẢ-HỮU
trong xã hội Pháp), họ luôn luôn chống đối nhau ở mọi bình diện, ở mọi
biến cố, đối với mọi khủng hoảng xảy ra với nước Pháp» .
«Mỗi giai đoạn lịch sử đem lại cho nước Pháp những mầm mống mới gây ra
chia rẽ khiến cho hố ngăn cách có vẻ không thể nào lầp đầy giữa hai phe
TẢ và HỮU..Một chuyển nhỏ nhặt xảy đến, thường là cái cớ cho sự bùng nổ
của vấn đề «muôn thuở» giữa hai phe» (14)
5) SỰ ĐỒNG
THUẬN:
NHẬN XÉT:Tác giả thường rất
hãnh diện với cụm từ «Đồng Thuận» , cứ có cơ hội là dùng từ này để «răn
đe» người Việt, làm như đó là «sáng kiến độc đáo» của mình.
a) «Sáng Kiến» : «Sức khỏe của sinh vật phức tạp đó là đồng thuận giữa các
thành viên. Đồng thuận mạnh, tâp thể mạnh. Đồng thuận yếu, tập thể yếu.
Đồng thuận mất, tập thể tan » (15)
NHẬN XÉT : Cũng như những
«Sáng Kiến» khác của tác giả, thì ý tưởng gọi là «độc đáo» nêu trên của
đương sự cũng được lấy từ nguồn dưới đây:
Bàn về nỗ lực của một thiểu số người Pháp có thiện chí muốn vượt qua sự
Phân Chia TẢ - HỮU về phương diện Chính Trị đã đưa tới tinh thần Giáo
Điều, tình trạng Mẫu Thuẫn, Chống Đối nhau thường trực trong xã hội
Pháp, tác giả người Pháp viết:
b) NGUỒN «Sáng Kiến» : «Tinh thần đó biến những sự bất đồng ý kiến thay
vì thành một cuộc đối thoại hữu ích, thì trái lại là cơ hội cho những
tranh chấp mới. Nó làm «soi mòn» lý tưởng quốc gia, dân tộc là điều đáng
lẽ phải làm nên «căn cước tính» của người Pháp .Vì nếu thiếu yếu tố nêu
trên, một xã hội «bệnh hoạn» như nước Pháp khó có thể tìm lại được sự
ĐỒNG THUẬN» (16)
6) YẾU ĐỊA
LÝ:
a) Sáng Kiến: «Trong khi ở mọi nước phát triển môn địa lý được coi là
tối quan trọng, thì tại Việt Nam nó lại bị coi thường quá đáng» . (17)
b) NGUỒN «Sáng Kiến» : «Sự kiện «người Pháp yếu về môn địa lý» đã trở
thành tục ngữ đối với người ngoại quốc. Không chỉ yếu mà còn dửng dưng
đối với môn địa lý. Đối với người Pháp, thế giới bên ngoài không có hiện
hữu.(18)
7) LƠ LÀ CHÍNH TRỊ:
a) Sáng Kiến:Tác giả và những người cùng phe nhóm thường chê người Việt
«lơ là» với Chính Trị
b) NGUỒN «Sáng Kiến» : «À tôi không làm chính trị đâu» : Ngưới Pháp thường
dùng câu này để bày tỏ sự thận trọng của mình đối với giới chính trị
gia, hay sự hãnh diện vì không thuộc về giới này» (19)
8) TÔN
SÙNG BẰNG CẤP:
a) «Sáng Kiến» : «Hình như đối với người Việt, bằng cấp là quan trọng
nhất, và một con người trước hết được đánh giá qua những bằng cấp mà
mình có» .(20)
b) NGUỒN «Sáng Kiến» «Có lẽ không có một quốc gia nào mà bằng cấp được
quý chuộng và giá trị cũng như ảnh hưởng của nó được kéo dài như ở
Pháp. Ở Hoa Kỳ văn bằng Đại học chỉ giúp bạn ở bước khởi đầu» «.Ở
Pháp, bằng cấp là một loại «hỏa tiển tầm xa» thông thường giúp chủ nó
một cách đắc lực trong bước đường công danh cho đến khi mãn phần» (21)
9) CHUỘNG
CHIẾN TRANH, TRANH CHẤP, BẠO LỰC
a) «Sáng Kiến» : «Sự hấp dẫn của bạo lực đối với chúng ta quá mạnh. Mạnh
đến nỗi ta không những chấp nhận mà còn mơ ước bạo lực. Khi không có bạo
lực, ta phải cố bịa đặt để tưởng tượng là mình có bạo lực» . (22)
«Lịch sử nước ta là một lịch sử đau thương. Đó là một chuỗi ngoại thuộc
và chiến tranh» .(23)
«Hai là nước ta đã được thai nghén trong binh lửa và đó cũng là một điều
không may» (24)
«Chúng ta rất ít có hòa bình và chưa bao giờ có tự do» .(25)
«Thử nhìn những cuộc tranh cãi chính trị tại hải ngoại. Chỉ vì một ý
kiến không hợp ý mình, người ta có thể công kích nhau một cách thậm tệ,
dữ dằn. Nếu có binh quyền trong tay chắc chắn là người ta không ngần
ngại tuyên chiến» (26)
«Chiến tranh đã khiến chúng ta trở thành một dân tộc không bình
thường» .(27)
b) NGUỒN «Sáng Kiến» : «Trong tất cả các nước ở Âu Châu thì Pháp là quốc
gia có lịch sử tranh chấp nhiều nhất với các nước khác. Là quốc gia mà
số năm có chiến tranh vượt xa số năm có hòa bình» .(28)
Theo tác giả Strabon, « dân Pháp là dân có «máu» chiến tranh đến trình
độ không bình thường, rất dễ tức giận và thích ấu đả» (29)
«Tính gây hấn của chúng ta được phản ảnh rõ nhất trong các cuộc Nội
Chiến» (30)
«Rất lâu trước cuộc Cách Mạng 1789, các cuộc Bạo Động quần chúng là một
loại «Thể Thao» của dân tộc Pháp..» (31) và «từ hơn bốn thế kỷ nay Bạo
động loại trên xảy ra ở Pháp gấp bội lần ở các nước tiền tiến
khác» .(32)
«Hình thái Nội Chiến Dã Man, Đẩm Máu nhất của nước Pháp là chiến tranh
Tôn Giáo» (33)
«Ngoài những Kỷ Lục mà người Pháp đạt được về số lần Nội Chiến, và chiến
tranh với các nước khác, nước Pháp còn đạt môt Kỷ Lục khác bắt nguồn từ
tính tình Gây Hấn thường trực của người Pháp: tỷ lệ số người bị tai nạn
lưu thông trên dân số nước Pháp là cao nhất. Và lý do chính yếu thuộc về
lãnh vực Tâm Lý» (34)
«Tính Gây Hấn của người Pháp còn được thể hiện về mặt Kinh Tế qua các
cuộc Tranh Chấp ở lãnh vực Lao Động với các cuộc Đình Công có tính chất
Bạo Động xảy ra thường xuyên» (35)
10) THẦN
TƯỢNG LÀ VÕ TƯỚNG:
a) «Sáng Kiến» : «Nhưng mẫu số chung giữa các vị anh hùng này vẫn không
đổi: tất cả đều là võ tướng» (36)
«Như thế anh hùng của Việt Nam bắt buộc phải là võ tướng, và hơn nữa
phải thắng trận» (37)
«Nguyễn Huệ xuất thân là tướng cướp...Ông là người đặc biệt hung tợn và
hiếu sát. Sự nghiệp ông là những trận đánh khốc liệt» (38)
«Việc ông được tôn sùng quá đáng tố giác một tâm lý kinh sợ bạo lực của
người Việt Nam; việc người ta tô vẽ cho ông những đức tính ông hoàn toàn
không có như giỏi trị nước an dân, có lòng nhân ái,» «..chứng tỏ rằng
ta tôn sùng bạo lực tới độ ta sẵn sàn làm đẹp nó»
«Hình như ta còn cho rằng chỉ có những chiến công mới là đáng kể, những
gì đạt được phải đạt bằng bạo lực mới là hay.» (39)
NHẬN XÉT: Đối với giới Sử
Gia, nhân vật tương đương (trên bề mặt thôi vì trong thực chất họ rất
khác nhau) với vua Quang Trung trong Sử Việt là vua Louis XIV hay
Napoléon trong Sử Pháp.
