●   Bản rời    

Đọc Sách “Việt Nam 1945-1995” của Lê Xuân Khoa - Mấy Vấn Đề Cần Trao Đổi

Đọc Sách “Việt Nam 1945-1995” của Lê Xuân Khoa

Mấy Vấn Đề Cần Trao Đổi

Chu Sơn

Link http://sachhiem.net/LICHSU/C/ChuSon.php

13-Aug-2016

LTS: Cuốn "Việt Nam 1945-1995" của Tác Giả Lê Xuân Khoa đã được tác giả Nguyễn Mạnh Quang phê bình từ năm 2008 trong bài Một Số Những Sai Lầm Trầm Trọng Trong Cuốn Việt Nam 1945-1995 Của Tác Giả Lê Xuân Khoa. Bài viết sau đây của tác giả Chu Sơn (Đọc sách VIỆT NAM 1945-1995 của Lê Xuân Khoa) được đăng trên diendan.org làm 4 kỳ từ ngày 31.10 đến ngày 8.11.2014.) đưa ra thêm một số luận điểm mới. Tác giả đã thành công lật tẩy các ngõ ngách dưới mỗi hòn đá cài đặt trong quyển sách của Lê Xuân Khoa. (SH)

Một người bạn thân thiết: anh TĐTL từ Mỹ về, đến thăm và cho tôi mượn cuốn sách có tựa đề: Việt Nam 1945-1995 (VN1945-1995), tác giả là Lê Xuân Khoa (LXK), sách do Tiên Rồng xuất bản năm 2004.

Ghi nhận sơ khởi của tôi khi lướt qua bìa bao: chắc là tác giả Lê Xuân Khoa viết về đại cương các mặt hoạt động của đất nước, xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XX. Gọn hơn: Lịch sử Việt Nam 1945-1995.

Ở bìa 1, ngoài tên sách, tên tác giả, tên nhà xuất bản như đã ghi ở bìa bao, còn có thêm: Chiến tranh, Tị nạn Bài học lịch sử, tập I.

Ghi nhận tiếp theo của tôi là: sách Việt Nam 1945-1995 là một bộ nhiều tập, đây là tập I. Tập này Lê Xuân Khoa viết về hai chủ đề chính: Chiến tranh và Tị nạn. Sau phần nghiên cứu, tác giả viết thêm phần Bài học lịch sử.

Lật vào bìa 2, ngoài phần giới thiệu trình bày như ở bìa 1, nội dung cuốn sách được thu hẹp lại, chỉ còn: Tị nạn 1954Bài học Bốn Cuộc chiến (1945-1979).

Đến đây tôi tự hỏi:

- Tại sao ngay từ đầu Lê Xuân Khoa không đặt tên cho công trình nghiên cứu của ông đại loại : Lịch sử tị nạn ở Việt Nam từ 1945 đến 1995, và Bài học Bốn cuộc chiến – để danh được chính và ngôn được thuận ?

Lại nữa, chưa có một nghiên cứu đầy đủ về các cuộc chiến tranh mà viết Bài học lịch sử, liệu có khách quan, chính xác và trung thực như tuyên bố của tác giả ở Lời Mở Đầu của cuốn sách (tập I) không ?

Tôi quyết định xếp sách vào tủ đợi trả lại cho anh bạn.

Một người quen khác, ông Trần Hân, nguyên là bí thư thành ủy Huế thời 1954-1955, người tử tù về từ Côn Đảo, trong một buổi tiếp xúc để tìm hiểu về phong trào Hòa Bình tại Huế sau hiệp định Genève, khi được hỏi về “Người Quốc Gia” cũng đề nghị tôi tìm đọc Việt Nam 1945-1995 của Lê Xuân Khoa. Ông Trần Hân nói : “Tôi là người trong cuộc, đứng một bên chiến tuyến, lại là đối tượng trực tiếp của sách lược Tố cộng, Diệt cộng đẫm máu, khốc liệt của chế độ Ngô Đình Diệm, 20 năm sống dở, chết dở ở các địa ngục trần gian: Trại thẩm vấn, Thừa Phủ, Chín Hầm, Côn Đảo, sẽ không có một giải đáp thích hợp cho câu hỏi của anh. Lê Xuân Khoa là Người Quốc Gia trăm phần trăm, hơn nữa, ông là Người Quốc Gia khoa bảng, một nhà giáo chuyên nghiệp. Anh hãy xem ông ta nghĩ gì, viết gì về chiến tranh và đặc biệt về phe Quốc Gia, mà ông ta là một thành viên”.

Thế là hai người thân quen với tôi có hai quan điểm dị biệt về các cuộc chiến tranh xảy ra trên đất nước trong nửa sau thế kỷ XX đều muốn tôi đọc cùng một cuốn sách. Dĩ nhiên cả hai đều muốn tôi chia sẻ cái nhìn của họ về lịch sử Việt Nam cận hiện đại. Sự tự tín của họ khiến tôi tò mò, mặc dầu đã một lần dứt khoát không đọc, nhưng rồi lại thay đổi quyết định: thử làm tên mù sờ voi, xem Lê Xuân Khoa là ai, ông đã viết gì trong cuốn Việt Nam 1945 – 1995 ?

Mở sách Việt Nam 1945-1995 tập I, truy cập thông tin trên mạng (VIETBANG.COM) tôi có được một tiểu sử sau đây :

1/ Lê Xuân Khoa sinh trưởng ở miền Bắc (Hà Nội ?).

2/ Lê Xuân Khoa là một nhà giáo chuyên nghiệp và khoa bảng tại Việt Nam trước 1975:

- 1950 dạy học ở Hà Nội.

- 1953 tốt nghiệp Văn khoa và Sư phạm.

- 1954 di cư vào Nam, dạy Trung học, viết sách giáo khoa cho Trung Tâm học liệu thuộc bộ Giáo dục (Việt Nam Cộng Hòa).

- 1960 du học Pháp, ghi danh tiến sĩ ở Đại học Sorbonne, đến Ấn Độ nhiều lần để nghiên cứu về triết học.

- Trở lại Sài Gòn dạy Triết ở Đại học Văn Khoa, dạy Văn minh Việt Nam ở các đại học: Đà Lạt, Minh Đức, Vạn Hạnh.

- Trở thành viện phó Viện Đại Học Sài Gòn.

3/ Lê Xuân Khoa còn là người hoạt động chính trị trong một thời gian dài:

- 1975 di tản sang Mỹ. Là chủ tịch Tác vụ Đông Nam Á chuyên về Tị nạn. Được phụ tá ngoại trưởng Mỹ Funselth tuyên dương về những đóng góp tích cực trong công tác tị nạn và thỏa hiệp Mỹ – Việt về vấn đề định cư của tù nhân chính trị.

- 1993 được Bộ Ngoại giao Mỹ mời tham gia phái đoàn dự hội nghị của Ủy hội về An ninh và Hợp tác châu Âu.

4/ Phần cuối cuộc đời, ông trở lại nghề dạy học và viết sách :

- 1997 là giáo sư thỉnh giảng và học giả ngoại trú tại trường Cao học Johns Hopkins ở Washington DC (Hoa Kỳ) về nghiên cứu Quan hệ Quốc tế và Chính sách Quốc tế .

- Sau đó, Lê Xuân Khoa dành hết thời gian cho nghiên cứu và viết sách. Việt Nam 1945-1995 là một trong những công trình của ông.

-- o0o --

Việt Nam 1945-1995, tập I, dày 568 trang, ngoài Mục lục, Lời cám ơn, Bảng chữ tắt, Lời Mở Đầu in ở đầu sách, Lời kết, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, Danh mục in ở cuối sách, sách chia làm 3 phần 10 chương:

Phần I gồm 3 chương có tựa đề : Những Nguyên Nhân Gốc của Tị Nạn (tr 31 – 158).

Phần II gồm 3 chương có tựa đề : Chiến Tranh chống Pháp và Tị Nạn 1954 (tr 159 – 270)

Phần III gồm 4 chương có tựa đề : Nội Chiến hay Chiến Tranh Ủy Nhiệm ? (tr 271 – 484).

Ở Lời Cám ơn và lời Mở đầu, Lê Xuân Khoa cho biết là ông đã dành nhiều thiện chí, tâm huyết và công sức để chuẩn bị, nghiên cứu, hoàn thành công trình. Những tư liệu, sự kiện, thông tin (ông chọn lựa: Chu Sơn), bình luận trong sách là chân thật, khách quan...

Có thể góp phần đáng kể cho những cuộc thảo luận về các quan hệ giữa cộng đồng người Việt ở hải ngoại và chính quyền trong nước” (LXK sđd tr 24).

Ông còn nói thêm là tài liệu, thời gian để tiến hành nghiên cứu và thực hiện cuốn sách là không hạn chế. Ông được các thư viện, trung tâm tư liệu lớn ở Mỹ, ở Pháp, nhiều giáo sư tiến sĩ, học giả, giám đốc công ty, bạn bè giúp đỡ, tạo điều kiện.

Với nhân thân, hành trạng, tâm huyết, công sức và đặc biệt thiện chí, tấm lòng vô tư của tác giả đối với lịch sử, hiện tại, tương lai của đất nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại như vậy là đáng trân trọng, khả tín (LXK sđd trang 24, 27). Điều đáng kinh ngạc là Lê Xuân Khoa không hề sử dụng nguồn tư liệu sống mênh mông là những “người Việt Nam Quốc Gia” đang ở chung quanh ông, và những “người Việt Nam Cộng Sản” cùng đại đa số quần chúng nhân dân đang ở trong nước với hằng hà sa số những tài liệu được làm nên từ họ (sách, báo, thơ, nhạc, họa).

Ở phần III, trang dẫn nhập (271), Lê Xuân Khoa viết:

“… Bởi vậy, tìm hiểu nguyên nhân của Tị nạn 1975 cũng là tìm hiểu nguyên nhân đưa đến chiến tranh và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa”.

Ở chương 6 (phần II) trang 239, Lê Xuân Khoa viết:

Căn cứ vào hai định nghĩa này (tác giả trích dẫn ở trang 239) dân di cư từ Bắc vào Nam 1954 chính là người tị nạn”.

Từ luận điểm và nhận định đó, Lê Xuân Khoa từng bước dẫn dắt người đọc sách của ông đến kết luận: Tị nạn là tị nạn Cộng sản, do vậy nguyên nhân đưa đến chiến tranh chủ yếu cũng là Cộng sản, Cộng sản Quốc tế (Liên Xô, Trung Quốc) và Cộng sản Việt Nam. Còn Trung Hoa Quốc Gia, Pháp, Mỹ… chỉ là Những Yếu Tố Bên Ngoài, nếu có là “Nguyên nhân gốc”, cũng chỉ là “Nguyên nhân gốc” loại hai.

Bởi, theo Lê Xuân Khoa :

Không cần tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp – để rồi dù chỉ có chiến thắng cũng phải trả một giá quá đắt – vì chỉ trong vòng mấy năm sau Thế chiến thứ II các xứ thuộc địa trên thế giới, trừ một số nước ở Nam Phi, đều được trả độc lập mà không cần có chiến tranh” (LXK sđd trang 193).

Lý giải và kết luận như trên là sợi chỉ xanh ngoắt ngoéo, gấp gãy để Lê Xuân Khoa xây đắp, chắp vá thành nền móng, khung sườn, tường mái và chất dính cho công trình của ông. (Thuật ngữ “sợi chỉ xanh ngoắt ngoéo, gấp gãy” dùng ở đây để đối xứng với thuật ngữ: “Sợi chỉ đỏ xuyên suốt” mà đảng Cộng Sản Việt Nam thường dùng đã quấy rối thính giác và đời sống của quần chúng Việt Nam suốt hàng chục năm liền từ sau 1975).

-- o0o --

Lần theo sợi chỉ xanh ngoắt ngoéo, gấp gãy:

Ở phần I : Những Nguyên Nhân Gốc của Tị Nạn, Lê Xuân Khoa không nói rõ là tị nạn 1954 hay tị nạn 1975. Chắc là ông muốn nói đến gốc rễ của hai cuộc tị nạn. Ông đã trình bày theo thứ tự ưu tiên 1, 2, 3. Hai trong ba là Cộng sản. Cộng sản là “nguyên nhân gốc” thứ nhất – độc giả có thể hiểu là nguyên nhân đầu, nguyên nhân sâu xa. Cộng sản cũng là “nguyên nhân gốc” thứ ba – độc giả cũng có thể hiểu là nguyên nhân cuối cùng, nguyên nhân gần. Gom cả hai “nguyên nhân gốc” (1) và (3) lại thành nguyên nhân nội sinh, chủ yếu. “Nguyên nhân gốc” thứ hai tác giả gọi là: Những Yếu Tố Bên Ngoài – độc giả có thể hiểu là nguyên nhân thứ yếu. Từ tên gọi: Những Yếu Tố Bên Ngoài, đến thứ tự ưu tiên được sắp xếp (thứ hai), đến kết luận: “không cần tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp” …, Lê Xuân Khoa muốn độc giả hiểu thêm rằng: Nếu không có Cộng Sản thì sẽ không có cuộc chiến tranh chống Pháp, không có hiệp định Genève, không có chia cắt đất nước, không có tị nạn 1954, không có chiến tranh chống Mỹ, và tất nhiên không có tị nạn 1975, không có chiến tranh với Trung Quốc ở biên giới phía Bắc và với Khơ Me Đỏ ở biên giới phía Nam (1979), không có suy sụp đất nước… không có lệ thuộc ngoại bang (Liên Xô, và đặc biệt Trung Quốc).

Mặc dù đặt tên cho phần II của cuốn sách là Chiến Tranh Chống Pháp và Tị Nạn 1954, nhưng Lê Xuân Khoa không nghiên cứu đầy đủ cuộc chiến tranh này, ông chỉ khai thác một số sự kiện có liên quan đến cuộc chiến tranh làm chất liệu cho nội dung ông cần đề cập là chia cắt đất nước và tị nạn 1954, với mục đích quy kết mọi trách nhiệm cho Cộng Sản. Không nghiên cứu đầy đủ chiến tranh, nhưng Bài học chiến tranh thì ông tỏ ra nhiệt tình vượt mức. Không những ông dành cho hai phía người Việt: Quốc Gia – Cộng Sản những chỉ dẫn mà ông cho là sâu sắc, trung thực, ông còn dành cho Pháp lẫn Hoa Kỳ những hiểu biết cần thiết cho tương lai mà ông gọi là bài học lịch sử. Có điều đối với Liên Xô và Trung Quốc, ông không có bài học nào cho chúng cả.

Viết về hiệp định Genève, nhưng chủ yếu ông viết về những áp lực, phản bội của Liên Xô, Trung Quốc đối với Hồ Chí Minh và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đặc biệt ông quá ngưỡng mộ về những thắng lợi của Pháp với biệt tài đàm phán của Mendès-France. Ông cho rằng nhờ hiệp định Genève nên Pháp đã rút khỏi Việt Nam trong thắng lợi mặc dầu đã thua trận ở Điện Biên Phủ.

Viết về Di tản và Tị nạn 1954, Lê Xuân Khoa không đồng tình với từ Di tản sau chiến tranh của Liên Hiệp Quốc, ông chứng minh với những chứng từ, tư liệu – phần đông những chứng từ, tư liệu này ông lấy từ những sách báo của các tác giả cánh hữu và các Thừa sai người ngoại quốc để cáo buộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã vi phạm hiệp định Genève. Ông khẳng định việc ra đi của gần một triệu người từ Bắc vào Nam sau tháng 7-1954 là Tị nạn Cộng Sản.

Nội Chiến hay Chiến Tranh Ủy Nhiệm là chủ đề phần III của cuốn sách. Ở phần này Lê Xuân Khoa trình bày nhận định của ông về bản chất cuộc chiến tại Việt Nam từ 1954 đến 1975. Chừng mực nào đó ông không đồng tình với tên gọi của các phe lâm chiến .

- Mỹ thì gọi là Chiến tranh Việt Nam (của Mỹ – Chu Sơn).

- Việt Nam Cộng Hòa thì gọi là chiến tranh chống Cộng Sản xâm lược.

- Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì gọi là chiến tranh chống Mỹ xâm lược và Ngụy tay sai (Mỹ – Ngụy) tại miền Nam.

- Lê Xuân Khoa thì gọi là Nội Chiến và Chiến Tranh Ủy Nhiệm. Ông không cho biết Liên Xô và Trung Quốc gọi cuộc chiến tranh này là gì, mặc dù, theo ông, hai nước này ủy nhiệm cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đánh Mỹ và phe Tư bản vì lợi ích của mỗi nước.

Cuộc chiến tranh Việt Nam 1954-1975 kết thúc, theo Lê Xuân Khoa là Mỹ rút quân, Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thắng nhưng với cái giá quá đắt…

Ông cũng không cho biết mục tiêu ủy nhiệm của hai nước Liên Xô, Trung Quốc là gì, có đạt được hay không khi ủy nhiệm cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa?

Điều đặc biệt là Lê Xuân Khoa không nói gì đến công cuộc thống nhất đất nước và xây dựng Xã hội Chủ nghĩa sau 1975.

Cuối cùng, cũng như “Chiến Tranh Chống Pháp”, Lê Xuân Khoa đã chỉ cho các phe lâm chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Sản và Việt Nam Quốc Gia những sai lầm cơ bản, đồng thời ông cũng nhắn nhủ các bên những bài học cần ghi nhớ. Đối với Liên Xô và Trung Quốc, một bên ủy nhiệm, ông không chỉ dẫn cho chúng bài học nào.

Đặc biệt ở lời kết, Lê Xuân Khoa nhắn nhủ nhân dân Việt Nam và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam ba bài học cần ghi nhớ để hướng về tương lai :

- 1/ Trong quan hệ quốc tế chỉ có lợi ích quốc gia là quan trọng hơn cả.

- 2/ Không có một chủ nghĩa chính trị nào là chân lí tuyệt đối.

- 3/ Cần hiểu rõ ta, bạn và thù.

Đọc xong Việt Nam 1945-1995 tập I, phản ứng tự nhiên của tôi là xếp sách lại, đợi trả. Nói thật thà tôi quá thất vọng, bởi Lê Xuân Khoa, qua tác phẩm “tâm huyết”, “công phu” và “khách quan” của ông, đã thể hiện :

- Một khoảng cách quá lớn giữa những gì ông viết ở Lời Mở Đầu, ở các trang tóm lược đầu các phần, các chương, và những gì ông viết ở phần còn lại (nội dung) của cuốn sách.

Cũng có một khoảng cách như vậy giữa hiện thực lịch sử và những gì Lê Xuân Khoa nắm bắt được để sử dụng cho mục đích của ông.

- Mới xem qua tôi có cảm tưởng cái gì Lê Xuân Khoa cũng biết, cũng giỏi, cũng làm thầy được cả. Nhưng đọc kỹ tôi thấy rằng cái biết, cái giỏi ấy chỉ là những thủ thuật ngoắt ngoéo, gấp gãy… khiến người đọc sách của ông hoài nghi thiện chí và khả năng chuyên môn mà ông đã bày tỏ khắp các chương mục trong cuốn sách, đặc biệt ở Lời Mở Đầu.

Để có một trao đổi nghiêm túc, đầy đủ cùng tác giả Lê Xuân Khoa, tôi e rằng cần phải viết lại một cuốn sách. Tôi không đủ sức làm công việc khó khăn này. Do vậy mà tôi định xếp sách, đợi trả. Nhưng khi nhớ lại hai người thân quen (đã giới thiệu ở trên), tôi thử thảo luận cùng Lê Xuân Khoa mấy vấn đề nêu ra từ tác phẩm của ông trong khả năng hạn chế của người đọc sách bình thường.

Bài viết này trình bày một góc nhìn trong một cuộc thảo luận rộng lớn cùng với nhiều góc nhìn khác nhằm: nói như Lê Xuân Khoa “Trả lại cho César cái gì của César” và góp phần trả lại sự thật cho lịch sử Việt Nam cận hiện đại.

Còn Bài Học Lịch Sử: không thể có được, một khi chưa có những hiểu biết, những nghiên cứu thấu đáo và đầy đủ về các cuộc chiến tranh.

Sau đây là mấy vấn đề cần thảo luận.

I. “Nguyên nhân gốc” (từ của Lê Xuân Khoa) của cuộc chiến tranh chống Pháp và Tị Nạn 1954 ?

II. Có tránh được cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất không ?

III. Cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất (1945- 1954) đã kết thúc như thế nào ?

IV. Cuộc di cư từ miền Bắc của non triệu người vào miền Nam (1954)là Di tản nội địa hay Tị nạn Cộng sản ?

V. Lê Xuân Khoa đã viết gì về phe Quốc Gia trong sách “VIỆT NAM 1945-1995” ?

VI. Nội chiến hay Chiến tranh Uỷ nhiệm ?

VII. Vấn đề hoà giải hoà hợp dân tộc.

- - Mấy vấn đề cần thảo luận thêm thay cho phần tạm kết

-- o0o --

Trước khi bước vào cuộc thảo luận, lâm thời tôi bày tỏ sự đồng tình với tác giả Lê Xuân Khoa là mỗi người trong chúng ta (đồng bào Việt Nam) nên vượt qua những xúc động nhất thời để nhìn nhận lịch sử trong “tinh thần khách quan”“ý thức trách nhiệm” (Tôi thêm các ngoặc kép – Chu Sơn)

Nhưng đồng thời tôi cũng mong có sự đồng thuận của bất cứ người Việt Nam nào: Sử gia hay không sử gia, thầy giáo hay học trò, Quốc Gia hay Cộng Sản, Thiên chúa hay Phật giáo…, cai trị hay bị trị, ở trong hay ở ngoài nước, hay chỉ là Việt Nam không màu cờ sắc áo… nên xác định chỗ đứng của mình để từ đó mà nhìn, mà suy nghĩ, mà nhận định các biến động lịch sử dân tộc. Như thế, mãi cho đến thời điểm này (2010), mặc dù còn có những góc nhìn khác nhau, nhưng không ai có quyền rời bỏ chỗ đứng chung duy nhất là Việt Nam.

Theo tôi, lịch sử Việt Nam từ thượng cổ, nói cho cùng, mãi cho đến thời điểm này, là lịch sử thành lập đất nước, xây dựng chính quyền, chống đuổi ngoại xâm và những nỗ lực của các nhà cầm quyền và cả dân tộc nhằm vượt thoát ra khỏi hậu quả của các cuộc chiến ấy nhằm xây dựng lại đất nước. Cũng có thể nói trong đa phần các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm đều có các cuộc nội chiến lớn nhỏ khác nhau hàm chứa bên trong. Công cuộc hòa giải – hòa hợp cũng là những nỗ lực không ngừng để hợp nhất, phát triển dân tộc và xây dựng mới đất nước.

Ngoại trừ cuộc xâm lược của Trung Hoa ở triều đại nhà Tống vào Đại Việt năm 1076 và cuộc xâm lược của Nguyên Mông lần thứ nhất, tất cả các cuộc xâm lược khác từ Nguyên Mông lần thứ hai, Minh, Thanh, Pháp, Mỹ đều có bóng dáng đậm nhạt khác nhau của một bộ phận người Việt Nam trong hàng ngũ các đoàn quân viễn chinh, trong chính quyền Liên hiệp, phủ Toàn quyền, hay Tòa Đại sứ…

Từ chỗ đứng Việt Nam và góc nhìn hạn chế của một công dân bình thường đang ở trong nước, một người đọc sách phổ thông (không phải là nhà nghiên cứu, sử gia…) tôi lần lượt thảo luận cùng Lê Xuân Khoa mấy vấn đề nêu trên.

 

I. “Nguyên nhân gốc” (từ của Lê Xuân Khoa) của cuộc chiến tranh chống Pháp và Tị Nạn 1954 ?

Lính Pháp đổ bộ vào bờ biển An Nam, tháng Bảy  1950

Lính Pháp đổ bộ vào bờ biển An Nam, tháng Bảy 1950

Trước khi đi vào nội dung chính của cuốn Việt Nam 1945-1995 tập I, Lê Xuân Khoa viết Lời Mở Đầu như tôi đã giới thiệu qua ở trên.

Trước khi đi vào nội dung từng phần (cuốn sách có 3 phần) Lê Xuân Khoa cũng viết một hai trang tôi gọi là dẫn nhập.

Ở Lời Mở Đầu và các trang dẫn nhập này tác giả giới thiệu nội dung chính của cuốn sách, của mỗi phần, đồng thời nêu ra những nhận định như là kết luận.

Mở đầu phần Một, Lê Xuân Khoa viết :

Lịch sử Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XX là lịch sử của một đất nước bị chia đôi và bốn cuộc chiến tranh trước và sau cuộc chia cắt ấy. Cuộc chiến thứ nhất là cuộc chiến chống Pháp và chống Quốc Gia Việt Nam do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức mặt trận Việt Minh) lãnh đạo (1945-1954). Cuộc chiến thứ hai là cuộc chiến giữa miền Bắc Cộng sản và miền Nam Quốc gia (1956-1975) với sự tham gia của hai khối đối đầu trong cuộc chiến tranh lạnh: Hoa kỳ chiến đấu sát cánh cùng với miền Nam, Liên Xô và Trung Quốc hậu thuẫn cho miền Bắc. Hai cuộc chiến tiếp theo giữa Việt Nam và hai đồng minh Cộng Sản: Trung Quốc (tháng 2/1979) và Cambuchia (1979-1989)” (LXK sđd trang 29).

Đọc qua đoạn này, tôi bị thu hút bởi mấy từ: Chia cắt (đất nước), chiến tranh, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Mặt Trận Việt Minh). Tôi đã lọt vào mục tiêu Lê Xuân Khoa muốn nhắm. Các từ chia cắt (đất nước) và chiến tranh có nội dung rất xấu, cực kỳ xấu. Nó đánh thẳng, đánh trúng vào khát vọng sâu thẳm chính đáng của đại đa số quần chúng nhân dân là Thống nhất, và Hòa Bình. Cả hai cái cực kỳ xấu ấy (chia cắt, chiến tranh), theo Lê Xuân Khoa, đều do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Mặt Trận Việt Minh) tạo tác nên, hay ít ra là người chịu trách nhiệm chính, là thủ phạm hàng đầu. Bởi Cộng Sản (Lê Xuân Khoa ngụy trang bằng nhóm từ vô thưởng vô phạt : Quốc Gia – Cộng Sản), là nguyên nhân gốc của chiến tranh, của chia cắt, của tị nạn, tan nát và đói nghèo. Sự can dự trực tiếp hay gián tiếp của Pháp, của các tướng lãnh Trung Hoa Quốc Gia (từ của Lê Xuân Khoa), của Anh và của Mỹ đều là “Những Yếu Tố Bên Ngoài” (LXK sđd chương 1,2,3,4, phần I), có là “nguyên nhân gốc” cũng chỉ là hạng hai, đứng sau nguyên nhân gốc hạng nhất, đứng trước nguyên gốc hạng ba (đều là Cộng Sản).

Về mặt hình thức (tôi nói: về mặt hình thức), câu đầu trong đoạn trích dẫn trên chỉ đúng một nửa: chia cắt và chiến tranh.

Không hiểu vì lí do gì Lê Xuân Khoa bỏ quên ba sự kiện quan trọng khác là: Pháp hùng hổ quay trở lại Đông Dương, Việt Nam thống nhất đất nước và xây dựng Xã hội Chủ nghĩa (nói theo từ ngữ Cộng Sản) hoặc áp đặt cái được gọi là “Chủ nghĩa Xã hội” (nói theo đa số đồng bào Việt Nam). Sự bỏ quên này vì lí do gì?

Vì bất cứ lí do nào, việc bỏ quên ba sự kiện khổng lồ này khiến người đọc sách bình thường như tôi nghi ngờ thiện chí, tính khách quan, lòng trung thực và sự tôn trọng sự thật (từ của LXK) mà Lê Xuân Khoa đã hứa hẹn, cam kết ở Lời Mở Đầu.

Bỏ quên ba sự kiện khổng lồ này thì làm sao có được một hiểu biết thấu đáo về “bốn cuộc chiến tranh” (từ của Lê Xuân Khoa) và tình cảnh đất nước, tâm tình của đại đa số nhân dân sống trong cái đất nước được gọi là Độc lập, Hòa bình, Thống nhất ấy, làm sao hiểu được nguyên nhân đích thực của những “thuyền nhân” đã liều chết từ bỏ những giá trị ngàn đời: Đất nước và Dân tộc ?

Có khả năng Lê Xuân Khoa sẽ phản bác nhận định trên đây của tôi. Ông nói :

– “Đấy chỉ là mấy câu tóm lược”.

Thưa ông Lê Xuân Khoa, tôi đồng ý đó là mấy câu tóm lược. Mấy câu tóm lược là mấy câu đúc kết nội dung một đoạn, một chương, một phần, hay cả cuốn sách. Mấy câu này yêu cầu phải ngắn gọn nhưng không thể thiếu, không thể sai nội dung cần tóm lược, không thể gây hiểu lầm, ngộ nhận.

Ví dụ về tiểu sử tác giả Lê Xuân Khoa, có người viết :

“Lê Xuân Khoa sinh ở Huế, làm chính trị thiên Cộng, dạy học ở Sài Gòn và ở Mỹ.”

Câu này chưa phải là tiểu sử tóm lược của ông.

Cũng như thế, khi Lê Xuân Khoa viết :

“Lịch sử Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XX là lịch sử của đất nước bị chia đôi và bốn cuộc chiếc tranh trước và sau sự chia cắt ấy.”

Câu này chưa phải là câu tóm lược lịch sử Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XX.

Để không mang tội thất lễ với một đại sư lão làng, tôi buộc phải trở lại “định kiến ban đầu” là: Lê Xuân Khoa đã sử dụng thủ pháp ngoắt ngoéo để “cả vú lấp miệng em”, và “giả mù sa mưa bấc”. Cái thủ pháp ngoắt ngoéo này Lê Xuân Khoa sử dụng rất nhiều lần trong cuốn sách của ông. Tôi đưa thêm một thí dụ khác: Mở đầu chương I với tựa đề: Quốc Gia và Cộng Sản, Lê Xuân Khoa viết :

Tiếp nối truyền thống yêu nước chống xâm lăng từ ngày lập quốc, công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã được tiếp tục ngay sau khi Pháp hoàn tất cuộc chinh phục Việt Nam bằng hòa ước Patenôtre năm 1884, gần nửa thế kỷ trước khi đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập. Phong trào Cần Vương dưới sự lãnh đạo của vua Hàm Nghi từ 1885 vẫn hoạt động ngay cả khi nhà vua bị Pháp bắt được và đầy sang Algérie năm 1888. Hai cuộc khởi nghĩa khác do Nguyễn Thiện Thuật và Phan Đình Phùng chỉ huy bị dẹp tan trước cuối thế kỷ, nhưng cuộc nổi dậy của Hoàng Hoa Thám đã kéo dài được 30 năm cho đến khi ông bị giết 1913. Khi đã thiết lập được guồng máy thống trị vững vàng, chính quyền thực dân Pháp vẫn phải đương đầu với các phong trào giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu kiệt xuất như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Thân Cường Để, Trần Cao Vân và Nguyễn Thượng Hiền. Một trong những phong trào này được cầm đầu bởi Hoàng đế Duy Tân, mười sáu tuổi, do chính người Pháp đưa lên ngôi từ năm lên 7 thay cho vua cha là Thành Thái bị Pháp đầy sang đảo Réunion vì âm mưu chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1916, vua Duy Tân bị Pháp bắt và cũng bị lưu đày ở đảo Réunion. Những tổ chức quốc gia chống Pháp sau đó đều xuất phát từ giới trí thức được đào tạo dưới nền giáo dục Pháp, đáng kể nhất là Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDD) ở miền Bắc, hai giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam cùng với các nhóm chính trị và báo chí của một số trí thức du học ở Pháp về”. (LXK sđdtr 31,32)

Viết đoạn văn trên, Lê Xuân Khoa muốn độc giả, đặc biệt đảng Cộng Sản, hiểu rằng:

Những lãnh tụ kháng chiến chống Pháp và đồng chí, đồng bào của họ từ sau hòa ước Patenôtre (1884) như Hàm Nghi, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Cường Để, Trần Cao Vân, Nguyễn Thượng Hiền, Thành Thái, Duy Tân… đều là người Quốc Gia cả. Và những tổ chức, nhân vật Quốc Gia sau đó (từ của Lê Xuân Khoa) như các trí thức Tây học, các đảng Quốc Dân Đảng, Đại Việt, các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo… đều là hậu duệ, thế hệ sau tiếp nối truyền thống yêu nước của cha ông. Cứ theo phát kiến này của Lê Xuân Khoa thì Hùng Vương, Bà Trưng, bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung đều là người Quốc Gia hết. Chỉ có: “Hồ Chí Minh là người Cộng Sản đầu tiên” tuy có lòng yêu nước, nhưng bị chỉ huy, điều động bởi Cộng sản Quốc tế (Comintern). Và theo Lê Xuân Khoa thì Hồ Chí Minh xuất phát từ một truyền thống, cội nguồn khác, gắn kết với đất nước, dân tộc sâu nặng, nhưng là thủ phạm của tấn bi kịch xung đột Quốc Gia – Cộng Sản.

Ông viết :

Mầm mống xung đột giữa Quốc Gia và Cộng Sản bắt đầu từ khi Nguyễn Ái Quốc từ Nga sang Trung Hoa năm 1924 để hoạt động cho Comintern” (LXK sđd tr35).

Để thực hiện mục tiêu của mình, Lê Xuân Khoa đã:

- 1/ Thả rông ký ức lịch sử: Câu đầu của đoạn văn trích dẫn trên xin được chép lại:

Tiếp nối truyền thống yêu nước chống xâm lăng từ ngày lập quốc, công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã được tiếp tục ngay sau khi thực dân Pháp hoàn tất cuộc chinh phục Việt Nam bằng hòa ước Patenôtre, gần nửa thế kỷ trước khi đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập

Thưa giáo sư, nhà sử học Lê Xuân Khoa: “…công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã được tiếp tục ngay” từ tháng 5 năm 1858, khi liên quân Pháp Tây Ban Nha tấn công vào Đà Nẵng, chứ không đợi đến 1884, khi Pháp hoàn tất cuộc chinh phục Việt Nam như nhận định của ông. Và như thế khoảng cách giữa hai sự kiện: thời điểm cuộc kháng chiến bắt đầu, hay nói như ông, “cuộc kháng chiến tiếp tục ngay” từ 1858 đến thời điểm thành lập đảng Cộng sản (1930) là 72 năm (1858-1930), đúng ba phần tư thế kỷ, chứ không phải là 46 năm (1884-1930), “gần nửa thế kỷ” như ông đã viết.

Như thế, do sự thả rông ký ức mà Lê Xuân Khoa đã rút ngắn thời gian kháng chiến của nhân dân Việt Nam đến 26 năm (72 – 46 = 26). Đề nghị ông giải thích sự suy giảm ký ức này. Phải chăng do thực tế sống ngoài lịch sử, đến khi ông bắt đầu làm nhà nghiên cứu, ông đã vơ được tài liệu nào vội sử dụng tài liệu đó?

Hai mươi sáu năm lịch sử thiếu vắng trong ký ức của Lê Xuân Khoa là chặng đường vô cùng quan trọng trong quá trình chống ngoại xâm của dân tộc. Không có chặng đường này, sẽ không có những chặng đường tiếp theo từ sau hiệp ước Patenôtre (1884), đến sau này.

Sự thả rông ký ức của một giáo sư kiêm sử gia như ông khiến người đọc sách, nhất là các thế hệ người Việt đời sau ở nước ngoài nếu không biết thêm một tài liệu, sách báo nào khác ngoài cuốn Việt Nam 1945-1995 tập I, sẽ có một khoảng trống rất lớn về các cuộc đề kháng, khởi nghĩa, chiến đấu của vua quan triều Nguyễn, của sĩ phu, nông dân ở Nam kỳ, Bắc kỳ, Trung kỳ trong 26 năm tiếp liền sau khi thực dân Pháp tấn công vào Đà Nẵng, đánh chiếm và thiết lập ách nô lệ lên các phần đất này của đất nước. Sự thả rông ký ức của giáo sư, nhà nghiên cứu Lê Xuân Khoa sẽ khiến các thế hệ người ngoại quốc gốc Việt đời sau có dịp quay trở về cội nguồn của mình sẽ “tò te” khi thấy các tên đường : Bến Nghé, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Cầu Giấy, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu…

Có khả năng Lê Xuân Khoa sẽ phản bác lại: ông chỉ viết lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1995, đoạn trích dẫn ở trên chỉ là mấy câu tóm lược.

Đành rằng đó là mấy câu tóm lược. Nhưng mấy câu tóm lược ấy nếu được viết lại như sau :

“Tiếp nối truyền thống yêu nước chống xâm lăng từ ngày lập quốc, công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã được bắt đầu ngay sau khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công vào Đà Nẵng (1858) mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam, gần ba phần tư thế kỷ trước khi đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập”.

Câu này có dài hơn câu của Lê Xuân Khoa tôi đã trích dẫn một chút, nhưng nó đầy đủ hơn, chính xác hơn mà không làm thay đổi mục tiêu Lê Xuân Khoa muốn truyền đạt.

2 / Lê Xuân Khoa đã làm một việc vô ích: Chủ đích của Lê Xuân Khoa khi viết câu tôi trích dẫn trên là để phục hồi ký ức lịch sử cho người Cộng Sản trong trường hợp ký ức của họ suy thoái. Trường hợp thứ hai nếu ký ức của người Cộng Sản chưa có vấn đề, Lê Xuân Khoa muốn cảnh báo họ: “Các người tuy còn nhớ lịch sử nhưng vì não trạng Cộng sản nên cố tình làm ngơ”.

Thưa giáo sư Lê Xuân Khoa, cả hai trường hợp trên đều không phải là sự thật. Tôi xin trưng bằng chứng :

– Trong bộ Đại Cương Lịch Sử Việt Nam Toàn Tập mà ông đã sử dụng, các sử gia của chế độ: Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn đã viết khá đầy đủ, tường tận về tất cả các cuộc kháng chiến, các phong trào yêu nước từ 1858 đến 1945 : Từ đề kháng của triều đình Huế, khởi nghĩa và kháng chiến của các sĩ phu, nông dân, và nhân dân Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ, từ Cần Vương, Văn Thân, Nghĩa Hội, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, Tây Du (Tây Du chỉ khuynh hướng tìm hiểu, học tập nền văn hóa, chính trị tại Pháp của Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh…) đến các vận động báo chí, kinh tế, xã hội, các đảng Tân Việt, Cộng Sản, Quốc Dân Đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Báy… (Đại Cương Lịch Sử Việt Nam Toàn tập mục III chương 1,2,3,5, mục V, VI, VII chương 10…)

Thực tế này chứng tỏ ký ức lịch sử Việt Nam cận hiện đại của người Cộng Sản chưa suy thoái.

– Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng các ký ức lịch sử một cách tối đa vào công cuộc vận động yêu nước trước và sau cách mạng tháng 8 – 1945: Mặt trận Việt Minh được thành lập (năm 1941) đáp ứng nhu cầu đánh Tây đuổi Nhật (Nhật vào Đông Dương năm 1940). Mặt trận này tập hợp chung quanh đảng Cộng Sản nhiều thành phần quần chúng khác nhau không phân biệt ý thức hệ, giai cấp, tôn giáo…

Cách mạng tháng Tám xảy ra, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời có sự tham dự và đóng góp công sức của nhiều thành phần quần chúng. Riêng ký ức thô thiển của một người bình thường như tôi cũng nhớ được các tên tuổi sau đây: nhà Nho, nhà Duy Tân Huỳnh Thúc Kháng, vua Bảo Đại, Ngự tiền Phạm Khắc Hòe, luật sư Phan Anh, bộ trưởng Bùi Bằng Đoàn, khâm sai Phan Kế Toại, các luật sư Vũ Đình Hòe, Vũ Trọng Khánh, các nhân sĩ trí thức Thiên Chúa giáo Ngô Tử Hạ, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Đình Huỳnh, các trí thức Tạ Quang Bửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Hưởng, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đại Nghĩa, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Trần Đình Nam và rất nhiều những người ưu tú yêu nước khác tôi không nhớ hoặc không biết hết. Những vị này được sắp xếp, bố trí vào các vị trí chức vụ nhất nhì trong các tổ chức quần chúng, các cơ quan chuyên môn, các cấp chính quyền của Việt Minh và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Vì nhiều lí do khác nhau, một số nhỏ trong họ đã bỏ cuộc giữa đường: trở lại với Tây như Bảo Đại, hoặc về thành trùm chăn, có người sau này cộng tác với Ngô Đình Diệm (như Trần Chánh Thành). Đa số trong họ thất vọng trước thực tế xung đột ý thức hệ (Cộng sản – Tư sản, Độc tài – Dân chủ …) ngày càng khốc liệt, từng bước bị tước đoạt quyền lực, bị đẩy ra rìa nhưng vẫn bấm bụng ở lại với kháng chiến vì mục tiêu, vì lí tưởng độc lập của dân tộc, bấm bụng chịu đựng sự khinh miệt, bạc đãi và phản bội của những người Cộng Sản đã cùng nằm gai nếm mật. Họ – những người kháng chiến không Cộng Sản ấy – thà chịu thua kẻ nội thù, không thà làm tay sai cho bọn cướp nước. Thực tế lịch sử này chứng tỏ những cảnh báo của Lê Xuân Khoa là thừa. Bởi ông đã không nghiên cứu thấu đáo nguyên nhân sâu xa (mà ông gọi là nguyên nhân gốc) xảy ra sự xung đột mà ông gọi là Quốc Gia và Cộng sản. Thử hỏi sự xung đột ấy xảy ra trước, đồng thời, hay sau cuộc xâm lược và đô hộ của thực dân đế quốc? Nếu sự xung đột ấy xảy ra trước thời điểm thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam thì cũng có thể là một trong những nguyên nhân đưa đến chiến tranh Việt – Pháp. Tôi nói có thể. Tôi hoàn toàn không khẳng định. Đằng này sự xung đột ấy chỉ xảy ra vào giai đoạn cuối của cuộc xâm lược Pháp thì không thể là “nguyên nhân gốc” của chiến tranh chống Pháp và Tị nạn Cộng Sản được. Vả lại, nếu Cộng Sản là “nguyên nhân gốc” của chiến tranh chống Pháp thì:

– Làm thế nào để giải thích sự xung đột xảy ra giữa các đảng phái phe nhóm Quốc Gia như ông đã nhận xét có tính cáo buộc trong chương 1, phần I (Quốc Gia và Cộng Sản)

– Làm sao để giải thích sự thật lịch sử khi anh em Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại, triệt tiêu hết các đảng phái, các thế lực chính trị và cá nhân quốc gia khác để độc chiếm quyền lực?

– Làm thế nào mà hiểu biết thấu đáo trong vòng ba năm sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ (1963-1966) ở miền Nam đã xẩy ra hơn mười cuộc đảo chánh và bốn lần thay đổi chính phủ?

– Làm thế nào để biện minh cho người Quốc Gia số 1 Nguyễn Văn Thiệu hất cẳng người Quốc Gia số 2 Nguyễn Cao Kỳ và phe cánh ra khỏi cơ quan quyền lực cao nhất của Việt Nam Cộng Hòa màn II?

– Làm thế nào để giải thích tình trạng xung đột trong cộng đồng người Việt đang cư trú tại Mỹ?

Phải chăng Cộng Sản cũng là “nguyên nhân gốc” số 1 dẫn đến tình trạng người Quốc Gia xâu xé loại trừ lẫn nhau như Lê Xuân Khoa đã nghiên cứu để kết luận rằng Cộng Sản là “nguyên nhân gốc” dẫn đến Chiến tranh chống Pháp và Tị nạn 1954 ?

Đến thời điểm này (2010) mà người Việt Nam chúng ta còn đặt lại vấn đề đâu là nguyên nhân của cuộc chiến tranh Việt – Pháp, Pháp – Việt thì rõ ràng là chúng ta đã đứng ngoài lịch sử dân tộc, hoặc tim óc của chúng ta không bình thường. Tuy nhiên, bởi Lê Xuân Khoa đã đặt vấn đề bằng một khẳng định rằng Cộng Sản là hai trong ba “nguyên ngân gốc” của cuộc chiến tranh ấy, do vậy tôi buộc phải cùng ông giải mã lại vấn đề.

Như nhiều người trong chúng ta đã biết: Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, thực dân Pháp hùng hổ tái chiếm Đông Dương – trong đó có Việt Nam – để tiếp tục hành xử vai trò là chủ nhân ông mà chúng đã khẳng định hoàn toàn từ hiệp ước Patenôtre (1884). Hành động này của thực dân Pháp đặt nhân dân Việt Nam trước những lựa chọn:

– Hoặc là cúi đầu nhận chịu thân phận nô lệ, làm thân trâu ngựa cho kẻ cướp nước, động thái này một thiểu số trong cộng đồng dân tộc đã chọn lựa.

– Hoặc là tiếp tục cuộc kháng chiến dở dang mà các thế hệ Việt Nam đời trước đã khởi sự ngay từ khi Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng – bắt đầu cuộc xâm lược thực dân của chúng. Đa số trong nhân dân đã chọn cách hành xử thứ hai: kháng chiến, cương quyết, đồng lòng đánh đuổi xâm lược để giành lại độc lập tự do cho đất nước, dù phải hi sinh, dù phải trả giá đắt.

Cuộc chiến đã xảy ra do không giải quyết được vấn đề (mâu thuẫn giữa thực dân Pháp và nhân dân Việt Nam) trong thương lượng hòa bình, mặc dầu về phía Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, đặc biệt là Hồ Chí Minh, đã nỗ lực hết sức để loại trừ chiến tranh. Chính Lê Xuân Khoa đã viết khá đầy đủ trong chương 2, phần I, và chương 5 phần II (sđd tr 75 – 121, tr 192 – 235) sự thật lịch sử này.

Như thế nguyên nhân của cuộc chiến tranh, đầu tiên và cuối cùng, gốc và rễ đều phát xuất từ thực dân, đế quốc. Không hề có chuyện cộng đồng bị xâm lược mâu thuẫn chống đối lẫn nhau trong quá trình chống đuổi ngoại xâm là nguyên nhân gốc của chiến tranh Việt – Pháp, Pháp – Việt.

* Trần Trọng Kim, một sử gia hữu khuynh, nhưng trong Việt Nam Sử Lược đã nhận định chính xác khi ông lên án ý đồ và biện pháp xâm lược của quân Minh vào nước ta bắt đầu từ 1405. Đối với ông tình trạng xung đột giữa nhà Trần suy thoái và hành động thoán đoạt bạo tàn của Hồ Quí Ly chỉ là cái cớ (Trần Trọng Kim : Việt Nam Sử Lược tr 194-199).

Như thế, theo Trần Trọng Kim, nguyên nhân các cuộc chiến tranh giữa quân Minh và nhà Hồ, giữa quân Minh và cuộc kháng chiến Lê Lợi là ý đồ và hành động xâm lược của nhà Minh Trung Quốc chứ không hề là nhà Hồ, dù Hồ Quí Ly là người chịu trách nhiệm chính trong những thủ đoạn tiêu diệt nhà Trần trước đó.

* Trong thế chiến thứ II, sau khi Phát Xít Đức xua quân tấn công tràn ngập nước Pháp, chính phủ Pháp đầu hàng (tháng 9-1940). Pétain thành lập chính phủ thân Đức. De Gaulle kêu gọi dân chúng khởi nghĩa với sự đồng tình tham dự của đảng Cộng Sản và đại bộ phận dân chúng Pháp. Trong quá trình cùng với Đồng Minh chiến đấu chống xâm lược Đức, phe de Gaulle đương nhiên đánh cả hai: xâm lược Đức và bọn tay sai đầu hàng. Nhân dân Pháp và các nhà viết sử của họ vào thời điểm đó và mãi mãi về sau nhận định thế nào về cuộc chiến tranh Pháp – Đức? Họ gọi quân Đức là Yếu Tố Bên Ngoài hay là bọn Phát Xít xâm lược? Và “Nguyên nhân gốc” của cuộc chiến tranh đó là Phát Xít Đức xâm lược hay là sự xung đột giữa Pétain – de Gaulle (Đầu hàng – Kháng chiến) như nhận định của Lê Xuân Khoa: Quốc Gia và Cộng sản trong chiến tranh Việt – Pháp ?

Trường hợp học giả Lê Xuân Khoa chưa vừa lòng với hai ví dụ phản biện trên, tôi xin đưa một giả định từ một hiện thực trước mắt làm ví dụ thứ ba:

* Quần đảo Hoàng Sa, một phần của Biển Đông và một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974 đến nay. Nhân dân ở trong và ngoài nước căm giận hành động xâm lăng trắng trợn của bọn bành trướng. Ngoài những hội thảo, tuyên ngôn, tuyên cáo, sách báo, những cuộc tụ tập, biểu tình bỏ túi bày tỏ tình tự dân tộc của một số bộ phận, cá nhân người Việt trong và ngoài nước, chưa có một cuộc vận động, một phong trào quần chúng, một phản ứng chính trị, quân sự lớn mạnh nào nhằm phản đối và đánh đuổi quân xâm lược. Bởi chính quyền Cộng Sản trong nước – như cáo buộc của các nhóm, các cá nhân bất đồng chính kiến – là tay sai, lệ thuộc, hoặc hèn hạ cúi đầu trước sách lược thâm độc và hành động ngang ngược của bọn bành trướng Trung Quốc.

Giả định rằng vào môt thời điểm nào đó thích hợp, một Mặt Trận Giải Phóng Hải Đảo được thành lập và lãnh đạo do một người có tinh thần yêu nước mạnh mẽ, có tài thao lược và đặc biệt đã học được Bài học lịch sử từ Bốn cuộc chiến tranh đã xảy ra vào nửa sau thế kỷ XX, như Lê Xuân Khoa chẳng hạn, tất nhiên Mặt Trận Giải Phóng Hải Đảo do Lê Xuân Khoa lãnh đạo được đông đảo quần chúng khắp nơi đồng tình ủng hộ, tham gia…ngoại trừ nhà nước Cộng Sản đương quyền. Chiến tranh xảy ra giữa một bên là quân xâm lược Trung Quốc và bọn Việt gian Cộng sản tay sai đầu hàng, và một bên là nhân dân Việt Nam yêu nước dưới sự lãnh đạo của Mặt Trận do Lê Xuân Khoa điều khiển. Đề nghị sử gia, nhà lãnh đạo kháng chiến (giả định) Lê Xuân Khoa trả lời:

“Nguyên nhân gốc” cuộc chiến tranh giả định trên là gì?

– Quân Trung Quốc là xâm lược hay chỉ là “Yếu tố bên ngoài”?

– Chính quyền Cộng Sản là công cụ, tay sai của xâm lược hay chỉ là một trong hai phía Việt Nam (Công Sản và Quốc Gia) như nhận định của Lê Xuân Khoa về Quốc Gia và Cộng Sản trong các cuộc xung đột và chiến tranh từ 1925 trở về sau ?

Câu hỏi tiếp theo:

– Sau những nỗ lực vô cùng to lớn, những hi sinh mất mát, đổ vỡ nặng nề… cuối cùng xâm lược Trung Quốc và bọn tay sai Cộng Sản, (ngụy quân, ngụy quyền) bị đánh bại: Hải Đảo được giải phóng và chính quyền tay sai trên đất liền bị lật đổ. Mấy triệu người Việt Nam cùng với quan thầy của chúng là Trung Quốc xâm lược “tháo chạy tán loạn” (nhóm từ này mượn của Frank Snepp). Ông Lê Xuân Khoa gọi cuộc tháo chạy này là gì ? Là “Tị nạn Quốc gia” như ông đã nhận định về cuộc “Tị nạn Cộng sản” sau khi cuộc chiến tranh chống Pháp kết thúc – hay cuốn cờ theo giặc? Có thể Lê Xuân Khoa bảo rằng giả định trên của Chu Sơn là không thích hợp. Bây giờ ông không còn là người Việt Nam về mặt pháp lí, nên ông không đủ danh nghĩa để phất cao ngọn cờ. Vả lại cho dù ông có còn là người Việt Nam, ông cũng không chọn con đường đánh nhau với Trung Quốc để rồi “dù có chiến thắng, cũng phải trả cái giá quá đắt”, bởi trước sau gì “Trung Quốc cũng sẽ trả lại Hoàng Sa và các đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa cho Việt Nam thôi.”

Cuộc thảo luận về “Nguyên nhân gốc” của chiến tranh chống Pháp (1945 – 1954) có thể tạm thời kết thúc ở đây.

 

II. Có tránh được cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất không ?

Quân  đội Đông Dương diễu hành ở Sài Gòn năm 1951

Quân đội Đông Dương diễu hành ở Sài Gòn năm 1951

Mở đầu chương 5 (phần II Bài Học Chín Năm) Lê Xuân Khoa viết:

Cuộc chiến 1945 – 1954 đã làm thương vong cho 172.708 người về phía Pháp. Trong đó có 31.716 binh sĩ thuộc ba nước Đông Dương. Số thương vong về phía quân đội Cộng Sản không được biết rõ, nhưng được phỏng định ít nhất là một triệu. Số dân thiệt mạng trong cuộc chiến vào khoảng 250.000 người. Phí tổn về phía Pháp tính đến 1950 chiếm từ 40% đến 45% ngân sách quốc phòng và trên 10% ngân sách quốc gia.

Trong những năm cuối cùng viện trợ Mỹ gánh chịu đến 75% chi phí. Về phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phí tổn không rõ là bao nhiêu, nhưng sự thiệt hại về tài sản của nhân dân và về những nguồn lợi kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh và cả những năm sau chiến tranh cộng với sự thiệt hại về nhân mạng đã cho thấy cái giá của chiến tranh là quá đắt. Cái giá ấy sẽ không đắt nếu chiến tranh là con đường duy nhất để dẫn đến độc lập, tự do, và hạnh phúc thực sự cho dân tộc. Nhưng cái giá ấy là quá đắt vì chỉ trong vòng mấy năm sau thế chiến thứ II các xứ thuộc địa, trừ một số nước ở Nam Phi đều được trả lại độc lập mà không cần phải có chiến tranh ” (LXK sđd tr 192-193).

Qua đoạn trích dẫn trên, Lê Xuân Khoa đưa ra hai giả định:

– Một là “Cái giá chiến thắng” là không đắt “nếu chiến tranh là con đường duy nhất để dẫn đến độc lập, tự do và hạnh phúc thật sự cho dân tộc”.

– Hai là “Cái giá chiến thắng” là “quá đắt vì chỉ trong vòng mấy năm sau thế chiến thứ II, các xứ thuộc địa trên thế giới trừ một số nước ở Nam Phi đều được trả độc lập mà không cần phải có chiến tranh ”.

Thật ra không có hai giả định về hai khả năng: Có chiến tranh hay không có chiến tranh, mà theo Lê Xuân Khoa chỉ có một khẳng định làm chức năng cáo buộc. Cáo buộc ai? Cáo buộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã sai lầm làm nên cuộc chiến chống Pháp và phải chịu trách nhiệm về “cái giá quá đắt” mà đất nước và dân tộc phải gánh chịu.

Nhóm từ “không cần phải có chiến tranh” có nghĩa đương nhiên là tránh được cuộc chiến tranh ấy. Đây là một mệnh đề khẳng định. Lê Xuân Khoa đã dùng mệnh đề khẳng định này để làm kết luận cho một giả thiết thiếu căn cứ và không có thực.

Lê Xuân Khoa đã đưa sự kiện: “Anh, Hà Lan và những đế quốc đã sớm từ bỏ các thuộc địa ở châu Á và ngay cả đế quốc thực dân ngoan cố nhất là Pháp cũng đã trả tự do cho hai xứ bảo hộ là Tunisie năm 1954, Ma rốc 1956 và các xứ thuộc địa ở Nam Phi năm 1958, Algérie năm 1962” làm bằng chứng để khẳng định rằng “Việt Nam nhất định sẽ được trả độc lập chỉ mấy năm sau thế chiến thứ II”.

Lối lập luận và nhận định có tính cách cáo buộc này không thỏa đáng về phương pháp lí luận sơ đẳng và đồng thời không phản ảnh đúng đắn hiện thực lịch sử.

Trường hợp Anh chẳng hạn: Anh từ bỏ Ấn Độ (1947) là sự thật. Nhưng Anh không từ bỏ Nam Phi là một sự thật khác. Hai sự thật này chứng tỏ Lê Xuân Khoa lí luận sai. Anh từ bỏ Ấn Độ không là tiền đề để Anh từ bỏ Nam Phi, càng không phải là một tất nhiên để Pháp “trả lại độc lập cho Đông Dương trong đó có Việt Nam chỉ mấy năm sau thế chiến thứ II” như LXK khẳng định.

Lại nữa, nếu Anh từ sau thế chiến thứ II kết thúc đã có ý định từ bỏ Ấn Độ thì căn cớ gì khi được Đồng Minh phân nhiệm đưa quân vào Đông Dương giải giới quân Nhật đầu hàng lại tiếp tay một cách tích cực cho hành động tội ác của đế quốc Pháp là tái chiếm Đông Dương? Khi viết đoạn văn này, Lê Xuân Khoa đã quên rằng chính ông đã viết một câu ngắn gọn ở trang 107:

Anh quốc không ưa (kế hoạch của Roosevelt về một tổ chức quốc tế bảo trợ cho các dân tộc Đông Dương môt thời gian nhất định trước khi họ có đầy đủ khả năng tự quản lí đất nước trong độc lập) vì sợ đế quốc của họ tan vỡ

Ở trang 81, Lê Xuân Khoa cũng đã viết:

Biết rằng Tổng Thống Hoa Kỳ F.D Roosevelt không muốn cho Pháp trở lại Đông Dương, de Gaudle đã vận động với Anh và được thủ tướng Churchill đồng ý giúp đỡ.”

Như thế, hành động tiếp tay cho Pháp tái chiếm Đông Dương là một cấu kết nhằm bảo lưu thuộc địa đã được Anh trù tính trước khi thế chiến thứ hai kết thúc. Và việc Anh trả lại độc lập cho Ấn Độ năm 1947 phải chăng sau khi đã rút được bài học kinh nghiệm bị sa lầy của đồng minh Pháp tại Đông Dương ? Còn một lí do nữa để Anh rút khỏi Ấn Độ là tùy thuộc vào phong trào bài Anh ở thuộc địa này cũng như cá tính của dân tộc Anh.

Từ bỏ Ấn Độ mà bám chặt Nam Phi phát xuất từ những tính toán thiệt – hơn, lợi – hại của một đế quốc thực dân chứ không hề là một hành động có sự thôi thúc nào khác.

Trở lại với Pháp là đối tượng chính của vấn đề đang bàn: Theo Lê Xuân Khoa trong đoạn trích dẫn trên: “Sau thế chiến thứ II thế nào Pháp cũng theo gương Anh và Hà Lan…, trả lại độc lập cho Việt Nam thôi ”.

Nếu xác quyết của Lê Xuân Khoa là sự thật thì hà cớ gì Pháp phải hùng hổ đưa hàng trăm ngàn quân, tiêu tốn từ 40 % đến 45 % ngân sách quốc phòng, đến 10 % ngân sách quốc gia (trước 1950), nợ nần Mỹ đến 75 % chi phí chiến tranh cho 5 năm còn lại (từ 1950 đến tháng 7 – 1954), để rồi phải đầu hàng nhục nhã ở Điện Biên Phủ sau khi bị loại khỏi chiến trường đến 172.708 binh sĩ (bị thương vong) và đặc biệt trở thành đối tượng cho Lê Xuân Khoa phê bình là sai lầm, lạc hậu, tham lam, ngoan cố, lỗi thời, không thật thà…(LXK sđd: Bài Học Chín Năm…tr 193 – 196).

Giả định rằng: “Chỉ mấy năm sau thế chiến thứ II kết thúc thế nào Pháp cũng trả lại độc lập cho Việt Nam thôi” như Lê Xuân Khoa đã xác quyết – thì Lê Xuân Khoa có cơ hội nào để phê phán Pháp bằng những thuộc từ nặng nề như trên.

Và đây là câu hỏi quyết định: Có một lí do nào chính đáng để Pháp không trả độc lập cho Việt Nam vào thời điểm mấy năm sau thế chiến thứ II kết thúc? Tại Việt Minh hiếu chiến ư? Việt Minh là Cộng Sản ư? Hay là Hồ Chí Minh cầu viện Trung Quốc?

Cả ba lí do vừa nêu không có lí do nào là sự thật cả.

Chính Lê Xuân Khoa trong toàn bộ tác phẩm của mình, không có dòng nào chứng tỏ Hồ Chí Minh hiếu chiến cả, mà trái lại, theo Lê Xuân Khoa, Hồ Chí Minh là người thực tế, mềm mỏng, uyển chuyển và đã nỗ lực hết sức để mưu cầu giải quyết quyền lợi của hai nước, hai dân tộc Việt – Pháp trong hòa bình. (LXK sđd, Bài Học Chín Năm tr 211-234).

Lê Xuân Khoa cũng cáo buộc rằng là Pháp quay trở lại Đông Dương là để tái chiếm thuộc địa, và như thế chống Cộng chỉ là chiêu bài.

Còn việc Hồ Chí Minh cầu viện Trung Quốc chỉ bắt đầu từ năm 1950 gần 5 năm sau nổ ra chiến tranh Việt Pháp. Một câu hỏi nên đặt ra ở đây là: Liệu Pháp với sự hậu thuẫn cấu kết của đồng minh (Anh, Mỹ, Trung Hoa Dân Quốc) không quay trở lại thống trị Đông Dương thì Hồ Chí Minh có cầu viện Trung Quốc (để đánh Pháp) không ? Chắc chắn là không rồi.

Việc Pháp từ bỏ các thuộc địa châu Phi, theo những thông tin của Lê Xuân Khoa, chỉ diễn ra sau khi quân Pháp đã thất thủ ở Điện Biên Phủ. Điều này không bảo chứng cho một hành động tương tự của thực dân Pháp chỉ mấy năm sau thế chiến thứ II kết thúc, mà trái lại do kinh nghiệm tệ hại từ Đông Dương mà sau Genève Pháp đã bất đắc dĩ từ bỏ các thuộc địa ở châu Phi. Cuộc rút lui hậm hực này không có sự đồng thuận giữa chính quốc và thực dân thuộc địa, đã suýt gây nội chiến.

Mỹ là cường quốc giàu mạnh hàng đầu sau thế chiến thứ II có tác động quyết định đến mưu đồ tái chiếm Đông Dương của Pháp. Trong trường hợp Pháp có ý định từ bỏ Đông Dương “chỉ mấy năm sau thế chiến thứ II”, như Lê Xuân Khoa đã khẳng định, tất nhiên Mỹ không thể không biết. Đã biết tại sao Mỹ không có kế hoạch cụ thể thay thế Pháp trong vai trò ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản ở Viễn đông như sách lược của Truman, mà đợi đến khi Pháp bị sa lầy, dẫn đến bại trận ở Điện Biên Phủ, Mỹ mới áp lực để Pháp chuyển giao quyền lực nhằm thực hiện cuộc thánh chiến với sách lược phòng thủ từ xa và học thuyết Đô mi nô?

Qua bốn câu mười dòng trích ở trên, Lê Xuân Khoa đã không đưa ra những lý giải thuyết phục và những bằng chứng lịch sử cụ thể để chứng minh cho những kết luận nhằm cáo buộc Việt Minh (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) “đã sai lầm tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp lẽ ra có thể tránh được, và do vậy phải chịu trách nhiệm về cái giá quá đắt cho dù đã đánh thắng Pháp trên chiến trường”.

Điều kỳ lạ là sau khi viết bốn câu mười dòng như thế, Lê Xuân Khoa lại viết nhiều chục trang để cáo buộc “Pháp đã sai lầm gây ra cuộc chiến tranh”, đồng thời biện hộ cho Hồ Chí Minh về những nỗ lực tối đa để mưu cầu giải quyết cuộc xung đột Pháp – Việt bằng giải pháp hòa bình, bảo đảm các quyền lợi chính đáng và lâu dài của hai đất nước và thiết lập mối quan hệ thân thiện giữa hai dân tộc.

Về những sai lầm, tội lỗi của Pháp, Lê Xuân Khoa viết:

1/ “Chỉ có Pháp là đế quốc duy nhất vẫn tiếp tục mưu toan duy trì quyền lực ở Đông Dương, làm hại chính nghĩa Quốc Gia ở Việt Nam và phải chuốc lấy thảm bại ở Điện Biên Phủ” (LXK sđd trang 78)

2/ “Cho đến ngày de Gaulle từ chức vào tháng giêng năm 1946, ông vẫn không thay đổi đầu óc thực dân lỗi thời đối với Việt Nam. Ông không chấp nhận điều đình với Việt Minh cho đến khi người Pháp phục hồi uy quyền ở Việt Nam” (LXK sđd tr 81).

3/ “Sau de Gaulle phải nói đến Thierry d’Argenlieu, người thay thế Decoux ở Đông Dương… D’Argenlieu vẫn tin tưởng có thể bắt ép Việt Nam bằng sức mạnh quân sự. Ông nhắc nhở Sainteny tuyệt đối không dùng từ ngữ “độc lập” khi điều đình với Hồ Chí Minh, và ngay cả sau khi hiệp định Sơ Bộ 6 tháng Ba chỉ cho Việt Nam qui chế một nước Việt Nam “tự do”, d’Argenlieu vẫn không muốn thi hành hiệp định này” (LXK sđd tr 83).

4/ “Pháp đã sai lầm gây nên chiến tranh và đã bỏ lỡ những cơ hội hòa bình” (LXK sđd tr87).

Chính sách tham lam và thiếu thành thật của giới lãnh đạo Pháp không phải chỉ áp dụng đối với Việt Minh mà đối với Bảo Đại và các đảng phái Quốc Gia. Tệ hơn nữa chính phủ Pháp đã lừa dối cả những đồng minh thân cận nhất của họ như chính phủ Nam Kỳ tự trị đến nỗi thủ tướng Nguyễn Văn Thinh phải tự tử…” (sđd tr 91, 92)

5/ “Mặc dầu đã thất bại về quân sự, chính phủ Pháp lúc đó vẫn còn mù quáng với tham vọng đế quốc của mình” (LXK sđd tr102).

6/ “Sai lầm của Pháp là đầu óc thực dân lỗi thời của những nhà lãnh đạo chính trị và quân sự trước xu thế chung của toàn cầu” (LXK sđd tr194).

7/ “Đầu óc thực dân ngoan cố và thiển cận không những chỉ thấy ở những chính trị gia bảo thủ… ngay cả những lãnh tụ tả phái như Marius Moutet hay Maurice Thorez cũng vẫn đặt quyền lợi của quốc gia lên trên những lý tưởng xã hội hay cộng sản” (LXK sđd tr194).

8/ “Vì chủ quan khinh địch nên Pháp đã bỏ lỡ nhiều cơ hội trước và sau khi chiến tranh bùng nổ, để có sự ký kết với Hồ Chí Minh hoặc thi hành những hiệp ước đã ký, theo đó Pháp vẫn được hưởng nhiều quyền lợi, chẳng hạn như Hiệp định Sơ Bộ 6-3-1946, tạm ước Hồ – Moutet 14-9-1946” (LXK sđd tr 195)

9/ “Lỗi lầm quan trọng nhất của Pháp là thái độ đối với những người Việt Nam chân chính yêu nước, không theo Pháp, đã chống Pháp nhưng sẵn sàng liên kết với Pháp trong mục tiêu chống Cộng sản và có thể trở thành một đồng minh lâu dài của Pháp nếu Việt Nam được trả độc lập thực sự”…

Người Pháp đã không thành thực với cả những người Việt Nam Quốc Gia, ngay cả những người có khuynh hướng thân Pháp, vì mục đích chính là bảo vệ quyền lợi của Pháp tại Đông Dương” (LXK sđd tr 195).

Xin tạm dừng trích dẫn dài dòng nhưng chưa phải là tất cả những gì Lê Xuân Khoa phê phán, cáo buộc Pháp đã gây ra cuộc chiến mà ông gọi là chiến tranh Việt – Pháp hay chiến tranh chống Pháp.

Ngoài bốn câu mười dòng đã trích dẫn và bình luận như trên, trong bốn muơi trang tôi vừa đề cập và cả trong những trang khác có liên quan đến việc đang bàn (trang 193 – trang 208), Lê Xuân Khoa đã cho độc giả thấy Việt Minh và Hồ Chí Minh chẳng có con đường nào khác là chiến tranh cả.

Đầu hàng hay chiến đấu để bảo vệ độc lập chủ quyền cho Việt Nam? Theo Lê Xuân Khoa, Việt Minh, Hồ Chí Minh đã không đầu hàng, đã bất đắc dĩ chấp nhận “cuộc chiến tranh do Pháp đã sai lầm gây nên”.

Qua ngòi bút của Lê Xuân Khoa, Hồ Chí Minh được mô tả là một con người thực tế, uyển chuyển, chịu đựng trong đường lối, sách lược cũng như trong tất cả những biện pháp, hành động điều đình với Pháp nhằm giải quyết vấn đề Đông Dương – Việt Nam trong hòa bình.

Cũng theo Lê Xuân Khoa các đòi hỏi và thái độ của Việt Minh không cao giá, không cứng rắn quyết liệt như các đòi hỏi và thái độ của người Quốc Gia trong các cuộc điều đình với Pháp, Hồ Chí Minh thường bị các phần tử Quốc Gia cáo buộc nhu nhược, đầu hàng, bán nước… qua hiệp ước Sơ Bộ 6-3 và Tạm ước 14-9-1946.

Lê Xuân Khoa viết:

Ngay cả sau khi cuộc chiến toàn quốc mới bùng nổ, và liên tiếp ba tháng sau đó, Hồ Chí Minh đã tám lần gởi thư cho chính phủ, quốc hội và Tổng Thống Pháp yêu cầu lập lại ngay nền hòa bình để tránh cho hai nước chúng ta khỏi hao người tốn của và để xây dựng sự cộng tác và tinh thần thân thiện giữa hai dân tộc”. (LXK sđd tr 193).

Trong Bài Học Chín Năm (chương 5) phần dành riêng cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lê Xuân Khoa không có một lời phàn nàn nào về lập trường và thái độ của Hồ Chí Minh và Việt Minh với Pháp. Ông chỉ một mặt phê phán nghiêm khắc đường lối của Việt Minh khi cầu viện Trung Quốc và Liên Xô (để đánh Pháp – Chu Sơn) từ năm 1950. Mặt khác ông lại làm luật sư biện hộ cho đường lối này.

Lê Xuân Khoa viết:

Dù sao chăng nữa trong tình thế khó khăn của Việt Nam năm 1950, giả thử Hồ Chí Minh vẫn còn giữ mối lo ngại ngàn đời của dân tộc đối với đường lối bá quyền của Trung Quốc, ông cũng chẳng có một cách chọn lựa nào khác nếu muốn tiếp tục cuộc chiến chống Pháp” (LXK sđd tr 212).

Viết câu này chẳng phải Lê Xuân Khoa đã nói giùm cho Hồ Chí Minh – Việt Minh rằng chẳng có con đường nào khác ngoài chiến tranh đó sao?

Phải chăng cùng một lúc có hai tác giả cùng tên Lê Xuân Khoa có lập trường mâu thuẫn trong cùng một vấn đề và cùng được trình bày trong cùng một chương, một phần của một công trình nghiên cứu.

– Một Lê Xuân Khoa viết bốn câu mười dòng ở trang 192, 193, để quy kết nặng nề:

Hồ Chí Minh đã sai lầm trong việc chọn con đường chiến tranh trong tình thế chiến tranh không phải là con đường duy nhất để rồi dù có chiến thắng… dân tộc Việt Nam phải trả một giá quá đắt…”

– Và một Lê Xuân Khoa thứ hai đã viết bốn mươi trang ở chương 2 và 5 để quy kết Pháp đã sai lầm, ngoan cố gây nên cuộc chiến, và đồng thời biện hộ cho Hồ Chí Minh là chẳng có con đường nào khác…

Phải chăng có một Lê Xuân Khoa Quốc Gia chống Cộng bằng mọi giá, mọi cách, bất chấp phương pháp suy luận sơ đẳng và những sự thật lịch sử phổ biến.

Và một Lê Xuân Khoa đứng giữa, tuy đã nhận biết sai lầm của Pháp nhưng bản thân ông đã không có một chọn lựa, dấn thân thích đáng trước tình cảnh đất nước bị xâm lược ?

Là một người Mỹ gốc Việt, tuổi tác đã bước vào buổi xế chiều, chắc là Lê Xuân Khoa cảm thấy vương vấn tình tự đất nước quê làng, cũng như những đồng bào cùng cảnh ngộ: sự xung đột, giằng xé Xâm Lược – Kháng Chiến, Quốc Gia – Cộng Sản âm ỉ nơi một Lê Xuân Khoa vẫn chưa có cơ may hòa giải.

Trách nhiệm này thuộc về ai?

– Về phía “Pháp đã sai lầm gây nên cuộc chiến”?

– Về phía Việt Minh Cộng Sản đã chọn ý thức hệ vô sản như là một giải pháp duy nhất để giải đáp hai câu hỏi lớn và cấp bách là độc lập cho đất nước và hạnh phúc cho nhân dân?

– Hay về phía cá nhân Lê Xuân Khoa đã không nhận biết thật chính xác và hành động thật sự đúng đắn trong vị trí và nghĩa vụ của một thất phu hữu trách khi “quốc gia lâm nguy”?

Có lẽ thuộc về tất cả, kẻ ít người nhiều, kẻ chính người phụ, kẻ trước mắt người lâu dài. Nhưng nguyên nhân gốc (từ của LXK) của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất vẫn thuộc về xâm lược Pháp.

Tuy nhiên, hơn bất cứ ai, một thất phu hữu trách, nên tự kiểm điểm rằng mình đã đứng ở đâu, đã làm gì trước tình hình quốc gia lâm nguy?, đặc biệt y (kẻ thất phu hữu trách), muốn chứng tỏ rằng là người tiếp cận với chữ nghĩa thánh hiền? Trong trường hợp y (kẻ thất phu) đứng ngoài hay đứng cùng phe với thực dân xâm lược – kẻ mà theo Lê Xuân Khoa, đã ngoan cố, lỡ lầm gây ra cuộc chiến – thì cái giá của cuộc chiến tranh quá đắt còn gì để bàn thảo nữa ?

 

III. Cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất (1945- 1954) đã kết thúc như thế nào ?

http://giaodiemonline.com/2016/08/images/sach04.jpg

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954

Như ở trên tôi đã nhận xét: mặc dù đặt tên cho phần II của cuốn sách là Chiến Tranh chống Pháp và Tị Nạn 1954, và đặt tên cho chương 4 (chương đầu của phần II) là Hội nghị Genève và Hai Nước Việt Nam, nhưng Lê Xuân Khoa đã không nghiên cứu đầy đủ về cuộc chiến và hội nghị Genève, ông chỉ khai thác một cách tùy tiện một số sự kiện có liên quan đến Hội nghị để thu hút độc giả vào những mục tiêu ông muốn nhắm.

Mục tiêu Lê Xuân Khoa muốn nhắm là gì?

Chưa cần tiếp cận nội dung, độc giả dễ dàng nhận biết ý đồ của Lê Xuân Khoa khi nhìn qua tiêu đề phần II và chương 4 :

– Chiến Tranh chống Pháp và Tị Nạn 1954.

– Hội nghị Genève và Hai Nước Việt Nam.

Tị nạn và chia cắt là hai cái đích mà Lê Xuân Khoa muốn nhắm:

Tị nạn là tị nạn Cộng Sản. Chia cắt là tội của Cộng Sản. Bởi Cộng Sản là “nguyên nhân gốc” hàng đầu, và cũng là “nguyên nhân gốc” cuối cùng.

Mở đầu chương II Lê Xuân Khoa viết:

Cuộc chiến tranh Việt – Pháp, sau gần chín năm tàn phá điêu linh với khoảng một triệu người chết và bị thương đã được các cường quốc kết thúc ở Hội nghị Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 bằng việc chia cắt Việt Nam làm đôi với hai chính thể hoàn toàn đối lập ở hai miền Nam – Bắc. Thật ra Hiệp định Genève chỉ thỏa mãn được yêu cầu cấp thiết của Pháp là vấn đề ngưng bắn trong khi không có khả năng đảm bảo một nền hòa bình lâu dài, vì Quốc Gia Việt Nam (được đổi tên là Việt Nam Cộng Hòa kể từ ngày 23 tháng 10 năm 1955) không chịu công nhận hội nghị này.” (LXK sđd tr 163).

Nhưng như đã thấy kết quả Hội Nghị Genève chỉ là những thỏa hiệp về ngưng bắn ở ba nước Đông Dương đúng với sự mong muốn của Pháp”. (LXK sđd tr 190).

Hai đoạn trích dẫn trên: đoạn thứ nhất mở đầu phần nhập đề, đoạn thứ hai lấy từ phần kết luận của cùng chương 4 Lê Xuân Khoa viết về Hiệp định Genève. Mà Hiệp định Genève, theo Lê Xuân Khoa, “chỉ là những thỏa hiệp ngưng bắn ở ba nước Đông Dương đúng với sự mong muốn của Pháp.”

Khi một cuộc chiến tranh xâm lược và chống xâm lược mà qua đàm phán đã kết thúc theo sự mong muốn của nước đi xâm lược (trong trường hợp này là Pháp), như Lê Xuân Khoa đã nhận định, thì tất nhiên nước đi xâm lược đã đạt được những mục đích cơ bản đề ra lúc ban đầu. Và nước bị xâm lược (trong trường hợp này là Việt Nam) chẳng gặt hái được gì ngoài chết chóc thương tật, đất nước bị tàn phá, chia cắt, dân tộc bị chia lìa, quốc gia bị nợ nần lệ thuộc.

Do tác giả Lê Xuân Khoa nhận định như vậy nên tôi đề nghị ông cùng độc giả quay trở lại những gì ông đã viết về tình cảnh của Việt Nam vào thời điểm 1945, mục tiêu của hai bên Pháp – Việt trước khi nổ ra chiến tranh, và những nét chính diễn biến cuộc chiến tranh cho đến khi kết thúc hội nghị Genève.

Ở chương II (Những Yếu Tố Bên Ngoài), các trang 75, 77, 78, 79 và nhiều nơi khác trong Việt Nam 1945-1995 tập I, Lê Xuân Khoa cho độc giả thấy rằng vào thời điểm 1945, đối với Pháp thì Đông Dương thuộc Pháp (Indochine française) là một liên bang gồm 5 xứ: Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Lào và Cam Bốt.

Cái Đông Dương thuộc Pháp này, theo tôi (Chu Sơn) : thực dân Pháp đã bắt đầu xâm lược từ 1858, thiết lập sự đô hộ toàn phần từ 1884 (Hòa ước Patenôtre), bị Nhật chia quyền cai trị năm 1941 và đảo chánh tháng 3-1945, Nhật đầu hàng ngày 14 tháng 8-1945. Chiến tranh thế giới II kết thúc, quân Pháp hăm hở tái chiếm Đông Dương nhằm đặt nó trở lại trong khối Liên Hiệp Pháp. Cuộc tái chiếm Đông Dương của Pháp được hai nước Anh và Trung Hoa (hai nước được Đồng minh giao trách nhiệm giải giới quân Nhật đầu hàng ở hai đầu vĩ tuyến 16) tiếp tay tạo điều kiện, đặc biệt được Hoa Kỳ đồng thuận (giai đoạn 1945- 1950), và chung lưng gánh vác (1950-1954, Mỹ chịu 75 % kinh phí, cung cấp vũ khí, hỗ trợ ngoại giao và đe dọa trực tiếp tham chiến).

Trong khi đó Việt Minh – Cộng Sản đã chuẩn bị từ trước, lợi dụng khoảng trống quyền lực (Nhật đầu hàng – quân Đồng Minh chưa vào) làm Cách mạng tháng Tám, hình thành nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tuyên bố độc lập, kêu gọi Mỹ và thế giới ủng hộ, khẩn khoản đề nghị Pháp thương lượng hòa bình hai bên cùng có lợi (Việt Nam độc lập trong khối Liên hiệp Pháp, các quyền lợi kinh tế, văn hóa của Pháp được tôn trọng, bảo đảm…). Nỗ lực tối đa của Việt Minh – Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đặc biệt là Hồ Chí Minh, bị thất bại. Bởi Pháp đã muốn quay trở lại Đông Dương bằng bạo lực quân sự.

Cuộc chiến tranh Việt – Pháp nổ ra tại Nam Bộ ngày 23 tháng 9, ở Bắc Bộ ngày 20 tháng 12-1946. Việt Minh – Cộng Sản đã không bị tiêu diệt trong một thời gian ngắn như tính toán của các tướng lãnh Pháp, mà vẫn tồn tại và lớn mạnh. Pháp nhận ra mình đã bị sa lầy nên mưu đồ giải pháp Bảo Đại để thành đạt mục tiêu bằng hai giải pháp kết hợp: quân sự và chính trị, trong bối cảnh thế giới bắt đầu thời kỳ chiến tranh lạnh giữa hai phe Tư Bản – Cộng Sản. Bên cạnh Pháp còn có Mỹ, Anh, Trung Hoa Quốc Gia và nhiều quốc gia khác cùng quỹ đạo.

Từ 1945 đến cuối năm 1949 Việt Minh (VNDCCH) đánh Pháp một mình. Từ năm 1950 sau lưng Việt Minh (VNDCCH) có Trung Quốc, Liên Xô và các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa.

Chiến tranh phát triển đến đỉnh điểm là cuộc đụng đầu quyết định tại Điện Biên Phủ. Tứ cường Anh, Nga, Pháp, Mỹ quyết định tổ chức hội nghị Genève để đình chỉ chiến sự hầu tránh cuộc chiến tranh mở rộng trên bình diện thế giới. Trận Điện Biên Phủ kết thúc. Pháp đại bại. Việt Minh đại thắng.

Hội nghị Genève họp ngày 8-5, kết thúc ngày 20-7-1954 trên danh nghĩa gồm 9 nước tham dự: Anh, Nga (đồng chủ tịch), Pháp, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (hai nước trực tiếp tham chiến), Mỹ, Trung Quốc và ba phái đoàn : Quốc Gia Việt Nam, Vương quốc Lào, Vương quốc Cam Bốt, nhưng quyền lực nằm trong tay ngũ cường: Anh, Nga, Mỹ, Pháp, Trung Quốc. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là nước trực tiếp tham chiến và đánh thắng Pháp tại Điện Biên Phủ tiếng tăm vang dội, nhưng tiếng nói tại bàn hội nghị không tương xứng với tiếng súng trên chiến trường. Ba phái đoàn trong khối Liên hiệp Pháp (Quốc Gia Việt Nam, Vương quốc Lào, Vương quốc Cam Bốt) không được phát biểu chính thức, tiếng nói của họ không được lắng nghe.

Thực tế hội nghị Genève diễn ra bởi hai bên.

– Bên này gồm Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Liên Xô và Trung Quốc.

– Bên kia gồm Pháp, Anh và Mỹ.

Do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Pháp trực tiếp đánh nhau nên sau diễn văn khai mạc của hai trưởng đoàn đồng chủ tịch Hội nghị: Anh, Liên Xô (Eden và Molotov), Phạm Văn Đồng và Georges Bidault kẻ trước người sau trình bày lập trường đàm phán và các điều kiện của mình.

Lập trường và điều kiện của hai bên xa cách nhau rất lớn, nhưng cuối cùng Hội nghị đã được dàn xếp sau hơn hai tháng đấu tranh căng thẳng và gay cấn. Hội nghị diễn ra giữa chừng, Pháp thay đổi chính phủ và trưởng đoàn đàm phán. Pierre Mendès France thay Joseph Laniel làm thủ tướng kiêm ngoại trưởng, thay Georges Bidault làm trưởng đoàn đàm phán với tuyên bố sẽ kết thúc Hội nghị trong 30 ngày, điều chỉnh lập trường từ không điều đình với Việt Minh đến chấp nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa làm đối tác đàm phán với những điều kiện gần với tuyên bố chung của Mỹ – Anh làm tại Hoa Thịnh Đốn bởi Eisenhower và Churchill (ngày 29-6-1954). Tuyên bố chung Mỹ – Anh rất gần với kết quả hội nghị Genève.