b) NGUỒN «Sáng Kiến» :» Đối với hầu hết các sửï gia ngoại quốc, vua Louis
XIV của Pháp không có dự án lớn lao nào khác là đánh ngã quỵ các ông
Hoàng và các nước khác ở Âu Châu thời đó. Mục tiêu chính yếu là làm sao
tất cả vua chúa của Âu Châu thời này phải thần phục trước ông «Vua Mặt
Trời» (Roi-Soleil). Mục tiêu trên khiến cho cả Âu Châu thời trước đâm ra
ghét nước Pháp.» (40)
«De Gaulle được nuôi dưỡng trong bầu khí văn hóa mà hình ảnh về một «Đại
Thế Kỷ» (Grand Siècle), về một vị «Vua Vĩ Đại» (Grand Roi) mà giới Sử
gia Pháp cho đến gần đây, muốn đưa vào đầu óc của người dân Pháp..
Nhưng đó là một «ảo tưởng» !. Lý do là lịch sử nước Pháp «thành văn»
thực ra chỉ là lịch sử xoay quanh thủ đô Paris.» (41)
« Một vài chứng nhân kín đáo nhưng hữu hiệu trong nhận xét «hé» cho độc
giả thấy Thảm Kịch được che dấu qua bề mặt của một bản Anh Hùng Ca» .
(42)
Tác giả Gui Patin có viết «Tôi nghĩ là dân mọi Topinambois còn sung
sướng trong tình mọi rợ của họ hơn là giới nông dân Pháp thời này»
«Ngay đến ngày nay mà còn có người không biết đến sự can đảm của nhà văn
Fénelon qua lá thơ ông này viết cho vua Louis XIV vào năm 1694 «Dân của
Bệ hạ, lẽ ra Bệ hạ phải yêu như con cái, và cho tới nay nó đã nhiệt
thành trung tín với vua biết bao. Thế mà hiện chúng đang đói lả. Ruông
đất bỏ hoang, thành thị và thôn quê thưa người dần. Tất cả nước Pháp chỉ
còn là một cảnh nhà thương rộng lớn tiêu điều và thiếu lương thực.»
(43)
11) TƯƠNG
LAI CHUNG:
a) «Sáng Kiến: Nhưng «nước Việt Nam là một , dân tộc Việt Nam là một» là
điều mà chúng ta phải xây dựng ra chứ chưa sẵn có.Và để xây dựng đất
nước Việt Nam đó chúng ta cần một tinh thần mới....để cùng nhau xây
dựng một Tương Lai Chung» .(44)
b) NGUỒN «Sáng Kiến» : «Về chương trình Cải Tổ nước Pháp, chúng ta phải
biến nó thành một Dự Án lớn Chung của nước Pháp, mà mỗi cải cách nhỏ
được cảm nhận như một một yếu tố của một Kế Hoạch Chung..» (45)
B)
NHẬN XÉT VỀ NHÀ CHÍNH TRỊ CHUYÊN NGHIỆP:
1) TỔNG QUÁT:
Trên đây, chúng tôi trích dẫn một số câu đỉển hình của tác giả người
Việt cũng như của tác giả người Pháp mà tác giả người Việt đã xử dụng,
nhằm đưa ra ánh sáng sự trùng hợp LẠ LÙNG về ĐỀ TÀI cũng như ý tưởng của
đôi bên. Đây chỉ là một số câu đỉển hình, tức là còn rất, rất nhiều CÂU
VĂN và ý tưởng khác nữa cùng một THỂ LOẠI, đến nỗi có thể nói là trong
rất nhiều khiá cạnh, theo NGHĨA ĐEN cũng như NGHĨA BÓNG, «TỔ QUỐC ĂN
NĂN» chỉ là bản sao của «LE MAL FRANCAIS»
Như nhiều Quý độc giả có thể đã đoán được là nhà Chính Trị Chuyên Nghiệp
người Việt được đề cập ở trên là ông NGUYỄN GIA KIỂNG, tác giả cuốn sách
đã gây nhiều tranh cãi là TỔ QUỐC ĂN NĂN.
Đây là trường hợp đỉển hình của lớp Trí Thức có thể gọi là TÂY HỌC NỬA
VỜI, tức những người lấy làm hãnh diện với cái «mát» TÂY HỌC của mình
nhưng lại chưa học được «tới nơi tới chốn» văn hóa và Văn Minh Tây
Phương mà hệ quả, như đã đề cập ở trên, là nhằm biện minh cho các chiêu
bài như CANH TÂN, GIẢI PHÓNG những người này vẫn TRỞ LẠI bàn về những
vấn đề, dùng những phương pháp Lý Luận, cũng như đưa ra những GIẢI PHÁP
của các thế kỷ TRƯỚC. Những nhóm Đàn Anh của họ như «Tự Lực Văn Đoàn» có
thể phần nào được chúng ta «thông cảm» , vì vào thời điểm đó, lớp Thức
Giả Việt vì vừa mới tiếp cận với văn hóa Tây Phương, nên chưa hiểu rõ
lắm về nội dung và bản chất của nền văn hóa này. Nhưng đến nay thì
khoảng một thế kỷ đã trôi qua, bao nhiêu «nước đã chảy qua cầu» mà
NGUYỄN GIA KIỂNG và nhóm THÔNG LUẬN vẫn còn giữ phản xạ của lớp Đàn Anh
trước kia thì thật là đáng trách và LỖI THỜI!
Tệ hại hơn nữa là trường hợp đặc thù này còn có thể được xem như là một
cuộc ĐẦU HÀNG TOÀN TRIỆT của lớp trí thức thuộc địa trước nền văn hóa
của mẫu quốc!!!
Thật vậy, ông Kiểng đã tự ý từ bỏ khả năng suy tư độc lập của mình, rồi
lại dám tự nhân danh để đi BÁN SALE tất cả nền văn hóa của TỔ TIÊN để
lại, nhằm rước tòan bộ nền văn hóa của mẫu quốc về ngự trị trên đất nước mình!
Đáng trách hơn nữa là nếu vấn đề được xét một cách công bằng, thấu
triệt, thì thật ra đó không phải do lỗi lầm của văn hóa hay Dân Tộc
VIỆT, mà là lỗi của đương sự do tính tình VỤT CHẠT nên chỉ vì một chút
HƯ DANH lại THIẾU KHẢ NĂNG và KIẾN THỨC cần thiết trong lãnh vực văn hóa
và TRIẾT HỌC nên không nhận diện được các điều Đúng - Sai, Hay-Dở của
mỗi nền Văn Minh, văn hóa mới đưa tới việc làm NÔNG NỖI nêu trên.
Ngoài ra, Thái Độ và Hành Động của ông Kiểng có vẻ không được trong sáng
lắm, vì có lẽ nhằm che dấu nguồn gốc của đa số ý tưởng trong TỔ QUỐC ĂN
NĂN hầu đạt được mục tiêu là RAO BÁN các ý tưởng trên như là MỚI và độc
đáo của riêng mình, ông Kiểngï lấy cớ là một nhà Chính Trị bận rộn để
xin độc giả cho miễn kê khai các tài liệu tham khảo.
Ông Kiểng còn tuyên bố :» Tôi nghĩ nên cố gắng để nói ra những điều mới,
và nếu trong mười điều mới nói ra có tới chín điều sai và chỉ một điều
đúng thì cũng còn có ích hơn là nói mười điều đúng cả mười nhưng đều là
những điều đã biết» (46), nhưng điều đáng tiếc ở đây là mười điều gọi là
«MỚI» đó không là kết quả của môt nỗ lực suy tư đúng đắng của riêng cá
nhân ông Kiểng, mà là của một sự cóp nhặt Tư Tưởng của một tác giả khác
là Alain PEYREFITTE, như phần trình bày trên cho thấy.