Lê Xuân Khoa mô tả thủ đoạn của Pháp tại hội nghị Genève như sau:

Trước tình hình nguy ngập về quân sự tại Điện Biên Phủ, các nhà lãnh đạo Pháp đều chỉ mong muốn đạt được một thỏa hiệp đình chiến với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong khi vẫn tiếp tục duy trì Quốc Gia Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp. Để đạt được mục đích ấy, ngoại trưởng Georges Bidault và thủ tướng Joseph Laniel đều không bỏ lỡ một cơ hội nào có thể hù dọa đối phương về khả năng Hoa Kỳ sẽ can thiệp quân sự vào Việt Nam nếu hội nghị Genève thất bại. Ngay cả khi chính phủ Laniel sụp đổ vì không thuyết phục được chính quyền Eisenhower công bố ý định tham gia cuộc chiến ở Đông Dương, thủ tướng Mendès France vẫn không quên nhắc nhở Liên Xô và Trung Quốc về hiểm họa quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương với sự tham gia không thể tránh được của Hoa Kỳ” (LXK sđd tr 164).

Để phối hợp với thủ đoạn đàm phán của Pháp, Hoa Kỳ chỉ cử thứ trưởng ngoại giao Walter Bedell Smith làm trưởng đoàn tham gia hội nghị, sau đó lại thay Walter B. Smith bằng Alexis Johnson, một nhân vật thấp hơn để chứng tỏ thái độ lấp lửng tiêu cực của mình đối với Hội nghị. Bom nguyên tử và kế hoạch hành quân Vautour (Kền kền) cũng được Hoa Kỳ sử dụng làm áp lực trong suốt thời gian trước và sau khi hội nghị khai diễn.

Trong khi đó Liên Xô và Trung Quốc có những vấn đề quốc nội vô cùng nghiêm trọng cần giải quyết và những tham vọng mới trong công cuộc bang giao quốc tế cần thực hiện, nên chuyển đổi sách lược từ đối đầu sang chung sống hòa bình với phương Tây (phe Tư Bản) hầu tránh xung đột trực tiếp với Mỹ.

Ngoài ra Pháp đã tận dụng vị trí, vai trò của mình tại châu Âu, trong Cộng đồng phòng thủ châu Âu (thuộc khối NATO) mà Mỹ đang ráo riết vận động thành lập, và là một trong năm thành viên của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, cùng những quyền lợi bảo lưu tại châu Á để điều đình với Liên Xô, Trung Quốc trong quá trình diễn ra Hội nghị Genève. Như thế ngoài các hội đàm tay ba Liên Xô – Trung Quốc – Việt Nam và Mỹ – Anh – Pháp trước khi hội nghị Genève khai mạc, bên ngoài hội trường Genève, còn có những đàm phán, mặc cả, thuyết phục (Lê Xuân Khoa gọi là đi đêm) tay đôi giữa Pháp – Mỹ, Anh – Mỹ, Pháp – Anh, Pháp – Liên xô, Pháp – Trung Quốc, Việt Nam – Liên Xô, Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Pháp để điều chỉnh lập trường và cắt giảm các điều kiện nhằm kết thúc Hội nghị theo “sự mong muốn của Pháp và sự nhục nhã thua thiệt của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do bị Liên Xô, Trung Quốc áp đặt và phản bội” (LXK sđd các tr:165, 166, 167, 168…).

Lê Xuân Khoa đặc biệt ngưỡng mộ tài năng đàm phán và thuyết phục của Mendès France. Ông dành nhiều trang trong chương 4 (Hội nghị Genève và Hai Nước Việt Nam) để mô tả các thủ pháp mà Mendès France đã sử dụng trong quá trình đàm phán. Lê Xuân Khoa so sánh các điều kiện Mendès France và Phạm Văn Đồng đưa ra để kết luận Mendès France đã thắng và Phạm Văn Đồng đã “cúi đầu cam chịu” (từ của Lê Xuân Khoa) ký kết một hiệp định trong thua thiệt và nhục nhã.

Lê Xuân Khoa cố tình làm cho người đọc sách của ông quên rằng: Phạm Văn Đồng không chỉ thương lượng với những điều kiện do Mendès France đưa ra, mà trước đó, Phạm Văn Đồng còn đã đấu tranh với lập trường và những điều kiện cứng rắn của Pháp do Georges Bidault tuyên bố trong phiên họp mở màn hội nghị, qua đó Pháp không chịu thương lượng trực tiếp với Việt Minh – mà chỉ thương lượng với Trung Quốc về một nước Việt Nam trung lập, chia hai với chính phủ Quốc Gia do Bảo Đại cầm đầu trực thuộc chính quyền Liên Hiệp Pháp ở phía Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh cầm đầu ở phía Bắc, và đặc biệt, sau lưng Pháp còn có đế quốc Mỹ, một siêu cường hàng đầu thế giới không bị sứt mẻ gì sau hai cuộc đại chiến, đang hăm hở nhảy vào Đông Dương.

Để mô tả diễn biến của hội nghị Genève theo chủ đích của mình, Lê Xuân Khoa đã đặc biệt nhấn mạnh đến quyền lực và sự phản bội của Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trong khi cố tình giảm nhẹ các áp lực của Mỹ đối với cả Pháp lẫn Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về một nguy cơ chiến tranh kéo dài, mở rộng với kế hoạch hành quân Vautour, bom nguyên tử và những khả năng khác.

Theo tôi con át chủ bài thực sự tại Hội nghị Genève là Hoa Kỳ, Mendès France chỉ căn cứ vào lập trường và những điều kiện do Hoa Kỳ đưa ra (thể hiện qua thông cáo chung được ký bởi Eisenhower và Churchill ngày 29 tháng 6 tại Hoa Thịnh Đốn) để điều đình với đối phương nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các thua thiệt sau chín năm tiến hành cuộc tái chiếm chẳng những bất thành mà còn bị sa lầy và đại bại (tại Điện Biên Phủ), chứ không hề có việc hội nghị đã diễn ra và kết thúc như mong muốn của Pháp, như Lê Xuân Khoa nhận định.

Thông cáo chung Anh – Mỹ gồm 7 điều, Lê Xuân Khoa đã chép lại như sau :

1/ Bảo tồn sự toàn vẹn và độc lập của Lào và Cam Bốt bằng việc bảo đảm sự rút quân của các lực lượng Việt Minh ra khỏi hai nước này.

2/ Bảo tồn ít nhất phân nửa phía nam của Việt Nam, nếu có thể được, một vùng đồng bằng (nhóm từ “một vùng đồng bằng”, Lê Xuân Khoa cố tình rút gọn từ nguyên văn: “một cứ điểm trên vùng đồng bằng Bắc bộ” – Chu Sơn), trong khi lằn phân ranh không được vượt quá phía nam Đồng Hới (phía bắc vĩ tuyến 17).

3/ Không áp đặt lên Cam Bốt hay Lào, hay ở phần lãnh thổ được bảo tồn của Việt Nam những điều kiện hạn chế khả năng duy trì chế độ chính trị ổn định không cộng sản, nhất là quyền của họ đủ lực lượng bảo vệ an ninh quốc nội, được nhập cảng vũ khí và có thể yêu cầu sự giúp đỡ của các cố vấn nước ngoài.

4/ Không gồm có một điều khoản chính trị nào có thể đưa đến việc mất cho Cộng sản những vùng đất bảo tồn.

5/ Không loại bỏ khả năng thực hiện sau này việc thống nhất Việt Nam bằng những phương cách hòa bình.

6/ Cho phép những người muốn dời chỗ ở từ một vùng này sang một vùng khác ở Việt Nam được di chuyển trong những điều kiện hòa bình và nhân đạo.

7/ Dự liệu một hệ thống kiểm soát quốc tế hữu hiệu.

Đọc kỹ thông báo chung Anh – Mỹ từ cách sử dụng từ: “Bảo tồn” (ở điều 1, điều 2) “không áp đặt”, “không gồm có”, “không loại bỏ”, “cho phép” (ở điều các 3, 4, 5, 6) ở đầu các câu, đến nội dung của mỗi điều khoản, chúng ta thấy đây là thông điệp chỉ dẫn cho Mendès France trong các cuộc đàm phán với đối phương. Chúng ta thấy dấu ấn thông điệp này trong các văn kiện Hiệp định Genève đặc biệt Tuyên bố chung của 9 nước tham gia hội nghị không có chữ ký, tuyên bố riêng của Mỹ ngày 21-07-1954 và hành động của Mỹ về sau.

Chúng ta thấy việc chia cắt Việt Nam làm hai nằm ở điều 2 của bản thông cáo Anh – Mỹ. Chúng ta thấy việc bảo tồn các vùng đất còn lại (Lào – Cam Bốt, Nam Việt Nam) để không rơi vào tay Cộng Sản nằm ở điều 1, điều 3. Chúng ta thấy việc Mỹ và Quốc Gia Việt Nam không ký vào Tuyên bố cuối cùng của 9 nước kết thúc hội nghị Genève nằm ở điều 4 (không có một điều khoản chính trị nào có thể đưa đến việc mất cho Cộng sản những vùng đất được bảo tồn), để rồi Thông báo cuối cùng (của hội nghị) không có chữ ký (của nước nào).

Như thế việc chia cắt Việt Nam làm đôi không hề là tội lỗi riêng của Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa như Lê Xuân Khoa đã cố tình nhấn mạnh qua những bình luận trích dẫn nhằm phục vụ cho chủ đích ban đầu của ông, mà là xu hướng chung của các cường quốc (mà Mỹ là nước hùng mạnh hàng đầu) trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế như đã xảy ra ở “hai nước Đức” và hai miền Nam – Bắc Triều Tiên.

Không hiểu tại sao viết về hội nghị Genève mà không có một văn kiện chính thức nào như Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, Bản Tuyên bố cuối cùng không có chữ ký của 9 nước tham dự Hội nghị cũng chẳng thấy Lê Xuân Khoa ghi chép lại nguyên văn làm bằng chứng cho những nhận định của mình. Đọc kỹ các văn bản ấy tôi không thấy một từ, một câu nào nói rằng Hội nghị Genève đã “chia cắt Việt Nam làm đôi” với hai chính thể hoàn toàn đối lập ở hai miền Nam – Bắc như Lê Xuân Khoa đã khẳng định cả. Thậm chí trong bản Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, tất cả các câu có nhóm từ “vĩ tuyến 17” đều đi liền với các thuộc từ “vĩ tuyến quân sự tạm thời”. Trong Tuyên Bố Chung còn nói rõ hơn: “Trong tất cả mọi trường hợp vĩ tuyến 17 không được xem là ranh giới chính trị hay lãnh thổ”. Vậy thì vấn đề chia cắt Việt Nam làm đôi, vấn đề vĩ tuyến 17 là “ranh giới chính trị, ranh giới lãnh thổ” nằm ở đâu trong thực tế Việt Nam và Đông Dương trước và sau hội nghị Genève?

Chẳng hiểu vì vô tình hay cố ý Lê Xuân Khoa đã không xâu chuỗi các động thái, các công đoạn của sách lược Hoa Kỳ từ sau thế chiến II thành một hệ thống chiến lược của nước này đối với Việt Nam, Đông Dương, Đông Nam Á và châu Á, để từ đó phanh phui ra ý đồ đích thực của Mỹ tại hội nghị Genève. Theo tôi, tại hội nghị Genève Mỹ đã lựa chọn một thái độ, một thủ đoạn ngoại giao mà Lê Xuân Khoa cho là sai lầm (LXK sđd tr 196- 208) để từ đó dành cho Hoa kỳ “những bài học” “có vẻ đúng” với một thái độ “xem ra chân thành”. Thực tế là Lê Xuân Khoa đã không chịu tiếp cận chủ nghĩa chống cộng thánh chiến và học thuyết Đô mi nô (phòng thủ từ xa – Chu Sơn) mà Hoa Kỳ đã hình thành và vận dụng từ sau thế chiến II kết thúc. Từ việc Hoa Kỳ giao quyền cho Anh và Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch đưa quân vào Đông Dương để giải giới quân Nhật, ủng hộ Pháp tái chiếm thuộc địa, đến việc vận động các quốc gia cùng quỹ đạo công nhận ngoại giao chính phủ Quốc Gia Bảo Đại, đến việc thành lập các nhóm cố vấn và viện trợ quân sự (MAAG), để qua đó tiến hành các chương trình, các kế hoạch viện trợ và cố vấn các vấn đề chiến lược bên cạnh bộ chỉ huy tối cao của Pháp tại Đông Dương, thúc đẩy Pháp nhanh chóng “Việt Nam hóa chiến tranh”, khuyến dụ chính phủ Quốc Gia, các phe nhóm chống Cộng bản địa tích cực hơn, chủ động hơn trong việc tiếp nhận quyền lực từ ông chủ Pháp, đặc biệt qua đó tuyển mộ nhân viên CIA và “tìm chọn ngựa” cho cuộc dấn thân chẳng đặng đừng khi thời cơ đến. Thời cơ đó là Pháp đại bại ở Điện Biên Phủ và Hội nghị Genève nhóm họp.

Tại hội nghị Genève, một mặt Hoa Kỳ không muốn trực tiếp thương lượng hòa bình với hai nước Cộng sản đầu sỏ là Liên Xô và Trung Quốc mà Hoa Kỳ cho là nguồn gốc của cái ác không cứu chữa được, và một mặt, Hoa Kỳ không muốn bỏ mặc Pháp một mình đương đầu ngoại giao trong thế yếu với đối phương để rồi do tình thế bức bách tại chiến trường mà nhượng bộ, gây bất lợi tối đa cho Thế giới Tự do mà Hoa Kỳ nghiễm nhiên là quốc gia đứng đầu (đế quốc Pháp đã lạc hậu, lỗi thời, bất lực). Do vậy mà Hoa Kỳ không từ bỏ bất cứ một cơ hội nào để sắm sửa vai trò “thần chiến tranh” nhằm hù dọa đối phương (bom nguyên tử, kế hoạch hành quân Vautour, cử trưởng đoàn tham gia Hội nghị không cân xứng với các phái đoàn khác và dọa rút lui, phá bỏ hội nghị…). Song song các thủ đoạn ngoại giao đó, Hoa Kỳ tích cực vận động để hình thành Liên Minh phòng thủ Đông Nam Á (SEATO), đồng thời cùng với giáo hội La Mã, giáo hội Pháp vận động chính phủ Pháp áp lực để Bảo Đại nhận Ngô Đình Diệm làm thủ tướng chính phủ Quốc Gia thay Bửu Lộc.

Bảo Đại, nhân vật được thực dân Pháp chuẩn bị để thực hiện các giải pháp trong thời bình (từ 1933 – 1945) cũng như trong thời chiến (từ 1948 – 1954), trước sự chuyển giao quyền lực giữa hai ông chủ, đã thực thà thốt lên :

Chúng ta (Quốc Gia Việt Nam – Chu Sơn) không còn trông cậy vào Pháp được nữa. Tại Genève người Mỹ là đồng minh duy nhất của chúng ta. Trước biến chuyển của tình hình họ muốn thiết lập một hệ thống phòng thủ mới trong vùng Đông Nam Á. Họ có thể giúp chúng ta tiếp tục chiến đấu với Cộng sản” (LXK sđd tr 187).

Như thế, tại hội nghị Genève, người Quốc Gia không còn trông cậy vào Pháp được nữa, bởi vì Pháp bị bắt buộc rút lui khỏi Đông Dương, từ bỏ mục tiêu mà họ muốn tái chiếm từ sau thế chiến II. Trước tình thế đó, người Quốc Gia quay về phía Mỹ.

Bởi vì người Mỹ muốn “ bảo tồn những vùng đất còn lại ” (Nam Việt Nam, Lào và Cam Bốt) và biến chúng thành tiền đồn của thế giới Tự Do nhằm ngăn chận chủ nghĩa Cộng sản tràn xuống Đông Nam Á.

Chính Lê Xuân Khoa đã viết mấy dòng ở trang 197 như sau:

Chỉ vì tin tưởng ở giải pháp quân sự trong công cuộc ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản ở Đông Dương, khi Điện Biên Phủ bị lâm nguy, Hoa Kỳ cố gắng thành lập một liên minh quân sự để cứu Pháp. Khi những nỗ lực này bị thất bại, Hoa Kỳ chuẩn bị thay thế cho vai trò của Pháp bằng một kế hoạch hậu Genève: Xây dựng một chế độ dân chủ ở miền Nam Việt Nam để đương đầu với chính thể Cộng Sản ở miền Bắc ”.

Chỉ hơn một tháng rưỡi sau khi Hội nghị Genève kết thúc, Liên Minh phòng thủ Đông Nam Á ra đời (8-9-1954), khóa chặt vòng đai phong tỏa Trung Quốc và Bắc Việt từ Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, Nam Dương, Phillipin, Mã Lai, Singapor, Nam Việt Nam, Cam Bốt, Lào, Thái Lan. Vĩ tuyến 17 trở thành ranh giới chính trị “ chia cắt Việt Nam làm đôi với hai chính thể hoàn toàn đối lập ở hai miền Nam – Bắc ”, như Lê Xuân Khoa nhận định là như thế.

Có điều “tại Genève người Mỹ đã không chọn Bảo Đại làm đồng minh” như ông đã xác tín, bởi sau lưng ông vua sành sỏi ăn chơi đàng điếm này chỉ là một nhóm nhỏ của một triều đình An Nam lệ thuộc, phong kiến, mục nát, lỗi thời, một bon trộm cướp du thủ du thực Bình Xuyên và một bộ phận các giáo phái đã từng cộng tác với Pháp và Nhật.

Trong thời gian diễn ra hội nghị Genève, người Mỹ đã đưa một nhân vật khác thay Bảo Đại làm người đứng đầu chính phủ Quốc Gia (sau này là Việt Nam Cộng Hòa) là Ngô Đình Diệm, bởi sau lưng ông quan nhiều tham vọng đạo dòng này còn có hàng triệu tín đồ Công giáo được lãnh đạo bởi giáo hội Thừa sai Pháp và giáo hội La Mã, những đại diện cho một Thượng đế toàn năng và không sai lầm, đã khẳng định công cuộc chống Cộng là một tín điều để cùng nhau tiến hành cuộc thánh chiến.

Như thế, cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, sau trận Điện Biên Phủ, cả hai phe (Pháp – Việt, Tư bản – Cộng sản) đều muốn dừng lại vì cùng e ngại tình thế sẽ trở nên nguy hiểm nếu chiến tranh tiếp tục sẽ phát triển theo chiều hướng rộng lớn, nguy hiểm hơn (thế giới đại chiến).

Phe Thế giới Tự do muốn “bảo tồn ” những vùng đất có thể được (để tổ chức lại thế trận) hầu tránh một thất bại sau cùng. Phe Cộng Sản đành chấp nhận những thắng lợi nửa chừng để khỏi phải đụng đầu trực tiếp với Mỹ.

Do cả hai bên cùng muốn dừng lại nên chiến sự tạm thời đình chỉ (qua các văn kiện Hiệp định ký kết giữa Pháp và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa), hòa bình tạm thời được lập lại với một giải pháp chính trị nửa vời, giá trị pháp lý không được bảo đảm thể hiện qua bản tuyên bố chung của 9 nước tham gia hội nghị không có chữ ký. Theo đó, tôi xin tóm lược:

1/ Pháp cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam – Lào – Cam Bốt. Pháp và Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thỏa thuận đình chiến.

2/ Vĩ tuyến 17 được chọn làm ranh giới quân sự tạm thời và khu phi quân sự được thiết lập ở hai bên vĩ tuyến 17 (dòng sông Bến Hải) nhằm ngăn chận các cuộc xung đột có thể xảy ra trong quá trình hai bên thi hành hiệp định đình chiến. Trong mọi trường hợp vĩ tuyến 17 không được xem là ranh giới chính trị, lãnh thổ.

3/ Quân đội hai bên tập kết về hai vùng do hiệp định quy định: Quân đội và chính quyền khối Liên hiệp Pháp (gồm quân Pháp và quân Quốc Gia Việt Nam) rút về miền nam Việt Nam, quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rút về miền bắc Việt Nam trong vòng 300 ngày. Trong thời gian ấy hai bên trao trả tù binh, chuyển giao các cơ sở hạ tầng. Hai bên không được trả thù những người đã tham gia bên này bên kia trong thời gian xẩy ra chiến tranh.

4/ Hai bên Việt Nam, Lào, Cam Bốt cam kết không tham gia bất cứ một liên minh quân sự nào. Cấm không được đưa vào hai miền Việt Nam, hai nước Lào và Cam Bốt các vũ khí và nhân viên quân sự.

5/ Nhân dân các nước được bảo đảm các quyền tự do, tự do đi lại từ vùng này qua vùng khác, tự do chọn chỗ cư trú lâu dài.

6/ Hai nước Lào, Cam Bốt tổ chức tổng tuyển cử trong vòng một năm để bầu ra chính quyền mới đại diện cho các khuynh hướng chính trị theo thể chế trung lập. Hai miền Việt Nam hiệp thương một năm sau (1955) để cùng nhau tổ chức tổng tuyển cử bầu ra chính quyền thống nhất vào hai năm sau (1956).

7/ Pháp sẽ triệt thoái hoàn toàn ra khỏi các khu vực đóng quân và tạm thời quản lí hành chính thông qua thảo luận (điều kiện và thời hạn) với các chính quyền sở tại (Quốc Gia Việt Nam và Vương quốc Lào).

8/ Một ủy ban kiểm soát quốc tế được thành lập có vai trò và nhiệm vụ giám sát quá trình thực thi Hiệp định đình chiến và Tuyên bố cuối cùng.

Hội nghị Genève kết thúc với kết quả như thế. Các nước, các lực lượng liên quan nhìn nhận và phản ứng thế nào?

Đối với Pháp: Mục tiêu tái chiếm Đông Dương là đưa năm xứ của thuộc địa này trở về với sự thống trị của Pháp như trước khi bị Nhật chia quyền và đảo chính (3-1945).

Nay cùng đối phương ký kết Hiệp định đình chiến để rút quân, tạm thời bảo lưu quân đội tại miền Nam, tại hai căn cứ trên lãnh thổ Lào và sẽ triệt thoái hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam và Lào trong vòng hai năm với sự thương lượng cùng chính quyền sở tại (Quốc Gia Việt Nam và Vương quốc Lào) để ấn định thời gian và các quyền lợi sau khi rút quân.

Như thế sau hiệp định Genève Pháp còn lại những gì tại Việt Nam và Đông Dương mà Lê Xuân Khoa hết lời ca ngợi tài năng và bản lĩnh của Mendès France như thế?

Về vĩ tuyến 17 cho dù là “ranh giới chính trị của hai nước Việt Nam” và là nhượng bộ bất đắc dĩ của phái đoàn Phạm Văn Đồng do áp lực của Liên Xô và Trung Quốc, như Lê Xuân Khoa đã nhận định và nhấn mạnh, thì cuối cùng cũng chỉ là những thắng lợi của Mỹ, kẻ bảo trợ mới cho Quốc Gia Việt Nam, chứ có phải của Pháp nữa đâu ?

Đối với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa: Khi tiến hành cuộc chiến tranh chẳng đặng đừng với mục tiêu là giành lại độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ cho một nước Việt Nam thống nhất. Tuy đánh thắng Pháp tại Điện Biên Phủ nhưng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không còn được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ để tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh đến thắng lợi cuối cùng, đành phải chấp nhận đình chiến với một nửa đất nước giành lại được. Còn một nửa đất nước (miền Nam), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải đương đầu với Mỹ và Quốc Gia Việt Nam để thống nhất đất nước trong hòa bình theo tinh thần của hiệp định Genève, hay tiến hành một cuộc chiến tranh khác với Mỹ và Việt Nam Quốc Gia để thống nhất đất nước.

Đối với Mỹ : Năm 1945, Mỹ chấp thuận cho Anh và Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch đưa quân vào Đông Dương giải giới quân Nhật đầu hàng, ủng hộ Pháp tái chiếm thuộc địa nhằm tiêu diệt Cộng sản Việt Nam và ngăn chận Cộng sản Trung Quốc từ biên giới Việt – Trung. Đến thời điểm 1954, mục tiêu đó bất thành, theo quan điểm của Mỹ: Pháp đã áp dụng một thứ chủ nghĩa thực dân hẹp hòi, lỗi thời. Mỹ muốn thay thế Pháp “bảo tồn” những phần lãnh thổ còn lại gồm Nam Việt Nam, Lào và Cam Bốt, biến nó thành tiền đồn của thế giới Tự do. Tuyên bố riêng của Mỹ ngày 21-7 tại Genève nhằm khẳng định mình không bị ràng buộc bởi hiệp định Genève, đồng thời ngăn đe phe Cộng Sản phá bỏ hiệp định Genève, “đe dọa hòa bình và an ninh thế giới”. Diễn đạt một cách cụ thể là: Không để Cộng Sản miền Bắc (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) thống nhất đất nước bằng phương thức tổng tuyển cử theo quy định bởi Tuyên bố chung của 9 nước tham gia Hội nghị không có chữ ký. Tổng thống và ngoại trưởng Mỹ bấy giờ là Eisenhower và John Foster Dulles nhận định rằng nếu tổng tuyển cử Hồ Chí Minh sẽ thắng với tỷ lệ 80 %. Trong trường hợp Cộng Sản miền Bắc tiến hành thống nhất bằng bạo lực quân sự, Mỹ sẽ trừng trị bằng bạo lực quân sự. Để thực hiện chủ trương của mình, Mỹ tích cực hỗ trợ mọi mặt cho Ngô Đình Diệm xây dựng ở miền Nam một chế độ Cộng Hòa Thiên Chúa giáo như Mỹ đã làm tại Phillipin, một mặt Mỹ tổ chức Liên Minh phòng thủ Đông Nam Á để bảo vệ miền Nam Việt Nam, Cam Bốt và Lào, khóa chặt vòng vây bao quanh Trung Quốc và Bắc Việt từ Đông bắc Á xuống Đông nam Á, và vĩ tuyến 17 trở thành ranh giới lãnh thổ của Mỹ ở Viễn Đông.

Đối với Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa: Cả hai đều chống lại Hội nghị Genève và Hiệp định Genève, chống lại “sự cấu kết giữa thực dân Pháp và Cộng Sản Bắc Việt tay sai Nga – Hoa chia đôi đất nước”, chống lại sự thống nhất đất nước theo phương thức hội nghị Genève qui định qua Tuyên bố chung. Quốc Gia Việt Nam ra tuyên bố riêng để bày tỏ quan điểm lập trường. Nói như thế nhưng làm thì:

– Cho đến khi Hội nghị Genève kết thúc, phái đoàn Quốc Gia Việt Nam vẫn ngồi tại bàn đàm phán bên cạnh phái đoàn Pháp mặc dù tiếng nói không được lắng nghe và đặc biệt trước đó 6 tuần Quốc Gia Việt Nam đã được Pháp “trao trả độc lập hoàn toàn” qua hiệp ước Laniel – Bửu Lộc (4-6-1954).

– Trong khi đó tại Việt Nam, Quốc Gia Việt Nam không tổ chức kháng chiến để bảo vệ đất nước trước thực tế Thực dân và Cộng sản cấu kết chia cắt ?

– Quốc Gia Việt Nam vẫn ở trong khối Liên hiệp Pháp triệt thoái khỏi miền Bắc theo các điều khoản Hiệp định Genève, kêu gọi tổ chức di cư, tổ chức định cư và xây dựng chính quyền Việt Nam Cộng hòa theo kế hoạch viện trợ trực tiếp và toàn diện của Mỹ, từ chối nói chuyện với miền Bắc để thống nhất đất nước theo tinh thần Hiệp định Genève.

Giả định rằng Quốc Gia Việt Nam là một thực thể độc lập có khả năng bảo vệ quan điểm của mình trên vùng lãnh thổ được hội nghị Genève phân chia (từ vĩ tuyến 17 trở vào) để “không bảo đảm một nền hòa bình lâu dài” như Lê Xuân Khoa đã viết, thì theo tôi: Việt Nam Cộng Hòa, hậu thân của Quốc Gia Việt Nam, là “nước” được hưởng lợi nhiều nhất tại hội nghi Genève, và hiệp định Genève là cơ hội tốt nhất để “người Quốc Gia” thực hiện lý tưởng (tự do dân chủ), lòng yêu nước và tình tự dân tộc của mình.

Luận chứng là: Cuộc chiến tranh Việt – Pháp chấm dứt, Quốc Gia Việt Nam vốn là một giải pháp (LXK sđd trang 79) của thực dân Pháp nhằm bổ sung, tăng cường sức mạnh để “tiêu diệt Việt Minh Cộng Sản”, bỗng dưng trở thành chủ nhân ông của một nửa đất nước – một Miền Nam mưa thuận gió hòa, đất đai phì nhiêu, tài nguyên rừng biển phong phú với Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông, và đặc biệt có quyền hạn ngang hàng với Việt Minh Cộng Sản trong các vấn đề quan trọng của đất nước.

Như thế không là may mắn, là cơ hội ngàn năm một thuở cho Việt Nam Quốc Gia sao?

Thế nhưng không hiểu tại sao từ Quốc gia Việt Nam với Bảo Đại, đến Việt Nam Cộng Hòa của Ngô Đình Diệm, và đến cả Lê Xuân Khoa, đều cực lực phản đối tất cả những nguyên nhân đưa đến thắng lợi, may mắn và cơ hội ấy với lập luận đầy mâu thuẫn và đạo đức giả rằng: chia cắt đất nước là tội ác do Thực – Cộng âm mưu, cấu kết và thực hiện, chứ Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa không dính líu gì cả, 20 tháng 7 là ngày quốc hận. Xin hỏi giáo sư Lê Xuân Khoa: Nếu không “ chia cắt ” thì lấy đâu để Việt Nam Quốc Gia và Việt Nam Cộng Hòa có được một nửa đất nước, một miền Nam như thế? Trước khi “chia cắt”, xin hỏi giáo sư Lê Xuân Khoa, có một Việt Nam độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ không ? Hay Việt Nam chỉ là ba trong năm xứ Đông Dương thuộc Pháp ?

Giả định rằng:

Hội nghị Genève… chia cắt Việt Nam làm đôi với hai chính thể hoàn toàn đối lập ở hai miền Nam – Bắc” như Lê Xuân Khoa kết luận, theo tôi vẫn tốt hơn:

Một Việt Nam với ba xứ Nam Kỳ thuộc địa, Bắc Kỳ, Trung Kỳ bảo hộ nằm trong Đông Dương thuộc Pháp”.

Không phải chỉ có thế, mà chắc chắn cả tác giả Lê Xuân Khoa và tôi đều không tin vấn đề đơn giản đến thô thiển như vậy.

Tôi hiểu rằng khi viết những dòng, những câu đơn giản như thế, khi sử dụng những từ mang nhiều tính chất kích động như thế, Lê Xuân Khoa vẫn bảo lưu trong ông một cán bộ tuyên truyền cấp cơ sở của Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên không đơn giản Lê Xuân Khoa chỉ là một cán bộ tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa, ông còn là một nhà giáo, một người muốn làm nghiên cứu khoa học, ông đã tỏ ra thành thật và chừng mực nào đó đã tiếp cận vấn đề khi dành cho Hoa kỳ những bài học. Ông đã viết ở trang 205 trong cuốn sách của mình như sau:

Quyết định của Hoa Kỳ khi ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương để ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc trong khu vực Đông Nam Á được chứng minh là sai lầm…”

Ở trang 207 ông viết tiếp:

Quyết định thứ hai rõ ràng sai lầm của Hoa kỳ là bất hợp tác với Liên Xô và Trung Quốc tại hội nghị Genève 1954. Mặc dù vừa thua nặng ở Điện Biên Phủ và đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng về quân sự, Pháp vẫn dựa vào uy thế của Mỹ để mặc cả khiến cả hai đại cường Cộng Sản đều chìu chuộng và bắt ép Việt Minh phải chấp nhận một bản hiệp định không xứng đáng với những điều kiện của phe chiến thắng. Hoa Kỳ quá lo ngại về hiểm họa bành trướng của Cộng Sản mà không nhận ra rằng quyền lợi của Liên Xô lúc đó không phải ở Viễn Đông còn Trung Quốc thì đang thay đổi chính sách đối ngoại, muốn hòa hoãn với khối tư bản để đáp ứng các nhu cầu quốc nội sau những hao tổn quá lớn cho hai cuộc chiến ở Triều Tiên và Việt Nam…” (xem chương Bốn, chương Năm)

Ngoài ra cả hai đại cường Cộng Sản đều không muốn có một Việt Nam mạnh nhưng độc lập. Nếu Hoa Kỳ chính thức tham gia hội nghị Genève và có một cuộc thương thuyết riêng rẽ với Nga Sô và Trung Quốc thì có thể đạt được một bản thỏa ước quốc tế về Đông Dương với một giải pháp chính trị có khả năng ổn định lâu dài hơn, khác với bản hiệp định đình chiến giữa Pháp và Việt Minh ” (xem chương Bốn, chương Năm).

Như thế, theo Lê Xuân Khoa qua phần trích dẫn này, cái gốc của chiến tranh Đông Dương là: Pháp đã sai lầm ngoan cố tái chiếm thuộc địa, và Hoa Kỳ cũng đã sai lầm khi ủng hộ cuộc tái chiếm đó. Và việc hội nghị Genève, cũng theo Lê Xuân Khoa, không đưa đến một giải pháp chính trị bền vững và Hòa bình không được bảo đảm là do Hoa Kỳ đã không thương thuyết riêng với Nga Sô và Trung Quốc, trong khi hai nước Cộng Sản đầu sỏ này vì những lý do riêng rất chính đáng muốn hòa hoãn với phương Tây, đặc biệt đối với Mỹ. Lê Xuân Khoa đã viết nguyên văn như thế này, tôi xin chép lại:

“…quyền lợi của Liên xô không phải ở Viễn Đông…”

“…còn Trung Quốc thì đang thay đổi chính sách đối ngoại, muốn hòa hoãn với khối tư bản để đáp ứng nhu cầu quốc nội sau những hao tổn quá lớn cho cuộc chiến Triều Tiên và Việt Nam.”

Như thế theo Lê Xuân Khoa, nếu Hoa Kỳ trực tiếp thương lượng riêng với Liên Xô và Trung Quốc thì:

Có thể đạt được một bản thỏa ước quốc tế về Đông Dương với một giải pháp chính trị có khả năng ổn định lâu dài…”

Tạm thời tôi không tranh luận với Lê Xuân Khoa rằng là: “Liệu nếu Hoa Kỳ thương lượng riêng với Liên Xô và Trung Quốc tại Genève thì có thể đạt được một bản thỏa ước quốc tế về Đông Dương với một giải pháp chính trị ổn định lâu dài…” hay không?

Tôi nghĩ rằng Lê Xuân Khoa đã không hiểu hết, hoặc không muốn hiểu ý đồ của Mỹ theo như sách lược của họ về Viễn Đông vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt – Pháp mới nêu ra giả định đó.

Theo tôi một khi Mỹ muốn ngăn chận Trung Quốc và Cộng Sản Bắc Việt ở vĩ tuyến 17 thì đương nhiên vấn đề chính trị ở Đông Dương và Việt Nam không thể ổn định lâu dài, cũng như trước đó năm 1945, khi Hoa Kỳ ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương thì lẽ đương nhiên chiến tranh Việt – Pháp không thể tránh được.

Có điều những nhận định của Lê Xuân Khoa qua hai đoạn trích dẫn trên chứng tỏ ông đã bước đầu mường tượng ra vai trò chủ đạo của Mỹ tại Việt Nam, Đông Dương và Đông Nam Á từ sau hội nghị Genève. Cũng như những bài học lịch sử Lê Xuân Khoa dành cho Pháp, những bài học lịch sử ông dành cho Hoa Kỳ tuy chưa là những thành tựu khoa học nhưng là những gợi ý tích cực để độc giả truy nguyên bản chất đích thực của các cuộc chiến tranh tại Việt Nam và Đông Dương từ sau thế chiến II đến 1975, khi Hoa Kỳ rút bỏ hoàn toàn khỏi Việt Nam và Đông Dương.

Cách lý giải của Lê Xuân Khoa qua hai đoạn trích dẫn trên cũng là những gợi ý để người đọc sách của ông lật ngược vấn đề với những chữ NẾU như ông viết: “Nếu Hoa Kỳ…”

Tôi xin bắt chước Lê Xuân Khoa mà đặt vấn đề với những chữ Nếu trước những biến cố quan trọng ngược dòng thời gian trong lịch sử Việt Nam cận hiện đại:

1/ Vấn đề được đặt ra với chữ Nếu thứ nhất:

Nếu Hoa kỳ không chủ động hất cẳng Pháp, không hăm hở nhảy vào Việt Nam (và Đông Dương) để “bảo tồn những vùng lãnh thổ còn lại” (như thông cáo chung Anh – Mỹ ngày 29- 6-1954) thì liệu cuộc chiến tranh “ của Mỹ ở Việt Nam ” có xảy ra không ?

Câu trả lời chắc chắn là không.

Trong trường hợp đó, cuộc nội chiến Nam – Bắc có xảy ra không?

Câu trả lời là không với hai khả năng, và với một khả năng:

+ Là không với điều kiện chính quyền miền Nam chấp nhận thua trong cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước được dự trù bởi hiệp định Genève.

+ Là không khi chính quyền miền Nam bày tỏ một đường hướng chính trị hòa hoãn mà qua đó chính quyền miền Bắc hy vọng có thể thống nhất đất nước bằng hòa bình.

+ Là khi chính quyền miền Nam bắt khước một cách dứt khoát và quyết liệt các đề nghị hiệp thương thống nhất đất nước của miền Bắc. Khi đó cuộc nội chiến sẽ xảy ra và kết thúc nhanh chóng mà không tàn phá khốc liệt, dữ dội như cuộc chiến tranh với Mỹ. Và miền Bắc sẽ không lệ thuộc trầm trọng vào Liên Xô, Trung Quốc và phải trả giá quá đắt như Lê Xuân Khoa đã cáo buộc.

2/ Vấn đề đặt ra với chữ Nếu thứ hai :

Nếu Pháp không “ngoan cố tái chiếm Đông Dương” và “Hoa Kỳ không sai lầm khi ủng hộ cuộc tái chiếm đó” thì “cuộc chiến tranh chống Pháp” có xảy ra không ? Và Việt Minh, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có cầu viện Liên Xô, Trung Quốc để rồi đất nước dân tộc Việt Nam phải gánh chịu các tổn thất nặng nề như Lê Xuân Khoa đã cáo buộc không”.

Câu trả lời chắc chắn là không.

3/ Vấn đề đặt ra với chữ Nếu thứ ba:

“Nếu năm 1858 liên quân Pháp – Tây Ban Nha không tấn công vào Đà Nẵng mở màn cuộc xâm lược và thiết lập công cuộc đô hộ toàn phần lên đất nước Việt Nam năm 1884 thì liệu nhân dân Việt Nam có tiến hành các cuộc chiến tranh vì độc lập tự do từ đó đến 1954 – Hội nghị Genève không ?”

Lại thêm một câu trả lời phủ định.

4/ Vấn đề đặt ra với chữ Nếu thứ tư :

Nếu từ đầu thế kỷ 17 không có sự việc ba mũi giáp công (các thương đoàn, các giáo đoàn và các hạm đội) của các nước Tây phương (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha…, và cuối cùng là Pháp) vào Việt Nam thì có xẩy ra các cuộc đụng độ dẫn đến chiến tranh suốt bốn thế kỷ mà đỉnh cao là hai cuộc chiến tranh Đông Dương từ 1945 – 1975 không ?

Lại thêm một chữ không cho câu trả lời.

5/ Vấn đề đặt ra với chữ Nếu thứ năm :

Nếu cuộc xâm nhập của các nước phương Tây vào Việt Nam từ thế kỷ 17 chỉ với những thương đoàn, những giáo đoàn mà không có những hạm đội đi kèm thì liệu có xảy ra các cuộc chiến tranh không ?

Cũng vẫn là câu trả lời với chữ không.

6/ Vấn đề đặt ra với chữ Nếu thứ sáu :

Nếu sự xâm nhập của phương Tây vào Việt Nam với những thương đoàn, những hạm đội, những giáo đoàn (không phải là giáo hội thừa sai) tiến hành một phương thức truyền đạo giống như những đệ tử đầu tiên của giáo chủ Jésus đi vào La Mã (hòa bình và chịu đựng) thì liệu chiến tranh có xảy ra không ? Câu trả lời là có, nhưng chiến tranh sẽ kết thúc nhanh chóng hơn và mức độ tàn phá cả con người và của cải vật chất, tài nguyên sẽ giảm nhẹ rất nhiều. Khi ấy chiến tranh sẽ không mang màu sắc “thánh – nội chiến”, khi ấy khối đoàn kết dân tộc không bị phá vỡ. Khi ấy lực lượng kháng chiến sẽ được tăng cường và lực lượng xâm lược sẽ mất đi một hậu thuẫn to lớn là đa số những giáo dân công giáo, và hội nghị Genève sẽ không kết thúc với việc Mỹ thay thế Pháp kéo theo một Ngô Đình Diệm thay thế Bảo Đại, để rồi nói như Lê Xuân Khoa : “Không bảo đảm một nền hòa bình lâu dài

Nhưng lịch sử không diễn ra theo những giả định của người đời sau. Và những chữ Nếu ở trước các câu hỏi của người đặt lại vấn đề rốt cùng chỉ là những tiếc nuối khôn nguôi, những tiếng thở dài phẫn nộ, những lời cảnh báo khẩn thiết trước bọn cầm quyền mù điếc nắm quyền sinh sát ở các phía đối nghịch của một thế giới thường trực biến động và ngày một xấu hơn.

Những giả định lịch sử rốt cùng cũng chỉ để mua vui một vài trống canh cho những kẻ trầm tư, những người tự giằng xé mất ngủ với điều kiện người đặt vấn đề sáng suốt, lương thiện và chân thành.

Trở lại cùng với Lê Xuân Khoa và đoạn văn trích dẫn trên với cái cốt lõi mà lẽ ra ông nên xem là mấu chốt khi viết về hội nghị Genève, đằng này ông lại giấu nó trong tiểu mục “Bài Học Lịch Sử” dành cho Hoa Kỳ.