Nếu qua một hình ảnh ví von, ta thử so sánh ông Kiểng như một vị BÁC SĨ
chẩn bệnh cho «con bệnh» VIỆT NAM, thay vì dựa trên Kiến Thức, Kinh
Nghiệm của mình trong quá khứ để đưa ra một lối chữa trị độc đáo, thì có
lẽ vì THIẾU KHẢ NĂNG, KIẾN THỨC, nên đi dùng cách chữa trị của môt vị
BÁC SĨ KHÁC là A. PEYREFITTE áp dụng cho một «con bệnh» khác là NƯỚC
PHÁP, để chữa trị cho «con bệnh» VIỆT NAM. Quý Vị cũng có thể đoán trước
được kết quả của cuộc chữa trị «vô tiền khoáng hậu» trên đây sẽ thảm
khốc đến chừng nào, nếu được áp dụng!!!
Điều đáng trách khác là ông Kiểng còn gán cho người VIỆT những tật xấu
mà tác giả A. PEYREFITTE tìm thấy nơi người PHÁP như tính ganh ghét, sự
thiếu đòan kết Quốc Gia, sự kiện YẾU về môn ĐỊA LÝ, «Tôn Sùng « bằng cấp,» Lơ Là»
chính trị, Chuộng chiến tranh, tranh chấp và bạo động trong
khi ông KIỂNG lại cố ý làm cho độc giả hiểu lầm rằng CHỈ người VIỆT,
chứ người PHÁP không có những tính xấu đó nhằm thực hiện ý đồ không mấy
«trong sáng» của mình.
Ngoài ra, khi đọc cả cuốn «Tổ Quốc Ăn Năn» , người ta có «cảm tưởng ông
Kiểng như người nói huyên thuyên đủ các loại chuyện trong bàn tiệc.
Chuyện gì cũng biết,nhưng biết cái này một chút, cái kia một chút, biết
không thấu đáo đến nơi đến chốn» (47). Mục tiêu phải chăng là để LOÈ
Thiên Hạ về sự thông thái của cá nhân Nguyễn Gia Kiểng ?
2) TRƯỜNG
HỢP NGUYỄN HUỆ:
Nhân vật lịch sử và «nạn nhân» chính yếu của «Tổ Quốc Ăn Năn» là vua
QUANG TRUNG. Thật ra ở đây, ông Kiểng cũng chỉ bắt chước tác giả A.
PEYREFITTE khi thấy ông này phê bình vua LOUIS XIV và NAPOLÉON của Pháp.
Cũng xin được giới thiệu cùng Quý Độc Giả A. PEYREFITTE , tác giả cuốn
«LE MAL FRANCAIS» là một NHÀ VĂN và chính trị gia Thứ Thiệt, vì ông A.
Peyrefitte có chân trong Hàn Lâm Viện Pháp cũng như đã tham chánh trong
khoảng thời gian 20 năm trong Nội Các của 3 vị Tổng Thống Pháp là De
Gaulle, Pompidou và Giscard d'Estaing. Khác với «Tổ Quốc Ăn Năn», «LE
MAL FRANCAIS» là một tác phẩm có GIÁ TRỊ vì là kết quả của một công
trình suy tư ĐÚNG ĐẮN của một Nhà Văn và Nhà Chính Trị có KHẢ NĂNG. Và
đó là điều mà «TỔ QUỐC ĂN NĂN» KHÔNG CÓ được vì những lý do mà chúng tôi
đã nêu trên.
A. Peyrefitte đi ngược lại khuynh hướng của đa số các Sử Gia người Pháp
khi phê bình vua Louis XIV và Napoléon. Có lẽ vì chịu ảnh hưởng của nền
văn hóa TÂY PHƯƠNG có tính chất DUY LÝ, MỘT CHIỀU nên đa số các Sử Gia
PHÁP chỉ thấy và CA TỤNG tính chất HIỂN HÁCH của các CHIẾN CÔNG của
LOUIS XIV và NAPOLÉON cũng như tính chất HUY HOÀNG của thời đại LOUIS
XIV có biệt hiệu là «Ông Vua Mặt Trời» (le Roi-Soleil).
Trong khi đó, A. Peyrefitte có cái nhìn NHÂN BẢN hơn nên ông thấy được
đàng sau sự Huy Hoàng của thời đại Louis XIV qua biểu tượng thường được
nhắc tới là Cung Điện VERSAILLES, là sự NGHÈO ĐÓI và THỐNG KHỔ của đa số
dân chúng PHÁP vào thời kỳ đó, nhất là giới NÔNG DÂN.
Có lẽ vì thấy A. Peyrefitte phê bình Louis XIV và Napoléon, nên ông
Kiểng mới bắt chước «Hạ Bệ» Nguyễn Huệ! Nhưng vì NGK không nắm được lý
do thâm sâu của việc làm của Peyrefitte, nên không hiểu rằng việc làm
của PEYREFITTE có thể ĐÚNG mà NGK lại có thể SAI!
Về vua Quang Trung, nguyên nhân CHÍNH YẾU có lẽ là vì sinh trưởng và
được nuôi dưỡng trong bầu khí văn hóa HAI CHIỀU KÍCH «Tình Lý Tương
Tham» , nên ngoài Khả Năng QUÂN SỰ không những Ngang Hàng mà còn có thể
HƠN cả Louis XIV và Napoléon (vì bên cạnh những Chiến Công Hiển Hách,
hai ông VÕ TƯỚNG người PHÁP cũng THUA nhiều trận «liểng xiểng» , còn trái
lại NGUYỄN HUỆ CHƯA THUA trận nào), con người Nguyễn Huệ còn có một
CHIỀU KÍCH KHÁC mà cả Louis XVI và Napoléon đều không có.
Về điểm trên, chúng tôi sẽ dùng những Sử Liệu với những CHỨNG NHÂN đến
từ nhiều phe nhóm, thời kỳ, nguồn gốc khác nhau, để cho sự phán đoán đạt
được sự vô tư tối thiểu.
Thứ nhất là cụ TRẦN TRỌNG KIM mà NGK «buộc tội» là vì thù hận nhà Nguyễn
nên thổi phồng tài năng của vua Quang Trung.(48) Luận cứ trên không vững
vì nếu cụ TTK thù hận nhà Nguyễn, tại sao lại được vua Bảo Đại mời ra
tham chính? Cụ TTK viết về NGUYỄN HUỆ như sau: «Vua Quang Trung nhà
Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng
ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền
tài văn học» (49)
Về phía QUỐC GIA, trong thời kỳ từ 1954 đến 1975, có tác giả PHẠM VĂN
SƠN trong bộ Sử Giáo Khoa thứ hai là «Việt Sử Tân Biên» và «Việt Sử Toàn
Thư» , có viết như sau: «Quang Trung Hoàng Đế tuy là một quân nhân thượng
võ, múa gươm trên mình ngựa mà lấy thiên hạ, nhưng sau cuộc đại định
cũng đã tỏ ra biết chú trọng đến nhân tài, văn hóa và chính trị. Trong
các việc này nhà vua có nhiều sáng kiến đặc biệt phát sinh ở một tinh
thần cách mạng và quốc gia rất sáng suốt và cấp tiến» (VSTT, tr. 560)(50)
Về phía TRONG NƯỚC thì có nhà Viết Sử ĐỖ BANG viết về NGUYỄN HUỆ như
sau: «Xuất thân không là trí thức, nhưng vì do yêu cầu dựng nước, nên
Nguyễn Huệ không thành kiến với trí thức mà hết sức trân trọng và thủy
chung nên Nguyễn Huệ đã tập hợp được xung quanh ông bao gồm nhiều trí
thức tâm huyết , tận tụy với nước, với Quang Trung, như Trần Văn Kỷ, Ngô
Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp» .