Tôi xin chép lại một câu trong đó:

Mặc dầu thua nặng ở Điện Biên Phủ và đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng về quân sự, Pháp vẫn dựa vào Mỹ để mặc cả khiến cả hai đại cường Cộng sản đều chiều chuộng và bắt ép Việt Minh phải chấp nhận một bản hiệp định không tương xứng với những điều kiện của phe chiến thắng ”.

Thì ra “tài năng và bản lãnh đàm phán” của Mendès France mà Lê Xuân Khoa vô cùng ngưỡng mộ và hết lời ca ngợi nằm ở con bài tẩy Hoa Kỳ và sự“chiều chuộng” mà Môlôtôp và Chu Ân Lai dành cho Pháp, đồng thời bắt ép Việt Minh phải chấp nhận một thỏa hiệp không xứng đáng với những điều kiện của phe chiến thắng” thực chất là để tránh một cuộc đụng đầu phiêu lưu với Mỹ – cường quốc duy nhất có bom nguyên tử (vào thời điểm đó – 1954) và giàu mạnh nhất thế giới chứ không phải tài năng của Mendès France và uy thế của nước Pháp.

Và vấn đề sẽ được lật ngược:

Nếu không lo ngại về một cuộc đụng đầu với Mỹ, “hai đại cường Cộng sản sẽ không bắt ép Việt Minh”…, và phái đoàn Phạm Văn Đồng sẽ không lâm vào tình thế mà Lê Xuân Khoa mô tả một cách sảng khoái rằng là : “Đảng Cộng sản đã cúi đầu nhục nhã” (LXK sđd).

Như thế cái “nguyên nhân gốc (từ của Lê Xuân Khoa) để Việt Minh phải chấp nhận một bản hiệp ước không tương xứng với những điều kiện của phe chiến thắng” xuất phát từ siêu cường Mỹ chứ không phải từ Liên Xô và Trung Quốc như Lê Xuân Khoa đã nhiều lần nhấn mạnh trong chương 4 (Hội nghị Genève và hai nước Việt Nam). Có lẽ giáo sư Lê Xuân Khoa không phản bác nhận thức chung của đa số rằng là kẻ cho vay nặng lãi là bất nhân thất đức, nhưng bọn đầu cơ trục lợi thì gian ác bội phần và người ở trong tình thế phải đi vay nặng lãi để làm công việc chính đáng (mà ông gọi là chính nghĩa) là nạn nhân chứ không phải là tội đồ.

Tôi tạm thời chấm dứt phần trao đổi với tác giả Lê Xuân Khoa về đề tài “Hội nghị Genève và Hai Nước Việt Nam” mà không thấy cần phải giải thích ai là kẻ đầu cơ, ai là kẻ cho vay nặng lãi, ai là nạn nhân của một bối cảnh lịch sử mà câu tục ngữ Việt Nam có thể là một ẩn dụ khái quát mang tính chất tượng trưng:

Dùi cui đánh đục
Dùi đục đánh săng.

Đương nhiên nếu không có tay thợ mộc mù quáng thì dùi cui không thể đánh đục, và dùi đục không thế đánh săng.

Tay thợ mộc mù quáng ở đây tôi muốn nói tới sự khủng hoảng của nhân loại trên bình diện toàn cầu bắt đầu từ những tiến bộ trong ngành hàng hải ở châu Âu dẫn tới những chuyến đi “Ấn Độ” của Christophe Colomb (1492), của Vasco de Gama (1497)…, và sắc chỉ của giáo hoàng Alexandre VI giao quyền tuyệt đối chiếm đất (buôn bán, khai thác tài nguyên) và truyền bá Thiên Chúa giáo cho hai vương triều Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trên hai nửa bán cầu dọc theo kimh tuyến từ Bắc cực xuống Nam cực cách đảo Axores một trăm dặm. (Linh Mục Trần Tam Tỉnh – Thập Giá và Lưỡi gươm). Do vậy xin ông Lê Xuân Khoa yên chí là tôi không đổ hết mọi tội lỗi và sự căm giận lên đầu bọn cầm quyền Mỹ – vì nó mà nhân dân Việt Nam phải chấp nhận cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ II (với Mỹ) để giành lại sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước, cho dù có muốn hay không muốn ý thức hệ Cộng Sản.

 

IV. Cuộc di cư từ miền Bắc của non triệu người vào miền Nam (1954) là Di tản nội địa hay Tị nạn Cộng sản ?

Cuộc  di cư năm 1954

Cuộc di cư năm 1954

Sở dĩ tôi dùng từ di cư là do hai từ Di tản nội địaTị nạn Cộng sản đối lập theo quan điểm của Lê Xuân Khoa, theo tôi, không phản ảnh đầy đủ thực tế lịch sử. Trong số 950.000 người vào Nam năm 1954 (LXK sđd tr258), theo tôi, vừa có Di tản nội địa, vừa có Tị nạn Cộng sản, nhưng chủ yếu là di tản nội địa.

Chương 6 với chủ đề Di Tản và Định Cư Tị Nạn 1954, Lê Xuân Khoa dành 25 trang để chứng minh rằng: từ “ Di tản nội địa ” của Liên Hiệp Quốc dùng trong trường hợp này là sai.

Ông đưa ra hai lý do để biện chính cho quan điểm của mình: Một là: “Sự ngược đãi của chính quyền Việt Minh”. Hai là “miền Nam là một nước riêng biệt theo hiệp định Genève” (LXK sđd tr 239-240).

Về lí do thứ nhất ông khẳng định: Tất cả “dân di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 là người tị nạn vì họ có ít nhất là một lí do vững chắc để lo sợ bị ngược đãi (trong nhiều trường hợp đã bị ngược đãi) ” (LXK sđd tr 239).

Lê Xuân Khoa cho rằng, nếu: “nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa… khoan thi hành chính sách cải cách ruộng đất cùng phong trào chỉnh huấn nhằm thanh lọc hàng ngũ cán bộ trí thức thì số người ra đi đáng lẽ không nhiều” (LXK sđd tr 122).

Như thế, chủ yếu những người tị nạn 1954 theo Lê Xuân Khoa là những cá nhân hay những gia đình từng là nạn nhân của các cuộc Cải cách, Cải tạo trên miền Bắc trước – sau 1954. Tôi đồng ý với Lê Xuân Khoa rằng là trong số những người có kinh nghiệm xương máu với chế độ Cộng sản do các cuộc cải cách cải tạo nếu có hoàn cảnh thuận tiện và nhận được nhiều hứa hẹn thì có một số người sẵn sàng chạy trốn chế độ, từ bỏ mồ mả tổ tiên, nơi chôn nhau cắt rốn để tìm nơi cư trú lâu dài tốt đẹp hơn. Những người đó, theo tôi, không cần Liên Hiệp Quốc định nghĩa thế nào, tôi cũng cùng Lê Xuân Khoa khẳng định họ là Tị Nạn Cộng sản đích danh.

Nhưng có phải những người Tị Nạn Cộng sản đích danh là toàn bộ 950.000 người di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 không ? Hay những người Tị Nạn Cộng sản đích danh chỉ là một phần nhỏ trong số đó.

Nếu tất cả đều là Tị Nạn Cộng sản thì những cá nhân, gia đình, những cộng đồng đã cộng tác với thực dân Pháp và chế độ phụ thuộc (gia đình công chức, quân đội, mật vụ tình báo viên, và cả địa chủ, thương nhân đã từng cộng tác với Pháp, gọi chung là Người Quốc Gia) đi vào Nam theo kế hoạch nào?

Và việc các chính phủ Mỹ, Pháp và Quốc Gia Việt Nam, tổ chức rầm rộ cuộc di cư phải chăng chỉ để cứu vớt những người Tị Nạn Cộng sản như Lê Xuân Khoa khẳng định, hay còn vì một lý do nào khác?

Chẳng hạn Pháp với tâm thức của kẻ thua cuộc có phá hết, vét sạch những gì, kể cả con người, sẽ làm lợi cho kẻ thù thắng trận trên phần lãnh thổ mà mình bị buộc phải triệt thoái không?

Và Pháp có tập hợp những người đã từng cộng tác nhằm làm tăng thêm lực lượng quần chúng sẽ ủng hộ tại Miền Nam qua cuộc tổ chức di cư để bảo vệ quyền lợi của họ không?

Tiếp đến: Mỹ có quy tụ thêm những binh lính của Đức Chúa Trời cho cuộc Thánh chiến chống Cộng Sản và “bảo vệ Miền Nam – tiền đồn của thế giới Tự do” mà họ đang ráo riết chuẩn bị không?

Và đặc biệt chính quyền của ông Thủ tướng người Công giáo Ngô Đình Diệm lấy ai làm hậu thuẫn cho mình khi phe cánh của ông đang hăm hở chuẩn bị đương đầu với tất cả các thế lực thù địch tại miền Nam bao gồm bọn tay sai trung thành của Pháp, phe cánh Bảo Đại, các đảng phái, các giáo phái, Việt Minh Cộng sản và Phật giáo với quần chúng hậu thuẩn lên tới 90 % ?

Một người di cư Công giáo năm 1954 đang nhận đồ viện trợ Mỹ
Một người di cư Công giáo năm 1954
đang nhận đồ viện trợ Mỹ
(Hình: Tạp chí LIFE)

Tín đồ Công giáo trên miền Bắc trước 1954 vào khoảng 1.400.000 người, chiếm tỷ lệ khoảng 8% đến 10 % dân số (khoảng 14 – 16 triệu) mà số người di cư theo Chúa – Mẹ lên đến hai phần ba trong tổng số 950.000. Như thế, 90 % người ngoại đạo chỉ đóng góp cho cuộc tị nạn rầm rộ của Lê Xuân Khoa có một phần ba. (Vào khoảng 2 % dân số của miền Bắc). Ông Lê Xuân Khoa không suy nghĩ gì về thực trạng này sao ?

Lê Xuân Khoa đã sử dụng khá nhiều những sách báo xuất phát từ các tác giả và chính phủ có liên hệ trực tiếp đến cuộc di cư và đặc biệt của giới Thiên Chúa giáo làm tài liệu nghiên cứu.

Nhưng Lê Xuân Khoa đã không nghiên cứu nguồn tư liệu sống là chính bản thân những người di cư trong đó có Lê Xuân Khoa.

Nếu tác giả Lê Xuân Khoa muốn truy tìm sự thật lịch sử theo nguồn tài liệu có giá trị khoa học hàng đầu này, hẳn nhiên không thể không biết được các nội dung tuyên truyền của Mỹ, của Pháp, của giáo hội Công giáo, của chính quyền Ngô Đình Diệm nhằm :

– Gây hoang mang lo sợ trong đông đảo quần chúng rằng: nhiều đoàn quân Tàu đang tràn xuống miền Bắc sẽ cướp của, giết người, hiếp dâm phụ nữ, hoặc Mỹ sẽ thả bom nguyên tử để tiêu diệt hết bọn Cộng Sản vô thần.

– Hủy hoại niềm tin của người dân vào chính quyền và các lãnh tụ Việt Minh Cộng Sản qua những thông tin được phát tán do những nhân vật mạo xưng này nọ hoặc qua cửa miệng những “Đấng tiên tri ” (thầy bói).

– Kích thích các niềm tin Công giáo qua việc tổ chức Đức Mẹ xuất hiện ở nơi này nơi nọ để ra lệnh cho giáo dân đi miền Nam cùng Đức mẹ, cùng Chúa, bởi hai Ngài đã vào Nam.

Một linh mục Công giáo, ông Trần Tam Tỉnh, tìm thấy những sự thật lich sử này sau khi đọc The Pentagon Papers và khẳng định rằng chiến dịch tâm lí chiến trên được dàn dựng và thực hiện bởi một sĩ quan tình báo Mỹ (CIA) tên là Edward Lansdale, ông này đã có mặt tại miền Bắc từ đầu năm 1954, là nhà hoạch định các kế hoạch di tản cho non một triệu người từ miền Bắc (Trần Tam Tỉnh – Thập giá và lưỡi gươm. Nxb Trẻ 1988). Nhà nghiên cứu lịch sử Lê Xuân Khoa cũng đã cho thấy có sử dụng The Pentagon Papers, sao ông không cho độc giả biết những thông tin như thế?

Và lí do thứ hai (của Tị Nạn Cộng sản) Lê Xuân Khoa đã khẳng định: “…nước Việt Nam đã bị chia làm hai vùng lãnh thổ có đường biên cấm vượt qua được quyết định bởi một hội nghị quốc tế. Thực tế có hai nước Việt Nam với hai chính quyền và hai chính thể chống đối nhau” (LXK sđd tr 240).

Vấn đề “hai nước Việt Nam” tôi đã thảo luận với Lê Xuân Khoa ở phần trên. Ở đây tôi nhắc lại: không có “một Hội nghị quốc tế nào đã chia nước Việt Nam làm đôi với đường ranh giới không được vượt qua” cả. Mà chỉ có: Một Hội nghị Genève tạm thời chia đất nước làm hai vùng đóng quân và quản lí hành chánh trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử vào hai năm sau (1956) để bầu ra chính quyền duy nhất cho một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất. Vĩ tuyến 17 trong mọi trường hợp không được xem là ranh giới lãnh thổ hay chính trị (Tuyên bố chung của 9 nước tham gia hội nghị Genève không có chữ ký). Do các nhà lãnh đạo cao cấp của Mỹ lúc bấy giờ (Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng John F. Dulles) nhận định rằng nếu tổng tuyển cử thì 80 % dân số Việt Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh, nên dùng sức mạnh vô địch của mình phủ định cuộc tổng tuyển cử đó nhằm “bảo tồn những vùng đất còn lại” (miền Nam) làm tiền đồn cho thế giới Tự do (The Pentagon Papers).

Như thế, cái lí do thứ hai (người dân di tản vượt qua biên giới quốc gia) Lê Xuân Khoa đưa ra để biện chứng cho quan điểm “Tị nạn Cộng sản” không đứng vững, và vấn đề “tị nạn” có thể xếp lại mà chẳng cần phải xem xét những tài liệu ông đã gạn lọc để làm bằng cớ cho những nhận định của mình có chính xác và hợp lý hay không. Bởi tôi đã quá mệt mỏi khi phải đọc quá nhiều những nhận định trái ngược nhau về một vấn đề hay một sự kiện phổ biến trong cuốn sách của Lê Xuân Khoa. Ví dụ:

– Về kết quả của Hội nghị Genève, ở Chương 3 (chính sách cải cách ruộng đất), trang 122 ông viết:

Mặc dù theo hiệp định Genève 1954, việc chia đôi đất nước chỉ là tạm thời và một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956 để cho nhân dân hai miền bỏ phiếu về vấn đề thống nhất đất nước ”.

Ở Chương 6 (Di tản và Định cư Tị nạn 1954) trang 240 ông lại viết:

“…nước Việt Nam đã bị chia làm hai vùng lãnh thổ có đường biên giới cấm vượt qua, được quy định bởi một hội nghị quốc tế. Thực tế có hai nước Việt Nam với hai chính quyền và hai chính thể chống đối nhau”.

– Về Tuyên bố Cuối cùng (Lê Xuân Khoa dùng từ Tuyên cáo) của hội nghị Genève.

Ở phần chú thích trang 122 chương 3 (chính sách cải cách ruộng đất) Lê Xuân Khoa viết:

“… với chữ ký của Anh, Nga (đồng chủ tịch), Pháp, Cộng Hòa Nhân Dân Trung quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Cam Bốt, Lào. Hai nước tham dự là Hoa Kỳ và Quốc Gia Việt Nam không ký vào bản tuyên ngôn này

Ở trang 187 Lê Xuân Khoa viết:

Hội nghị Genève kết thúc, ngoài những bản thỏa hiệp đình chiến…. còn có bản tuyên cáo của Hội nghị không có ký tên và không có sự đồng ý của Hoa Kỳ và Quốc Gia Việt Nam”…

Ở trang 237 LXK viết:

Điều kiện này được nhắc lại một lần nữa trong bản tuyên cáo chung của những nước đã ký tên trên bản thỏa hiệp Genève đã nhấn mạnh rằng những điều thỏa thuận “phải được triệt để thi hành” ”.

Tôi không phản đối bất cứ ai chống Cộng, nhưng chống Cộng “vì cái bụng” như thực dân Pháp đã làm, chống Cộng vì những giáo điều Trung cổ và cũng vì cái bụng như các giáo hội Công giáo đã làm, chống Cộng vì chiến lược phòng thủ từ xa (học thuyết Domino) kết hợp với chủ nghĩa thánh chiến như Hoa kỳ đã thực hiện, chống Cộng để độc tài gia đình trị và Thiên Chúa Giáo toàn trị như anh em Ngô Đình Diệm đã làm thì tôi từ khước. Đến đầu thiên niên kỷ thứ ba, sau cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai gần bốn mươi năm mà Lê Xuân Khoa còn sử dụng Hội nghị – Hiệp định Genève và cuộc “Di tản và Định cư Tị nạn” 1954 “để tái hiện lịch sử” và để, “hòa hợp hòa giải dân tộc” như thế thì rõ ràng chính danh ông là người thừa kế các thế lực chống Cộng đã chứng tỏ lỗi thời và thất bại ấy, mặc dầu ông tự cho mình khách quan, trung thực.

Việc tái hiện lịch sử tôi sẽ tiếp tục thảo luận cùng giáo sư Lê Xuân Khoa trong chủ đề “Nội chiến hay Chiến Tranh Ủy Nhiệm”.

 

V. Lê Xuân Khoa đã viết gì về phe Quốc Gia trong sách “VIỆT NAM 1945-1995” ?

Chính phủ Bảo Đại 17-1-1954

Chính phủ Bảo Đại 17-1-1954

Từ nhận định : Quốc Gia và Cộng Sản là “nguyên nhân gốc” thứ nhất và thứ ba của cuộc chiến tranh và tị nạn 1945 – 1995, Lê Xuân Khoa đã chia sự hình thành của phe Quốc Gia làm hai thời đoạn:

– Thời đoạn thứ nhất từ “ngày lập quốc” đến cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1916, vua Duy Tân bị Pháp bắt và cũng bị đi lưu đày ở đảo Réunion (LXK sđd tr31 – 32).

– Thời đoạn thứ hai là sau khi vua Duy Tân bị lưu đày cho đến thập niên đầu thiên niên kỷ thứ ba, khi Lê Xuân Khoa ngồi viết sách và đặt vấn đề hòa giải Quốc Gia – Cộng Sản.

Ông đã lên danh sách phe Quốc Gia thời đoạn thứ hai như sau :

Những tổ chức Quốc Gia chống Pháp sau đó đều xuất phát từ giới trí thức được đào tạo dưới nền giáo dục Pháp, đáng kể nhất là Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) ở miền Bắc và hai giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam cùng các nhóm chính trị và báo chí của một số trí thức du học ở Pháp về ” (LXK sđd tr32).

Độc giả có thể tìm thấy dấu tích của phe Quốc Gia trong tất cả các chương của cuốn sách (Việt Nam 1954 – 1995) nhưng tập trung nhất ở các chương 1 (Quốc Gia – Cộng Sản), chương 5 (Bài học Chín Năm), chương 7 (Sự Sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa), chương 10 (Sai lầm của Việt Nam Quốc Gia).

Mặc dù chủ đề nghiên cứu của chương 1 là Quốc Gia và Cộng Sản trong thời đoạn lịch sử từ 1925 đến 1945, nhưng thật khó để người đọc sách nắm bắt đầy đủ chân dung đích thực của phe Quốc Gia.

Ở chương này, tác giả chỉ tập trung vào một đảng cách mạng là Việt Nam Quốc Dân Đảng và một chính phủ được thành lập bởi một ý đồ nào đó của Phát xít Nhật (chính phủ Trần Trọng Kim), Lê Xuân Khoa không đề cập gì đến “hai giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo cùng các nhóm chính trị của một số trí thức du học ở Pháp về” như đã giới thiệu trong đoạn trích dẫn trên.

Lại nữa: Viết về Việt Nam Quốc Dân Đảng, Lê Xuân Khoa cũng chỉ viết kèm theo phần “nghiên cứu về thủ phạm chính của cuộc xung đột Quốc – Cộng là sự hình thành và phát triển của đảng Cộng Sản Việt Nam theo sự chỉ đạo của Comintern và tài năng, mưu lược, thủ đoạn của Hồ Chí Minh”. Lê Xuân Khoa đã mở đầu phần “nghiên cứu” về Việt Nam Quốc Dân Đảng như sau:

Trong thời gian này, VNQDĐ từ bên Việt Nam có tiếp xúc với VNTNCM tính phối hợp hoạt động nhưng không thành vì đường lối cách mạng không hợp nhau. VNQDĐ áp dụng Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) nhưng không chấp nhận chủ trương đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lê” (sđd tr33).

Trong lúc đó VNQDĐ đang chuẩn bị khởi nghĩa Yên Báy…Thực hư ra sao, cuộc khởi nghĩa Yên Báy (10 – 15 tháng 2 năm 1930) đằng nào cũng thất bại vì lực lượng cách mạng còn yếu và tổ chức còn có quá nhiều khuyết điểm lớn. Đảng trưởng Nguyến Thái Học cùng mười hai đồng chí bị Pháp bắt được, kết án tử hình và đem lên máy chém ngày 17 tháng 6 năm 1930. Sau khi khởi nghĩa thất bại VNQDĐ vẫn còn cố gắng hoạt động dưới sự lãnh đạo của Lê Hữu Cảnh, Nguyễn thị Giang (tự tử ngay sau khi người yêu là Nguyễn Thái Học bị hành hình), Hoàng Đình Gị, Vũ Tiến Lữ, Vũ Vạt nhưng lần lược kẻ bị bắt giam, người bị giết, đến năm 1932 thì hầu hết các lãnh tụ còn lại đều phải trốn sang Trung Hoa ” (LXK sđd tr 34, 35).

Hai đoạn trích dẫn trên là toàn bộ những gì Lê Xuân Khoa viết về Việt Nam Quốc Dân Đảng từ cuộc khởi nghĩa Yên Báy thất bại trở về khởi thủy.

Theo tôi, viết về một đảng cách mạng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, dù là tóm lược cũng không nên đơn giản đến như thế. Hơn thế nữa, trong trường hợp Lê Xuân Khoa muốn giới thiệu VNQDĐ như là một lực lượng nền tảng khởi đầu hình thành phe Quốc Gia thời đoạn “từ sau cuộc khởi nghĩa năm 1916 thất bại, vua Duy Tân bị Pháp bắt và lưu đày…” đến khi kết thúc “cuộc nội chiến Quốc – Cộng” thì chẳng những ông đã mô tả tầm vóc của nó không đầy đủ và đánh giá không xứng đáng vị trí và sự tác động của nó trong thời đoạn lịch sử dân tộc chống đuổi thực dân Pháp, và ở mức độ nào đó ông đã vô tình làm giảm khí thế của phe Quốc Gia mà ông muốn chứng minh là lực lượng chính đối đầu với phe Cộng Sản trong các cuộc chiến tranh Đông Dương 1945 – 1975.

Theo tôi, để viết một cách nghiêm túc về một đảng cách mạng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, cho dù là một tóm lược, nhất thiết nhà nghiên cứu phải cung cấp cho người đọc các thông tin tối thiểu sau đây :

– Thứ nhất là tình hình các mặt tại Việt Nam, Đông Dương, Á châu và quốc tế làm bối cảnh cho sự ra đời của hai đảng cách mạng là Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng.

– Thứ hai là sự hình thành, phát triển của Việt Nam Quốc Dân Đảng từ khởi đầu đến cuộc khởi nghĩa Yên Báy gồm tiểu sử các lãnh tụ, tư tưởng chủ đạo, điều lệ, cương lĩnh, đường lối, các thành phần xã hội tham gia, các tổ chức quần chúng hậu thuẫn, các địa bàn hoạt động, các thành tích đảng đã làm được trước khi phát động cuộc khởi nghĩa (Yên Báy). Cuộc khởi nghĩa đã diễn ra như thế nào, ở đâu, thực dân Pháp đã đối phó, đàn áp như thế nào. Khởi nghĩa đã kết thúc ra sao? Tác động của cuộc khởi nghĩa Yên Báy với các phong trào yêu nước chống xâm lược Pháp ra sao?

– Thứ ba tình hình nội bộ Quốc Dân Đảng sau khởi nghĩa Yên Báy thất bại?

Lê Xuân Khoa đã không làm được như thế. Ông chỉ viết qua loa, phiến diện để rồi cuối cùng ông dành nhiều công sức hơn cho những nhận định về Việt Nam Quốc Đảng thời kỳ suy tàn không thể đứng vững một mình, phải chịu lưu vong, dựa vào Quốc Dân Đảng Trung Hoa và các tướng lãnh trong quân đội Tưởng Giới Thạch, và sau cùng phối hợp một cách bất đắc dĩ cùng các phe nhóm Quốc Gia khác ở quốc nội trong cuộc đương đầu trường kỳ với đảng Cộng Sản.

Sau Việt Nam Quốc Dân Đảng, Lê Xuân Khoa giới thiệu chính phủ Trần Trọng Kim như là một cơ cấu chính quyền Quốc Gia của một nước Việt Nam độc lập và thống nhất, cho dù chưa đầy đủ và toàn vẹn, cho dù chính phủ ấy được thành lập bởi Phát xít Nhật Bản (Lê Xuân Khoa không nói rõ ý đồ và mưu lược của Nhật Bản là gì ?), và hai nhân vật chóp bu của chính phủ này là Bảo Đại và Trần Trọng Kim đã hoàn toàn bất ngờ trước đề nghị của đại sứ (Nhật – Chu Sơn) Marc Masayuki Yokohama. Theo Lê Xuân Khoa cả hai ông (Bảo Đại và Trần Trọng Kim) đều muốn nhân cơ hội này để chứng tỏ với Nhật là người Việt Nam có đủ khả năng và tư cách quản lí một đất nước độc lập và thống nhất.

Lê Xuân Khoa phản đối nhận định của Việt Minh và nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng chính phủ Trần Trọng Kim là chính phủ bù nhìn, và nền độc lập do người Nhật trao cho là bánh vẽ. Lê Xuân Khoa quên rằng (chương 1 – Việt Nam 1945 – 1995) chính ông đã nhận định về Nhật như sau:

Rõ ràng là đế quốc Nhật thời đó đã chỉ muốn sử dụng các lực lượng chống Pháp làm phương tiện nhất thời để đem quân vào chiếm đóng Đông Dương và sẵn sàng bỏ rơi tất cả khi đã đạt được mục tiêu ” (LXK sđd tr39).

Đương nhiên “thời đó” (từ 1940) đế quốc Nhật muốn như thế và hành xử như thế với các “lực lượng chống Pháp”. Còn “thời này” (năm 1945), khi bỏ công của ra để thành lập chính phủ Trần Trọng Kim thì đế quốc Nhật muốn sử dụng chính phủ này vào công việc gì, có chân thành trao trả độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam không? Người đọc sách chẳng thấy tác giả Lê Xuân Khoa trả lời những câu hỏi này.

Do vậy, “sáu thành tích” mà chính phủ Trần Trọng Kim thành đạt được trong một thời gian ngắn trước một tình thế khó khăn như Lê Xuân Khoa đã ghi nhận, theo tôi còn phải xem xét lại.

Lê Xuân Khoa cho rằng công đầu của chính phủ Trần Trọng Kim là: “lấy lại được miền Nam và ba nhượng địa quan trọng ở miền Bắc, hoàn thành việc thống nhất đất nước ” (LXK sđd tr59).

Nếu công của chính phủ Trần Trọng Kim to lớn như thế, nhà nghiên cứu Lê Xuân Khoa đồng thời là công dân Việt Nam đã bỏ quên một ghi nhận quan trọng là cám ơn quân đội Thiên Hoàng đã có thiện chí và hành động cụ thể “trao trả độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam”.

Và như thế câu hỏi: Mục đích của Nhật khi thành lập chính phủ Trần Trọng Kim đã được trả lời. Và như thế mục đích của quân đội Thiên Hoàng khi nhảy vào Đông Dương (1940) đã được biện chính. Và như thế “đế quốc Nhật bản” mà Lê Xuân Khoa đã quy kết là phản bội, là tráo trở, lật lọng …, đã trở thành ân nhân của các người Việt Nam Quốc Gia yêu nước và của cả dân tộc Việt Nam trong khối Đại Đông Á ?

Người đọc sách không tìm thấy một công trình nghiên cứu nào mô tả sự thật lịch sử Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945 (Nhật vào Đông Dương) như thế. Ngay cả Lê Xuân Khoa cũng không có ghi nhận nào như thế.

Do vậy kết luận của Lê Xuân Khoa cho rằng :“chính phủ Trần Trọng Kim đã có công thu hồi Nam bộ và ba thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, hoàn thành việc thống nhất đất nước ” là có vấn đề.

Theo Lê Xuân Khoa :

Ngày 3 tháng Bảy, chính phủ Kim thu hồi được ba thành phố nhượng địa, nhưng cuộc điều đình về Nam bộ không có kết quả

Ngày 1 tháng Tám, thủ tướng Kim phải đích thân từ kinh đô Huế ra Hà Nội gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi Yuitsu, không những yêu cầu trả ngay phần còn lại của lãnh thổ mà còn đòi luôn các công sở thuộc về phủ toàn quyền Pháp khi trước. Tất cả những đòi hỏi này đều được Tsuchihashi Yuitsu chấp thuận, và hai bên ấn định ngày trao trả Nam bộ là 8 tháng Tám” (LXK sđd tr 54).

Tác giả Lê Xuân Khoa và người đọc sách của ông biết rằng ngày 14 tháng 8 Nhật đầu hàng Đồng Minh, vậy thì việc “trao trả”, “thu hồi” giữa hai nhân vật Tsuchihashi Yuitsu – Trần Trọng Kim (ngày 8 tháng Tám) chỉ là động thái của hai phía mua – bán vịt trời. Nhật còn gì để mà không trả. Và chính phủ Trần Trọng Kim có gì để mà nhận? Bởi vì số phận của Đông Dương trong đó có Việt Nam đã được quyết định từ tháng Bảy năm 1945 tại Hội nghị Potsdam. Sự thật lịch sử này tác giả Lê Xuân Khoa cũng đã biết (LXK sđd – chương 2 – Những Yếu Tố Bên Ngoài, trang 75). Nhưng không hiểu vì sao Lê Xuân Khoa lại cưỡng từ đoạt lí đến như thế. Trong khi đó, chỉ trước hai câu trích dẫn trên một dấu chấm (.) Lê Xuân Khoa đã viết: “Mặc dù đã hứa hẹn cho Việt Nam độc lập, Nhật vẫn giữ lại ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng là nhượng địa dành cho Pháp và toàn thể Nam bộ là thuộc địa của Pháp”.

Đương nhiên việc Nhật “trả” sớm hay muộn các vùng lãnh thổ là hoàn toàn tùy thuộc vào tình hình quốc tế lúc bấy giờ.

Giả định rằng thế chiến II kết thúc với sự thua trận của Đồng Minh thì liệu có chuyện Tsuchihashi Yuitsu “trao trả”… và Trần Trọng Kim “thâu nhận” không?

Phải chăng chính phủ Trần Trọng Kim sau này (sau 7-4-1945) cũng như các lực lượng (Việt Nam Quốc Gia) chống Pháp trước đó cũng bị đế quốc Nhật sử dụng làm phương tiện và sẵn sàng bỏ rơi tất cả khi đã đạt được mục tiêu (nguyên văn của Lê Xuân Khoa) ? Có khác chăng: các lực lượng Quốc Gia chống Pháp thời đó được Nhật sử dụng “nhất thời”, còn chính phủ Trần Trọng Kim thì sẽ được Nhật sử dụng lâu dài? Tất cả đều tùy thuộc vào mưu đồ của đế quốc Nhật. Phải không? Một khi các chính phủ được thành lập và tồn tại theo ý đồ của đế quốc xâm lược mà nếu có ai đó phê phán là bù nhìn, là tay sai thì có gì là không phải? Và nền độc lập mà đế quốc đó hứa hẹn cho bất cứ chính phủ nào chúng tạo dựng ra chẳng phải là bánh vẽ sao?

Tác giả Lê Xuân Khoa cũng đã làm thêm một việc không đáng dài dòng là nâng giá cho chính phủ Trần Trọng Kim qua việc chính phủ này đã “từ chối yêu cầu Nhật bảo vệ” “khi được quân Nhật cho biết họ có trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng Minh đến thay”(LXK sđd tr 56).

Lê Xuân Khoa cho rằng hành động này là đúng đắn và thực tế vì quân Nhật không còn sức mạnh và quyền lực gì sau khi đã đầu hàng và chờ quân Đồng Minh đến, trong khi đó khí thế nhân dân như vũ bão, cao trào cách mạng do Việt Minh chuẩn bị từ trước được Đồng minh tiếp trợ và đang rầm rộ tiến lên.

Theo tôi, việc Nhật hứa hẹn bảo vệ chính phủ Trần Trọng Kim cũng như trước đó Nhật đã “trao trả ba thành phố Hà nội, Hải phòng, Đà nẵng và Nam kỳ”, tất cả đều là “bán vịt trời”. Còn việc Bảo Đại và Trần Trọng Kim quyết định giải tán chính phủ, trao quyền cho Việt Minh là chẳng đặng đừng. Bảo Đại và Trần Trọng Kim không thể đương đầu với cả dân tộc và Đồng Minh (mà họ nhận định rằng đã đứng sau lưng Việt Minh) .

Vả lại, Bảo Đại và Trần Trọng Kim không những bị áp lực từ bối cảnh lớn, mà còn bị sức ép từ bên trong. Nhiều bộ trưởng và nhân vật cấp cao của chính phủ này được Việt Minh “sử dụng” lại như Lê Xuân Khoa đã xác nhận, chẳng những chỉ vì chính sách đoàn kết mà còn vì họ đã liên lạc với Việt Minh từ trước. Chính phủ Trần Trọng Kim “ hông phạm bất cứ sai lầm nào…, không thực hiện tinh thần phe nhóm…, theo nhận định của Lê Xuân Khoa, cũng vì lí do này, một phần. Việt Minh một mặt tố cáo chính phủ Trần Trọng Kim này nọ vì họ đứng về phía Đồng Minh chống Nhật, họ không thể tuyên truyền cho một chính phủ do Nhật tạo dựng ra, một mặt không trả thù và “còn sử dụng nhiều bộ trưởng” của chính phủ này vì họ (các bộ trưởng) đã ít nhiều quan hệ với Việt Minh từ trước.

Thiết nghĩ, không nên nâng giá chính phủ Trần Trọng Kim như Lê Xuân Khoa đã làm một cách dài dòng, thiếu chính xác, mà nên giới thiệu đầy đủ thành phần chính phủ ở trung ương và các đại diện ở địa phương, đặc biệt ở Bắc kỳ, và nên có một tiểu sử tóm lược của Trần Trọng Kim để qua đó người đọc sách có thể nắm bắt được lập trường chinh trị của ông, và cũng rất nên nghiên cứu đầy đủ đường lối giáo dục và các chương trình giáo khoa mà chính phủ này đã đề ra, đã soạn thảo và đã thực hành bước đầu dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn. Theo tôi, chắc chắn đây là công lao thật sự mà chính Trần Trọng Kim đã đóng góp từ nền tảng đến lâu dài cho nền giáo dục và văn hóa Việt Nam. Hành động tích cực của chính phủ Trần Trọng Kim đáng được ghi nhận là ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.

Tôi chia sẻ với Lê Xuân Khoa khi ông nhận định rằng chính phủ Trần Trọng Kim tập trung những trí thức khoa bảng, những nhà khoa học có tinh thần dân tộc (Lê Xuân Khoa dùng thuộc từ yêu nước), muốn đóng góp công sức của mình để xây dựng đất nước. Tuy nhiên, từ tinh thần dân tộc đến việc dấn thân vào con đường yêu nước trong tình thế lúc bấy giờ là cả một chặng đường dài, đòi hỏi các công dân có lòng căm thù giặc cao độ và khí phách đủ để sẵn sàng chấp nhận những hiểm nguy, gian khó, những hy sinh mất mát của bản thân và gia đình khi đối đầu với xâm lược, đồng thời trong tư cách là những nhà lãnh đạo, phải biết nhìn xa, trông rộng, biết vận động quốc tế, và đặc biệt biết được sức mạnh của nhân dân, biết vận động, tổ chức họ thành lực lượng cứu nước. Những đức tính, khả năng này cả Bảo Đại, Trần Trọng Kim và một số các nhân vật chủ chốt của chính phủ (Kim) không có. Do vậy, trong thời gian ngắn ngủi (4 tháng) chấp chánh dưới sự bảo trợ của Phát xít Nhật (Lê Xuân Khoa cho rằng chính phủ Kim trung lập với Nhật), họ không chủ động phạm những sai trái to lớn, nhưng cũng không tránh khỏi những yếu kém lầm lạc : Trở thành chỗ dựa chính trị cho sự hiện diện của phát xít Nhật trên bán đảo Đông Dương.

Lê Xuân Khoa đã gộp chung các yếu kém, sai lầm của Việt Nam Quốc Dân Đảng và chính phủ Trần Trọng Kim thành những yếu kém sai lầm chung của “Việt Nam Quốc Gia” thời đoạn 1925-1945 như sau :

Do sự suy yếu của Việt Nam Quốc Dân Đảng sau cuộc khởi nghĩa thất bại Yên Báy và tình trạng chia rẽ giữa các lãnh tụ lưu vong của đảng này tại Trung Hoa, đảng Cộng Sản Việt Nam là đoàn thể chính trị cách mạng có tổ chức qui củ và mạnh mẽ nhất dưới sự lãnh đạo và giúp đỡ của Comintern” (LXK sđd tr35).

Lê Xuân Khoa dẫn chứng:

Tháng mười năm đó (1942 – Chu Sơn) tổng đốc Quảng Tây là tướng Phát Khuê triệu tập ở Liễu Châu một hội nghị của các tổ chức Quốc Gia Việt Nam lưu vong để thành lập một liên minh chống Pháp và Nhật. Kết quả là sự ra đời của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (VNCMĐMH) dưới sự lãnh đạo của một ban thường trực gồm những đảng viên kỳ cựu của Việt Nam Quốc Dân Đảng như Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh.”

“…Nhưng vì sự hiềm khích giữa các phe nhóm và đầu óc vị kỷ của những người lãnh đạo, VNCMDMH trở nên bất lực và mất uy tín rất nhanh” (LXK sđd tr41).

“… Trong khi đó về phía các đảng Quốc Gia không thấy có hoạt động chuẩn bị nào đáng kể, nhà cầm quyền Việt Nam lúc đó là chính phủ Trần Trọng Kim mới hoạt động được mấy tháng và phải đương đầu với quá nhiều khó khăn nội bộ, đã không thể kiểm soát được tình hình sau khi Nhật mau chóng đầu hàng Đồng Minh. Các đảng phái Quốc Gia cũng không có kế hoạch gì ngoại trừ hội họp và bất đồng ý kiến với nhau về vấn đề nên hay không nên cướp chính quyền hoặc tổ chức vội vã những cuộc biểu tình chống Pháp kêu gọi toàn dân đoàn kết như tổ chức Mặt Trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, hay nhóm Phụng sự Quốc Gia” (LXK sđd tr 47, 48).

“…hầu hết các lãnh tụ chính trị và trí thức ở trong nước (phe Quốc Gia – Chu Sơn) đều muốn dựa vào thế lực của Nhật để loại trừ Pháp ra khỏi Đông Dương” (LXK sđd tr 49).

Trên đường tới Hà Nội, họ (Quân Tàu Tưởng – Chu Sơn) tước khí giới của dân quân Việt Minh ở những địa phương mà họ đi qua và giao quyền kiểm soát những nơi này cho các đảng Quốc Gia Việt Nam lúc đó chia làm hai phe : Việt Nam Quốc Dân Đảng (Vũ Hồng Khanh), Đại Việt (Nguyễn Tường Tam) theo Lư Hán, và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Nguyễn Hải Thần) theo Tiêu Văn” (LXK sđd tr 61).

Bởi vậy khi theo đoàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa trở về nước năm 1945, hai đảng Quốc Gia này đã tin tưởng có thể giành được chính quyền và cương quyết không chịu hợp tác với Việt Minh. Tuy nhiên do những nhược điểm về tổ chức và lãnh đạo và cũng do áp lực của các tướng lãnh Trung Hoa, cả hai đảng rốt cuộc vẫn phải chấp nhận tham gia vào chính phủ Liên Hiệp và quốc hội của Việt Minh. Trong cuộc tranh chấp quyền hành với Việt Minh, các đảng phái Quốc Gia hiểu biết rất rõ khả năng và kế hoạch nguy hiểm của đối thủ nhưng không có điều kiện và phương tiện để đối phó” (LXK sđd tr 71, 72).

Ngoài ra. Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội là những đoàn thể cách mạng lưu vong ở Trung Hoa đã lâu và không có cơ sở hoạt động trong nước, do đó không có hậu thuẫn của nhân dân. Riêng việc đi theo quân Tàu về để giành lấy chính quyền đã là một bất lợi về chính trị rất lớn cho hai đảng này…”

Tổ chức chính trị đáng kể nhất hoạt động ở trong nước lúc bấy giờ là đảng Đại Việt lại chia làm hai ba nhóm không có thực lực để tiếp tay cho hai đảng Quốc Gia từ hải ngoại. Tất cả những đảng phái này mặc dù hợp tác với nhau để đối phó với đảng Cộng Sản vẫn có những tị hiềm giữa cá nhân các lãnh tụ, vì vậy không có được một bộ máy chỉ đạo nhất trí và có kỷ luật như Mặt trận Việt Minh. Chính vì sự chia rẽ giữa các lãnh tụ mà Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội đã gần như tan rã khi còn ở Liễu Châu, Trung Quốc, để cho Hồ Chí Minh có cơ hội được Trương Phát Khuê giao cho tổ chức lại Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và có cơ hội củng cố lực lượng Việt Minh ở trong nước” (LXK Sđd tr72).