Trước Nguyễn Huệ và sau Nguyễn Huệ hiếm có ai đã nhìn nhận đúng đắn về
vai trò của trí thức vào việc dựng nước như ông, mặc dù Nguyễn Huệ là
người ít học, xuất thân từ một gia đình nông dân ở một vùng ngoại biên
của văn hóa kinh kỳ.
Quan điểm sử dụng trí thức của Quang Trung được thể hiện rõ trong bài
«CHIẾU LẬP HỌC» : «Dựng nước lấy việc học làm đầu, trị nước chọn nhân tài
làm gốc» .Trẫm buổi đầu dựng nghiệp, tôn trọng việc học, lưu tâm yêu mến
kẻ sĩ, muốn có người thực tài ra giúp đất nước.» (51)
«Khác với đội quân thời trung cổ chuyên đi cướp bóc của cải và nô lệ,
Nguyễn Huệ năm 1786 ra Thăng Long đã tìm ngay các tiến sĩ, quan lại của
Lê - Trịnh, chọn trong họ những người có tài để đưa về Phú Xuân nhằm
thực hiện môt nền văn trị lâu dài. Và, cho tìm các thợ rèn giỏi đưa về
Phú Xuân để phát triển kỹ thuật của một kinh đô và một nền quân chính
cần được đẩy mạnh kiến thiết và xây dựng ở một tầm mới của thời đại.»
(52)
Về việc thẩm định thời đại Tây Sơn, «năm 1822 một người Anh tên Crawfurd
đến Việt Nam có thuật lại rằng» Tôi đã gặp những thương nhân Hoa Kiều ở
Huế, đã nói chuyện với họ. Họ đã sống dưới chế độ Tây Sơn và chế độ Nhà
Nguyễn, họ nói chắc rằng, triều đại Tây Sơn cai trị công bằng và ôn hòa
hơn nhà vua hiện tại (tức Minh Mạng) hay cha nhà vua ấy(Gia Long)» .(53)
«Năm 1790, giáo sĩ La Mothe cũng viết «Phải nói trắng ra rằng, tình
cảnh không đến nỗi tệ. Dưới triều đại này chúng tôi được che chở khỏi bị
lũ cướp phá phách, và về phần đạo giáo thì chúng tôi được hưởng nhiều tự
do và an ninh hơn các triều đại trước» . (54).
Trong khi ở bên trới TÂY, vào thời sớm hơn một chút, vua LOUIS XIV đang
theo đuổi mộng «ĐẠI PHÁP» , «ĐẠI THẾ KỶ» (Le Grand Siècle), hay đồng thời
với Nguyễn Huệ, NAPOLÉON đang theo đuổi mộng THỐNG NHẤT ÂU CHÂU, bất kể
đến sự KHỔ CỰC, ĐAU THƯƠNG của Dân Chúng và Binh Lính, thì chúng ta hãy
lắng nghe vua QUANG TRUNG tâm sự với Ngô Thời Nhậm ở dưới núi Tam Điệp
như sau:
«Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có sẵn,
chẳng qua mười ngày, có thể đuổi được người Thanh, nhưng nghĩ, chúng là
nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua trận, ắt ấy làm thẹn mà lo
báo thù, như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt không phải là phúc
cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới
dẹp nổi việc binh đao. Không phải Ngô Thời Nhậm thì không ai làm được.
Chờ mười năm nữa cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng bấy giờ nước
giàu dân mạnh, thì ta có sợ gì chúng» .(55).
Tóm lại, bắt chước A.Peyrefitte, nhưng không hiểu thâm ý của Peyrefitte
khi ông này phê bình Louis XIV và Napoléon, nên NGK mới đòi «Hạ Bệ»
Nguyễn Huệ. Có lẽ vì theo phương pháp LÝ LUẬN MỘT CHIỀU đã LỖI THỜI nên
NGK không biết là Nguyễn Huệ chỉ GIỐNG Louis XIV và Napoléon ở một khía
cạnh là một VÕ TƯỚNG TÀI BA, còn môt khiá cạnh khác của Nguyễn Huệ mà cả
Louis XIV lẫn Napoléon đều không có là sự ĐỨC ĐỘ và lòng NHÂN ÁI. Như đã
được đề cập ở trên, nguyên nhân chính yếu có lẽ là vì hai VÕ TƯỚNG gốc
PHÁP đã lớn lên trong bầu khí văn hóa DUY LÝ MỘT CHIỀU của TÂY PHƯƠNG,
trong khi NGUYỄN HUỆ đươc sinh ra và nuôi dưỡng trong nền văn hóa HAI
CHIỀU KÍCH «Tình Lý Tương Tham» của Viễn Đông và Việt Nam. Do đó, nêu
lấy CÔNG TÂM mà đọc những dòng vừa trích ở trên của những CHỨNG NHÂN
thuộc những phe nhóm, nguồn gốc và thời kỳ khác nhau, thì chúng ta đâu
có thấy NGUYỄN HUỆ qua hình ảnh của một «Tướng Cướp» như NGK cố tình
xuyên tạc, mà trái lại qua bức chân dung của một vị VÕ TƯỚNG «anh hùng
vô địch» nhưng lại có lòng NHÂN ÁI đối với quốc dân và binh sĩ , một vị
VUA ANH MINH, TÀI BA ĐỨC ĐỘ, VĂN VÕ SONG TOÀN, đúng theo Lý tưởng của
nền văn hóa NHÂN CHỦ, HAI CHIỀU KÍCH của dân tộc VIỆT vậy!
3) TRƯỜNG
HỢP NHO GIÁO:
a) VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN:
Mục tiêu chính yếu khác của «Tổ Quốc Ăn Năn» là ĐÁNH ĐỔ NHO GIÁO, vì
theo NGK, Nho Giáo «đã khiến cho các xã hội Á Đông trong đó có Việt Nam
thuộc văn hóa Trung Hoa dậm chân tại chỗ trong hơn hai ngàn năm. Ý này
ở trang 277 của cuốn Tổ Quốc Ăn Năn được coi là lý do chính tại sao phải
đánh Nho Giáo, hạ bệ Khổng Tử» .(56)
Nhưng có lẽ ông Kiểng không ý thức được rằng đề tài trên đã LỖI THỜI lắm
rồi, vì «Thời Trang» văn hóa xem Nho Giáo là nguyên nhân khiến các xã
hội Á Đông «chậm tiến» đã qua đi từ lâu. Và từ lâu nay, xuất hiện một
«Thời Trang» MỚI là làm sao GIAIÛ THÍCH ẢNH HƯỞNG của NHO GIÁO đối với
sự HIỆN ĐẠI HÓA VƯỢT BỰC của các «Con Rồng» Á CHÂU như Nhật Bản, Đại
Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba.mà mẫu số chung là nền văn hóa NHO GIÁO. Do
đó, chúng tôi có cảm tưởng là NGK và những người thuộc phe nhóm của ông
luôn luôn ĐI TRỄ MỘT CHUYẾN TÀU!
Còn một lý do khác khiến chúng tôi xem đề tài trên đã LỖI THỜI, là vì
cách đây đã hơn 20 năm ,căn cứ trên nhận xét của một Học Giả Quốc Tế
danh tiếng gốc Pháp ETIEMBLE về số phận khác nhau của Nho Giáo tại Trung
Hoa, Việt Nam một bên, và bên kia là Nhật Bản, chúng tôi đã có dịp phân
trích vấn đề này như sau:» Vận nước có khi lên khi xuống nhưng nếu muốn
tìm một giải thích văn hóa về vấn đề trên thì chúng tôi có nhận xét như
sau: Nho Giáo đến đời nhà Tống chia làm hai dòng: dòng «Lý Học» của Chu
Hy ảnh hưởng mạnh ở Trung Hoa và Việt Nam lại nặng phần từ chương trích
cú; còn dòng «Tâm Học» của Vương Dương Minh gần với tinh thần NHO GIÁO
NGUYÊN THỦY hơn lại mạnh ở Nhật, nên giúp giới Sĩ Phu của Nhật thời đó
sáng suốt hơn, cũng như «giúp Nhật trong vòng non nửa thế kỷ trở nên một
trong những quốc gia đệ nhất hoàn cầu» (57).
Thực ra sở học của ông Kiểng về Nho Giáo không có bao nhiêu: bằng chứng
là để «Tìm hiểu Khổng Giáo mà NGK chỉ đọc cuốn Luận Ngữ do Nguyễn Hiến
Lê biên soạn, dù có đối chiếu bản Luận Ngữ bằng tiếng Pháp của Bùi Đức
Tín, của Anne Cheng.» (58)
Với vốn kiến thức rất «khiêm nhường» về đề tài trên, và một DỤNG Ý rất
«lộ liễu» là cố tình xuyên tạc và «hạ bệ» nền văn hóa cổ truyền bằng
mọi giá, nên NGK đưa ra những giải thích rất KỲ CỤC về những thuật ngữ
căn bản của Nho Giáo như «Quân Tử - Tiểu Nhân» , chữ «Nhân» , Chữ «Đức» ,
chữ «Lễ» , vai trò của Khổng Tử , thái độ của Nho Giáo đối với Phụ Nữ.
b) QUÂN TỬ - TIỂU NHÂN:
Ông Kiểng viết: «Điều rất ngạc nhiên là tuyệt đại đa số những người bàn
luận về Khổng Giáo không hiểu ý nghĩa của những từ ngữ «quân tử» và
«tiểu nhân» ở vào thời đại Khổng Khâu (và rất lâu sau khi ông qua đời)
nên họ thường coi «sĩ» và «quân tử» là những giá trị tinh thần, biểu
tượng cho một nhân cách, một đạo đức và họ hay đồng hóa «sĩ» và «quân
tử» với sự cao thượng.
Thực ra «nho» chỉ là những người học để ra làm quan, «sĩ» là những nho
được tuyển chọn để được huấn luyện thành quan, «quân tử «là một giai
cấp, giai cấp của kẻ sĩ, những kẻ làm tay sai cho các vua chúa để thống
trị quần chúng.
Còn «tiểu nhân» chỉ có nghĩa là quần chúng mà thôi» (59)
NHẬN XÉT:
_ Nhận xét đầu tiên là tính chất TRỊCH THƯỢNG, NGẠO MẠN toát ra từ các
dòng trên: NGK làm như từ xưa đến nay,trong những người nghiên cứu Nho
Giáo thì hầu như KHÔNG có ai hiểu ĐÚNG trừ đương sự.
Ở đây, có lẽ nên nói NGƯỢC lại thì ĐÚNG hơn: «Điều đáng ngạc nhiên là
hầu như tuyệt đại đa số những người bàn luận về Khổng Giáo ít hay nhiều
hiểu ĐÚNG hai từ ngữ «quân tử» và «tiểu nhân» , TRỪ NGK là người đã từ
chối khả năng suy tư của chính mình, nên vẫn còn giữ lại loại Phản Xạ,
cũng như dùng loại phương pháp, bàn về những Vấn Đề với loại Nội Dung đã
LỖI THỜI để cuối cùng biến cuốn sách mình viết thành bản sao của một
cuốn sách khác của một người NGOẠI QUỐC» .
_ Thứ hai, dẫu trước Khổng Tử, hai từ ngữ «quân tử» và «tiểu nhân» có ý
nghĩa như NGK lập luận đi nữa, thì nếu NGK nghiên cứu đàng hoàng và chịu
khó CẬP NHẤT HÓA vốn Kiến Thức của mình thì sẽ hiểu rằng đúng theo tinh
thần của cuộc CÁCH MẠNG Chính Trị mà Khổng Tử muốn thực hiện nhằm đánh
đổ chế độ KẾ TỬ bằng cổ động cho chế độ KẾ HIỀN, thì ít nhất là từ đời
Khổng Tử trở về sau, «Quân Tử» đã mang ý nghĩa LUÂN LÝ, ĐẠO ĐỨC, nghĩa
là bất kỳ ai dù thường dân cũng thế hễ có những đức tính CAO THƯỢNG đều
được gọi là QUÂN TỬ, chứ không phải hiểu theo nghĩa đã LỖI THỜI của
NGK!!!
c) CHỮ LỄ:
NGK viết: «Tiên học lễ hậu học văn chỉ có nghĩa trước học cúng rối sau
mới học chữ» (60). Theo NGK, chữ «lễ» trong Nho Giáo không có nghĩa là
lễ phép, lịch sự mà chỉ có nghĩa «lễ nghi» mà thôi» .
Nếu «quả thật chữ «lễ» trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có nghĩa là cúng
tế, nghi thức trong thờ phụng mà thôi, cũng như về sau chữ «lễ» dùng
rộng ra gồm cả phong tục, tập quán mà xã hội thừa nhận trong các sinh
hoạt như quan, hôn, tang , tế, thì cũng như cặp cụm từ «quân tử - tiểu
nhân» , sau Khổng Tử chữ «lễ» còn bao gồm nhiều nghĩa khác như lẽ công
chính của đạo lý và lẽ thích nghi đạo lý ở đời. Lễ theo quan niệm của
Khổng Tử là để giữ tình cảm cho hợp với đạo trung, tạo thành tình cảm
nhân hậu, căn bản trọng yếu của Nho Giáo. Lễ để định lẽ phải trái, trật
tự trên dưới, thân sơ trong xã hội. Mục tiêu sau cùng của chữ «lễ» trong
Khổng Giáo nhằm để tiết chế cái tư dục của nhân sinh.» (61)
Cũng như với tiểu mục trước, tuyệt đại đa số những người có dịp nghiên
cứu Nho Giáo đều hiểu ít nhiều theo một hay nhiều ý nghĩa đã được THĂNG
HOA của chữ «Lễ» vừa trình bày ở trên TRỪ NGK. KỂ CŨNG LẠ!!!
Còn về các chữ quan trọng khác của Nho Giáo như chữ NHÂN, chữ ĐỨC.., NGK
cũng có lối Hiểu và Giải Nghĩa rất Lập Dị KỲ CỤC, KHÔNG GIỐNG AI CẢ!!!
Như đối với cụm từ «Quân Tử - Tiểu Nhân» và chữ LỄ vừa nêu trên vậy.
d) VAI TRÒ CỦA KHỔNG TỬ:
Vì mục tiêu chính yếu của NGK với «Tổ Quốc Ăn Năn» là ĐÁNH ĐỔ NHO GIÁO,
nên ngoài việc chỉ trích các thuật ngữ quan trọng của Nho Giáo như «Quân
Tử - Tiểu Nhân» , chữ LỄ, chữ NHÂN, chữ ĐỨC v.v., NGK còn nhắm «mủi dùi»
vào chính con người KHỔNG TỬ.
Nhận xét của ông Kiểng về phần đóng góp của KHỔNG TỬ: «Đối với Nho Giáo,
Khổng Tử không sáng tác gì cả. Đóng góp của ông không đáng kể so với
Mạnh Tử và cũng kém hẳn các danh nho sau này.» (62)
Nếu quả đúng như NGK nhận xét thì Mạnh Tử đã không «nức nở» khen Thầy
mình «không hết lời» , cũng như hậu thế đã không «tặng» cho Khổng Tử các
danh hiệu cao quý nhất như VẠN THẾ SƯ BIỂU, THÁNH CHI THỜI trong khi
danh hiệu cao nhất của Mạnh Tử là Á THÁNH. Cũng như giới Học Giả QUỐC
TẾ Cận Đại và Hiện Đại đã không tỏ sự NGƯỠNG MỘ đối với Ông như thế, đến
nổi như Học Giả Richwein chẳng hạn tuyên dương KHỔNG TỬ là THÁNH QUAN
THẦY CỦA THẾ KỶ ÁNH SÁNG (Le Siècle des Lumières), có lẽ do ẢNH HƯỞNG
của KHỔNG TỬ trên NHỮNG NGƯỜI CHA TINH THẦN CỦA NỀN DÂN CHỦ TÂY PHƯƠNG
như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Franklin, Jefferson vv..