“…Tuy nhiên chính cái đặc tính tự do và đa nguyên (nhưng thiếu dân chủ) của những tổ chức cách mạng không Cộng Sản đã khiến các lãnh tụ không thể kết hợp thành một lực lượng có khả năng đối phó với đảng Cộng Sản về cơ sở lí thuyết và phương pháp hành động. Các lãnh tụ của hai đảng nòng cốt hồi đó là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội đều ở Trung Hoa quá lâu, khả năng và tầm nhìn chính trị rất giới hạn và lệ thuộc vào Trung Quốc, nên khi cơ hội đến tay thì chỉ biết trông cậy vào sự giúp đỡ của đám tướng lãnh tham nhũng Tiêu Văn và Lư Hán”.

Một thí dụ điển hình là Nguyễn Hải Thần, người được Quốc Dân Đảng Trung Hoa giúp đỡ cho về nước để lãnh đạo một nước Việt Nam không Cộng Sản. Mọi người Việt Nam yêu nước năm 1945 đều thất vọng đối với nhà cách mạng lão thành này qua hình ảnh một ông già không nói rành tiếng Việt và bị đồn là hút thuốc phiện” (LXK sđd trang 73).

Trên đại thể, những nhận định của Lê Xuân Khoa về “ Việt Nam Quốc Gia ” đến thời điểm 1945 qua những trích dẫn trên là một nỗ lực đúng đắn. Nhưng một câu trong các đoạn trích dẫn đó làm tôi nhớ lại một câu khác có ý nghĩa hoàn toàn trái ngược mà ông đã viết ở trang tóm lược mở đầu phần Một (Những Nguyên Nhân Gốc của Tị Nạn). Tôi xin ghi chép lại cả hai câu mà theo tôi là trái ngược đó: (tôi đánh dấu câu 1 và câu 2).

Câu 1: “…Cuộc chiến thứ nhất là kháng chiến chống Pháp và chống Quốc Gia Việt Nam do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức mặt trận Việt Minh) lãnh đạo” (LXK sđd tr29).

Câu 2 : “Tuy nhiên chính cái đặc tính tự do và đa nguyên (nhưng thiếu dân chủ) của những tổ chức cách mạng không Cộng Sản đã khiến các lãnh tụ không thể kết hợp thành một lực lượng có khả năng đối phó với đảng Cộng Sản về cơ sở lí thuyết và phương pháp hành động” (LXK sđd tr 73).

Như thế, ở câu 1, Lê Xuân Khoa cho người đọc thấy có một Quốc Gia Việt Nam tồn tại như một lực lượng đánh nhau với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Mặt Trận Việt Minh).

Ở câu 2 Lê Xuân Khoa cho người đọc thấy không có một Việt Nam Quốc Gia “ kết hợp thành một lực lượng có đủ khả năng đối phó với đảng Cộng Sản về cơ sở lí thuyết và phương pháp hành động”.

Chỉ có một chủ thể “Việt Nam Quốc Gia” hay (Quốc Gia Việt Nam), mà khi này, Lê Xuân Khoa bảo là có, khi kia, Lê Xuân Khoa bảo là không có.

Lê Xuân Khoa có thể phản bác lại: khi này và khi kia là hai thời điểm. Khi này là từ 1945 trở về trước, còn khi kia là từ 1945 trở về sau. Khi này là xung đột Quốc Gia – Cộng Sản. Khi kia là Quốc Gia Viêt Nam đánh nhau với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Mặt Trận Việt Minh).

Vậy thì thưa giáo sư Lê Xuân Khoa cái gọi là Quốc Gia Việt Nam, nó xuất hiện trong cuộc kháng chiến chống Pháp từ bao giờ, do ai chủ trương thành lập, nuôi dưỡng, nó phát triển và tồn tại ra sao ?

Lê Xuân Khoa trả lời:

Chỉ vài tháng sau khi “trả lời cho bạo lực”, đầu năm 1947 Pháp nhận thấy không thể hoàn tất quyết định quân sự một cách nhanh chóng được” (LXK sđd tr 88). Pháp thay đổi d’Argenlieu bằng Emile Bollaert làm Cao ủy Đông Dương và “bắt đầu nghĩ tới giải pháp Bảo Đại”, làm ngơ trước những kêu gọi khẩn thiết của Hồ Chí Minh : thương thảo hòa bình ” (LXK sđd tr88).

Thì ra, do không thể tái chiếm Đông Dương bằng bạo lực quân sự, thực dân Pháp nghĩ tới giải pháp Bảo Đại. Từ giải pháp Bảo Đại, thực dân Pháp đã đẻ ra cái gọi là Quốc Gia Việt Nam để hoàn tất cuộc tái chiếm thuộc địa.

Trước 1945, vì mục đích chống Pháp và xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, người Việt Nam Quốc Gia sau cuộc khởi nghĩa Yên Báy đã theo Tàu Tưởng (Việt Nam Quốc Dân Đảng), đến lúc thế chiến II nổ ra, theo Nhật (đảng Đại Việt, các giáo phái và chính phủ Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm), để rồi, sau 1945 theo Pháp chống Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Mặt trận Việt Minh). Lê Xuân Khoa đã viết về lịch sử Quốc Gia Việt Nam theo một tiến trình như thế. Và giai đoạn hai của tiến trình đó có thể tóm lược như sau:

Bảo Đại sau khi thoái vị, nhận làm Cố vấn tối cao cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cư trú và làm việc tại Hà Nội. Đến tháng Ba 1946, theo đề nghị của Hồ Chí Minh, ông cầm đầu một phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đi Trùng Khánh thăm ngoại giao chính phủ Tưởng Giới Thạch. Xong nhiệm vụ, phái đoàn về nước, không hiểu vì lí do gì Bảo Đại ở lại, bắt đầu thời kỳ lưu vong tại Hồng Kông và trở thành nhân vật chính của một giải pháp được nghĩ tới bởi Cao ủy Pháp tại Đông Dương gọi là giải pháp Bảo Đại.

Lê Xuân Khoa viết tiếp: “Bollaert phái Coussean từ tòa lãnh sự Pháp ở Hồng Kông tới thăm dò ý kiến Bảo Đại vào đầu tháng Sáu” (1947 – Chu Sơn) (LXK sđdtr 89).

Đến thời điểm này, “Hồ Chí Minh còn tiếp tục vớt vát cơ hội ngưng chiến cho đến cuối năm 1948, nhất là sau khi Bảo Đại nhận (với Pháp – Chu Sơn) làm Quốc trưởng, thành lập chính phủ Nguyễn Văn Xuân, chứng kiến việc ký kết thỏa ước Bollaert – Xuân tại vịnh Hạ Long ngày 5 tháng Sáu 1948 và sau đó kí thỏa ước Vincent Auriol – Bảo Đại… ngày 8 tháng Ba 1949”. (LXK sđd tr 91).

Ngày 24 tháng Tư năm 1949 Bảo Đại về nước, ngày 1 tháng 7 năm 1949 chính thức trở thành Quốc trưởng đứng đầu Quốc Gia Việt Nam cho đến khi bị Ngô Đình Diệm truất phế (26.10. 1955). Lê Xuân Khoa bình luận về Quốc Gia Việt Nam như sau:

Quốc Gia Việt Nam trong hơn bảy năm dưới quyền lãnh đạo của Bảo Đại (5-6-1948 – 26-10-1955) đã thay đổi chính phủ đến mười lần (ba lần với Trần Văn Hữu, hai lần với Nguyễn Văn Tâm). Thành tích của các chính phủ trong thời gian bảy năm này chỉ là một chuỗi những cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị, tôn giáo phức tạp, không có hậu thuẫn của nhân dân do đó không có trọng lượng để đòi Pháp tôn trọng lời hứa và thực hiện những điều cam kết, phần lớn những người chủ chốt lại là những người thân Pháp, không phải là những người quyết tâm đấu tranh cho độc lập và tự do của dân tộc” (LXK sđd tr 210).

Như thế là Quốc Gia Việt Nam và Quốc trưởng Bảo Đại chấm dứt vai trò khi chiến tranh Pháp – Việt kết thúc với Hiệp đinh Genève mà theo Lê Xuân Khoa là được ký kết giữa Pháp và Việt Minh (VNDCCH), không bảo đảm một nền hòa bình lâu dài, để rồi:

Cuộc chiến tranh Quốc – Cộng lập tức được chuẩn bị theo chiều hướng là miền Bắc quyết thống nhất dưới quyền kiểm soát của đảng Cộng Sản và miền Nam quyết tâm bảo vệ lãnh thổ chống lại mọi hoạt động xâm lược của miền Bắc. Trung Quốc và Liên Xô viện trợ cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong khi Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa và trực tiếp tham chiến từ 1965 sau những cuộc khủng hoảng lãnh đạo liên tiếp ở miền Nam” (LXK sđd tr 272).

Qua đoạn trích dẫn này, Lê Xuân Khoa cho độc giả thấy tình hình Việt Nam nói chung, và miền Nam nói riêng từ sau Hiệp định Genève đến 1965. Đó là thời kỳ xảy ra nội chiến lồng trong khung cảnh chiến tranh ủy nhiệm. Nhận định của Lê Xuân Khoa qua hai câu trên đúng sai thế nào sẽ thảo luận sau. Lâm thời chúng ta chấp nhận nhận định của ông rằng là có một cuộc nội chiến giữa hai phe Quốc Gia và Cộng Sản “lập tức” bắt đầu từ sau Genève. Nhưng độc giả của Lê Xuân Khoa rất khó để nhận biết chân dung của phe Quốc Gia là một trong hai phe của cuộc nội chiến đó. Lê Xuân Khoa bắt độc giả theo dõi “Sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa” trước (Chương7), tiếp theo là những chỉ dẫn lịch sử ông dành cho Hoa Kỳ (chương 8), cho Việt Nam Cộng Sản (chương 9), cuối cùng mới là vóc dáng lờ mờ của phe Quốc Gia và các chính quyền của phe đó từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu trong chương cuối của cuốn sách với tựa đề “Những sai lầm của Việt Nam Quốc Gia”. Đây là một tiến trình lịch sử bất thường.

Thông thường trước khi cuộc đấu võ đài bắt đầu, người xem được ban tổ chức giới thiệu tên tuổi và thành tích thi đấu của các đấu sĩ.

Nhà tường thuật Lê Xuân Khoa đã không làm như vậy trong cuộc đấu võ đài Quốc – Cộng lần thứ hai.

Ông đã làm ngược lại. Ông “tường trình” cuộc đấu và bình luận trước, khi võ đài kết thúc, ông mới giới thiệu các đấu sĩ Việt Nam Quốc Gia.

Không hiểu vì lí do gì trước khi giới thiệu Ngô Đình Diệm, lãnh tụ Quốc Gia, người khai sinh ra nền Đệ nhất Cộng Hòa, Lê Xuân Khoa viết 11 trang rưỡi (410 – 421) về những yếu kém, khuyết tật của Việt Nam Quốc Gia từ Quốc trưởng Bảo Đại trở về trước. Tại sao Lê Xuân Khoa không đưa 11 trang rưỡi này “về phía Quốc Gia” trong Bài Học Chín Năm ở chương 5 để độc giả có những hiểu biết đầy đủ và tập trung hơn về những yếu kém, khuyết điểm của Bảo Đại và “mười chính phủ do ông lãnh đạo”, cùng những đảng phái, phe nhóm Quốc Gia trước đó?

Phải chăng ông muốn làm nổi bật tài năng, công lao, đức độ của Ngô Đình Diệm, người thừa hưởng gia tài rách nát do những đồng nghiệp Quốc Gia tiền nhiệm để lại? Thủ pháp này trong sáng tác văn học nghệ thuật gọi là “vẽ mây nẩy trăng”.

Tôi nghĩ rằng Lê Xuân Khoa dùng nó trong nghiên cứu lịch sử e rằng không thích hợp.

Sau 11 trang rưỡi kiểm điểm những phe nhóm và nhân vật “Việt Nam Quốc Gia” tiền nhiệm, Lê Xuân Khoa viết về chế độ và người kế nhiệm như sau:

Thời Đệ nhất Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã có công lấy lại được nền độc lập thật sự cho miền Nam Việt Nam, dẹp tan được các cuộc nổi loạn của Bình Xuyên và đem lại tình trạng ổn định chính trị và xã hội cho dân chúng. Ông đã tạo dựng được cơ sở cho một chế độ dân chủ với triển vọng làm cho vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17 trở nên phồn thịnh và tự do. So với chế độ cộng sản ở miền Bắc, chế độ dân chủ ở miền Nam có triển vọng trở thành tương tự như tình trạng giữa Tây Đức và Đông Đức hay Nam Hàn và Bắc Hàn” (LXK sđd trang 410 – 411).

Đây là một nhận định chung cuộc. Cũng như các chương phần trước, Lê Xuân Khoa đã sử dụng thủ pháp mà tôi gọi là ngoắt ngoéo: Viết mấy dòng nhận định như là kết luận trước khi viết nhiều trang giải trình có nội dung trái ngược.

Về Ngô Đình Diệm, Lê Xuân Khoa vừa viết tiểu sử vừa viết bình luận một cách tùy tiện nên rất khó tóm lược.

Theo Lê Xuân Khoa thì:

Ngô Đình Diệm (1901-1963) là nhân vật có nhiều đức tính đáng khâm phục nhưng cũng có những nhược điểm lớn trong vai trò một nhà lãnh đạo chính trị. Ông là con thứ tư trong một gia đình chín anh chị em mà bốn người đã bị giết vì lý do chính trị. Thân phụ là Ngô Đình Khả làm thượng thư bộ Lễ trong triều đình Thành Thái, nhà vua Việt Nam bị Pháp lưu đày sang đảo Réunion năm 1916 cùng hoàng tử kế vị là vua Duy Tân vì cả hai đều mưu đồ chống Pháp” (LXK sđd tr422).

Ngô Đình Diệm học rất giỏi, làm luận văn tiếng Pháp ở trường Quốc Học được chấm hạng nhì… Sau khi đậu thành chung, ông về nhà học thêm tiếng La tinh và chữ Nho, hai năm sau 18 tuổi, được mời vào dạy trường Quốc Tử Giám.

Năm 20 tuổi thi và được nhận vào trường Hậu bổ tức là trường đào tạo quan chức. Ba năm sau ông đậu thủ khoa trong số hai mươi người tốt nghiệp (23 tuổi – Chu Sơn), đi tập sự trong hai năm thì được cử làm tri huyện Hải Lăng (25 tuổi – Chu Sơn).

Năm 1929, mới 28 tuổi, ông được bổ làm tuần phủ Phan Thiết. Ông Diệm làm quan nổi tiếng thanh liêm, cương trực, được nhiều người kính phục.

Năm 1932 khi Bảo Đại về nước… chính thức cầm quyền dưới chế độ Bảo hộ của Pháp, Ngô Đình Diệm được bổ làm thượng thư. Chỉ ba tháng sau ông từ chức vì…”

Sau khi từ chức thượng thư, ông lui về sống cuộc đời ẩn dật nhưng vẫn ngấm ngầm ủng hộ các hoạt động chống Pháp của Hoàng thân Cường Để từ bên Nhật. Trong thời gian này ông liên lạc với các chính trị gia nước ngoài trong lập trường thân Nhật. Bị Pháp lùng bắt, trốn vào nhà người Nhật là viên chức tòa lãnh sự Nhật tại Huế… Nhật đưa ông vào Sài Gòn.

Tháng 3 – 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Bảo Đại và Trần Trọng Kim được Nhật ủng hộ thành lập chính phủ. Cường Để, và Ngô Đình Diệm bị bỏ quên.

Nhật đầu hàng (14-8-1945). Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt. Hồ Chí Minh mời hợp tác, từ chối, được thả.

Năm 1949, sau khi hiệp định Elysée ký kết, Ngô Đình Diệm từ chối hợp tác với Bảo Đại. Cùng anh là giám mục Ngô Đình Thục và em là Ngô Đình Nhu thành lập đảng Xã Hội Thiên Chúa Giáo bắt đầu tìm kiếm sự giúp đỡ của Hoa Kỳ.

Năm 1950 cùng giám mục Ngô Đình Thục sang Nhật bắt liên lạc với Douglas MacArthur. Bị từ chối. Bắt liên lạc với Wesley Fishel, một điệp viên Mỹ đang dạy học ở Nhật, Fishel giới thiệu đi Mỹ. Tìm gặp, nhờ Eisenhower hỗ trợ, không thành công. Giám mục Ngô Đình Thục tìm gặp Hồng y Spellman. Spellman nhận giúp đỡ. Năm 1951, Ngô Đình Diệm cùng Ngô Đình Thục đi Roma, Pháp, Bỉ, sau đó Ngô Đình Diệm trở lại Mỹ. Qua giới thiệu của hồng y Spellman, Ngô Đình Diệm gặp các nhân vật trong chính phủ và quốc hội Mỹ. Được dân biểu Walter H Judd, các thượng nghị sĩ Mike Mansfieid và John F. Kennedy nhiệt tình ủng hộ. Trong các thời đoạn ở Mỹ, ông ngụ tại chủng viện Maryknoll ở Ossinming, New York, sau dời sang Lakewood New Jersey.

Tháng 5 năm 1953, Ngô Đình Diệm sang Bỉ, được linh mục chống cộng Raymond de Jaegher nhận làm cố vấn. Tại Bỉ ông ngụ ở nhà dòng Raymond de Jaegher.

“Cho đến khi “hiệp ước Laniel – Bửu Lộc được ký kết ngày 4 tháng 6 năm 1954 công nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập” ông Diệm mới thấy có điều kiện thuận lợi. Ngày 16 tháng Sáu, ông nhận lời Bảo Đại đứng ra thành lập chính phủ. Ngày 7 tháng Bảy, Ngô Đình Diệm chính thức cầm quyền ” (Tóm lược các trang từ 420 – 426, LXK sách đã dẫn).

Như thế là suốt năm năm (1950-1954) với sự đưa đường chỉ lối của bào huynh là giám mục Ngô Đình Thục và Hồng y Spellman, Ngô Đình Diệm đã được Mỹ, Pháp và nhà thờ Thiên Chúa giáo chấp nhận làm thủ lĩnh canh giữ miền Nam Việt Nam là tiền đồn của Thế giới Tự do và nền văn minh Ki Tô giáo. (Sau khi quyết định nhả cho Cộng Sản một nửa Việt Nam phía Bắc – từ vĩ tuyến 17).

Trong thời gian diễn ra Hội Nghị Genève, với sự thỏa thuận, sắp xếp giữa Mỹ và Pháp:

Ngô Đình Diệm nhận lời yêu cầu của Bảo Đại thành lập chính phủ với điều kiện trao toàn quyền chính trị và quân sự. Ngày 7 tháng Bảy (song thất) Ngô Đình Diệm chính thức cầm quyền với nội các 18 người” (LXK sđd tr 426).

Mười tám người trong chính phủ Quốc Gia do Ngô Đình Diệm làm thủ tướng đa phần là người của Diệm. Nhưng phe Quốc Gia trong thời kỳ chuyển tiếp từ Pháp qua Mỹ vốn là “những phe nhóm chính trị và tôn giáo phức tạp ” (như Lê Xuân Khoa nhận định trong Bài Học Chín Năm) cần phải sắp xếp lại. Phe nào nhóm nào thân Pháp thì sẽ đi với Pháp, phe nào nhóm nào thân Mỹ thì sẽ đi với Mỹ. Cuộc bàn giao Pháp – Mỹ giữa những người Quốc Gia thời kỳ đầu Ngô Đình Diệm làm thủ tướng không thể không khó khăn và phức tạp (cái khó khăn phức tạp trong nội bộ những người Quốc Gia và Thế giới Tự do với nhau), bởi tương quan lực lượng trong các phe nhóm (Quốc Gia) lúc đầu còn nghiêng về phía Pháp : binh lính, viên chức do Pháp trực tiếp đào tạo, trả lương và chỉ huy, đặc biệt, Nam Kỳ vốn là thuộc địa – quyền lợi và tay chân của Pháp còn nhiều, lại là địa bàn của các giáo phái mà Pháp đã lũng đoạn từ lâu (Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo), cho nên đã xảy ra các cuộc tranh chấp giữa phe Ngô Đình Diệm – Thiên Chúa Giáo – Cần Lao và phe Bình Xuyên cùng các giáo phái, đảng phái Quốc Gia khác. Trong tư cách là ông chủ mới của miền Nam và của thế giới Tự Do, Hoa Kỳ đã đóng vai trò quyết định trong các cuộc tranh chấp này. Lê Xuân Khoa đã viết ở trang 427 như sau: “Do sự mua chuộc các giáo phái của Hoa Kỳ, chưa đầy hai tháng sau ngày thành lập chính phủ, ông Diệm đã phải cải tổ chính phủ với sự tham gia của một số đại diện của Cao Đài và Hòa Hảo”.

Đến trang 428 ông viết tiếp: “Chính phủ Diệm chỉ có thể tồn tại nhờ áp lực của Hoa Kỳ đối với Pháp và Bảo Đại mặc dù chính Đặc sứ J. Lawton Collins cũng muốn thay thế Ngô Đình Diệm”.

Chẳng phải Hoa Kỳ chỉ muốn thay ngựa trong những ngày tháng đầu, mà trong suốt chín năm Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng chính phủ Quốc Gia rồi Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (là hoàn toàn độc lập, như nhận định của Lê Xuân Khoa), Mỹ đã muốn thay thế, lật đổ ông quá nhiều lần, cho đến khi chịu không được con ngựa bất kham thì giết bỏ ông bằng cuộc đảo chánh 1.11.1963.

Sau đây là những bằng chứng Lê Xuân Khoa đã nêu (bằng trích dẫn hay viết):

1/ “Ngay trước khi Ngô Đình Diệm dẹp được các phe nhóm nổi loạn, Tổng thống Eisenhower và ngoại trưởng Dulles đã đồng ý với đại sứ J.Lawton Collins là cần phải thay thế chính phủ Diệm” (LXK sđd tr319).

2/ “Tình trạng bất ổn tiếp tục vì Pháp không ngừng vận động Hoa kỳ thay thế Diệm” (LXK sđd tr 428).

3/ “Ngày 1 tháng Tư Collins đề nghị với Washington cho tiến hành kế hoạch thay thế Diệm” (LXK sđd tr429)

4/ “Ngày 20 tháng Tư Collins trở về Washington để thuyết phục thay thế Diệm bằng Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ” (LXK sđd tr. 429).

5/ “Sau khi gặp Collins ngày 27 tháng 4, Dulles đồng ý gửi điện cho sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tiến hành kế hoạch thay thế Diệm” (LXK sđd tr 429).

6/ “Dulles chỉ thị cho sứ quán ở Sài Gòn hủy bỏ công điện thay thế Diệm ” (LXK sđd tr 430).

7/ “Thật ra, chúng ta (Mỹ - Chu Sơn) từ lâu nay đã nói với người Pháp là chúng ta sẵn sàng xem xét việc thay thế Diệm nếu họ có thể kiếm được người. Họ vẫn chưa làm được việc ấy…” (LXK sđd trang 430).

8/ “Chiều hôm qua, chúng tôi ở bộ ngoại giao đã gởi đi một loạt công điện phức tạp phác thảo những phương cách thay thế Diệm và chính phủ của ông. Tuy nhiên, vì những biến chuyển và vụ bùng nổ tối hôm qua, chúng tôi đã chỉ thị cho nhân viên sứ quán ở Sài Gòn hoãn thi hành kế hoạch thay Diệm” (LXK sđd tr 431).

9/ “Vì thế chúng ta đang chờ xem kết quả trước khi tính đến việc quyết định ông Quát hay ông Đỗ sẽ là người thay thế” (LXK sđd tr.431).

10/ “Một số tác giả cho rằng Hoa Kỳ vội vã bỏ ý định thay thế Ngô Đình Diệm vì thấy ông đánh thắng được Bình Xuyên” (LXK sđd tr.430).

11/ “…hai giới hạn chính yếu đã đem lại một tình trạng khiến tướng Collins phải kết luận là chúng ta cần phải thay thế Diệm” (LXK sđd tr430).

12/ “Đại sứ Durbrow báo cáo tình trạng bi quan và cho rằng cần phải thay đổi lãnh đạo trong tương lai” (LXK sđd tr.439).

13/ “Tuy nhiên, tín hiệu đó lại càng khiến cho Mỹ mau chóng lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm ” (LXK sdd trang 452).

14/ Người hài lòng nhất về cuộc đảo chánh “vẫn là Đại sứ Cabot Lodge. Ông là người chủ trương thay thế Diệm từ trước khi sang Việt Nam làm đại sứ” (LXK sđd tr456).

15/ “Trò chơi đã bắt đầu. Chúng ta (Mỹ - Chu Sơn) bị đẩy vào một tiến trình không thể trở lui là lật đổ chính phủ Diệm” (LXK sđd tr.456).

16/ “…cú đảo chánh đã không thể nào xảy ra nếu không có sự chuẩn bị của chúng ta” (LXK sđd tr457).

17/ “Theo McCone, Giám đốc CIA hồi đó, Kennedy vẫn nhấn mạnh trong các phiên họp là không thể đối xử với ông Diệm cách nào tệ hơn là lưu đày, nhưng thật khó mà tin là ông không biết được rằng khi Hoa Kỳ cho phép (các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa – Chu Sơn) làm đảo chánh thì có thể sẽ phải có giết chóc” (LXK sđd tr.455).

Thay thế Diệm, lật đổ Diệm, đảo chánh Diệm, lưu đày Diệm và cuối cùng giết Diệm là những toan tính và hành động của Hoa Kỳ (cùng với Pháp trong thời kỳ đầu – sau Genève) trước tình hình miền Nam mà họ làm chủ sau khi tiếp nhận bàn giao từ phía Pháp. Lê Xuân Khoa đã theo dõi các chuyển biến liên quan đến vận mệnh của Ngô Đình Diệm khá đầy đủ qua những tài liệu ông có được. Những tài liệu này chứng tỏ Ngô Đình Diệm nghĩ gì, làm gì cũng không được ở ngoài những toan tính, sách lược, chiến lược của Hoa Kỳ về vấn đề Việt Nam và miền Nam. Vậy thì Lê Xuân Khoa đã căn cứ vào đâu để kết luận :

Ngô Đình Diệm đã có công…, có công…, có công …” như mấy câu ông viết ở cuối trang 410 và đầu trang 411 mà tôi đã trích dẫn trên.

Một đằng Lê Xuân Khoa kết luận: “Ngô Đình Diệm đã có công lấy lại độc lập hoàn toàn cho miền Nam “từ tay người Pháp” ”.

Một đằng Lê Xuân Khoa chứng minh Hoa Kỳ đã “áp lực với Bảo Đại và Pháp để bảo đảm sự tồn tại của chính phủ Diệm trong giai đoạn đầu ” (trích dẫn số 2 ở trên – LXK sđd tr.428), và bàn thảo với Pháp về việc tìm người thay Diệm thời kỳ sau (trích dẫn số 8 ở trên – LXK sđd tr430).

Thậm chí, trước đó Lê Xuân Khoa đã xác quyết rằng Pháp đã trao trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam từ hiệp ước 4-6 ký kết giữa Laniel và Bửu Lộc.

Nhưng ở cuối trang 274 và đầu trang 275 Lê Xuân Khoa lại viết nguyên văn như sau:

Việc Quốc Gia Việt Nam giành được chủ quyền từ tay người Pháp là sự kiện riêng biệt không bị ràng buộc bởi bản thỏa hiệp giữa Pháp và Việt Minh” (tr274).

Tuy nhiên Quốc Gia Việt Nam không bị ràng buộc bởi điều kiện này vì Pháp đã công nhận Quốc Gia Việt Nam hoàn toàn độc lập trong hiệp ước Laniel – Bửu Lộc ký tại Paris ngày 4 tháng Sáu năm 1954” (tr 275).

Cùng một thực thể là Quốc Gia Việt Nam mà:

– Khi thì Lê Xuân Khoa khẳng định: Pháp đã trả …, và Bửu Lộc (thủ tướng của Bảo Đại) đã nhận…. (Nếu sự thật là như thế thì việc : “lấy lại độc lập hoàn toàn cho miền Nam ” là công của Bảo Đại chứ đâu phải là công của Ngô Đình Diệm ?)

– Khi thì Lê Xuân Khoa kết luận: Ngô Đình Diệm đã có công lấy lại

– Khi thì Lê Xuân Khoa chứng minh : Hoa Kỳ đã áp lực trong tất cả các biến cố của miền Nam từ 1954 trở về sau, đặc biệt là thân phận của Ngô Đình Diệm.

Chỉ một thực thể (Miền Nam) mà có đến ba Lê Xuân Khoa cùng một lúc đưa ra ba nhận định khác nhau, thì làm sao có được một giáo sư học giả khách quan và chân thật, để cho: “cái gì của César thì trả lại cho César” như ông đã tự xưng và tự hứa khi viết Lời Mở Đầu ? (LXK sđd trang 7).

Có phải Ngô Đình Diệm đã có công to lớn “trong việc dẹp tan được Bình Xuyên và đem lại tình trạng ổn định chính trị và xã hội cho dân chúng”, như nhận định của Lê Xuân Khoa không?

Tôi không thấy quân sử Việt Nam Cộng Hòa đánh giá sự cố Bình Xuyên là một chiến công to lớn. Có lẽ sử gia Việt Nam Cộng Hòa cho rằng đây chỉ là một cuộc lục đục nội bộ giữa những người Quốc Gia với nhau, trong khi nhiệm vụ chính của Việt Nam Cộng Hòa là chống Cộng và xây dựng miền Nam thành một quốc gia riêng biệt.

Theo tôi, việc “Ngô Đình Diệm dẹp tan được Bình Xuyên” chỉ là kết quả trắc nghiệm của ông chủ Mỹ, giống như cuộc thử việc của một ứng viên dự tuyển trước ban giám đốc doanh nghiệp.

Chính Lê Xuân Khoa đã cho biết : ngoài Ngô Đình Diệm, Mỹ còn có những ứng viên dự bị như Phan Quang Đán, Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ (LXK sđdtr 424 và tr 429). Và cũng chính Lê Xuân Khoa đã viết nguyên văn ở trang 428, như đã trích dẫn ở trên, xin trích dẫn lại: “Chính phủ Diệm chỉ tồn tại nhờ áp lực của Hoa Kỳ đối với Pháp và Bảo Đại mặc dù chính đặc sứ J.Lawton Collins muốn thay thế Diệm ” (LXK sđd trang 428).

Do vậy, việc Ngô Đình Diệm thắng… trong bối cảnh và điều kiện ông chủ mới Hoa Kỳ đang “tiếp quản” miền Nam từ tay đồng minh Pháp, và việc Bình Xuyên thua… trong tình thế ông chủ cũ Pháp bị bắt buộc (bởi hiệp định Genève và áp lực của Hoa Kỳ) phải “thoái quản”, thì chẳng lấy gì làm vinh quang hay nhục nhã cho lắm.

Ngoài việc “dẹp tan Bình Xuyên,” theo Lê Xuân Khoa, Mỹ và Ngô Đình Diệm cùng nhau giải quyết dứt điểm vấn đề Cao Đài, Hòa Hảo: Ngô Đình Diệm thì tấn công quân sự (với sự bày mưu tính kế của CIA và vũ khí Mỹ), và Mỹ thì tấn công bằng đồng dollar và các áp lực chính trị với Pháp và đám tay sai hết thời của Pháp (LXKsđd các trang 427- 431)

Sau khi giải quyết xong vấn đề giáo phái, theo Lê Xuân Khoa, Mỹ cử Reinhardt làm đại sứ thay thế Collins, Pháp rút tướng Ely về, đưa Jacquot lên thay (LXK sđd tr.432). Lê Xuân Khoa không bình luận gì về sự thay đổi nhân sự này của Mỹ và Pháp. Tại sao vậy ??? Ông chỉ cho biết hai sự kiện quan trọng :

– Một là: Ngô Đình Diệm đã bác bỏ lời yêu cầu của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng về vấn đề hiệp thương - tổng tuyển cử.

– Hai là: Ngô Đình Diệm đẩy mạnh công cuộc chống Bảo Đại bằng cuộc trưng cầu dân ý “ để cho dân chúng miền Nam chọn lựa theo Bảo Đại hay Ngô Đình Diệm ” (nguyên văn). Kết quả là Bảo Đại thua, Ngô Đình Diệm thắng và trở thành Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa ngày 26 tháng 10 năm 1956.

Bình luận về cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Đình Diệm, Lê Xuân Khoa đúc kết bằng hai câu sau:

Ngô Đình Diệm là nhân vật có nhiều đức tính đáng khâm phục nhưng cũng có những khuyết nhược điểm lớn trong vai trò của một lãnh đạo chính trị” (LXK sđ dtr 422).

Mặc dù nổi tiếng là người có lý tưởng, liêm khiết và can đảm, Ngô Đình Diệm đã phạm nhiều sai lầm trong hơn tám năm cầm quyền ở miền Nam” (LXK sđd tr 432).

Về mặt tích cực của Ngô Đình Diệm, Lê Xuân Khoa mở rộng tối đa bằng một câu khác ở trang 434:

Ông cương quyết đòi lại nền độc lập cho Quốc Gia và thành thật mong muốn đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân và làm cho miền Nam trở nên giàu mạnh, hơn hẳn chế độ Cộng sản ở miền Bắc.”

Về việc “Ông cương quyết đòi lại nền độc lập cho Quốc Gia” thực hư như thế nào, tôi đã bàn ở trên.

Còn việc ông có “thành thật mong muốn đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân và làm cho miền Nam trở nên giàu mạnh” hay không thì phải soát xét lại những chủ trương, sách lược và những hành động cụ thể của Ngô Đình Diệm trong suốt những năm ông cầm quyền.

Đến phần trình bày “những khuyết nhược điểm lớn”, “những sai lầm” của Ngô Đình Diệm, Lê Xuân Khoa viết: “Tuy nhiên, khi Ngô Đình Diệm làm chủ được tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam thì ông lại bắt đầu thiết lập chế độ độc tài gia đình trị” (LXK sđd tr.434).

Chỉ câu này thôi, Lê Xuân Khoa đã hoàn toàn mâu thuẫn với nhận định tổng quát về người đứng đầu Việt Nam Cộng Hòa ông vừa nêu trên. Bởi một khi Ngô Đình Diệm bắt đầu thiết lập chế độ độc tài gia đình trị thì dù muốn thế nào ông cũng không thể đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân và làm cho miền Nam trở nên giàu mạnh được.

Theo Lê Xuân Khoa, Ngô Đình Diệm đã kết hợp quan niệm trị nước: “dân chi phụ mẫu ” (cha mẹ của dân) của đạo Khổng và sứ mệnh thiêng liêng “được Chúa trao cho” để hành xử vai trò của một Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Ông đã viết:

Trên nền tảng tinh thần đó, ông không chấp nhận những quan điểm khác biệt, và không tha thứ ai làm trái ý ông. Ngày 15-1-1956 (đúng 01 năm, 21 ngày sau khi Ngô Đình Diệm về nước, 7-7- 1956 -- Chu Sơn) ông giải tán Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng để loại trừ những người có công với ông trong việc lật đổ Bảo Đại nhưng cũng là những lãnh tụ chính trị độc lập như Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn và Nhị Lang” (LXK sđd tr334).

Như thế, theo Lê Xuân Khoa, không chỉ có Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Việt, Quốc Dân Đảng, Bảo Đại phong kiến và tay sai thực dân Pháp, không chỉ những cá nhân, phe nhóm quốc gia khác bất đồng chính kiến, không chỉ Cộng Sản Việt Minh kháng chiến mới bị ông Ngô Đình Diệm loại trừ. Ngô Đình Diệm còn loại trừ những chính khách trung lập, và cuối cùng loại trừ đến cả những người đã từng ủng hộ và có công đưa ông lên làm Tổng Thống. Bởi những người đó không răm rắp vâng lời, tuân phục ông.

Lê Xuân Khoa tuần tự cung cấp cho độc giả những thông tin về công cuộc độc tài gia đình trị của Ngô Đình Diệm như sau:

Ngày 23 tháng Mười, một cuộc Trưng cầu Dân ý được tổ chức để dân chúng miền Nam lựa chọn theo Bảo Đại hay Ngô Đình Diệm. Khi đó Bảo Đại đã trở lại thân Pháp và đang ủng hộ Bình Xuyên, do đó chắc chắn là ông phải thất bại vì đã mất hết tín nhiệm trong dân chúng. Tuy nhiên ban tổ chức trưng cầu dân ý đã sắp xếp cho việc thắng cử của Ngô Đình Diệm quá bảo đảm đến độ ông được tới 98,2 phần trăm phiếu trong khi Bảo Đại chỉ được 1,1 phần trăm. Bằng chứng gian lận lộ liễu nhất là ở nhiều nơi số phiếu ủng hộ ông Diệm nhiều hơn số cử tri. Chẳng hạn riêng vùng Sài Gòn – Chợ Lớn có 450.000 cử tri ghi danh mà số phiếu bầu lên tới 605.025” (LXK sđd tr.432).

Ngày 4 tháng Ba, 1956, quốc hội lập hiến được bầu gồm 123 dân biểu mà hầu hết là người của chính phủ hay thân chính phủ” (LXK sđd tr 434).

Ngày 26 tháng 10 năm 1956 hiến pháp được ban hành bao gồm đầy đủ mọi quyền tự do căn bản của dân chúng như bất cứ một nước dân chủ nào của phương Tây, nhưng thực tế có nhiều hạn chế và vi phạm” (LXK sđd tr.435).

Ngày 29 tháng Năm, 1958, ban hành luật Bảo Vệ Gia Đình”… “Tháng sáu, 1962, luật Bảo vệ Luân Lý được ban hành.” (LXK sđd trang 435)

Lê Xuân Khoa không chỉ rõ luật này do ai ban hành (Quốc hội hay Tổng thống?). Ông chỉ nói đó là hai đạo luật khắt khe và đều do bà Ngô Đình Nhu soạn thảo.

Về Luật Gia Đình, theo nhận xét của linh mục Trần Tam Tỉnh: gần giống các điều khoản trong giáo luật (LM Trần Tam Tỉnh – Thập Giá và Lưỡi Gươm).

Ngày 16 tháng 5 (năm?) Tổng thống ban hành sắc lệnh 10/62 hạn chế tự do cá nhân, quy định mọi cuộc hội họp, dù là sum họp gia đình cũng phải có giấy phép của cảnh sát địa phương” (LXK sđd tr435).

Tháng Giêng 1956, Tổng thống ký sắc lệnh 6/56 cho phép cơ quan an ninh bắt giữ bất cứ người nào có hành động phương hại đến an ninh quốc gia” (LXK sđd tr 435).

Tháng Năm 1959 có đạo luật 10/59 thiết lập tòa án quân sự lưu động để gia tăng hiệu lực ngăn chặn những hoạt động khủng bố của Cộng Sản ” (Đặt Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật – Chu Sơn) (LXK sđd tr436).

Tháng Năm 1962 Tổng thống ra sắc lệnh 11/62 thiết lập Tòa án Quân sự Mặt trận tại ba vùng chiến thuật với thẩm quyền kết án chung thân mà người bị kết tội không được phép kháng cáo. Tất cả các văn kiện pháp lý này đều có lý do chung là ngăn ngừa, trừng trị những hành động phá hoại của Cộng sản. Nhưng thực tế cũng nhắm vào những thành phần đối lập không Cộng sản” (LXK sđd trang 436)

Đối với các đảng phái Quốc Gia có khả năng trở thành đối thủ trong cuộc tranh giành quyền lực thì những cuộc thanh trừng đã được chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện từ đầu năm 1955, trước khi dẹp yên loạn quân Bình Xuyên và các nhóm tôn giáo đối lập. Ở miền Trung, tháng Ba (1955 – Chu Sơn) Ngô Đình Cẩn đã dẹp xong các mật khu của Đại Việt ở Ba Lòng (Quảng Trị) và Phú Yên. Các hệ phái Quốc Dân Đảng ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kutum và nhiều tỉnh khác đều bị tiêu diệt trong thời gian này”. (LXK sđd tr437).

Từ những cơ sở bí mật, các phong trào đấu tranh chính trị được phát động, đặc biệt là phong trào Hòa bình Sài gòn – Chợ lớn và phong trào đòi lập lại quan hệ bình thường Nam – Bắc. Từ giữa năm 1955, chính phủ Ngô Đình Diệm phát động chiến dịch “tố cộng” mãnh liệt trên toàn miền Nam, để loại trừ mọi hoạt động Cộng sản hay thân cộng. Miền Bắc ghi nhận con số cán bộ bị bắt hay bị giết rất cao ”.

Chỉ trong bốn năm (1955 – 1958) 9/10 cán bộ đảng viên ở miền Nam đã bị tổn thất. Riêng Nam bộ, chỉ còn khoảng 5.000 so với 60.000 đảng viên trước đó. Ở đồng bằng liên khu V có khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên bị địch bắt giết hại, 12 huyện không còn cơ sở đảng. Ở Quảng Trị chỉ còn 176 trên 8400 đảng viên trước đó ” (LXK sđd tr278).

Trong những ngày đầu của chính quyền Ngô Đình Diệm, các chiến dịch tố cộng, diệt cộng đã truy lùng và trừng phạt không những cán bộ Cộng sản nằm vùng mà cả những người đi theo Việt Minh chống Pháp mặc dù họ không phải là đảng viên Cộng sản. Cuối năm 1958 có tin 1.000 người bị giết ở trại tập trung Phú Lợi. Tác giả Bùi Tín nhắc lại những biện pháp hãi hùng đối với những nạn nhân của chiến dịch tố công:

… Các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, với sắc lệnh 10/59 đưa máy chém khắp các vùng để trừng trị các lực lượng Cộng sản đang ẩn náu trong dân,

... ở đồng bằng sông Cửu Long, khu 5, bắt vợ con của những người “Cộng sản” (thật ra phần lớn chưa hoặc không Cộng sản, chỉ là những người kháng chiến chống thực dân Pháp) từ bỏ những người chồng đã đi tập kết, những người kháng chiến cũ, gia đình họ bị quản thúc, kiểm soát gắt gao…” (LXK sđd tr437).

Khi thành lập chính phủ cũng như trong những lần cải tổ nội các, Ngô Đình Diệm đều không muốn có sự tham dự của Phan Huy Quát, một lãnh tụ Đại Việt được Hoa Kỳ tin cậy

Trong cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Hiến tháng ba năm 1956, ứng cử viên đối lập Phan Quang Đán đắc cử nhưng không được công nhận vì “gian lận”. “ Năm 1959 ông Đán ra tranh cử lần nữa, trúng cử với đa số phiếu, nhưng vẫn bị loại vì “phạm luật bầu cử” ” (LXK sđd tr437).