Ngoài ra, dựa vào câu nói «thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ» NGK chê
trách Khổng Tử như sau: «Đó không phải câu nói khiêm tốn như ta có thể
nghĩ, mà cả một tôn chỉ của Khổng Khâu. Ông coi những triết lý và hiểu
biết của người xưa là đầy đủ và hoàn chỉnh, đời sau cứ thế mà theo không
được sửa đổi thêm bớt gì cả» (63).
Thật ra cụm từ trên có nhiều lối hiểu khác nhau từ đợt bình thường cho
đến đợt Minh Triết cao siêu. Nhưng cứ sự, thì có nhiều Học Giả Quốc Tế
danh tiếng xem đây là một lời nói KHIÊM TỐN của Khổng Tử, vì như đối
những chữ LỄ, chữ NHÂN, chữ ĐỨC hay cụm từ «QUÂN TỬ - TIỂU NHÂN» , tuy
trên bề mặt có vẻ «Thuật Nhi Bất Tác» vì KT dùng những Thuật Ngữ đã có
từ lâu, nhưng trên thực tế Khổng Tử đã THUẬT NHI TÁC, tức Ông cho chúng
mang những Ý Nghĩa rất MỚI MẺ, rất CÁCH MẠNG mà các từ ngữ trên không có
trước thời Khổng Tử.
Nếu không, thì Tư Tưởng, Tiếng Tăm của Ông đã bị «chôn táng» với nhà
Chu, chứ đâu còn SỐNG MẠNH cho đến ngày nay, để cả Thế Giới phải mời
KHỔNG TỬ như tại Hội Nghị Quốc Tế về Triết Học tại Honolulu vào năm
1949, ra làm NHẠC TRƯỞNG cho cuộc HOÀ TẤU văn hóa ĐÔNG TÂY Mai
Hậu!!!(64)
e) THÁI ĐỘ CỦA
NHO GIÁO ĐỐI VỚI PHỤ NỮ:
Một vấn đề quan trọng khác là thái độ của Nho Giáo đối với Phụ Nữ. Ông
Kiểng viết: «Hệ thống giá trị áp đặt cho phụ nữ rất mọi rợ và vô nhân
đạo. Nó hạ giá người phụ nữ xuống ngang hàng một nô lệ và một vật
dụng» (65)
Đối với vấn đề này cũng như nhiều vấn đề khác, NGK cũng KHÔNG CẬP NHẬT
HÓA vốn kiến thức của mình nên vẫn tiếp tục dùng những LUẬN CỨ của các
THẾ KỶ TRƯỚC.
Trước tiên, ông Kiểng không biết đến sự phân biệt giữa VIỆT NHO và HÁN
NHO của Cố Triết Gia KIM ĐỊNH. Theo Chủ Thuyết VIỆT NHO của Cố Triết Gia
được kiện chứng bởi các khám phá của KHOA HỌC gần đây, dân Bách Việt gốc
NÔNG NGHIỆP vào đất Tàu trước Hoa Tộc, nên đặt nền móng đầu tiên cho Nho
Giáo. Còn Hoa Tộc là dân DU MỤC vào sau, tuy yếu về văn hóa nhưng mạnh
về QUÂN SỰ nên dồn dân Bách Việt về phương Nam và CAI TRỊ nước Tàu trên
nhiều ngàn năm cho đến ngày nay.
Ngoài ra, cặp NÔNG NGHIỆP - DU MỤC thường đi đôi với cặp DÂN CHỦ - ĐỘC
TÀI. Và vì vai trò của PHU NỮ rất quan trọng trong xã hội NÔNG NGHIỆP
(như việc GIEO GẶT, trọng điểm của xã hội Nông Nghiệp hầu chắc là do
phụ nữ sáng kiến ra), nên các xã hội nông nghiệp cổ sơ thường theo chế
độ MẪU HỆ, thờ NỮ THẦN, cũng như dành cho Phụ Nữ vai trò quan trọng
được thấy chẳng hạn qua tập tục tính theo HỌ MẸ và tục CƯỚI RỂ như một
vài sắc dân Ra Đê trên Ban Mê Thuột vẫn còn giữ.
Mặt khác, nền VƯƠNG ĐẠO của NHO GIÁO NGUYÊN THỦY do Khổng Tử đại diện vì
rất gần với tinh thần NÔNG NGHIỆP của VIỆT NHO nên đạt được tinh thần
DÂN CHỦ qua thuật ngữ DÂN VI QUÝ của Mạnh Tử chẳng hạn và như đã nói ở
trên, đã có ảnh hưởng rất lớn trên những người CHA TINH THẦN của Thế
Kỷ ÁNH SÁNG như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Frankhlin,
Jefferson..(66)
Nhưng đến nhà HÁN thì bề ngoài có vẻ tôn Nho nhưng trong thực tế lại lập
tháp Thạch Cừ nhằm xuyên tạc Nho Giáo như chẳng hạn giải nghĩa Nho theo
kiểu ma thuật có lợi cho chính quyền chuyên chế, hạ giá đạo Hiếu để đề
cao «trung quân» hay thay thế TAM CƯƠNG Đạt Đức: Trí-Nhân-Dũng của Nho
Giáo Nguyên Thủy bằng TAM TÒNG của Đổng Trọng Thư.
Nho VƯƠNG TRIỀU cùng với số phận của người PHỤ NỮ còn tiếp tục SA ĐỌA
với các nhà triều đại MINH, TỐNG,THANH.
Vậy nên muốn hiểu đúng TINH HOA của NHO GIÁO, phải trở về với NHO GIÁO
NGUYÊN THỦY hay xa hơn nữa là VIỆT NHO, đặc biệt trong môi sinh tinh
thần của LÀNG XÃ VIỆT.
Nhiều Học Giả Ngoại Quốc như M. Durand trong «La Femme Annamite» đều
nhận thấy vai trò QUAN TRỌNG của người Phu Nữ VIỆT trong đời sống gia
đình. «Lấy chồng, người vợ có quyền TAY HÒM TAY KHÓA , nghĩa là quyết
định về tài sản và tài chánh của gia đình. Jules Ferry, một viên quan
cai trị Đông Dương thời Pháp thuộc, đã không tiếc lời ca tụng vẻ đẹp gia
đình trong xã hội Việt Nam, nhờ người vợ đóng vai trò NỘI TƯỚNG, Chủ
Nhân Ông thực sự của gia đình» (67)
Nhưng địa vị đặc biệt CAO QUÝ của Phụ Nữ VIỆT khi so với thân phận rất
HẨM HIU của tuyệt đại đa số người phụ nữ CÙNG THỜI ở trong các nền văn
hóa khác, được đặt nổi một cách đặc biệt trong bộ «Quốc Triều Hình Luật»
còn được gọi là LUẬT HỒNG ĐỨC ra đời cách đây khoảng 5 thế kỷ. Nhưng vì
NGK KHÔNG chịu CẬP NHẬT HÓA vốn Kiến thức của mình nên không hay biết gì
về nội dung của Bộ Luật rất quan trọng này.
Khi so sánh LUẬT HỒNG ĐỨC với LUẬT TÂY PHƯƠNG cùng thời, trên phương
diện TÀI SẢN, trong khi Luật Hồng Đức cho vợ chồng hoàn toàn BÌNH ĐẲNG
VỀ HÔN SẢN thì tại Mỹ, mãi tới năm 1890 nhiều tiểu bang mới sửa đổi và
một số tiểu bang vẫn còn áp dụng học lý «Femme Couverte» của Thông Luật,
theo đó NGƯỜI VỢ LÀ VẬT SỞ HỮU CỦA CHỒNG và không có quyền pháp lý đối
với lợi tức do chính bà kiếm ra cũng như đối với con cái và tài sản của
bà, trừ khi hai vợ chồng ký hôn khế trước đặt tài sản của họ dưới chế độ
giám hộ (trust).
Và một cách Tổng Quát, trong khi người phụ nữ VIỆT ở thế 15, có quyền tư
hữu ngang hàng với chồng và giữa vai trò quan trọng trong gia đình cũng
như ngoài xã hội, thì mãi tới thế kỷ 18 ở Âu Châu và thế kỷ 20 ở Mỹ, địa
vị của người đàn bà TÂY PHƯƠNG còn thấp trong cả trong gia đình lẫn
ngoài xã hội. Cao trào Phụ Nữ (Feminism) chỉ thực sự lên cao tại Mỹ vào
thập niên 1960 và thu thành quả tích cực vào những năm 1990.(68)
Vậy nên câu tuyên bố sau đây của NGK «Hệ thống giá trị áp đặt cho phụ nữ
rất mọi rợ và vô nhân đạo. Nó hạ giá người phụ nữ xuống ngang hàng một
nô lệ và một vật dụng» ÁP DỤNG CHO PHỤ NỮ TÂY PHƯƠNG THÌ ĐÚNG HƠN, ít
nhất cho đến thế kỷ 18 đối với Âu Châu và thế kỷ 20 đối với Hoa Kỳ!
ĐÚNG LÀ TUYÊN BỐ ẤU TẢ!!!
● KẾT LUẬN
Từ khi có hiện tượng TỔ QUỐC ĂN NĂN, có lẽ đa số người VIỆT chúng ta ở
Hải Ngoại cũng như ở Trong Nước, tỏ ra Ngán NGẪM đối với trường hợp một
cá nhân như NGUYỄN GIA KIỂNG, vì một chút DANH HẢO, đã không từ bỏ một
phương tiện, THỦ ĐOẠN nào cả để đạt được mục tiêu của mình!
Với một vốn KIẾN THỨC về văn hóa nhất là Triết Học rất «khiêm nhường» (
như chính đương sự từng «thú nhận» ), tức KHÔNG có sự CHUẨN BỊ Tối Thiểu
để làm công việc văn hóa, ông Kiểng lại đi «huyên hoang» tuyên bố là
muốn làm một cuộc «Cách Mạng ĐỔI MỚI về Tư Duy» , với những ý kiến thật
«Mới Mẻ» , «Độc Đáo!
Do đó, thiên hạ mới trông chờ xem từ «Ngài Thủ Lãnh» của nhóm THÔNG LUẬN
nội dung của cuộc «Cách Mạng văn hóa» kiểu Nguyễn Gia Kiểng là «cái gì
đây» ? Thì té raÏ THỦ THUẬT Chính Yếu của NGK là NHỤC MẠ TỔ TIÊN và các
vị ANH HÙNG DÂN TỘC được thấy qua cái TỰA «Quái Đản» của cuốn sách là TỔ
QUỐC ĂN NĂN. Với lối Lý Luận NGỤY BIỆN đầy tính chất CHỦ QUAN, MỘT CHIỀU
có lẽ Mưu Đồ của NGK và các «Đồng Chí» của ông ta là tạo điều kiện để
gây XÌ CĂN ĐAN nhằm lôi kéo sự chú ý của dư luận, đồng thời tìm cách
đánh mất lòng tin nơi độc giả đối với nền văn hóa VIỆT, cũng như gây
hoang mang chia rẽ trong cộng đồng người VIỆT, để các THẾ LỰC mà nhóm
ông dựa vào, THỪA ĐỤC THẢ CÂU chăng?
Về sự trông chờ từ trái núi là những kiến thức «Mới Mẻ» , «Độc Đáo» mà
ông Kiểng hứa với độc giả, thì cuối cùng lại đẻ ra con chuột «nhắt» là
những ý tưởng cóp nhặt từ một tác giả ngoại quốc với sự trùng hợp đạt
đến mức độ «khủng khiếp» để một người quan sát vô tư nhất cũng phải đi
tới kết luận là TỔ QUỐC ĂN NĂN của Nguyễn Gia Kiểng chẳng qua cũng chỉ
là bản sao của tác phẩm LE MAL FRANCAIS. của A.Peyrefitte mà thôi!!!
Đến đây có lẽ chúng ta mới thấy CẢM PHỤC trước sự KHÔN NGOAN của Tổ Tiên
LẠC VIỆT khi các NGÀI chủ trương TRỌNG ĐỨC HƠN TÀI. Lý do là với Văn
Minh ngày nay khi con người thay vì đặt ĐỨC TRÊN TÀI thì lại đi tôn sùng
cái TÀI, cái KHOẺ, cái THÔNG MINH.v.v. lên làm THẦN TƯỢNG, thì xảy ra
trường hợp ĐÁNG BUỒN như sự ra đời của cuốn sách» Tổ Quốc Ăn Năn» của
NGK, Thật vậy, vì muốn thỏa mãn tính HÁO DANH, mà vì THIẾU TÀI, tức vì
không đủ khả năng trong lãnh vực văn hóa, TRIẾT HỌC, người ta phải đi
làm chuyện GIAN DỐI, CHE ĐẬY. Tức ở đây là đi CHÔM Tư Tưởng của người
khác về làm của mình, mà lại còn «huyên hoang» đi «khoe mẽ» là TA ĐÂY
có Tư tưởng độc đáo, MỚI MẺ. Quả đúng là ĐẠO VĂN, chứ đâu phải Làm văn
hóa!!!
Tóm lại, ông KIỂNG và phe nhóm đã không ngần ngại dùng những phương tiện
KHÔNG CHÍNH ĐÁNG như ĐẠO VĂN, XUYÊN TẠC LỊCH SỬ và SỰ THẬT trong âm mưu
thâm độc là NHỤC MẠ TỔ TIÊN và HẠ GIÁ NỀN văn hóa VIỆT.
Trong khi đó, ít nhất từ nửa thế kỷ nay, một loạt khám phá của giới HỌC
GIẢ QUỐC TẾ, đi từ tính chất LÂU ĐỜI của nền Văn Minh NÔNG NGHIỆP của
Sắc Dân HÒA BÌNH của TS Wilheim G. SOLHEIM II qua «Địa Đàng tại Phương
Đông» của BS Stephen OPPENHEIMER là người chủ trương VĂN MINH NHÂN LOẠI
BẮT NGUỒN TỪ ĐÔNG NAM Á, hay các khám phá về địa bàn của LÚA NƯỚC bên
miền Viễn Đông nằm ở miền Nam Trung Hoa và vùng Đông Nam Á, hoặc qua sự
kiện là các CỔ VẬT ở đất VIỆT được xếp đặt theo BỘ SỐ 2-3-5 là nguồn gốc
của các thuyết ÂM-DƯƠNG (2), TAM TÀI (3), NGŨ HÀNH (5) của Dịch Lý .vv.
đến nội dung NHÂN QUYỀN của bộ Luật HỒNG ĐỨC, hoặc ï qua khám phá của
chúng tôi gần đây về tính chất LÂU ĐỜI của THỂ CHẾ Làng Xã VIỆT rất
TƯƠNG TỰ với Thể Chế DÂN CHỦ Ngày Nay, tóm lại qua tất cả các điều vừa
trình bày ở trên, GIỚI HỌC GIẢ QUỐC TẾ ĐÃ TRẢ DANH DỰ VÀ SỰ THẬT LẠI CHO
TỒ TIÊN LẠC VIỆT!!!