Ngoài chính sách độc tài gia đình trị, chính phủ Diệm còn phạm nhiều sai lầm trong việc hoạch định và thi hành các chương trình tranh thủ nhân dân chống cộng” (LXK sđd tr444).

Trước hết là cải cách điền địa (1956). Tiếp đến là chương trình thiết lập các Khu Trù Mật (1959), cuối cùng là chương trình Ấp Chiến Lược” (LXK sđd tr 444-448).

Theo Lê Xuân Khoa các chính sách và chương trình ấy về chủ trương là đúng, là ôn hòa, là tốt đẹp nhưng kết quả lại không có lợi cho nông dân, gây nhiều phiền nhiễu, khó khăn cho đời sống của người dân ở nông thôn, Việt Cộng lợi dụng để phản tuyên truyền, làm suy giảm khả năng chiến đấu, bảo vệ dân chúng của quân đội ở những vùng do chính phủ kiểm soát.

Với đường lối, sách lược của chính quyền độc tài gia đình trị như vậy nên đã dẫn tới những toan tính, những phản ứng của Mỹ, của các chính khách, của hầu hết tướng lĩnh trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa và các thành phần, bộ phận quần chúng nhân dân ngoài Công giáo, để rồi cuối cùng kết thúc bằng cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.

Theo trình tự thời gian, Lê Xuân Khoa đã liệt kê một số sự kiện như sau:

– Về phía Mỹ: Từ khi Ngô Đình Diệm bắt đầu cầm quyền đến khi bị đảo chính, Hoa Kỳ đã chuyển dịch từ thái độ thăm dò, hoài nghi đến tin tưởng, phong ông như người hùng, lãnh tụ tầm cỡ của châu Á và Thế giới. Chẳng bao lâu sau lại lo lắng, khuyên can, hù dọa ông, rất nhiều lần toan tính thay thế ông, cuối cùng thì thất vọng, phẫn nộ và dứt khoát loại trừ ông.

– Về phía người Việt Nam Quốc Gia, theo Lê Xuân Khoa (tôi tóm thuật – Chu Sơn):

Ngày 15-3-1958, Nghiêm Xuân Thiện, cựu Tổng trấn Bắc phần, trên tờ tuần báo Thời Luận do ông làm chủ nhiệm đã đăng bức thư ngỏ : Gửi Dân Biểu của tôi. Bức thư có nội dung cảnh báo những sai phạm của chế độ Ngô Đình Diệm, đề nghị thay đổi.

Thời Luận và chủ nhiệm bị đưa ra tòa. Báo bị đóng cửa vì tội phỉ báng chính quyền. Nghiêm Xuân Thiện bị phạt mười tháng tù giam ” (LXK sđd trang 437- 438).

Ngày 26 tháng Tư năm 1960, mười tám nhân vật danh tiếng họp báo ở khách sạn Caravelle, công bố Bản Tuyên Cáo gởi Tổng thống Ngô Đình Diệm. Bản Tuyên Cáo tố giác những “vụ bắt bớ, giam cầm và xử án phi pháp…, kêu gọi chính phủ Diệm khẩn trương thay đổi chính sách, ban hành các quyền tự do dân chủ…Bản Tuyên Cáo không được chính phủ Diệm quan tâm” (LXK sđd trang 438).

Ngày 11-11-1960 Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu cuộc đảo chính nhằm cảnh cáo Diệm. Cuộc đảo chính có sự ủng hộ của một số chính trị gia chống Diệm như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu. Mỹ bày tỏ thái độ trung lập và khuyến khích hai bên thương lượng. Diệm hứa thay đổi chính phủ nhưng lật lọng. Nguyễn Chánh Thi, Vương văn Đông và đồng sự bỏ trốn” (LXK sđd tr439).

Ngày 27-2- 1962 hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái máy bay từ Biên Hòa về Sài Gòn tấn công dinh Độc Lập, Diệm – Nhu thoát chết” (LXK sđd tr440).

Từ tháng Tư trở đi, một chuỗi biến cố giữa chính quyền và Phật giáo dẫn đến cuộc đảo chính ngày 1 tháng Mười Một ” (1963 – Chu Sơn) (LXK sđd các trang 449, 450, 452, 453, 454, 455, 456, 457) :

Ngày 6-5 phủ Tổng thống ra lệnh không cho treo cờ Phật giáo ngoài khuôn viên các chùa ”.

Ngày 8-5 Thượng tọa Trí Quang thuyết pháp, sau đó khoảng 3.000 Phật tử xuống đường biểu tình… Phó tỉnh trưởng Đặng Sĩ cho lệnh cảnh sát và quân đội giải tán đám biểu tình khiến 8 người chết và 15 người bị thương” (LXK sđd trang449).

Ngày 11-6 Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ở Sài Gòn” (LXK sđd trang 450).

Ngày 7-7 nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính uống thuốc độc tự tử để phản đối chính phủ đưa ông ra tòa án Quân sự Mặt trận để xét xử cùng với những người liên quan đến vụ đảo chính hụt gần ba năm trước (11-11-1960)” (LXK sđd tr450).

Trần Kim Tuyến (giám đốc sở nghiên cứu chính trị phủ Tổng thống, cơ quan mật vụ được CIA tài trợ để kiểm soát các phần tử chống đối chính phủ) âm mưu đảo chính. Cùng chủ mưu trong vụ này là Đại tá Phạm Ngọc Thảo, Tổng thanh tra Ấp Chiến Lược…” (LXK sđd tr.450)

Đêm 21-8 Ngô Đình Nhu điều động lực lượng đặc biệt tấn công chùa Xá Lợi bắt đi hàng trăm tăng ni, trong đó có hai nhà lãnh đạo giáo hội Phật giáo là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Thượng tọa Thích Tâm Châu” (LXK sđd tr 451).

Khi biết là quan hệ với Washington có thể phải đoạn tuyệt, hai ông Nhu và Diệm muốn thương lượng với Hà Nội qua trung gian của một số nhà ngoại giao và nhà báo Úc Wilfred Burchett… Điều kiện của Hà Nội đưa ra là sẽ bàn thảo mọi vấn đề nếu không có Mỹ. Qua đó ông Nhu cũng muốn gởi một tín hiệu cảnh báo Hoa Kỳ rằng hậu quả của việc ngưng ủng hộ Ngô Đình Diệm sẽ là một chính phủ Trung lập đòi Mỹ rút khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, tín hiệu đó lại càng khiến cho Mỹ muốn mau chóng lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Kết quả là cả hai ông Nhu Diệm đã bị hạ sát trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11” (LXK sđd tr 452).

Lê Xuân Khoa kết thúc “Những khuyết nhược điểm lớn”, “những sai lầm” của Ngô Đình Diệm, và bình luận về lòng yêu nước, về cái chết không đáng của ông ta như sau :

Mặc dù sai lầm vì chính sách độc tài và tinh thần gia đình trị, ông Diệm không phạm những tội ác đối với dân tộc và đất nước để có thể bị giết chết một cách tàn nhẫn sau khi đã gọi cho những người cầm đầu đảo chính đến bắt mình. Không ai có thể phủ nhận ông là người nhiệt thành yêu nước và ngay cả khi chủ tịch Hồ Chí Minh kẻ thù chính trị của ông, cũng đã bày tỏ thái độ kính trọng lòng yêu nước và tinh thần can đảm của ông ” (LXK sđd tr 453).

Tôi không đồng ý với Lê Xuân Khoa những nhận định này. Cũng như trước đó tôi đã không đồng ý với ông rằng: “Ngô Đình Diệm nổi tiếng là người có lý tưởng, liêm khiết và can đảm”.

Tôi trình bày suy nghĩ của tôi về mấy vấn đề sau:

– 1/ Ngô Đình Diệm có phải là người yêu nước, có lý tưởng, liêm khiết và can đảm” không ?

Như Lê Xuân Khoa đã nhận định và tôi đã trích dẫn ở trên: “Khi Ngô Đình Diệm đã làm chủ được tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam (cuối năm 1955) thì ông lại bắt đầu thiết lập chế độ độc tài gia đình trị ”.

Tôi nghĩ tình hình này cũng gần giống như sau năm 1975, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ vừa kết thúc, đảng Cộng Sản liền áp đặt nhân dân và đất nước dưới ách độc tài đảng trị.

Khi một gia đình hay một đảng gom hết mọi quyền lực, tài nguyên đất nước và vận mệnh dân tộc vào tay mình, đặt ách thống trị lên tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân thì gia đình đó, đảng đó chẳng có lý tưởng, liêm sỉ và can đảm gì cả. Suy nghĩ của tôi là như thế.

Lê Xuân Khoa có thể phản bác lại: Nhưng dù sao nền độc tài gia đình trị của Ngô Đình Diệm cũng dễ thở hơn độc tài Cộng Sản. Tôi đồng ý với Lê Xuân Khoa như thế. Nhưng giả định rằng: nếu không có Mỹ ở trên đầu và Cộng Sản ở bên hông thì liệu nền độc tài gia đình trị của Ngô Đình Diệm có còn dễ thở nữa không ? Chính Lê Xuân Khoa đã cung cấp cho tôi bằng chứng để tôi khẳng định quan điểm của mình. Lê Xuân Khoa cho rằng : “Ngô Đình Diệm đã kết hợp quan niệm trị nước “dân chi phụ mẫu” của đạo Khổng và sứ mệnh thiêng liêng được Chúa trao cho để hành xử vai trò của một Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa”. Lê Xuân Khoa để ra 34 trang để kiểm điểm những “khuyết nhược điểm lớn và những sai lầm” của Ngô Đinh Diệm mà tôi đã tóm lược ở trên.

Sau đây tôi căn cứ vào nhận định tổng quát và những dẫn chứng cụ thể ấy của Lê Xuân Khoa, cùng những thông tin tôi nắm bắt được bằng trải nghiệm cá nhân và bằng những tài liệu khác để có những nhận định của chính mình : Khi người đứng đầu một nước mà quan niệm như thế về chính trị thì chắc chắn chế độ Cộng Hòa mà ông ta rêu rao chỉ là bánh vẽ, và cái mà ông ta thực hiện chắc chắn sẽ là chế độ độc tài phong kiến lỗi thời giả danh Nho giáo kết hợp với tính chất của một nhà nước Thiên Chúa Giáo thời Trung cổ ở châu Âu, và về mặt bạo lực gian ác, tráo trở, chắc chắn chẳng khác gì một nhà nước Cộng Sản trong hiện tại.

Trong khi Ngô Đình Diệm tố cáo Cộng Sản là độc tài đảng trị thì ông thực hiện độc tài gia đình – Cần Lao – Thiên Chúa giáo trị. (LXK sđd – chương 10, Hoàng Linh Đỗ Mậu: Việt Nam máu lửa quê hương tôi).

Trong khi Ngô Đình Diệm tố cáo Thực – Cộng cấu kết chia hai đất nước thì ông chủ trương miền Nam là một quốc gia riêng biệt. (Hoàng Linh Đỗ Mậu :Việt Nam máu lửa quê hương tôi).

Trong khi Ngô Đình Diệm tố cáo miền Bắc là công cụ của chủ nghĩa quốc tế, tay sai Nga – Tàu, thì ông tiêu diệt các phe phái quốc gia khác để gia đình mình độc quyền nhận sự bảo trợ của Mỹ nhằm biến miền Nam thành một quốc gia Thiên Chúa giáo, một tiền đồn của “Thế giới Tự do”. (Linh mục Trần Tam Tỉnh : Thập giá và Lưỡi gươm).

Trong khi Ngô Đình Diệm hô hào đả đảo thực dân cũ (Pháp), thì ông đã chạy vạy để được nhận làm đồng minh, công cụ và tù nhân của thực dân mới Hoa Kỳ (LM Trần Tam Tỉnh sđd).

Trong khi Ngô Đình Diệm tố cáo đảng Cộng Sản miền Bắc xâm lược miền Nam thì ông hô hào Bắc tiến.

Trong khi Ngô Đình Diệm tố cáo đảng Cộng Sản đã làm nên tội ác “Cải Cách Ruộng Đất” thì ông tiến hành các chiến dịch tố Cộng, diệt Cộng giết chóc và tù đày gần trăm ngàn cán bộ kháng chiến là đảng viên hay không đảng viên (cựu kháng chiến chống Pháp) cùng gia đình của họ, kể cả gia đình của những người đi tập kết. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd, Lê Xuân Khoa sđd)

Trong khi Ngô Đình Diệm từ chối không nói chuyện với miền Bắc về vấn đề tổng tuyển cử vì lí do “nhân dân miền Bắc không được tự do bầu cử trong chế độ độc tài Cộng Sản”, thì ông lên ngôi Tổng thống bằng cuộc trưng cầu dân ý độc diễn và tự gian lận với chính mình. (LXK sđd chương10).

Trong khi Ngô Đình Diệm tố cáo Cộng Sản vô thần thì ông thực hiện sách lược tự do tín ngưỡng nhưng chỉ với Thiên Chúa Giáo mà gia đình ông là đại diện. (Linh Mục Trần Tam Tỉnh sđd).

Trong khi Ngô Đình Diệm hô hào Bài Phong thì ông thiết lập một nhà nước chẳng khác nào một triều đình phong kiến. Ông bắt nhân dân miền Nam suy tôn ông từng ngày trong các cuộc hội họp, trong các rạp chiếu bóng, và trong các trường học. Ông để cho Ngô Đình Cẩn trở thành lãnh chúa miền Trung. Ông tôn Ngô Đinh Nhu làm cố vấn tối cao phụ trách các vấn đề chính trị an ninh và tình báo. Ông nuông chiều Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu), để em dâu ông mặc sức hoành hành trong vai trò đệ nhất phu nhân, khuynh loát quốc hội, chính phủ, với tay tới bất cứ lãnh vực nào sinh lợi ở miền Nam (miền Trung đã chia cho Ngô Đình Cẩn). Ông giao “phần hồn” của nhân dân miền Nam cho Ngô Đình Thục để ông Tổng Giám mục này hành xử như một Thái Thượng Hoàng đứng đầu một trung tâm quyền lực trần gian khác bên cạnh phủ Tổng thống ở Sài Gòn và dinh lãnh chúa miền Trung. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd).

Trong khi Ngô Đình Diệm rêu rao về một Việt Nam Cộng Hòa độc lập, tự do, dân chủ thì ông cai trị bằng những sắc luật, bằng bộ máy cảnh sát mật vụ dày đặc với máy chém và hệ thống nhà tù, khu trù mật, ấp chiến lược trên khắp miền Nam. Ông lấy giáo hội giáo dân Thiên Chúa giáo làm hậu thuẫn. Ông biến các bộ phận quần chúng nhân dân khác thành đối tượng chuyên chế của chỉ gia đình ông. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd, LM Trần Tam Tỉnh sđd).

Nói và làm như thế, nên sau chín năm cầm quyền dưới sự bảo trợ ngày càng khập khiễng của đồng minh Hoa Kỳ, Ngô Đình Diệm đã trở thành:

– Một “lãnh tụ yêu nước, anh minh”, đồng thời là ân nhân của dưới 10 % dân chúng là tín đồ đạo Thiên Chúa – nạn nhân của tham vọng biến miền Nam thành một nước Công giáo toàn tòng. Một tiền đồn của thế giới Tự Do (Linh Mục Trần Tam Tỉnh sđd).

– Một ông chủ, một đồng chí phản trắc, vong ân bội nghĩa của các chính khách, tướng lĩnh, những người đã từng công kênh, ủng hộ và có công đưa lên làm người đứng đầu phe Quốc Gia sau khi truất phế Bảo Đại phong kiến. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd).

– Một ông vua phong kiến trá hình, một kẻ hai mặt, tàn ác, dối trá, lật lọng đối với hơn 90 % dân chúng còn lại – trong đó có một bộ phận không nhỏ những người đã lầm tưởng ông là ngọn cờ sáng giá của lý tưởng Cộng Hòa có khả năng đưa đất nước thoát khỏi tàn tích thực dân phong kiến và hiểm họa Cộng Sản. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd).

– Một công cụ ruỗng mục cần phải dẹp bỏ đối với Mỹ – ông chủ mới của miền Nam. Lý do là Ngô Đình Diệm và những người trong gia đình ông đã làm phá sản, ung thối ý đồ sách lược chống Cộng của Mỹ tại Việt Nam và Đông Nam Á lại còn làm động tác giả: giao tiếp với miền Bắc để thương lượng về tình hình đất nước. (Hoàng Linh Đỗ Mậu sđd).

Mỹ muốn giết bỏ ông. Các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa muốn trừ diệt ông. 90 % dân chúng miền Nam muốn thoát khỏi chế độ độc tài gia đình trị. Dưới 10 % dân chúng là tín đồ Thiên Chúa giáo được lãnh đạo bởi giáo hội Công giáo Việt Nam thoát thai và chịu sự điều hướng từ các giáo hội Thiên Chúa giáo Quốc tế không cứu được anh em nhà ông. Cuộc đảo chánh 1.11.1963 đã diễn ra trong bối cảnh như thế.

Các từ yêu nước, lý tưởng, liêm khiếtcan đảm mà Lê Xuân Khoa và một bộ phận người Việt Nam (dưới 10 % là tín đồ Thiên chúa giáo) dành cho Ngô Đình Diệm hoàn toàn không chính xác đối với tất cả những người miền Nam còn lại, 90 % người miền Nam này muốn giết bỏ hoặc muốn thoát khỏi sự cai trị độc tài của gia đình ông. Giá trị lịch sử thông thường là tương đối. Trong trường hợp này nó gần như tuyệt đối. Nó đạt tỉ lệ 90/100.

Ông Lê Xuân Khoa không nên lấy lời nhắn gửi ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh qua Ranchundur Goburdhun (Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến) để bảo chứng cho lòng yêu nước của Ngô Đình Diệm (LXK sđd tr453). Bởi chủ tịch Hồ Chí Minh chắc chắn không nói như thế khi kêu gọi thanh niên và nhân dân cả nước đứng lên chống Mỹ, lật Diệm. Chống Pháp, chống Mỹ để đem lại quyền lực cho nhân dân, đem lại hòa bình, thống nhất cho đất nước và đoàn kết hòa hợp dân tộc, ấm no hạnh phúc cho mọi người mới là yêu nước. Nhưng làm quan “thanh liêm” mà mau lên chức trong chế độ thuộc địa (trong vòng tám năm mà từ tri huyện được thăng đến thượng thư, trong khi những người khác phải mất đến hai ba mươi năm), từ chức thượng thư vì không đươc ông chủ Pháp ban cho nhiều quyền lực, đến khi chạy vạy để được ông chủ Mỹ ban cho nhiều quyền lực thì độc tài gia đình – Thiên Chúa giáo trị… thì chẳng yêu nước và lý tưởng gì cả, mà chỉ yêu bản thân, gia đình và tôn giáo mình.

Cũng như đảng Cộng Sản ngày nay, đất nước và nhân dân đối với gia đình họ Ngô chỉ là phương tiện, là chiêu bài. Lừa gạt nhân dân (nói là Cộng hòa, mà làm thì gia đình và Thiên chúa giáo trị), phản bội người đã giúp đở ủng hộ mình, dùa (lùa) hết của cải của thiên hạ cho anh em nhà mình mà liêm khiết sao ? Bầu cử độc diễn và gian lận mà liêm sỉ và can đảm sao?

Tâm địa của gia đình Ngô Đình Diệm trước năm 1963 hoàn toàn giống tâm địa đảng Cộng sản từ 1975 đến tận ngày nay.

2/ Ngô Đình Diệm có phạm những tội ác đối với dân tộc không ?

Lê Xuân Khoa đã dành gần 40 trang trong cuốn sách của ông để viết về chính sách Cải Cách Ruộng Đất trên miền Bắc từ cuối năm 1953 đến giữa năm 1956. Theo ông, đây là tội ác to lớn mà đảng Cộng Sản đã phạm phải đối với dân tộc Việt Nam. Tôi chia sẻ với Lê Xuân Khoa trong một số nhận định của ông về vấn đề này. Nhưng tôi hoàn toàn không hiểu tại sao Lê Xuân Khoa chẳng viết (tôi không dùng từ nghiên cứu) một đoạn tương tự về công cuộc Tố Cộng – Diệt Cộng đẫm máu trong suốt 5 năm đầu Ngô Đình Diệm thực hiện Gia Đình Trị (từ của Lê Xuân Khoa) tại miền Nam. Tôi cũng không hiểu trong những năm đó ông ở đâu mà không biết Ngô Đình Diệm đưa máy chém đi khắp miền Nam để cũng “giết lầm hơn bỏ sót”, và giết đến người kháng chiến không Cộng sản hoặc các thành phần quần chúng khác không thần phục, đút lót cho Ngô triều qua chiêu bài tố Cộng diệt Cộng. Không nghiên cứu tội ác tố Cộng – diệt Cộng của nhà Ngô thì không hiểu hết cuộc chiến tranh mà ông gọi là Nội Chiến hay Ủy Nhiệm.

Lê Xuân Khoa chỉ căn cứ vào một vài tài liệu của các tác giả miền Bắc hoặc có gốc gác miền Bắc (như Bùi Tín) để nói qua về công cuộc tố Cộng – diệt Cộng của Ngô Đình Diệm tại miền Nam rằng là có khoảng 80.000 trên 100.000 cán bộ Cộng Sản, hoặc kháng chiến không Công Sản bị sát hại, tù đày. Lê Xuân Khoa trích dẫn những tài liệu này để chứng tỏ mình khách quan trung thực.

Theo tôi, tội ác Cải Cách Ruộng Đất của Công Sản là rất lớn, nhưng không lớn hơn tội ác tố Cộng – diệt Cộng của chế độ Ngô Dình Diệm. Không có cải cách ruộng đất, không có tố Cộng – diệt Cộng, lịch sử Việt Nam sẽ đi theo một chiều hướng khác.

Sau Genève, đảng Cộng Sản và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tồn tại như là một đảng chính trị duy nhất và một nhà nước chính danh của đa số nhân dân miền Bắc và của một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân ở miền Nam hướng về. Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt là Trung Quốc, do những khó khăn nội bộ, bày tỏ lập trường hòa hoãn với Tây phương, đặc biệt với Mỹ. Việt Nam – Đông Dương không phải là mối quan tâm cấp thiết của họ. Đảng Cộng Sản Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do kinh nghiệm bị thúc ép bởi hai nước Cộng Sản đàn anh phải ký hiệp định Genève với kết quả không tương xứng với những thắng lợi trên chiến trường, và nhất là do những khó khăn to lớn trong việc tiếp quản miền Bắc (giải quyết, khắc phục hậu quả chiến tranh, thanh toán những rắc rối do tình báo Pháp và Mỹ gài lại, ổn định xã hội và phát triển cuộc sống của nhân dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa), nên một mặt tiếp tục công cuộc Cải Cách Ruộng Đất bị bỏ dở ở miền Bắc, Cải tạo công thương nghiệp, trấn áp phong trào Nhân văn Giai phẩm, và một mặt chủ động đề ra sách lược hữu khuynh rất sai lầm là đấu tranh hòa bình ở miền Nam nhằm thống nhất đất nước với 100.000 cán bộ đảng viên gài lại. Miền Bắc đã không nhờ vả Trung Quốc, Liên Xô trong thời đoạn này.

Trong khi đó tình hình ở miền Nam không kém phần phức tạp : Quốc Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại (vốn là một giải pháp, một công cụ của Thực dân Pháp) chuyển đổi thành Việt Nam Cộng Hòa của Ngô Đình Diệm với quyền lực rộng rãi và chủ động hơn trong sự bảo trợ mạnh mẽ và quyết liệt của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ – quốc gia đứng đầu tổ chức Liên phòng Đông Nam Á mới thành lập – cương quyết ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản từ vĩ tuyến 17, muốn biến miền Nam thành tiền đồn của thế giới Tự Do, đã tích cực dàn dựng ra một nhà nước Cộng Hòa với một Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm dựa vào thế lực của Mỹ hăm hở xây dựng miền Nam thành một quốc gia riêng biệt với quyền lực tuyệt đối thuộc về gia đình họ Ngô, đảng Cần Lao và Thiên Chúa giáo. Sau khi thanh toán hết các thế lực, các thành phần Quốc Gia tranh chấp và bất đồng chính kiến (phe Bảo Đại, Bình Xuyên, và hai giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, các đảng Đại Việt, Quốc Dân Đảng), Ngô Đình Diệm đã thẳng tay tiêu diệt Cộng Sản nằm vùng với các chiến dịch tố Cộng – diệt Cộng đẫm máu, dứt khoát khước từ hiệp thương – tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo đề nghị của miền Bắc. 100.000 cán bộ đảng viên bị chính quyền Diệm giết chết, tra trấn, tù đày, đầu hàng và vô hiệu hóa đến 80%. Một số trong 20% còn lại vượt tuyến ra Bắc đã báo cáo với lãnh đạo đảng Cộng Sản về “một miền Nam bị Mỹ – Diệm thống trị với chế độ độc tài phát xít và âm mưu chia cắt đất nước vĩnh viễn”. Những cán bộ miền Nam vượt tuyến này (hai người trong nhóm đó là Lê Duẩn, mấy năm sau là người đứng đầu đảng Cộng Sản Việt Nam, tác giả chính của nghị quyết 15, và Phạm Hùng, Bí thư Trung ương cục Miền Nam, lãnh đạo MTGP miền Nam) cùng với những cán bộ đảng viên tập kết từ 1954 đã khẩn khoản yêu cầu Đảng của họ nhanh chóng có kế hoạch Giải phóng miền Nam để Nam – Bắc sum họp một nhà.

Trước tình hình đó, sau khi đình chỉ và sửa sai sách lược Cải cách ruộng đất đảng Cộng Sản đã đề ra sách lược mới: Giải phóng miền Nam bằng một giải pháp phối hợp đấu tranh chính trị và bạo lực cách mạng theo sự chỉ dẫn của nghi quyết 15. Để thực hiện sách lược theo nghị quyết đó, đảng Cộng sản Việt Nam trước khi thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (tháng 12.1960) đã đi cầu viện Trung Quốc, Liên Xô và các nước Đông Âu (xem : Đại cương Lịch Sử Việt Nam – Trương Như Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, Thư vào Nam – Lê Duẩn).

Chiến tranh Việt – Mỹ, Nam – Bắc đã xảy ra trong bối cảnh như thế.

Giả định rằng Mỹ và Ngô Đình Diệm sau khi tiếp quản miền Nam từ tay Pháp và Bảo Đại mà bày tỏ một sách lược hòa hoãn với miền Bắc, không thi đua bạo lực kiểu “Máu kêu trả máu – Đầu kêu trả đầu”, không thi đua tẩy não bằng Duy linh – Nhân vị – Cần lao, mà thi đua hòa bình, mà tiến công bằng thực hành dân chủ và chế độ Cộng hòa chân thực, chứ không giả hiệu như đã thực hiện, thì vấn đề Nam – Bắc Việt Nam sẽ diễn biến theo một chiều hướng khác, có khả năng gần như Tây – Đông Đức, hay ít ra như Nam – Bắc Triều Tiên. Tôi nghĩ rằng thủ tuc, biện pháp, công sức, kinh phí để đưa 80.000 cán bộ nằm vùng bắt được qua bên kia vĩ tuyến 17 (qua trung gian của Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến) sau khi đối xử với họ tử tế sẽ dễ dàng và rẻ hơn, có kết quả tích cực hơn so với việc xây nhà tù, trung tâm cải huấn, tổ chức hệ thống quản lý, tra tấn, nuôi ăn hàng trăm ngàn tù nhân, hay mua máy chém, tổ chức pháp trường và các biện pháp trấn áp tẩy não.

80.000 người “nhập cảnh” đặc biệt ấy trong những chừng mực khác nhau sẽ là sứ giả của một Việt Nam Cộng Hòa hòa hoãn về vấn đề thông nhất, không quá độc tài phát xít như những gì mà những người vượt thoát khỏi các nhà tù miền Nam sẽ mô tả như là những địa ngục trần gian. 80.000 sứ giả ấy sẽ là “vấn đề” đối với chế độ và xã hội miền Bắc xét theo nhiều góc độ, trong trường hợp nào cũng có lợi cho dân tộc, đất nước về lâu dài.

Theo tôi, việc Ngô Đình Diệm chống lại khát vọng thống nhất đất nước và không xây dựng chế độ Cộng Hòa chân thật là một tội ác. Tội ác này bao trùm các tội ác mà Ngô Đình Diệm đã thực hiện tại Việt Nam từ 1954 đến 1963 với những hậu quả tai hại lâu dài của nó.

Cùng với chế độ Thực dân – Đế quốc, các chế độ độc tài : độc tài gia đình trị, tôn giáo trị, quân phiệt trị hay đảng trị là nguồn gốc của mọi tội ác ở Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XX. Sau gần một trăm năm chịu đựng sự giày xéo, áp bức, bóc lột của Thực dân xâm lược, chứng kiến sự bất lực, đầu hàng, ruỗng mục của chế độ Quân chủ Phong kiến nhà Nguyễn, sau 10 năm (1945 – 1954), bước đầu trải nghiệm những sách lược, hành động độc tài Cộng Sản, nhân dân Việt Nam hướng ước mơ của mình về nền Cộng Hòa mà họ nghĩ rằng có khả năng giải đáp những khát vọng chính đáng và cấp thiết của dân tộc: Áo cơm, học hành, y tế, Dân chủ, Tự do, Công bằng, Bác ái… Hồ Chí Minh thấy được khát vọng đó của dân tộc khi đặt tên nước là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngay sau Cách mạng tháng Tám. Ngô Đình Diệm cũng đã thấy được khát vọng đó khi đề ra khẩu hiệu: bài Phong – đả Thực – diệt Cộng, và đặt tên “nước miền Nam” là Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng cả hai ông đều đã: Treo đầu heo – Bán thịt chó.

Hoàn toàn có khả năng con người nửa Cộng hòa, nửa Cộng sản ảo mộng Hồ Chí Minh bị trói bởi các học trò – đồng chí Cộng sản kiên định chủ nghĩa Mác – Lê, tư tưởng Stalin và Mao Trạch Đông. Nhưng với não trạng sứ đồ Thiên Chúa giáo trung cổ và tâm lý quan lại Nam triều thuộc địa thì Ngô Đình Diệm hoàn toàn chủ động khi khẳng định mình là “cha mẹ của dân,” “được Thượng đế trao cho sứ mệnh đưa dân chúng miền Nam Việt Nam trở lại nước Chúa”. Ông quan “cha mẹ của dân” và “vị sứ giả của Thượng đế” thì hoàn toàn xa lạ với những khái niệm của tư tưởng Cộng Hòa (bao gồm những công dân bình đẳng, tự do, có quyền và trách nhiệm ngang nhau một cách tương đối...). Cũng như đảng Cộng sản sau 1975, chế độ Gia đình – Cần Lao – Thiên Chúa giáo toàn trị của Ngô Đình Diệm đã hủy hoại niềm tin và khát vọng Cộng Hòa của cả dân tộc. Tội ác của Ngô Triều lúc bấy giờ không thua kém tội ác của đảng Cộng Sản sau này xét về mặt tính chất, nhưng xét về mặt tầm vóc thì không to lớn bằng. Cả hai chế độ độc tài, về mặt cơ chế, loại trừ lẫn nhau, nhưng đều chống lại các quyền lợi tối cao và thiêng liêng của dân tộc, tổ quốc.

Hữu thần ←→ Vô thần, Duy linh ←→ Duy vật, Công giáo ←→ Cộng sản, Tư hữu (cho một thiểu số) ←→ Công hữu… là những cặp đối lập theo ngữ nghĩa của ngôn từ nhưng thực chất là hai mặt của một vận động lịch sử. Cuộc vận động lịch sử ấy dẫn đến một kết quả cuối cùng : Một thiểu số cầm quyền (gia đình trị hay đảng trị) đối lập sinh tử với đại đa số quần chúng nhân dân.

Giả định rằng sau 1954, với sự bảo trợ của Mỹ, Ngô Đình Diệm thực tâm xây dựng nền tảng cho chế độ Cộng Hòa (thay vì thiết lập chế độ độc tài gia đình – Cần lao – Thiên Chúa giáo trị như ông đã làm), chính phủ do ông đứng đầu sẽ cải tổ và mở rộng theo hướng đa nguyên – dân chủ như mong ước và khát vọng của nhân dân miền Nam cũng như nhân dân cả nước (và cũng theo những khuyến cáo của Mỹ) thì nội tình các đô thị miền Nam sẽ không có Tuyên ngôn của nhóm Caravelle tháng Tư – 1960, sẽ không có sự phẫn nộ của dân chúng và báo chí, sẽ không có hai cuộc đảo chánh của các sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng hòa (do Nguyễn Chánh Thi và Vương văn Đông cầm đầu ngày 11-11-1960, và do Nguyễn Văn Cử, Phạm Phú Quốc thực hiện ngày 27- 2-1962), và tất nhiên, sẽ không có phong trào Phật giáo để rồi dẫn đến cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963. Về phía miền Bắc sẽ không khẩn trương thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, sẽ không có phong trào đô thị trong sách lược Hai chân – Ba mũi của nghị quyết 15. Và tất nhiên sẽ không có việc Mỹ tháo chạy tán loạn và Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ như mọi người đều thấy.

Nhưng vận động lịch sử đã không diễn ra theo giả định viễn mơ ấy. Những người “Quốc Gia” sau cái chết của anh em Nhu – Diệm và sự sụp đổ của nền Cộng Hòa giả hiệu lần thứ nhất đã nhốn nháo quy tụ, đấu đá và tranh giành quyền lực chung quanh ông chủ Mỹ, để rồi cuối cùng sản sinh ra chế độ độc tài quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu. Chế độ Cộng Hòa giả hiệu lần thứ hai cũng với hậu thuẫn của giáo hội Thiên Chúa giáo làm bình phong cho sự nổi giận sấm sét của thần chiến tranh Hoa Kỳ. Độc tài quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu tiếp nối độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm cùng với “cuộc chiến tranh của Mỹ” đã thủ tiêu giấc mơ Cộng Hòa của cả dân tộc, đã củng cố lập trường kháng chiến dưới sự lãnh đạo của những người Cộng Sản, đã đẩy đại bộ phận quần chúng nhân dân (không được tập tành đấu tranh dân chủ trong chế độ Cộng Hòa chân chính, và mất hết sức lực sau hai cuộc chiến tranh Việt – Pháp, Việt – Mỹ) vào vòng độc tài Cộng sản.

Con chiên Nguyễn Văn  Thiệu

Con chiên Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Đệ nhị Cộng hòa,
trong một chế độ 'Diệm Không Diệm', "Diem Without Diem",
cụm từ của Ký giả Robert Shaplen trong The Lost Revolution (Hình: Internet)

Lê Xuân Khoa đã dành 10 trang để viết về giai đoạn chuyển tiếp từ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm qua độc tài quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu (từ trang 458 đến trang 468). Ông mô tả tình hình miền Nam trong 20 tháng đầu của giai đoạn chuyển tiếp như sau:

Như vậy, chỉ trong vòng 20 tháng, miền Nam đã trải qua hơn mười biến cố chính trị trong đó có năm thể chế không có hiến pháp (từ HĐQNCM đến UBLĐQG), sáu chính phủ (tướng Khánh hai lần làm thủ tướng), ba lần tướng lãnh loại trừ nhau (Khánh loại trừ Minh – Khiêm, các tướng trẻ loại trừ Khánh ) và hai cuộc đảo chánh bất thành. Giữa những lần thay đổi ấy là những cuộc biểu tình của các tín đồ Phật giáo, Công giáo sinh viên ở nhiều nơi trong nước, tạo nên một tình thế hỗn loạn gần như vô chính phủ” (LXK sđd tr461).

Mặc dù 20 tháng sau khi Diệm đổ, miền Nam lâm vào tình trạng gần như vô chính phủ, như Lê Xuân Khoa đã nhận định, nhưng vẫn tồn tại được, bởi vì ông chủ đích thực miền Nam đến thời điểm đó vẫn là Mỹ. Sử gia Lê Xuân Khoa đã không làm rõ thực tế này.

Theo tôi, cũng như 14 tháng (7-7-1954 – 23-10-1955) sau Genève là thời kỳ thử việc của Ngô Đình Diệm. 20 tháng sau khi Diệm đổ là thời kỳ thử việc của các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa : Các tướng già chậm chạp (Minh, Đôn, Kim, Xuân, Đính…) còn vướng mắc ít nhiều tinh thần thuộc địa, văn hóa Pháp và tình tự dân tộc, không thích hợp với giai đoạn Mỹ hóa chiến tranh nên bị loại bỏ dưới hinh thức bị cử đi làm đại sứ, hay bị bắt buộc về hưu. “Các sĩ quan trẻ được người Mỹ mệnh danh “Young Turks” có nghĩa tương tự như “hảo hán tuổi trẻ” (LXK sđd tr459) trở thành “ứng viên thử việc trước các tướng lãnh Mỹ và đại sứ Hoa Kỳ” (LXK sđd trang 464).

Lê Xuân Khoa đã mô tả cuộc mắng mỏ của ông chủ Mỹ với những người thử việc Việt Nam Cộng Hòa như sau:

Ngày 21-12-1964, Taylor (đại sứ Mỹ tại Sài Gòn – Chu Sơn) yêu cầu Nguyễn Khánh và nhóm tướng trẻ đến gặp ông ở tòa Đại sứ. Chỉ có bốn tướng đến dự là Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Lê Nguyên Khánh. Taylor nói:

– “Các ông có hiểu tiếng Anh không? Sau khi nhóm (thử việc – Chu Sơn) Việt Nam cho biết là họ hiểu, Taylor nói tiếp : “ Trong bữa ăn ở nhà tướng Westmoreland, tôi đã nói rõ cho các ông biết rằng người Mỹ chúng tôi đã phí lời. Có lẽ tiếng Pháp của tôi không được rành vì rõ ràng là các ông đã không hiểu. Tôi đã nói rõ là tất cả những kế hoạch quân sự mà tôi biết các ông muốn thi hành đều tùy thuộc vào sự ổn định của chính quyền. Bây giờ thì các ông đã làm nát bét hết. Chúng tôi không thể cưu mang các ông mãi nếu như các ông cứ làm những chuyện như thế này. Ai là người nói thay cho cả nhóm ? Các ông có người phát ngôn không ?” (sđd tr 326). LXK trích dịch từ The Pentagon Papers – 379).

Kết quả các cuộc thử việc đó là: Nguyễn Khánh múa may mấy tháng, tiếp theo Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ được chọn, trở thành Tổng thống và phó Tổng thống, Cao Văn Viên trở thành Bộ trưởng bộ Quốc phòng kiêm Tổng tham mưu trưởng, Quốc hội lập hiến được thành lập với 118 đại biểu với ba phần tư là tín đồ Công giáo. Hiến pháp của đệ nhị Cộng hòa được công bố ngày 1 tháng 4 năm 1967, nhưng bởi tình trạng bất ổn do “cuộc tranh chấp giữa hai tướng Thiệu – Kỳ gay go đến độ hàng ngũ quân đội có nguy cơ bị đổ vỡ – đó là lý do khiến đại sứ Lodge chưa muốn tiến hành xây dựng một thể chế dân chủ ở Việt Nam.” (LXK sđd tr464).

Đất nước không có chủ quyền và Mỹ muốn làm chủ cuộc chiến tranh nên đã đổ quân mà chẳng cần hỏi ai. Cuộc tranh giành quyền lực vẫn tiếp diễn sau khi hai ông Thiệu – Kỳ đã là Tổng thống và phó Tổng thống của nền đệ nhị Cộng Hòa, nên người Mỹ đã giúp Thiệu loại trừ Kỳ (một ông tướng ba hoa và xốc nổi – Chu Sơn) hình thành nền tảng cho chế độ độc tài quân phiệt và tái đắc cử nhiệm kỳ Tổng thống lần thứ hai (1971) cũng với một cuộc bầu cử độc diễn. (Lê Xuân Khoa làm lơ cuộc bầu cử độc diễn này – Chu Sơn).

Lê Xuân Khoa chia thời gian cầm quyền của Nguyễn Văn Thiệu làm hai thời kỳ trước và sau Hiệp định Paris được ký kết (tháng 1-1973).

Thời kỳ trước hiệp định Paris, ông viết:

Từ năm 1967 đến 1973, do cách cư xử khôn khéo và thận trọng, ông Thiệu không phải đương đầu với các đảng phái đối lập (ngoại trừ cuộc tranh chấp ngấm ngầm và dai dẳng với nhóm ông Kỳ). Trong thời gian này ông cũng không có chính sách độc đoán đến độ dân chúng bất mãn và nổi lên chống đối. Ông lập được một số thành tích đáng kể về cải cách nông thôn nhưng cũng tìm cách củng cố quyền hành gây nên nạn bè phái và tham nhũng trầm trọng. Ông thích ứng được với vai trò chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ “Mỹ hóa” chiến tranh, cho đến khi bị Nixon – Kissinger bắt ép chấp nhận hiệp định Paris 1973 mới kịch liệt chống đối nhưng rốt cuộc vẫn phải nhượng bộ” (LXK sđd tr470).

Viết bình luận như thế này là để cho có, chẳng có nội dung gì. Theo tôi, các đảng phái đối lập đã bị tiêu diệt trong thời kỳ Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách độc tài gia đình trị. Một số lãnh tụ còn sót lại không có quần chúng, sau thời gian dài nằm yên hoặc lưu vong nước ngoài, nhân Diệm đổ đã vùng dậy hay quay trở về nương thế lực của các tướng lãnh mà tái xuất hiện trên chính trường rồi cũng bị đào thải luôn theo sự tranh chấp quyền lực giữa các tướng, và với nhau, trước ông chủ Mỹ. Hai thế lực có quần chúng là Phật giáo và Thiên Chúa giáo có khả năng có tác động đến chính trường, thì một (Phật giáo) đã bị Thiệu – Kỳ với sự giúp đỡ của Mỹ đánh phá tan tành trong mùa hè 1966. Thế lực thứ hai là Thiên Chúa giáo thì được Mỹ chọn làm lực lượng hậu thuẫn cho Nguyễn Văn Thiệu để “ ông thích ứng được với vai trò chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ “Mỹ hóa” chiến tranh ” (nguyên văn của Lê Xuân Khoa). Do vậy, dù Thiệu có độc đoán chuyên quyền hay tham ô nhũng lạm thì vào thời điểm đó dân chúng cũng không còn đủ sức để bày tỏ sự bất mãn và nổi dậy chống đối. Theo tôi, đây là giai đoạn củng cố quyền lực theo hướng quân phiệt hóa và tái Cần Lao – Thiên Chúa giáo hóa của Nguyễn văn Thiệu (xem Việt Nam máu lửa quê hương tôi – Hoàng Linh – Đỗ Mậu, Thập Giá và Lưỡi Gươm – LM Trần Tam Tỉnh). Về phía dân chúng thì đây cũng là thời kỳ gây dựng, tập họp lại lực lượng để chống Thiệu vào một thời cơ thích hợp. (Thời cơ đó là Hiệp định Paris).