Ngay các Học Giả TRUNG QUỐC, cách đây gần 10 năm, trong tờ «BEIJING
REVIEW» , một trong những «tiếng nói» chính thức của Chính Quyền Trung
Hoa, trong số ngày 23-29/03/1998, ở phần «Culture and Science» (tr.31),
trước những bằng chứng không chối cãi được của KHOA HỌC ngày nay, đã
phải đi đến việc phủ nhận quan điểm Lịch Sử 5000 năm của Sử Gia Tư Mã
Thiên để thay thế bằng chủ trương của giới Học Giả QUỐC TẾ về Lịch Sử
10,000 năm lập quốc Trung Hoa với sự đóng góp NỀN TẢNG của các bộ tộc
BÁCH VIỆT trong một xã hội mà họ gọi là ĐA văn hóa được thành hình vào
thới kỳ này. (69)
Trong khi đó, ông KIỂNG và phe nhóm thì lại có thái độ PHỚT LỜ đối với
các Khám Phá KHOA HỌC Mới Mẻ Nhất, tức là KHÔNG chịu CẬP NHẬT HOÁ vốn
Kiến thức của mình, mà trái lại tiếp tục DÙNG những tài liệu CŨ KỸ, LỖI
THỜI của đám THỰC DÂN, THUỘC ĐỊA trước đây để XUYÊN TẠC Lịch Sử cũng
như NHỤC MẠ Tổ Tiên và các vị Anh Hùng DÂN TỘC VIỆT.
Đã vậy trước hiểm họa XÂM LĂNG mới đây của TRUNG CỘNG, NGK và nhóm THÔNG
LUẬN lại muốn nhảy vào ĂN CÓ như muốn nhại lại người xưa bằng cách hô
hào «TOÀN DÂN NGHE CHĂNG » . Thật ĐÁNG HỔ THẸN!!!
THƯA
QUÝ VỊ,
Sau những
việc làm TÀY TRỜI của Quý Vị đối với TỔ TIÊN, ĐẤT NƯỚC, Quý Vị nên CÂM
MIỆNG đi thì hơn, nếu không muốn trở thành TRÒ CƯỜI cho THIÊN HẠ và HẬU
THẾ! Nhiều NGƯỜI và ĐOÀN THỂ KHÁC tỏ ra XỨNG ĐÁNG hơn Quý Vị để làm Công
Việc nêu trên! HỒN DÂN TỘC đã CHẾT từ lâu trong lòng của Quý Vị rồi!
Đừng tiếp tục NHÂN DANH cũng như âm mưu bày thêm THỦ THUẬT mới nữa để
«giở trò» MỴ DÂN!!!
Chính Quý
Vị cần PHẢI ĂN NĂN, SÁM HỐI, chứ KHÔNG CÓ TỔ QUỐC NÀO PHẢI ĂN NĂN CẢ!!!
Riêng Tác
Giả của «Tổ Quốc Ăn Năn» là NGUYỄN GIA KIỂNG tỏ ra XỨNG ĐÁNG để được
trao tặng «Tước Hiệu» là TRÍ THỨC TÂY HỌC NỬA VỜI!!!
Lê Việt Thường
●
Bấm vào đây Đọc Bài 1 ; " Tinh Hoa Ý Thức Hệ Việt Nho " của G.s
Trần Đoàn
CHÚ THÍCH
(1) Lê Việt Thường, 'Cần Cập Nhật Hóa phương pháp và Nội Dung trong
Lãnh Vực suy tư: PHẦN MỘT» , «anviettoancau.net» , th. 08/2007
(2) Nguyễn Gia Kiểng, «Tổ Quốc Ăn Năn» , Paris, 2001, tr.52
(3) Idem, tr.XI
(4) Alain Peyrefitte,» Le Mal Francais» , Tome 1 & 2, Plon 1976
(5) Nguyễn Gia Kiểng, Idem, tr. 217
(6) Alain Peyrefitte, Idem, tr.47-48
(7) NGK, Idem tr. 98
(8) AP, Idem,tr.62
(9) NGK, Idem tr.71
(10) Idem tr 72
(11) AP, Idem tr. 51
(12) Idem tr. 789
(13) NGK, Idem tr.146
(14) AP, Idem tr. 821-822
(15) NGK, Idem tr. 91
(16) AP, Idem tr. 824
(17) NGK, Idem tr. 26
(18) AP, Idem tr. 801
(19) AP, Idem tr.760
(20) NGK, Idem tr.52-53
(21) AP, Idem tr. 636
(22) NGK, Idem tr. 97
(23) NGK, Idem tr.128
(24) NGK, Idem tr.130
(25) NGK, Idem tr. 132
(26) NGK, Idem tr. 133
(27) NGK, Idem tr. 133
(28) AP, Idem tr. 809
(29) AP, Idem tr. 809
(30) AP, Idem tr. 809
(31) AP, Idem tr. 809
(32) AP, Idem tr. 810
(32) AP, Idem tr. 810
(33) AP, Idem tr.810
(34) AP, Idem tr. 812
(35) AP, Idem tr. 814
(36) NGK, Idem tr 95
(37) NGK, Idem tr. 95-96
(38) NGK,Idem tr. 96
(39) NGK, Idem tr.96
(40) AP, Idem tr.211
(41) AP, Idem tr. 211-212
(42) AP, Idem tr.213
(43) AP, Idem tr. 213-214
(44) NGK, Idem tr. 147
(45) AP, Idem tr. 902
(46) NGK, Idem tr. III
(47) Nguyễn Thị Sông Hương, «Yếu Tính Phá Sản Trong «Tổ Quốc Ăn Năn» «,
Đai Nam 2004, tr.3
(48) NGK, Idem tr.169
(49) Trần Trọng Kim, «Việt Nam Sử Lược» , nxb văn hóa Thông Tin, VN 2002,
tr.407
(50) Nguyễn Thị Sông Hương, Idem tr.98
(51) Đỗ Bằng, «Những Khám Phá Về Hoàng Đế Quang Trung» , nxb Thuận Hóa,
1998, tr.223-224
(52) Đỗ Bằng, Idem tr. 225
(53) ĐB, Idem tr. 232
(54) ĐB, Idem tr. 231
(55) ĐB, Idem tr. 239
(56) NTSH, Idem tr. 102
(57) Étiemble, «Confucius» , Gallimard, 1966, tr.263
(58) NTSH, Idem tr. 103
(59) NGK, Idem tr. 272
(60) Idem tr. 299
(61) NTSH, Idem tr. 164-165
(62) NGK, Idem tr.275
(63) Idem tr.273
(64) C. Moore, «Essay in East West Philosophy, University of Hawai,
1951, tr.447
(65) NGK, Idem tr. 295
(66) Lê Việt Thường, «Luật Hồng Đức và Vấn Đề Dân Chủ: Tinh Thần và Thể
Chế» , «anviettoancau.net» , tháng 07/07
(67) NTSH, Idem tr. 159-160
(68) Hoàng Xuân Hào, «Nhân Quyền Trong Luật Hồng Đức: Niềm Tự Hào Dân
Tộc» , Thế Kỷ 21, số 113, th.9/1998, tr. 28-33Tóm lượt Tác Phẩm của GS Tạ
Văn Tài» The Vietnamese Tradition of Human Rights» , University of
California, Berkeley, USA, 1988
(69) Beijing Review, «Archaeology finds give clues to 10,000-year
Chinese History”, 23-29/03/05, tr. 31
nguồn:
http://www.bacaytruc.com/
http://www.tinparis.net/
Cùng đề tài:
- Đọc "Tổ quốc ăn năn" của Nguyễn Gia Kiểng (Vũ Huy Quang)
- Vài nhận xét về cuốn "Tổ Quốc Ăn Năn" của Nguyễn Gia Kiểng (Nhật Tiến)
- Forum Vietbao: Đọc sách Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng
- Trường Hợp «TỔ QUỐC ĂN NĂN» của Nguyễn Gia Kiểng (Lê Việt Thường)
- Tổ Quốc Ăn Năn: một lừa đảo thế kỷ (Nguyễn Gia Thưởng)
Những bài về nạn trộm văn:
- Ăn cắp cả cái sắc không của nhà Phật" (LýThái Xuân)
- Ông Ngô Đình Diệm Biết Làm Thơ? (Thanh Thanh)
- Trường Hợp «TỔ QUỐC ĂN NĂN» của Nguyễn Gia Kiểng (Lê Việt Thường)
Trang Lịch Sử