Về “một số thành tích đáng kể ông (Nguyễn Văn Thiệu) lập được ở nông thôn”, theo Lê Xuân Khoa, có hai : một là cải cách hành chánh ở các làng xã, hai là thực hiện sách lược Người Cày Có Ruộng.

Về cải cách hành chánh, ông viết: “Đó là việc tổ chức lại các hội đồng kỳ mục trong các làng xã mà các đại diện đều thực sự do dân chọn lựa qua bầu cử ” (LXK sđd trg 474-475).

Theo tôi, có hai điểm sai trong câu nhận định này:

– Thứ nhất là các Hội đồng kỳ mục chỉ xuất hiện tại các làng xã từ trước và trong thời kỳ thuộc địa vào một thời gian nào đó thôi. Sau Genève, Ngô Đình Diệm cầm quyền ở miền Nam, tổ chức hành chánh ở cơ sở được gọi là Hội đồng Hương chính hay Hội đồng xã. Đứng đầu Hội đồng Hương chính là Chủ tịch, (có nơi gọi là Xã trưởng hay là Đại diện xã). Giúp việc cho Chủ tịch là Phó Chủ tịch và thư ký, ngoài ra còn có các ủy viên phụ trách các tiểu ban: cảnh sát, y tế, giáo dục, hộ tịch, tài chánh, thuế vụ, canh nông…, xã nhỏ thì có 2, xã lớn thì có đến 8 – 9. Nhân sự trong các Hội đồng hương chính hầu hết là tín đồ Thiên Chúa giáo hay đảng viên đảng Cần Lao.

Do đó, không có việc Nguyễn Văn Thiệu tổ chức lại các “Hội đồng kỳ mục”, như Lê Xuân Khoa khẳng định, mà chỉ có việc Nguyễn văn Thiệu tổ chức lại các Hội đồng Hương chính đã có từ thời Ngô Đình Diệm theo sách lược quân phiệt hóa và (tiếp tục) Thiên Chúa giáo hóa triệt để hơn theo mô hình bốn cấp từ trung ương, đến tỉnh, huyện và cuối cùng là xã với nòng cốt là đảng Dân Chủ (tái sinh từ đảng Cần Lao) và Thiên Chúa giáo.

– Thứ hai: Việc Nguyễn Văn Thiệu tổ chức lại chính quyền ở các làng xã có theo tinh thần dân chủ không ? Theo tôi và cũng theo những thông tin của Lê Xuân Khoa qua đoạn trích dẫn trên là không. Một khi Nguyễn Văn Thiệu thực hành chính quyền quân phiệt thì làm sao có dân chủ được. Về mặt lý luận Lê Xuân Khoa đã sai. Về mặt thực hành Lê Xuân Khoa còn sai nữa:

Cũng như việc bầu bán chính quyền cơ sở của Cộng sản từ năm 1975 đến tận ngày nay : Các công dân không được tự do ứng cử, các cử tri cũng không được tự do bầu cử. Các ứng viên do đảng ủy địa phương chỉ định và lãnh đạo đảng cấp trên thông qua. Các cử tri bị bắt buộc đi bầu và bỏ phiếu cho 9 trên 10 (hay một tỷ lệ tương tự như thế) các “chỉ định viên” được ghi trên danh sách.

Thời Nguyễn Văn Thiệu việc bầu cử các Hội đồng Hương chính hay các Hội đồng đại diện cũng như thế. Đảng Dân Chủ (do Thiệu thành lập) chọn người ứng cử, cử tri chỉ có quyền bầu cho những người được đảng Dân Chủ giới thiệu. Thậm chí Chủ tịch (Xã trưởng hay Đại diện xã) Hội đồng Hương chính hay Hội đồng Đại diện là một thiếu úy hoặc chuẩn úy từ quân đội biệt phái về, hay một tín đồ Thiên Chúa giáo tại một địa phương khác được cử đến. Sau biến cố Mậu Thân tôi là sĩ quan quân đội Cộng Hòa, làm huấn luyện viên tại Trung tâm huấn luyện Phù Lương, nên biết rõ tình hình chính trị tại Thừa Thiên – Huế, đặc biệt tình hình bầu cử các Hội đồng tỉnh, thị xã, và các xã tại đây. Cụ thể, ở An Hòa, một xã vùng ven phía tây cổ thành Huế, một Thiếu úy làm Chủ tịch. Ở Vỹ Dạ (xã Hương Lưu), nơi chỉ có vài ba gia đình mới theo Thiên Chúa giáo vì danh lợi lại có một ông đeo Thánh giá từ nơi khác tới làm Đại diện. Ở Mỹ Lợi, quê tôi, cũng diễn ra tình trạng tương tự. Do vậy mà “các đội dân vệ và cảnh sát”, như Lê Xuân Khoa cho biết, “đã được chính quyền giúp đỡ tổ chức và huấn luyện. Đến tháng chín đã đạt chỉ tiêu 2 triệu đoàn viên Nhân dân Tư vệ cho năm 1969 và con số gia tăng mau chóng tới mức 3 triệu vào cuối năm” (nguyên văn Lê Xuân Khoa, sđd tr 475). Tổ chức Nhân dân Tự vệ thời Nguyễn Văn Thiệu cũng giống như tổ chức Dân phòng của chế độ Cộng Sản thời nay. Có khác chăng là các Nhân Dân Tự Vệ thời Nguyễn Văn Thiệu đều được trang bị súng cá nhân và lựu đạn. Các đội Dân Phòng trong chế độ Cộng Sản chỉ được phát dùi cui, ma trắc khi hành sự.

Chẳng biết dân số trong các làng xã do Thiệu kiểm soát vào thời điểm 1969 là bao nhiêu mà đã có đến ba triệu Nhân Dân Tự Vệ tiếp tay cho lực lượng cảnh sát, công an, mật vụ, nghĩa quân, địa phương quân dày đặc để “giữ gìn an ninh trật tự” ? Có khoảng 10.000.000 kể cả nam phụ lão ấu chăng ? Như thế, cứ khoảng 10 người dân thì có (?) cảnh sát hay công an mật vụ và 3 Nhân Dân Tự Vệ chăm sóc !

Về chính sách Người Cày Có Ruộng của Nguyễn Văn Thiệu được Lê Xuân Khoa đánh giá là chương trình “ cách mạng ” nhất trong các chương trình của ông Tổng thống Đệ nhị Cộng Hòa. Chương trình cách mạng của ông Thiệu, theo Lê Xuân Khoa, gồm ba điểm:

“1/ Địa chủ không được bắt tá điền trả địa tô thuộc những năm trước đó.

2/ Nông dân được Việt Cộng cấp ruộng trước đây sẽ không phải đóng thuế trong một thời gian.

3/ Những nông dân này sẽ được quyền giữ ruộng đất do Việt Cộng cấp và được cấp bằng khoán để chính thức trở thành tiểu điền chủ. Theo đó mức sở hữu của mỗi điền chủ được giới hạn tối đa là mười lăm ha, diện tích quá mức sẽ bị truất hữu để phát không cho dân nghèo…

Các địa chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thường. Sau ba năm thi hành luật Người Cày Có Ruộng, chỉ tiêu cấp phát một triệu ha đã được vượt qua với hơn 850.000 tá điền trở thành tiểu điền chủ” (LXK sđd tr 475).

Tuy nhiên, cũng theo Lê Xuân Khoa, số ruộng của địa chủ bị truất hữu (được bồi thường), và các tá điền trở thành tiểu điền chủ từ lâu đã ở trong vùng có “ chiến tranh giải phóng ”. Do vậy không có sự chống đối từ các địa chủ và cũng không có sự hưởng ứng chống Cộng từ các nông dân nghèo trở thành chủ ruộng. Nguyễn Văn Thiệu đã thực hiện cuộc cách mạng ruộng đất của ông trên giấy. Lê Xuân Khoa đã tán thưởng cuộc cách mạng này, vì sau 1975, những “ Người Cày Có Ruộng ” được Nguyễn văn Thiệu tấn phong đã tỏ ra vô cùng bất mãn trước chính sách tập thể hóa ruộng đất và thu mua lương thực của nhà nước Xã hội Chủ nghĩa (LXKsđ dtr476). Thì ra công cuộc chống Cộng của Nguyễn Văn Thiệu sâu sắc đến độ khi ông đã trốn chạy ra khỏi nước mà vẫn còn tác dụng gây khó khăn cho chế độ mới. Đáng tiếc là Nguyễn Văn Thiệu không còn là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa để tặng thưởng cho sử gia Lê Xuân Khoa một bằng khen.

Thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền sau Hiệp định Paris:

Theo Lê Xuân Khoa: Nguyễn Văn Thiệu “thích ứng được với vai trò chủ động của Hoa Kỳ từ giai đoạn Mỹ hóa chiến tranh” (từ 1965 – Chu Sơn) cho đến khi bị Nixon – Kissinger ép buộc phải chấp nhận hiệp định Paris 1973.

Trong quá trình “thích ứng được với vai trò chủ động của Hoa Kỳ” Nguyễn Văn Thiệu đã:

Chỉ nhờ thời cơ (Lê Xuân Khoa không nói nhờ Mỹ – Chu Sơn) mà trở thành nhà lãnh đạo, và đã dùng sự khôn khéo để xây dựng quyền hành để rồi trở thành độc tài”…,

Củng cố quyền lực bằng một hệ thống quan chức và cán bộ theo bè phái và bằng những biện pháp quân phiệt tất nhiên đưa tới tình trạng tham nhũng và bất công xã hội trầm trọng, làm mất lòng tin của dân chúng và làm suy yếu khả năng phát triển đất nước. Đây là một lỗi lầm hết sức nghiêm trọn ” (LXK sđd tr 471-472).

Cũng theo Lê Xuân Khoa, do bị Mỹ ép buộc phải ngồi vào bàn hội nghị và ký kết hiệp định Paris, nên Nguyễn Văn Thiệu đã không thực tâm thi hành, đã bỏ lỡ thời cơ

“Thăm dò và thảo luận thẳng thắng với MTGPMN về vấn đề hòa giải và khả năng hợp tác giữa hai bên miền Nam, về thời gian chuyển tiếp và những điều kiện thống nhất với miền Bắc”. “Nhưng thay vì hành động với tinh thần trách nhiệm, ông Thiệu vẫn duy trì hệ thống quyền lực và tham nhũng, bắt giam những người đối lập, khiến cho phong trào chống đối càng ngày càng lan rộng và quyết liệt” (LXK sđd tr 473).

Do sách lược và hành động sai lầm của Nguyễn Văn Thiệu như vậy nên dân chúng miền Nam đồng loạt nổi lên chống đối. Lê Xuân Khoa đã liệt kê các phong trào, tổ chức và phe phái chống Thiệu từ sau hiệp định Paris như sau:

– Phong trào Chống Tham Nhũng do Linh mục Trần Hữu Thanh lãnh đạo.

– Ủy Ban Phối hợp Hành động đòi bãi bỏ đạo luật 007 của các ký giả.

– Lực lượng Luật sư Tranh đấu của Luật sư đoàn.

– Trận Tuyến Nhân dân Cách mạng Tranh thủ Hòa bình.,

– Ủy ban bảo vệ Quyền lợi Công nhân của Linh mục Phan Khắc Từ,

– Mặt trận Nhân dân Cứu đói của Đại đức Thích Hiển Pháp và Linh mục Phan Khắc Từ.

– Phật giáo Ấn Quang huy động các Phật tử đòi chấm dứt chiến tranh.

– Phật giáo Việt Nam Quốc Tự kêu gọi Tổng thống Thiệu từ chức.

– Các Linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần là những tiếng nói mạnh mẽ chống chính quyền.

– Sinh viên – học sinh bãi khóa đấu tranh…

– Hội đồng Liên Tôn 11 giáo phái (đấu tranh cũng như ôn hòa) kể cả Lục Hòa Tăng, một tổ chức phi chính trị…

Các tổ chức, lực lượng, phong trào quần chúng Lê Xuân Khoa nêu trên không đầy đủ và cũng không chính xác các tên gọi và mục tiêu, nhưng cũng đã chứng tỏ một thực tế rằng là : ngoại trừ những phần tử trong hệ thống quân phiệt, tất cả nhân dân miền Nam bất kể ở trong hay ở ngoài chính quyền, Cộng Sản hay không Cộng Sản, Phật giáo hay Công giáo, lao động hay trí thức, sinh viên học sinh hay nông dân… đều đồng loạt chống Thiệu. (LXK sđ dtr 473 – 574).

Do vậy, dù đã “thích ứng được với vai trò chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ Mỹ hóa chiến tranh”, như Lê Xuân Khoa đã nhận định, Nguyễn Văn Thiệu không còn thích hợp với chiến lược “Việt Nam hóa” và cuộc chuẩn bị rút lui ê chề của Hoa Kỳ mà Lê Xuân Khoa gọi là “giải kết” và “đoạn tuyệt” với Việt Nam Cộng Hòa. Theo Lê Xuân Khoa thì:

Nguyễn Văn Thiệu “đã bị Đại sứ Mỹ Graham Martin thúc dục từ chức, ông chỉ từ chức trước khi miền Nam sụp đổ có chín ngày.”… Và “ông Thiệu chỉ có thể tự cứu mình bằng cách ra khỏi nước khi bộ đội miền Bắc lăm le tiến vào Sài Gòn bằng mọi ngả” (LXK sđd tr479).

Thay vì nói Nguyễn Văn Thiệu là công cụ, là bù nhìn là tay sai của Mỹ trong chiến tranh cũng như trong ký kết hòa bình với Cộng Sản miền Bắc, đến giờ phút cuối cùng bị Mỹ ép buộc phải từ chức, bị áp tải lên tận máy bay trốn chạy ra nước ngoài, thì Lê Xuân Khoa đã biết lựa lời mà nói “cho vừa lòng nhau” : “ông thích ứng được với vai trò chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ Mỹ hóa chiến tranh ” và “ ông Thiệu chỉ có thể tự cứu mình bằng cách ra khỏi nước”.

Để độc giả đời sau hiểu biết một cách cụ thể cuộc hành trình “ra khỏi nước” của Nguyễn Văn Thiệu như thế nào, tôi mượn lời của Lý Quí Chung – một dân biểu tả khuynh thời đệ nhị Cộng hòa:

Chi tiết về cuộc “trốn chạy” của ông Thiệu – vâng, phải gọi là một cuộc trốn chạy – được các tài liệu CIA sau này tiết lộ như sau:

Ngày 25-4-1975, đại sứ Martin điện cho Kissinger báo rằng ông ta đã nghĩ ra cách đưa Thiệu và Khiêm rời khỏi miền Nam một cách bí mật. Martin giao cho tướng Timmes tổ chức cuộc ra đi của Thiệu.

“…Từ tổng tham mưu, chính nhân viên CIA Frank Snepp và tướng Timmes đưa Thiệu và Khiêm ra sân bay. Timmes giới thiệu Snepp với Thiệu : “Đây là một chuyên viên phân tích cừ khôi của tòa đại sứ, hơn nữa anh ta còn là một tài xế đẳng cấp”. Khi ô tô đi vào sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, Timmes khuyên ông Thiệu cúi đầu xuống như thế sẽ an toàn cho Tổng thống. Timmes sợ lính gác nhận ra tổng thống của họ chạy ra nước ngoài và biết đâu sẽ manh động. Timmes hỏi thăm bà Thiệu và con gái, ông Thiệu trả lời: “Họ đang shopping ở London mua đồ cổ…” (Lý Quí Chung – Hồi Ký Không Tên – nxb Trẻ 2004).

Có lẽ Lý Quí Chung đã chưa chính xác lắm khi dùng từ “trốn chạy”. Theo tôi, nếu ghép thêm từ “áp tải” thì chuyến “ra khỏi nước” đặc biệt chiều hôm 25 tháng Tư năm 1975 của Thiệu mới đầy đủ ý nghĩa và hoàn toàn chính xác.

 

VI. Nội chiến hay Chiến tranh Uỷ nhiệm ?

chiến tranh Việt Nam

Đầu đề là một câu hỏi, nhưng ở trang dẫn nhập của phần này (Phần Ba), Lê Xuân Khoa đã khẳng định:

Thực tế thì đây là một cuộc nội chiến giữa hai phe người Việt Nam đeo đuổi những lý tưởng khác nhau, đồng thời cũng là một cuộc chiến tranh uỷ nhiệm trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản, với sự tham gia trực tiếp của Hoa Kỳ” (LXK sđd tr 271).

Người học sử Việt Nam không xa lạ với hai từ nội chiến. Các cuộc chiến tranh giữa Trịnh – Mạc, Trịnh – Nguyễn từ giữa thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII là nội chiến. Đến cuộc chiến tranh giữa Nguyễn Tây Sơn với Nguyễn Phú Xuân (vào nửa sau thứ kỷ XVII), các sử gia bắt đầu ngập ngừng. Nhiều người chê trách Nguyễn Ánh đã cõng rắn cắn gà nhà, rước voi về giày mả tổ khi ông này cầu viện quân Xiêm và nhờ Bá Đa Lộc đi cầu viện Pháp quốc. Quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện bị Quang Trung đánh tan tành. Cuộc cầu viện phương Tây dang dở, vì vấn đề nội bộ, Pháp không thực hiện hiệp ước đã ký với Bá Đa Lộc. Sự cộng tác quá nhiệt tình của Bá Đa Lộc và giáo hội Thiên Chúa giáo lúc bấy giờ đã giúp Nguyễn Ánh vượt qua nhiều giai đoạn khó khăn và có tác động quyết định trong những trận quyết chiến cuối cùng giúp Nguyễn Ánh đánh bại được Tây Sơn trên đà suy yếu vì lục đục nội bộ, vì đánh giá thấp vai trò – vị trí miền Nam (của anh em Tây Sơn), và đặc biệt vì cái chết đột ngột của Quang Trung. Nhưng khi Nguyễn Ánh lên ngôi (Gia Long), hoàn tất công cuộc thống nhất đất nước do Quang Trung để lại, xây dựng vương triều nhà Nguyễn trong độc lập và tự chủ, thì cái tội cõng…, rước voi… được xem xét lại. Bởi các yếu tố cầu cứu ngoại bang của Nguyễn Ánh đã dừng lại tại những vùng đã xẩy ra chiến sự. Gia Long đã không mang nó về kinh đô Huế khi ông bắt đầu xây dựng lại đất nước trong hoà bình.

Chúng ta trở lại vấn đề đang bàn.

Theo Lê Xuân Khoa, bên này cuộc nội chiến là Việt Nam Cộng Hoà với hai thời kỳ tổng thống là Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu. Và bên này của cuộc uỷ nhiệm là Hoa Kỳ.

Mà :

– Ngô Đình Diệm, người đứng đầu Việt Nam Cộng Hoà, thì: (tôi trích dẫn lại lời Lê Xuân Khoa) “Chính phủ Diệm chỉ có thể tồn tại được nhờ áp lực của Hoa Kỳ đối với Pháp và Bảo Đại dù chính đặc sứ J. Lawton Collins cũng muốn thay Diệm” (LXK sđd tr428).

Cũng theo Lê Xuân Khoa, trong suốt 9 năm chính phủ Diệm “tồn tại”, đồng minh “uỷ nhiệm” là Hoa Kỳ đã rất nhiều lần toan tính thay thế, lật đổ ông, và cuối cùng:

“…và cú đảo chính đã không thể xảy ra nếu không có sự chuẩn bị của chúng ta” (…Hoa Kỳ - Chu Sơn) (LXK sđd tr457).

Theo McCone, giám đốc CIA hồi đó, Kennedy vẫn nhấn mạnh trong các phiên họp là không thể đối xử với ông Diệm cách nào tệ hơn là lưu đày, nhưng thật khó mà tin là ông không biết được rằng khi Hoa Kỳ cho phép (các tướng lãnh VNCH – Chu Sơn) làm đảo chánh thì có thể sẽ phải có giết chóc” (LXK sđd tr455).

Và:

– Nguyễn Văn Thiệu, người đứng đầu Việt Nam Cộng Hoà giai đoạn hai, là một trong nhóm các tướng mà người Mỹ gọi môt cách khinh bỉ là “ hảo hán trẻ ” (LXK dịch từ nguyên văn Young Turks), được Mỹ tuyển chọn làm Tổng thống của nền Cộng hoà lần thứ hai :

Ông thích ứng được với vai trò chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ Mỹ Hoá”chiến tranh, cho đến khi bị Nixon – Kissinger ép buộc chấp nhận hiệp định Paris 1973” (LXK sdd trg 470).

Ông khéo thích ứng với chính sách của Hoa Kỳ và tin tưởng vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho đến khi bị đại sứ Graham Martin thúc dục từ chức” (LXK sđd tr 476).

Ông…chỉ có thể tự cứu lấy mình bằng cách ra khỏi nước khi Hoa Kỳ đã dứt khoát đoạn tuyệt với VNCH…” (LXK sđd tr 479).

Câu thứ ba của đoạn trích dẫn trên, Lê Xuân Khoa muốn cho độc giả biết rằng nếu Nguyễn Văn Thiệu không tự cứu lấy mình bằng cách tuân lệnh Hoa Kỳ mà ký hiệp định Paris, mà từ chức và trốn chạy ra nước ngoài, chắc chắn ông sẽ bị “thảm sát” như trường hợp người đồng nghiệp tiền nhiệm Ngô Đình Diệm năm 1963.

Chỉ với những trích dẫn trên, Lê Xuân Khoa cho độc giả thấy rằng sinh mệnh và sự nghiệp của hai nhân vật đứng đầu hai thời kỳ Cộng Hoà tại miền Nam là Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn nằm trong tay Hoa Kỳ. Cả hai trường hợp (Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu), Hoa Kỳ đã ứng xử không như một đồng minh, mà như một ông chủ sẵn sàng giết bỏ các nô lệ của mình, hay như một bố già Mafia bắn bỏ một thủ lĩnh đàn em cứng đầu.

Trong khi hai nhân vật đó đối với nhân dân miền Nam thì, cũng theo Lê Xuân Khoa :

“…khi Ngô Đình Diệm làm chủ được tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam (23-10-1955 – Ngô Đình Diệm trở thành tổng thống qua cuộc trưng cầu dân ý độc diễn và tự gian lận – Chu Sơn) thì ông lại bắt đầu thiết lập chế độ độc tài gia đình trị” (LXK sđd tr434)

“…ông không chấp nhận những những quan điểm khác biệt và không tha thứ (bất cứ – Chu Sơn) ai làm trái ý ông. Ngày 15-1-1956 ông giải tán Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng để loại trừ những người có công với ông…” (LXK sđd tr434)

Nguyễn Văn Thiệu “…chỉ nhờ thời cơ (Lê Xuân Khoa không nói nhờ Mỹ – Chu Sơn) mà trở thành nhà lãnh đạo, và đã dùng sự khôn khéo để xây dựng được quyền hành để rồi trở thành độc tài” (LXK sđd tr471).

Nguyễn Văn Thiệu “củng cố quyền lực bằng một hệ thống quan chức và cán bộ theo bè phái và bằng những biện pháp quân phiệt tất nhiên sẽ đưa đến tình trạng tham nhũng và bất công xã hội trầm trọng, làm mất lòng tin của dân chúng và làm suy yếu khả năng phát triển đất nước” (LXK sđd tr 471-472).

Thưa giáo sư Lê Xuân Khoa: Khi mà sinh mệnh và sự nghiệp của hai nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng Hoà tuyệt đối nằm trong tay người Mỹ, khi mà Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu xây dựng chế độ độc tài gia đình trị và độc tài quân phiệt thì họ lấy quyền đâu, sức đâu để tiến hành cuộc nội chiến ? Bởi vì, theo những trích dẫn trên, quyền lực đích thực lúc bấy giờ tại miền Nam nằm trong tay người Mỹ, và dân chúng thì chắc chắn không để cho người cai trị độc tài và hủ bại đưa mình đến chỗ chết. Dân chúng phải nổi dậy thôi:

– Năm 1963, khi mà sự tuyệt vọng và phẫn nộ lên đến đỉnh điểm, qua phong trào Phật giáo, nhân dân các đô thị miền Nam đã nổi dậy làm hậu thuẫn cho cuộc đảo chính của các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà với sự “ cho phép của Hoa Kỳ ” (nguyên văn của LXK). Chế độ độc tài gia đình trị bị lật đổ. Anh em Diệm – Nhu – Cẩn bị “ thảm sát ” (từ của LXK).

– Từ sau hiệp định Paris được công bố, nhân dân các đô thị miền Nam (kể cả một phần của giáo hội Công giáo) rầm rộ nổi dậy tạo điều kiện thuận lợi cho thời kỳ kết thúc chiến tranh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, khi Hoa Kỳ – nói theo ngôn ngữ nhẹ nhàng gượng gạo của Lê Xuân Khoa – giải kết và đoạn tuyệt với Việt Nam Cộng Hoà, Nguyễn Văn Thiệu bị Mỹ bắt buộc phải từ chức và trốn chạy ra khỏi nước dưới sự áp tải của CIA. Mười ngày sau khi Thiệu từ chức, sáu ngày sau khi Thiệu “ ra khỏi nước ” (từ của LXK), Dương Văn Minh – tổng thống mới nhậm chức được hai ngày – vừa thay mặt cho Mỹ, vừa thay mặt cho Việt Nam Cộng Hoà, vừa là người đứng đầu của lực lượng chính trị Thứ Ba tuyên bố đầu hàng trước họng súng của quân Giải Phóng mà ông tưởng là những người anh em.

Mỹ cút – Ngụy nhào, hay Mỹ rút – Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ cũng thế thôi. Bởi vì nếu không thua, Mỹ đã không rút. Trong trường hợp Mỹ rút mà Ngụy không nhào, thì Ngụy không còn là Ngụy nữa, mà là Việt Nam Cộng Hoà, một trong hai phe chính danh của cuộc nội chiến.

Về mặt chứng lí, những trang tôi vừa dẫn luận trên là đầy đủ để có thể chấm dứt cuộc thảo luận về vấn đề bản chất của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1954-1975).

Sự thật lịch sử là như thế, còn vấn đề ngôn từ, thiết nghĩ cũng nên thanh lý với Lê Xuân Khoa để làm sáng tỏ thêm:

Uỷ nhiệm có nghĩa là giao phó, là uỷ thác một trách nhiệm:

– Gia Long khi ra xây dựng kinh đô Huế, uỷ nhiệm Lê Văn Duyệt xử lý mọi vấn đề ở miền Nam.

– Sau Genève, từ Pháp, Bảo Đại (trên hình danh) uỷ nhiệm Ngô Đình Diệm về nước thành lập và điều hành chính phủ Quốc Gia.

– Kennedy uỷ nhiệm Cabot Lodge đi Việt Nam giải quyết vấn đề Ngô Đình Diệm khi ông này tỏ ra ngoan cố trong việc thực hiện dân chủ và bình đẳng tôn giáo nhân cuộc đấu tranh của Phật giáo, và…

Cả ba trường hợp người uỷ nhiệm vắng mặt và người được uỷ nhiệm có toàn quyền thực thi nhiệm vụ.

Tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam từ 1954 đến 1975 không diễn ra như thế. Ông chủ Mỹ luôn luôn có mặt, theo dõi sát sao và trực tiếp điều hành mọi sách lược, chương trình, kế hoạch hành động xây dựng miền Nam thành tiền đồn chống Cộng và chủ động tiến hành cuộc chiến tranh. Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu chỉ là kẻ thừa hành. Ngô Đình Diệm bị giết là do ông muốn thoát khỏi sự điều hành trực tiếp của ông chủ Mỹ. Nguyễn Văn Thiệu “tự cứu lấy mình” khi răm rắp tuân theo các mệnh lệnh, chỉ thị của Hoa Kỳ nên đã thoát thân.

Lê Xuân Khoa đã sai trong nhận định lịch sử, Lê Xuân Khoa còn không chính xác khi sử dụng ngôn từ. Nhưng chắc chắn Lê Xuân Khoa vẫn chưa buông bỏ vấn đề. Ông nói : Còn sự thật lịch sử ở bên kia – miền Bắc ? Chẳng phải đảng Cộng Sản và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà không nhận uỷ nhiệm từ Liên Xô và Trung Quốc sao ?

Sau đây là những gì Lê Xuân Khoa viết về Liên Xô và Trung Quốc trong quan hệ với miền Bắc từ sau Genève cho đến khi kết thúc chiến tranh Việt – Mỹ, mà ông gọi là Nội chiến và Uỷ nhiệm.

“…Do đó, trong những năm đầu sau Genève, Trung Quốc không muốn cho giới lãnh đạo miền Bắc tấn công miền Nam để thống nhất đất nước…” (LXK sđd tr276).

“…Đông Dương không có ưu tiên về an ninh hay quyền lợi của Cộng Sản Quốc tế, trong khi Liên Xô đang cần ngăn chặn những nỗ lực của Hoa Kỳ thành lập Cộng Đồng Phòng Thủ Châu Âu… Ngoài ra, Liên Xô không muốn đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam… Trước viễn tưởng đó, Liên Xô từ bỏ ảnh hưởng ở Việt Nam xa xôi…” (LXK sđd tr 276, 277).

Về mặt quốc tế, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vẫn được Trung Quốc nhiệt tình ủng hộ từ thời chiến tranh chống Pháp, nay (1960 – Chu Sơn) vì mối mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc từ 1956 mà cả hai bên đều phải tăng gia chi viện cho Hà Nội để giữ được uy tín và ảnh hưởng với các nước Cộng Sản trên thế giới…” (LXK sđd tr.279).

“…Hà Nội lúc này (1966 – Chu Sơn) chịu ảnh hưởng của Bắc Kinh nên đã bác bỏ đề nghị của Johnson đòi Mỹ rút hết quân khỏi miền Nam và thừa nhận một chính quyền Trung lập như được hoạch định bởi M.T.G. P. M. N.” (LXK sđd tr287).

“…Bắc Kinh nhất quyết chống lại mọi nỗ lực giải quyết chiến tranh Việt Nam bằng thương thuyết…”… “ Bắc Kinh thường xuyên nhắc nhở các lãnh tụ Hà Nội chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Theo một tài liệu bắt được của Bắc Việt năm 1967Trung Quốc quyết tâm giúp chúng ta chiến đấu đến đời con đời cháu của chúng ta”. ” (LXK sđd tr.288).

“…Kosygin đang ở Hà Nội (1965 – Chu Sơn) thảo luận vấn đề viện trợ quân sự đồng thời khuyến cáo các giới lãnh đạo Hà Nội chấp nhận giải pháp hoà bình

“…Karnow cho rằng Hà Nội vẫn chống lại khuynh hướng chủ hoà của Kosygin đã sắp xếp vụ tấn công Pleiku để buộc Hoa Kỳ phải trả đũa và đẩy Liên Xô vào thế chẳng đặng đừng ” (LXK sđd tr 290).

“... Hoa Kỳ nghĩ đến việc trông cậy vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Ngày 19 (tháng 4-1975 – Chu Sơn) Ford (tổng thống Mỹ – Chu Sơn) thông báo cho Brezhnev ý định nhờ lãnh tụ đảng Cộng Sản Liên Xô can thiệp để ngưng chiến tại Việt Nam và để thảo luận về một sự thay đổi tình hình chính trị ở Sài Gòn ” (LXK sđd tr 311).

Với những gì trích dẫn trên đây, kể cả nhiều lần Lê Xuân Khoa khẳng định rằng là Liên Xô, Trung Quốc vì những mục đích khác nhau đã “phản bội” đồng minh, bắt ép đảng Cộng Sản và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ký hiệp định Genève với những điều kiện thua thiệt, không tương xứng với những thắng lợi trên chiến trường. Và cũng vì những mục tiêu khác nhau, hai nước Cộng Sản đàn anh này đều muốn Việt Nam bị chia cắt lâu dài hoặc vĩnh viễn (xem LXK sđd chương 4).

Và mặc dầu Trung Quốc, Liên Xô đều muốn hoà hoãn, chung sống hoà bình với phương Tây, và lại mâu thuẫn xung đột lẫn nhau từ 1956, nhưng: “Cả hai đều phải gia tăng chi viện cho Hà Nội để được giữ uy tín và ảnh hưởng với các nước Cộng Sản khác trên thế giới ” (LXK sđd tr 279).

Như thế là từ 1959, Liên Xô,Trung Quốc đều bị đảng Cộng sản Việt Nam đặt để trong tình thế chẳng đặng đừng : “phải gia tăng chi viện”. Sự thể là sau gần 5 năm theo đuổi sách lược đấu tranh hoà bình để thống nhất đất nước theo tinh thần của hiệp định Genève bất thành với những tổn thất to lớn, đảng Cộng Sản và các nhà lãnh đạo ở Hà Nội quyết tâm thống nhất đất nước bằng giải pháp kết hợp chính trị – quân sự qua nghị quyết XV. Đảng Cộng sản Việt Nam đi cầu viện Liên Xô, Trung Quốc. Để rồi, theo yêu cầu của Hà Nội, “…cả hai nước phải tăng gia chi viện cho Việt Nam đánh Mỹ”.

Đều phải tăng gia chi viện, nhưng cả hai nước Liên Xô và Trung Quốc đã không thống nhất trong sách lược và cách thức chi viện cho Hà Nội, cho nên các nhà lãnh đạo miền Bắc được độc lập và tự chủ trong quá trình tiến hành chiến tranh với Hoa Kỳ.

– Liên Xô thì vừa chi viện vừa khuyến cáo Hà Nội nên tiến hành đàm phán với Hoa Kỳ nhằm chấm dứt chiến tranh. Thậm chí, khi quân miền Bắc vào gần sát Sài Gòn, theo sự nhờ vả của Hoa Kỳ, Liên Xô còn can thiệp để có một giải pháp chính trị gì đó trên phần lãnh thổ còn lại.

– Trung Quốc thì vừa chi viện vừa áp lực để Hà Nội không thương lượng gì cả với Hoa Kỳ, và “ giúp chúng ta đánh Mỹ đến đời con đời cháu ” – nhưng đánh nhỏ, đánh cầm chừng, đánh mà không dứt điểm.

Thưa học giả Lê Xuân Khoa, nếu quan hệ giữa miền Bắc và các nước Liên Xô, Trung Quốc từ sau Genève đến năm 1975 như những gì ông đã viết và tôi đã tóm lược, đã làm rõ ở trên là chính xác, thì hoàn toàn không có chuyện uỷ nhiệm và nhận uỷ nhiệm từ các phía liên hệ.

Theo đó, Liên Xô phải từ bỏ mục tiêu dài hạn của mình là không muốn Việt Nam thống nhất, không muốn đối đầu với Hoa Kỳ tại “ vùng đất xa xôi Đông Nam Á ”, đã phải chi viện cho Việt Nam, và luôn bị đồng minh Bắc Việt đẩy vào tình thế “ chẳng đặng đừng ”, đã giúp đỡ Bắc Việt tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ đến thắng lợi cuối cùng là “ đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào ”, hoàn thành thống nhất đất nước.

Và Trung Quốc, như những gì Lê Xuân Khoa đã viết, vào các thời kỳ khác nhau đã chủ trương ba không (không muốn Việt Nam thống nhất, không muốn Việt Nam đánh lớn, không muốn Việt Nam thương lượng hoà bình với Mỹ, và một quyết (“ giúp chúng ta đánh Mỹ đến đời con đời cháu ”), vẫn “ phải chi viện cho miền Bắc ”, vẫn phải để cho Hà Nội chủ động tiến hành chiến tranh và đơn phương đấu tranh hoà bình với Hoa Kỳ, đơn phương kết thúc cuộc chiến tranh như sách lược chính trị và quân sự do đảng Cộng Sản Việt Nam vạch ra từ 1959.

Lê Xuân Khoa để ra 40 trang (273- 313) để mô tả cuộc chiến tranh mà ông gọi là Nội chiến và Chiến tranh Uỷ nhiệm tại Việt Nam 1954 – 1975 với tựa đề “Sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà”.

Nhưng độc giả chỉ thấy hai từ Nội chiếnUỷ nhiệm xuất hiện một cách lạc lõng trong tựa đề của phần Ba và mấy dòng đầu của trang dẫn nhập. Các từ Trung Quốc, Liên Xô, Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa xuất hiện nhiều hơn ở những trang đầu của chương 7. Về mặt thời gian, từ 1967 trở về sau (đến 1975), theo những gì Lê Xuân Khoa viết ở chương này, cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai thực chất là cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà trên chiến trường cũng như trên bàn hội nghị (Paris).

Việt Nam Cộng Hoà, Nguyễn Văn Thiệu, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và những người đại diện của nó được Lê Xuân Khoa nhắc đến nhiều lần trong vai trò công cụ và lực lượng phụ thuộc. Liên Xô và các nhà lãnh đạo của nước này được Lê Xuân Khoa đề cập nhiều lần trong vai trò chủ thể chi viện và trung gian điều đình. Còn Trung Quốc thì hoàn toàn vắng mặt từ trước trận Mậu Thân (1968) cho đến khi kết thúc chiến tranh. Khi người ta vắng mặt thì không thể bị cáo buộc này nọ. Uỷ nhiệm chiến tranh lại càng không. Lê Xuân Khoa không thể không biết đạo lý này. Còn Bắc Việt, kẻ nhận chi viện, không thể không gặp khó khăn, chịu áp lực, nhận khuyến cáo này nọ trước hai nước Cộng sản đàn anh đồng thời là chủ nợ đang chuyển dần từ đồng chí qua đế quốc bành trướng, nhưng họ đã vượt qua một cách khôn khéo và vô cùng bản lãnh, để rồi cuối cùng họ đã thành đạt gần hết các mục tiêu đề ra.

Thực tế lịch sử là như thế, còn về lí luận thì Trung Quốc không thể uỷ nhiệm cho đảng Cộng Sản và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cái mục tiêu do chính đảng Cộng Sản Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đề ra. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1954-1975) Trung Quốc chỉ là nước “phải chi viện” (nguyên văn của LXK), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là nước nhận chi viện và đã chủ động thực hiện các mục tiêu của mình : “đánh cho Mỹ cút – đánh cho Ngụy nhào ”, hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước. Mục tiêu này hoàn toàn là của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, mâu thuẫn với ý đồ và quyền lợi lâu dài của Trung Quốc mà Lê Xuân Khoa đã nhiều lần cáo buộc. Tôi xin tóm lược lại:

– Trung Quốc cùng với Liên Xô, Anh, Pháp chia cắt Việt Nam thành hai quốc gia riêng biệt với ý đồ duy trì cuộc chia cắt lâu dài hoặc vĩnh viễn ; cả hai đều chủ trương chung sống hoà bình với phương Tây (xem chương 4).

– Trung Quốc “không muốn cho giới lãnh đạo miền Bắc tấn công miền Nam ” (xem chương 7 trang 276).

– Trung Quốc “ nhất quyết chống lại mọi nỗ lực giải quyết chiến tranh Việt Nam bằng thương thuyết ” (chương 7 trang 288).

Trong khi đó đảng Cộng Sản (Việt Nam) chủ động đề ra sách lược (nghị quyết 15) giải phóng miền Nam, chủ động đương đầu với Mỹ trong chiến tranh cũng như trong thương lượng hoà bình (hội đàm Paris) và hoàn thành công cuộc đấu tranh vì độc lập và thống nhất đất nước (xem Lê Xuân Khoa sđd từ trang 290 – đến hết chương 7 – Sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà). Chính Lê Xuân Khoa đã viết ở trang 305 như sau: “Khác với hội nghị Genève có tính cách quốc tế, hội nghị Paris 1973 chỉ là những cuộc hội đàm song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà…”

Chiến tranh cũng giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mỹ. Đàm phán hoà bình cũng giữa Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Thực tế lịch sử này, một lần nữa chứng tỏ kết luận của Lê Xuân Khoa về tính chất của cuộc đụng độ mà ông gọi là Nội Chiến và Uỷ Nhiệm là không chính xác.

Cũng như các phần, các chương trước, Lê Xuân Khoa đã lắt léo sử dụng thủ pháp quen thuộc : kết luận một đường (trước khi) chứng minh một nẻo. Có điều phần chứng minh ông đã thực hiện rất cẩu thả, vụng về. Tôi đơn cử hai ví dụ:

(1) Ở trang 284, Lê Xuân Khoa viết như sau:

Tổng số lực lượng thống nhất quân Giải phóng miền Nam (thường được gọi là Việt cộng) vào năm 1961 là 25.000, chỉ một năm sau đã lên đến 123.000”.

Về phần Việt Nam Cộng Hoà, quân số tăng từ 15.000 năm 1960 lên 250.000 năm 1964. Lực lượng của Mỹ cũng gia tăng từ 500 cố vấn năm 1960 lên tới 23.000 năm 1964”.

(2) Ở trang 294, Lê Xuân Khoa viết:

“…đầu năm 1968 tướng Võ Nguyên Giáp quay trở lại mặt trận Khe Sanh với quân số từ 20.000 đến 30.000 để lôi cuốn thêm lực lượng Hoa Kỳ vào vòng chiến”.

Cả hai thông tin: về quân số Việt Nam Cộng Hoà năm 1960 (15.000) và về tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy trận Mậu Thân, chứng tỏ:

– Ông không có một nghiên cứu đứng đắn về sự hình thành và phát triển của quân đội Việt Nam Cộng Hoà, theo ông là một bên của cuộc nội chiến và là quân đội của một bên nhận uỷ nhiệm (chính quyền Việt Nam Cộng Hoà).

– Ông cũng đã không có một nghiên cứu đứng đắn tối thiểu về giới lãnh đạo quân sự và chính trị của miền Bắc – bên kia của cuộc nội chiến và nhận uỷ nhiệm.

Về quân số Việt Nam Cộng Hoà năm 1960

Theo tôi quân đội Việt Nam Cộng Hoà vào thời điểm 1960 có vào khoảng 10 lần hơn con số 15.000 Lê Xuân Khoa đưa ra. Đó là không kể quân số trong các quân binh chủng Hải quân, Không quân đang hình thành – phát triển. Ngoài ra còn có các lực lượng Địa phương quân, Nghĩa quân ở các tỉnh, quận huyện, làng xã. Chắc Lê Xuân Khoa sẽ mỉm cười mỉa mai khi một cá nhân thiếu bảo chứng học thuật như tôi lại tranh cãi với ông, một nhà nghiên cứu, về “những con số lịch sử”. Vậy thì xin mời ông kiểm chứng qua những tài liệu trích dẫn sau đây:

Ngày 26 tháng 10 năm 1955, khi cử hành lễ đăng quang của Tổng thống Ngô Đình Diệm và cũng là ngày khai sinh nền Đệ Nhất Cộng Hoà, quân đội Quốc Gia Việt Nam đổi tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Lúc đó quân số hiện diện là 167.000 người ” (Quân sử Việt Nam Cộng Hoà, theo qlvnch.blogspot.com).

“… từ năm 1955, riêng bộ binh, quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã có 10 sư đoàn gồm 4 sư đoàn dã chiến và 6 sư đoàn khinh chiến. Các binh chủng Hải quân, Không quân cũng bắt đầu thành lập từ năm này, với tàu chiến, máy bay, huấn luyện và các trang thiết bị do quân đội Hoa Kỳ đảm trách và cung cấp. Đến năm 1960 các binh chủng như Lực lượng Đặc biệt, Thuỷ quân Lục chiến, Biệt động quân, Nhảy dù đã trưởng thành ở cấp lữ đoàn, liên đoàn, và đang tiến tới thành lập sư đoàn ” (theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).

Tôi không hiểu vì sao Lê Xuân Khoa đưa ra con số 15.000 quân Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1960?

Nếu năm 1960 Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 15.000 quân thì lấy sức đâu năm 1954-1955 đương cự với quân của các giáo phái, đánh tan quân Bình Xuyên, san bằng các chiến khu của Quốc Dân Đảng, Đại Việt, và đặc biệt giành độc lập từ tay người Pháp như Lê Xuân Khoa đã viết ?

Nếu năm 1960 Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 15.000 quân thì chắc chắn năm 1954-1955 số quân Việt Nam Cộng Hoà còn ít hơn, và như thế miền Bắc đã bãi bỏ chủ trương đấu tranh hoà bình, vì vào thời điểm đó họ đã để lại miền Nam hàng trăm ngàn cán bộ (quân sự – chính trị) với nhiều vũ khí và nhiều tình báo viên mai phục trong quân đội và chính quyền miền Nam.

Nếu năm 1960, Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 15.000 quân thì rõ ràng người Mỹ đã ăn không ngồi rồi gần sáu năm sau khi thành lập SEATO, và “mật ký với Pháp nghị định thư ghi nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là lực lượng Cộng sản gây hấn, chống lại những ý niệm và quyền lợi của nhân dân tự do ở các quốc gia liên kết, Pháp và Hoa Kỳ, và hứa ủng hộ Ngô Đình Diệm trong việc thành lập và duy trì một chính phủ mạnh, chống cộng và có xu hướng quốc gia ” (LXK sđd tr276).

Một chính phủ mạnh không thể không có một quân đội mạnh, phải không, thưa giáo sư, học giả Lê Xuân Khoa ? Vào thời điểm 1960 một chính phủ mạnh không thể có một số quân là 15.000, cho dù chính phủ đó được lãnh đạo bởi “ Ngô Tổng thống anh minh ” – người mà năm năm trước, ngày 9 tháng 8 (1955) đã dứt khoát bác bỏ lời kêu gọi thương lượng hoà bình để thống nhất đất nước của thủ tướng miền Bắc Phạm Văn Đồng. Khước từ hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, có nghĩa là Ngô Đình Diệm gián tiếp thách đố với miền Bắc về mặt quân sự.

Về “Tướng Võ Nguyên Giáp và chiến dịch TCK/ TKN tết Mậu Thân ”

Theo tôi, sự kiện tết Mậu Thân, Võ Nguyên Giáp không tham gia làm kế hoạch, cũng không có vai trò quyết định trong việc chỉ đạo chiến trường cho đến hết đợt I. Bằng nhiều nguồn thông tin khác nhau, từ sau biến cố 1975, tôi biết được rằng bộ tứ lãnh đạo tối cao thời chống Pháp : Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, từ sau hội nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản (1959), đã từng bước bị tước quyền, trở thành những nhà lãnh đạo thứ yếu ở tuyến hai, nhường quyền thống soái cho bộ tam Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng ở trung ương, và bộ tam Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng ở chiến trường miền Nam. Do vậy, không có chuyện “tướng Giáp quay trở lại mặt trận Khe Sanh…” như Lê Xuân Khoa đã viết.

Lê Xuân Khoa có thể kiểm tra các thông tin và nhận định của tôi bằng các tài liệu trích dẫn sau đây:

Kế hoạch Mậu Thân có nguồn gốc từ những kế hoạch ban đầu chúng ta hình thành mà một số nhà nghiên cứu gọi là Kế Hoạch X. Kế hoạch này được khởi phát vào lúc mà cuộc chiến tranh ở miền Nam đang tiến dần đến sự thay đổi chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ tiến hành ở miền Nam đang sa lầy, thất bại” (theo PGS/TS Đại tá Hồ Khang – Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam. Wikipedia trích).

Tháng 7 và tháng 8 – 1967 cục tác chiến bộ tham mưu bắt tay xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho năm 1968 theo tinh thần Bộ chính trị tháng 6 và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương”.

Tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng gợi ý cho “Tổ kế hoạch” do cục trưởng cục tác chiến Lê Ngọc Hiền phụ trách là nên nghĩ đến kế hoạch và cách đánh khác với cách đánh “truyền thống” mà lâu nay quân Giải phóng đã làm, thì mới giành thắng lợi quyết định. Trong khi “Tổ kế hoạch” còn đang suy nghĩ tìm cách đánh mới, thì Tổng bí thư Lê Duẩn khi trao đổi với quân uỷ Trung ương về kế hoạch tác chiến năm 1968 đã đề xuất giải pháp đánh thẳng vào sào huyệt của địch trong các thành phố, thị xã. Ý kiến của Lê Duẩn được Quân uỷ Trung ương và Tổng tham mưu trưởng tán thành và trở thành ý định quyết tâm chiến lược năm 1968…” (Sự kiện Tết Mậu Thân. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt)

Thực ra hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã bày tỏ quan điểm chống lại kế hoạch đó” (Ý kiến của nhà nghiên cứu độc lập Merle Pribbenow, nguyên là chuyên viên ngôn ngữ của cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ CIA làm việc tại Sài Gòn trước đây, trình bày tại cuộc hội thảo do Trung tâm Việt Nam của đại học Texas Tech tổ chức – phóng viên Việt Long ghi – Đài RFA phát ngày 16 – 3 – 2008)

Quan niệm về một cuộc tổng công kích nổi dậy thực ra bắt nguồn từ những năm giữa thập niên 1960. Và kế hoach đó sau cùng là sản phẩm chung của tướng Văn Tiến Dũng, thuộc cấp cao cấp nhất của tướng Giáp, và tổng bí thư Lê Duẩn, đối thủ lâu năm của vị tướng được cả quân dân miền Bắc ngưỡng mộ và thường gọi là anh Văn” (Phát biểu của sử gia Villard tại cuộc hội thảo do Trung tâm Việt Nam của đại học Texas Tech tổ chức, phóng viên Việt Long ghi, đài RFA phát ngày 10 – 3 – 2008)

Viết về một cuộc chiến tranh mà chưa nắm rõ sự hình thành và phát triển lực chính trị và quân sự của bên này, đồng thời lơ mơ về giới lãnh đạo chính trị – quân sự của bên kia mà còn đưa ra những “Bài học lịch sử” tràng giang đại hải cho các bên tham chiến, còn lớn tiếng hô hào hoà hợp, hoà giải dân tộc thì quả là việc làm hoang tưởng, hoặc phản ảnh một ý đồ chính trị khó lường. Tôi nghiêng về khả năng thứ hai.

Chi tiết 15.000 quân của Việt Nam Cộng Hoà năm 1960 do Lê Xuân Khoa đưa ra là một sai trật nhỏ trong rất nhiều sai trật ông đã mắc phải trong quá trình mô tả sự hình thành phát triển phe Quốc Gia nói chung, và miền Nam như là “một quốc gia riêng biệt” từ sau hiệp định Genève mà “Hoa Kỳ và Pháp đã “mật ký Nghị định thư ủng hộ Ngô Đình Diệm trong việc thành lập và duy trì một chính phủ mạnh, chống cộng và có xu hướng quốc gia” (LXK sđd tr276).

Theo tôi một chính phủ mạnh không chỉ có một quân đội mạnh mà cần phải có một lực lượng chính trị mạnh được hậu thuẫn bởi một bộ phận quần chúng nhất định nhằm đánh bại các cuộc tấn công của miền Bắc về cả hai phương diện chính trị và quân sự. Như thế là cái sứ mệnh mà Thế giới Tự do giao phó cho chính phủ Ngô Đình Diệm nằm trong “mật ký của Hoa Kỳ và Pháp” là “chống cộng” và “quốc gia”.

Cho dù Lê Xuân Khoa có nói gì đi nữa, hoặc là ông cố ý không nói rất nhiều điều, thì “chống cộng” và “quốc gia” theo “mật ký giữa Hoa Kỳ và Pháp” vào tháng 9.1954 đã trở thành ý thức hệ, là học thuyết chính trị của hai thời kỳ Cộng hoà tại miền Nam từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu. Không làm sáng tỏ vấn đề này sẽ không hiểu hết bản chất của cuộc chiến mà Lê Xuân Khoa khẳng định là “Nội chiến và Uỷ nhiệm”.

Nhưng tại sao phải chống Cộng? Các Giám mục, linh mục thừa sai (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp) và cả giáo hội La Mã cũng như giới lãnh đạo Pháp và Hoa Kỳ đã trả lời cho một bộ phận người Việt Nam : Vì Cộng sản chủ trương thực hiện tam vô (vô thần, vô sản và vô tổ quốc) bằng độc tài đảng trị. Do vậy mà Pháp, Hoa Kỳ, các Giám mục, linh mục và các nhà hoạt động chính trị Công giáo sau Genève đã hối hả đưa gần một triệu người (đa phần là Công giáo) từ miền Bắc vào miền Nam “Tị Nạn”, làm hậu thuẫn cho chế độ Ngô Đình Diệm. Do vậy mà : Từ sau Hội nghị Genève (tháng 7-1954) với sự viện trợ hùng hậu, sự bày mưu tính kế của Mỹ và một số Việt Minh chiêu hồi :

– Ngô Đình Diệm đã tổ chức Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia để đối đầu với Mặt Trận Việt Minh.

– Ngô Đình Nhu thành lập đảng Cần Lao với học thuyết duy Cần Lao – Nhân vị – Duy linh để đối đầu với đảng Lao Động (Cộng sản) chủ trương chiến tranh nhân dân, đấu tranh giai cấp với liên minh công-nông theo ý thức hệ Cộng sản (chủ nghĩa Mac – Lê nin) duy vật và vô thần. Ngô Đình Nhu tổ chức đoàn thanh niên Cộng Hoà, Trần Lệ Xuân thành lập Hội phụ nữ Liên đới là những tổ chức vòng ngoài của đảng Cần Lao.

– Ngô Đình Thục xây dựng Trung tâm Nhân Vị ở Vĩnh Long (một loại trường đảng cao cấp) nhằm cải tạo tư tưởng cho các nhân vật chủ chốt chế độ Ngô Đình Diệm với sự giảng dạy của các Linh mục. Trung tâm Nhân Vị của Ngô Đình Thục đả phá chủ nghĩa Cộng sản duy vật – vô thần, chửi bới, mạ lị các tôn giáo khác mà họ gộp chung lại là “bọn tà ma ngoại đạo, phật thần ma quỷ”. Đặc biệt, Trung tâm Nhân Vị rao giảng truyền bá Thiên Chúa giáo. Cuộc đấu tranh ý thức hệ này không chỉ bắt đầu từ khi “Nguyễn Ái Quốc từ Nga sang Trung Hoa năm 1924 để hoạt động cho Comintern”, như Lê Xuân Khoa đã cáo buộc, mà từ sau cách mạng Nga năm 1917, giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã đã đề xuất sách lược chống Cộng trên bình diện toàn cầu. Theo tôi, chủ nghĩa chống Cộng chỉ là sản phẩm của một giai đoạn, nó là một mắt trong một sợi xích dài của nền văn minh Ky Tô Giáo trong quá trình bung ra khỏi châu Âu đi chinh phục những vùng đất mới.

Tại Việt Nam, trước khi tiến hành chủ nghĩa chống cộng, các giáo hội Thiên Chúa giáo (từ Thừa sai đến La Mã) đã tiến hành chủ nghĩa chống Nho – Phật kéo dài hơn ba trăm rưởi năm (từ đầu thế kỷ XVII đến 1975).

Không phải ngẫu nhiên các thượng thư đứng đầu triều đình Huế từ sau cuộc khởi nghĩa Cần Vương đều là người Thiên Chúa Giáo (Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khả…) cũng không phải ngẫu nhiên mà người đứng đầu hai thời Cộng Hoà tại miền Nam (tiền đồn của Thế giới Tự do) từ sau Genève đều là người Thiên Chúa giáo (Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu). Cũng không phải ngẫu nhiên mà một tín đồ đạo dòng Thiên Chúa Giáo trở thành Hoàng hậu Nam Phương của triều đình An Nam Nho – Phật và thờ cúng tổ tiên ông bà.

Khi chế độ gia đình trị bị lật đổ, ba anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn bị giết chết, Mỹ phải mất hai năm loay hoay để tìm con ngựa mới cho cuộc Thánh chiến. Chẳng phải Nguyễn văn Thiệu đã không chỉ là kẻ “thích ứng được với Hoa Kỳ trong thời kỳ Mỹ hoá chiến tranh” như Lê Xuân Khoa đã nhận định, mà, sau lưng con ngựa Nguyễn Văn Thiệu còn có cả một tàu ngựa : Giáo hội Công giáo và đảng Cần lao tái sinh dưới tên gọi mới là đảng Dân chủ. Nhiều tác giả cho rằng chế độ Thiệu là chế độ Diệm không có Diệm trong thực tế này.

Yếu tố Thiên Chúa giáo (Công giáo) xuyên suốt từ thời kì thực dân Pháp bắt đầu đánh chiếm và hoàn tất công cuộc xâm lược Việt Nam, qua cuộc chiến tranh Việt – Pháp, đến hai thời kỳ Cộng hoà giả danh tại miền Nam, nó làm linh hồn cho hai chế độ độc tài từ gia đình trị qua quân phiệt trị đều là công cụ của ông chủ Mỹ. Miền Nam – cái tiền đồn của Thế giới Tự do – chỉ có được dưới 10 % dân chúng là người Công giáo ủng hộ.

Lại nữa, trong số dưới 10 % dân chúng là người Công giáo ấy, ngày càng phát triển một bộ phận giáo dân, tu sĩ khát khao hội nhập với đồng bào – tổ quốc mình, thà đi với người Cộng sản còn hơn ở lại với Mỹ. Khi nhận ra thực tế này, người Mỹ đã muốn nhanh chóng thoát khỏi vũng lầy của cuộc chiến tranh lầm lạc, chẳng những đã phải chấp nhận gần hết các điều kiện của đối phương tại hội đàm Paris, mà còn vận động cả thế giới, bất kể Tư bản hay Cộng sản, bất kể bạn hay thù, bất kể đồng minh hay công cụ – để kìm hãm cuộc tiến công dứt điểm (phá bỏ hiệp định Paris) của miền Bắc, nhằm tìm kiếm một giải pháp chính trị trên phần lãnh thổ còn lại (Sài Gòn và các tỉnh Nam bộ) : thành lập chính phủ liên hợp ba thành phần để “có thêm thì giờ cho Hoa Kỳ giải quyết được mọi việc trước khi rút hết người và vật liệu cần thiết ra khỏi Việt Nam” (LXK sđd tr 311…). Nỗ lực khiêm tốn này của Mỹ cũng không thành, bởi Liên Xô và cả Trung Quốc, theo sự nhờ vả và trao đổi quyền lợi của Mỹ, chắc đã đề nghị, khuyến cáo thế này thế nọ với miền Bắc, cũng chẳng giúp được Mỹ thoát khỏi “ cuộc tháo chạy tán loạn ”. Cuộc tháo chạy tán loạn là tên một bản dịch (của Ngô Dư) cuốn sách có tựa đề The Decent Interval của tác giả Frank Snepp – một chuyên gia phân tích tình hình của CIA, người đã lái xe, cùng với tướng Timmes, đưa Nguyễn Văn Thiệu lên phi trường Tân Sơn Nhất vào chiều tối 25-4-1975 để ngài Tổng thống nền đệ nhị Cộng hoà “ra khỏi nước” theo lệnh và sự sắp xếp của đại sứ Hoa Kỳ Martin.

Khi làm ngơ để các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà “ thảm sát ” anh em Ngô Đình Diệm, khi đổ quân mà chẳng cần hỏi ý kiến của “ nước chủ nhà ”, khi cùng đối phương ký Hiệp định Paris, khi bắt Thiệu phải từ chức, khi âm thầm và gấp rút áp tải Nguyễn Văn Thiệu “ ra khỏi nước,” người Mỹ đã thể hiện đầy đủ vai trò ông chủ đích thực của miền Nam, và cuộc chiến tranh hai mươi năm (1954-1975) với bao nhiêu tội ác và đau khổ đích thực là cuộc chiến tranh của Mỹ.

Người Mỹ biết mình nói dối khi nào, và với ai. Khi nào không cần và không thể nói dối nữa, người Mỹ đã tỏ ra thẳng thắn và trung thực một cách thô bạo trong lời nói cũng như trong việc làm. Mà, chỉ nói thật không thôi, thông thường đã làm mất lòng những ai bị lừa dối. Huống hồ gì đến hành động thô bạo của ông chủ Mỹ (giết chết anh em Ngô Đình Diệm, áp lực, sai khiến, áp tải Nguyễn Văn Thiệu). Lê Xuân Khoa gắn bó với người Mỹ lâu dài, dĩ nhiên ông không thể không nhận biết đạo lí này.

 

VII. Vấn đề hoà giải hoà hợp dân tộc.

http://giaodiemonline.com/2016/08/images/sach09.jpgNhư thế là, Lê Xuân Khoa, một học giả không thể hoà giải với chính mình trong những vấn đề “Xâm lược – Dân tộc”, “Quốc Gia – Cộng Sản”, “Nội chiến – Uỷ nhiệm”, của thế kỷ trước, lại khẩn thiết kêu gọi hai phía Việt Nam đang ở hai bên bán cầu hoà giải, hoà hợp để xây dựng đất nước “dân chủ”, “phú cường” và tạo lập “cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người dân” vào mấy năm đầu của thiên kỉ thứ ba (LXK sđd tr492). Lời kêu gọi xem ra chân thành, những mục tiêu cũng xem ra to lớn và cao đẹp, chẳng khác biệt bao nhiêu với lời kêu gọi thỉnh thoảng được phát ra do một thủ đoạn chính trị xảo quyệt nào đó bởi guồng máy cai trị Cộng sản. Nhận xét như thế, tôi không có ý định đồng hoá Lê Xuân Khoa với “chính quyền trong nước”.

Theo tôi, Lê Xuân Khoa thuộc về một chính quyền khác, một cỗ máy khác, cỗ máy mà ông đã đặt tên là “Việt Nam Quốc Gia”, được người Pháp rèn giũa một số cơ phận để phục vụ trong chế độ thuộc địa, để rồi người Mỹ tuyển chọn, mài giũa lại, rèn đúc thêm một số cơ phận mới, lắp ráp, đổ xăng nhớt, vận hành nhằm mục đích canh giữ tiền đồn của Thế giới Tự do. Cái cỗ máy “Việt Nam Quốc Gia” đó khi mới bắt đầu lắp ráp (sau Genève), theo sự đánh giá của tổng thống Mỹ Eisenhower và ngoại trưởng Mỹ Dulles, có khoảng 20 % dân chúng miền Nam ủng hộ. (Dulles cho rằng nếu Tổng tuyển cử vào năm 1956 – Hồ Chí Minh sẽ thắng. Eisenhower đánh giá cụ thể hơn, nếu bầu cử theo hiệp định Genève, 80 % cử tri Việt Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh).

Cái cỗ máy “Việt Nam Quốc Gia” đó đến thời điểm ký kết hiệp định Paris, hai phái đoàn đàm phán : Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khẳng định một cách đại khái rằng nó là đầu tàu của một trong ba thành phần chính trị tại miền Nam. Theo tôi (qua những phân tích trên) nó đại diện cho dưới 10 % nhân dân miền Nam là đồng bào Công giáo đã từng hậu thuẫn cho hai chế độ độc tài gia đình trị và quân phiệt trị đang bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi, để rồi hoàn toàn sụp đổ vào ngày 1 tháng Năm năm 1975.

Vậy thì, thưa giáo sư Lê Xuân Khoa, đến thời điểm ông viết sách Việt Nam 1945-1995, những người vẫn kiên định mình là “Việt Nam Quốc Gia” chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số 3 triệu (con số Lê Xuân Khoa cung cấp) đồng bào ở hải ngoại ? Theo tôi biết, đa phần trong số 3 triệu đồng bào ở hải ngoại ấy, cũng như đa số trong 8 – 9 chục triệu đồng bào ở trong nước này, không đặt vấn đề hoà giải với chế độ độc tài đảng trị và thần phục Trung Quốc. Người ta kêu gọi, người ta đấu tranh, người ta hy vọng vượt qua chế độ độc tài toàn trị và lệ thuộc nhằm đưa đất nước tiến tới một xã hội dân sự, nhân quyền, tự do, dân chủ, đa nguyên, đa đảng là nền tảng của một đất nước tự chủ, một xã hội văn minh và phát triển bền vững. Người ta thừa kinh nghiệm máu xương và mồ hôi, nước mắt để khẳng định rằng không thể hoà giải, hoà hợp với các chế độ độc tài, cho dù là độc tài gia đình trị, quân phiệt trị, hay đảng trị. Bởi các chế độ độc tài “không tha thứ cho (bất cứ) ai bất đồng chính kiến” (nhóm từ Lê Xuân Khoa mô tả chế độ Ngô Đình Diệm) và không chia sẻ cho ai bất cứ lợi quyền nào, hơn thế nữa, còn bất chấp lợi quyền và những giá trị thiêng liêng của tổ quốc.

Nguyên lý và vận động thực tế của hoà giải, hoà hợp là cùng chân thành kiểm điểm quá khứ, tương nhượng, phân chia lại quyền lợi, trách nhiệm và cùng nhìn về tương lai của đất nước bằng những hành động chung trong hoà bình và tôn trọng lẫn nhau. Các chế độ độc tài và các cá nhân thuộc về nó không hề biết tự kiểm điểm, chẳng biết lắng nghe, tương nhượng, chẳng hề muốn phân chia các quyền lợi cho bất cứ ai, chẳng nhắm đến quyền lợi chung của tổ quốc, của dân tộc trong hiện tại cũng như trong tương lai. Vậy thì đặt vấn đề hoà giải với “chính quyền trong nước” như chủ trương của Lê Xuân Khoa là một việc làm khó lí giải được, và vô cùng nguy hiểm đối với đại đa số nhân dân là đối tượng chuyên chính ngày càng siết chặt của “chính quyền trong nước.”

Khi người “Việt Nam Quốc Gia” quay trở lại hoà giải, hoà hợp với người “Việt Nam Cộng sản” thì chắc chắn công cuộc đấu tranh của nhân dân để vượt thoát khỏi chế độ độc tài toàn trị và lệ thuộc vốn đã khó khăn, lại càng khó khăn, gian khổ, hiểm nguy và lâu dài hơn.

Giả định rằng Lê Xuân Khoa đã vượt thoát được ra ngoài cái tâm lý của cộng đồng “Việt Nam Quốc Gia” đang nỗ lực bảo lưu ở hải ngoại, hẳn nhiên ông không khỏi băn khoăn, xao xuyến trước tình cảnh bế tắc, rớt xuống tận đáy tối tăm của đất nước, sao ông không hoà giải hoà hợp với đồng bào trong nước, để cùng đấu tranh với đảng Cộng sản nhằm thực hiện các mục tiêu do chính ông đề ra là “xây dựng đất nước dân chủ, phú cường” và tạo “cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người dân”.

 

Mấy vấn đề cần thảo luận thêm thay cho phần tạm kết

Bảy vấn đề nêu ra từ Việt Nam 1945-1995 tôi đã thảo luận cùng tác giả Lê Xuân Khoa qua những trang trên đây e là không tránh khỏi những khiếm khuyết trên cả hai phương diện : ý tứ và cách thức giải trình. Và cũng e rằng còn không ít vấn đề tôi chưa nêu ra hết hoặc phát sinh từ phần phản biện của tôi. Rất mong tác giả Lê Xuân Khoa và độc giả tiếp tục trao đổi nhằm làm sáng tỏ hơn nữa sự thật của một khúc đoạn lịch sử Dân tộc – khúc đoạn mà đến nay vẫn chưa có một đồng thuận đầy đủ trong những nhìn nhận tổng thể cũng như khía cạnh. Riêng tôi, cũng còn mấy vấn đề cần tiếp tục làm rõ:

A/ Vấn đề “Mỹ hoá” chiến tranh

Ở cuối chương 10, trang 483, Lê Xuân Khoa viết: “Sai lầm to lớn của Hoa Kỳ trong chính sách “Mỹ hoá” chiến tranh và thái độ vô trách nhiệm của các tướng lãnh cầm quyền ở miền Nam là những nguyên nhân chính đưa đến sự thất bại của Mỹ và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà ”.

Qua đoạn trích dẫn này, tôi thấy Lê Xuân Khoa còn nhập nhằng trong cách sử dụng ngôn từ. Ở trang 28 (Lời Mở Đầu), ông viết: “Tất cả những lời dẫn chứng hay ý kiến không phải của tác giả đều được để trong ngoặc kép và được ghi rõ xuất xứ trong phần chú thích”. Chữ “Mỹ hoá” trong câu trích dẫn trên Lê Xuân Khoa để trong ngoặc kép nhưng không thấy ghi rõ xuất xứ. Do vậy người đọc sách không hiểu hai từ Mỹ hoá là của tác giả hay là của ai, và nội dung chính xác của nó là gì? Phải chăng ông muốn cho độc giả hiểu rằng chính ông cũng chưa vừa ý khi sử dụng hai từ Mỹ hoá để mô tả việc Hoa Kỳ chủ động tiến hành cuộc chiến tranh của họ tại Việt Nam ? Hay là đến khi kết thúc công trình nghiên cứu, Lê Xuân Khoa thấy mình đã xích gần với các sử gia của “chính quyền trong nước” trong nhận định chung cuộc về vai trò (xâm lược) của Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai ? Một câu hỏi nữa cần tác giả Lê Xuân Khoa giải đáp:

– Thái độ “vô trách nhiệm” của các tướng lãnh cầm quyền ở miền Nam là gì và với ai? Với Mỹ? Với “Việt Nam Quốc Gia”? Với nhân dân miền Nam? Với nhân dân và đất nước Việt Nam?

Theo tôi “sai lầm to lớn” của Mỹ là triết lý phòng thủ từ xa và hành động chiến lược có nguồn gốc từ học thuyết Đô mi nô bắt đầu từ việc coi Đông Dương là chiến lợi phẩm cửa các nước đồng minh phương Tây, ủng hộ, cộng tác với thực dân Pháp trong công cuộc tái chiếm Đông Dương từ 1945, chủ động thay thế Pháp trong việc “Bảo tồn những vùng đất còn lại” (miền Nam Việt Nam, Lào, Cam Bốt) từ 1954, phá bỏ hiệp định Genève, sử dụng một thiểu số người Việt Nam làm trợ thủ trong việc biến miền Nam thành tiền đồn của Thế Giới Tự Do, một quốc gia riêng biệt. Theo đó Hoa Kỳ thiết trí cuộc đối đầu giữa hai phe Quốc gia – Quốc tế, Tư bản – Cộng sản trên đất nước Việt Nam.

Vì mục tiêu chống Cộng, vô hình trung, Mỹ bất chấp khát vọng độc lập, thống nhất, hoà bình và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Do vậy, chống Cộng cũng có nghĩa là chống dân tộc Việt Nam. Tình trạng này diễn tả chính xác câu châm ngôn: Giận con rận – đốt cái áo. “Sai lầm to lớn” hay tội ác của Mỹ nằm ở câu nhận định này.

Việc Hoa Kỳ “ Mỹ hoá ” chiến tranh vào thời điểm 1965 là hành động chẳng đặng đừng trên con đường chiến lược đã sai.

Theo thiết kế ban đầu của Mỹ:

– Bên này chiến tuyến là Mỹ, Liên minh phòng thủ Đông Nam Á, cộng với một thiểu số người Việt Nam mà các tín đồ Thiên Chúa là nòng cốt và gia đình Ngô Đình Diệm là đại diện (Lê Xuân Khoa gọi là Việt Nam Quốc Gia – Việt Nam Cộng Hoà – Miền Nam).

– Bên kia chiến tuyến là đảng Cộng sản (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà) với sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc, cùng với đa số nhân dân Miền Bắc và một bộ phận không nhỏ quần chúng miền Nam (Lê Xuân Khoa gộp chung lại là Việt Nam Cộng sản – Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà – Miền Bắc).

Thiết trí một cuộc đối đầu như thế, chính quyền Mỹ tin rằng:

– Sức mạnh quân sự vô địch, tiền bạc dồi dào của Mỹ sẽ thắng súng đạn và tiền bạc vốn nghèo nàn lạc hậu của miền Bắc và phe Xã hội Chủ nghĩa.

– Chế độ Cộng hoà, tự do, dân chủ do Mỹ dàn dựng, bảo trợ, và nền văn minh Ky Tô giáo Miền Nam sẽ thắng chế độ độc tài, vô sản, vô thần của Cộng sản Miền Băc.

– Do sự hơn hẳn về cả hai phương diện vật chất và tinh thần của Mỹ như thế, nhân dân miền Nam từng bước sẽ ngả về phía Mỹ và Việt Nam Quốc Gia. Cộng Sản mai phục ở miền Nam nhất định phải bị tiêu diệt, (và đã bị tiêu diệt gần hết qua các chiến dịch tố Cộng – diệt Cộng). Việt Nam Cộng Hoà sẽ giàu mạnh và trường tồn làm tiền đề thay đổi tương quan lực lượng quần chúng trên miền Bắc. Trong trường hợp miền Bắc xâm lăng miền Nam, nhất định sẽ bị quân lực Việt Nam Cộng Hoà do Mỹ huấn luyện, trang bị, viện trợ và cố vấn đánh bại.

Nhưng thực tế lịch sử đã không diễn ra như những tính toán của Mỹ.

Thực tế lịch sử là Mỹ đã thất bại trong việc biến miền Nam thành tiền đồn của Thế giới Tự do. Sau 9 năm sắm sửa vai trò chủ nhân ông của miền Nam với những người “Việt Nam Quốc Gia” được tuyển chọn, rèn cặp và tận tình bảo trợ, Hoa Kỳ đã không gầy dựng nổi một chế độ Cộng hoà tự do, dân chủ được đại bộ phận nhân dân miền Nam tin tưởng và ủng hộ như dự kiến ban đầu, mà Mỹ đã chỉ giúp được cho một Ngô Đình Diệm hình thành chế độ độc tài Gia đình – Cần lao – Thiên chúa giáo trị với khoảng trên dưới 10 % dân số hậu thuẫn.

Chế độ độc tài Gia đình – Cần lao – Thiên chúa giáo trị Ngô Đình Diệm đến thời điểm 1963 không chỉ gây thù kết oán với đại bộ phận nhân dân miền Nam, mà còn muốn giành quyền tự quyết trước ông chủ Mỹ chẳng khác mấy so với thực dân Pháp trước đây. Bị xúc phạm và đứng trước nguy cơ thất bại, ông chủ Mỹ – vị Thiên sứ của những giá trị tự do, dân chủ và tinh hoa của nền văn minh Ky Tô giáo thế kỷ XX, đã hành xử như một bố già Mafia. Anh em Ngô Đình Diệm bị thanh toán như những thủ lĩnh Mafia đàn em cứng đầu rắp tâm phản trắc. Nền Đệ nhất Cộng hoà bị lật đổ qua cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963. Quân lực Việt Nam Cộng Hoà mà người Mỹ đã tổn hao rất nhiều công sức, của cải để huấn luyện, trang bị, trả lương (gián tiếp qua viện trợ cho Ngô Đình Diệm) và được chỉ huy bởi các tướng lãnh có gốc gác từ chế độ thực dân và văn hoá thuộc địa Pháp sau các trận thất bại ở Ấp Bắc, An Lão, Bình Giả, Phù Mỹ,…, chỉ đủ sức để lật đổ nhà Ngô, chứ không đủ sức đương đầu trước các cuộc tấn công hai chân (chính trị – quân sự) ba mũi (chính trị – quân sự – binh vận) trên cả ba vùng chiến lược (thành thị – nông thôn – rừng núi) của Cộng sản. Tiền đồn của Thế giới Tự do đứng bên bờ vực thẳm. Hoa Kỳ đã “ Mỹ hoá ” chiến tranh trước tình thế đó.

Để công cuộc “Mỹ hoá” chiến tranh được tiến hành suôn sẻ, Hoa Kỳ cần một chính quyền bản địa mạnh làm công cụ trấn áp các phong trào đấu tranh dân chủ, đòi quyền dân tộc tự quyết (cụ thể là phong trào đấu tranh của Phật giáo và Sinh viên – Học sinh), và bảo đảm trật tự trị an trong các đô thị, tiến hành các chương trình bình định ở nông thôn. Các tướng già bị loại. Các tướng trẻ Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu… lần lượt được tuyển chọn và thử thách. Cuối cùng chế độ độc tài quân phiệt do Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu được chuẩn nhận, củng cố và thuê bao, vì “ ông thích ứng được với Hoa Kỳ trong thời Mỹ hoá chiến tranh ” (như nhận định của Lê Xuân Khoa). Từ sau tháng 3-1965, Hoa Kỳ trực tiếp đương đầu với Cộng quân trên các chiến trường miền Nam và tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên miền Bắc (bắt đầu từ giữa năm 1964).

– Không quân, hải quân, lực lượng đặc biệt của Hoa Kỳ đánh phá các kho tàng, căn cứ quân sự, các khu vực kinh tế, các cầu đường, nhà ga, bến cảng, sân bay và các phương tiện giao thông đê điều nhằm ngăn chặn các nguồn tiếp trợ từ phe Xã hội chủ nghĩa cho miền Bắc và huỷ diệt, ngăn chặn các nguồn nhân lực, vật lực từ miền Bắc tiếp tế cho miền Nam.

– Đường mòn Hồ Chí Minh, con đường chiến lược huyết mạch Cộng sản dùng để chuyển vận người, hàng hoá vào Nam, và cả con đường vận chuyển trên biển, sẽ bị cắt đứt bởi một liên quân phối hợp : không quân, hải quân, thuỷ quân lục chiến, biệt kích, thám báo và hàng rào điện tử.

– Bộ binh, Thuỷ quân lục chiến, các quân binh chủng hỗ trợ (hải quân ven bờ, không quân, pháo binh, thiết giáp) của Mỹ, Việt Nam Cộng Hoà, và của các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á phụ trách các chiến trường miền Nam.

Như thế là : nguồn tiếp tế sẽ bị huỷ diệt, đường tiếp tế sẽ bị cắt đứt, hai ba trăm ngàn quân Cộng sản (gồm chính quy và du kích) có mặt tại miền Nam đi chân trần, được trang bị những vũ khí cá nhân, thiếu thốn, đói khổ trăm bề, chắc chắn sẽ bị tiêu diệt bởi quân Mỹ, quân Đồng minh và quân Việt Nam Cộng Hoà (vào thời điểm cao trào (1967-1968) lên tới gần một triệu hai, bao gồm gần 600.000 quân Mỹ và Đồng Minh, trên 550.000 quân Việt Nam Cộng Hoà) thiện chiến, được trang bị đầy đủ các khí tài hiện đại có sức tàn phá, huỷ diệt khủng khiếp, được phục vụ dư thừa các nhu cầu của đơn vị và cá nhân.

Theo tính toán của Mỹ : Chiến lược chiến tranh nhân dân của Cộng quân chắc chắn sẽ bị phá sản trong một thời gian ngắn (tuyên bố của Westmoreland là trong vòng 18 tháng) trước chiến lược huỷ diệt môi trường sống bằng thuốc khai quang, bằng sách lược tát nước bắt cá (kéo dân ra khỏi các vùng Cộng quân làm chủ để tự do bắn phá), bằng các cuộc hành quân lùng và diệt do quân Mỹ và quân Đồng minh phụ trách ở phía trước, và các chương trình bình định do quân Việt Nam Cộng Hoà phụ trách ở phía sau.

Tuy nhiên, thực tế chiến trường lại diễn ra theo một tình thế khác. Sự hơn hẳn trong tương quan lực lượng của Hoa Kỳ và Đồng Minh và trợ thủ chỉ gây khó khăn trở ngại và thiệt hại to lớn cho đối phương chứ không thể tiêu diệt được đối phương như dự liệu. Miền Bắc vẫn chi viện được cho miền Nam, Mặt trận Giải phóng vẫn làm chủ được những vùng rừng núi, nông thôn rộng lớn, vẫn liên lạc được với một bộ phận không nhỏ quần chúng đô thị và các vùng nông thôn “ tạm chiếm ”. Và Cộng quân hoàn toàn có khả năng tồn tại lâu dài, tiếp tục gây tổn thất cho quân Mỹ, quân Việt Nam Cộng Hoà và Đồng minh. Công cuộc “ Mỹ hoá ” chiến tranh đứng trước tình trạng bị sa lầy trong lúc nội tình nước Mỹ chia rẽ nghiêm trọng. Phe chủ chiến lục đục, phe chủ hoà phát triển mạnh trong quần chúng và quốc hội. Trước bối cảnh đó Cộng quân phát động chiến dịch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968).

B/ Về chiến dịch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân.

Từ 1963, phong trào Phật giáo phát triển như là một lực lượng quần chúng có khả năng gây xáo trộn lớn trong các đô thị miền Nam. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mặt trận Giải Phóng nương theo phong trào Phật giáo tổ chức, phát động phong trào đô thị của mình. Các nhà lãnh đạo chiến tranh ở Hà Nội nghĩ nhiều hơn đến một cuộc tổng tấn công, tổng khởi nghĩa nhắm vào đại bản doanh của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà. Đây là cuộc chiến tranh cách mạng có tính cách quyết liệt trước tình thế “Ngụy quân – Ngụy quyền rệu rã” và “Mỹ xâm lược” trong quá trình chuyển đổi từ chiến tranh đặc biệt qua chiến tranh cục bộ (Mỹ hoá). Trong những Thư vào Nam viết từ các năm 1961 đến 1975 (nxb Quân Đội Nhân Dân – 2005), Lê Duẩn, người lãnh đạo tối cao của đảng Cộng sản và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, tập trung luận giải và chỉ đạo cho các thuộc cấp ở miền Nam các vấn đề chiến lược và chiến thuật theo học thuyết của ông: Thực hiện chiến lược Hai chân (chính trị – quân sự), Ba mũi giáp công (chính trị, quân sự và binh vận) nhằm đánh sụp Ngụy quân, lật đổ Ngụy quyền, buộc Mỹ chấp nhận thua trong chiến tranh đặc biệt, điều đình rút lui. Hoặc làm rệu rã ý chí xâm lược trong chiến tranh cục bộ, buộc Mỹ tìm kiếm phương cách thương lượng hoà bình, từ bỏ cuộc chiến tranh không thể thắng.

Sau ba năm đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt của Mỹ trên miền Bắc và chiến lược huỷ diệt môi trường, các cuộc hành quân tìm diệt, bình định của Mỹ và Đồng minh với những tổn thất to lớn tại miền Nam, các nhà lãnh đạo chiến tranh tại Hà Nội nhận ra rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ – Ngụy để thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội chẳng biết bao giờ mới kết thúc được ! Trước tình thế khó khăn đó, kế hoạch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân hình thành. Theo đó, lực lượng kháng chiến miền Nam phải ra sức củng cố các căn cứ ở miền núi, mở rộng vùng kiểm soát ở đồng bằng – nông thôn làm bàn đạp tấn công bất ngờ và đồng loạt vào các đô thị miền Nam – nơi trú đóng của các cơ quan đầu não của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà – không chỉ bằng lực lượng quân sự mà bằng ba mũi giáp công : Chính trị, quân sự và binh vận. Về quân sự thì quân Giải Phóng từ trên núi xuống. Về chính trị thì quân chúng nhân dân tại chỗ được cán bộ nằm vùng tổ chức, giáo dục, huấn luyện đưa vào cuộc đấu tranh khuynh đảo. Binh vận là vận động quân nhân trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà tổ chức binh biến, đào ngũ, phản chiến, tham gia phong trào quần chúng. Cả ba lực lượng : quân sự, chính trị, binh vận phối hợp với nhau nhằm đánh sập, hoặc vô hiệu hoá quân đội Quốc Gia, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, xây dựng chính quyền mới liên hiệp và trung lập. Đây là bước chuyển tiếp dẫn đến thống nhất đất nước và xây dựng Xã hội Chủ nghĩa.

Chiến dịch tết Mậu Thân nhằm hai mục đích, vào hai đối tượng:

– Một là làm lung lay ý chí của các nhà làm chiến tranh Mỹ.

– Hai là thức tỉnh Lương tri của nhân dân Hoa Kỳ và thế giới.

Lí luận là : Khi mà ý chí của phe chủ chiến Mỹ lung lay, khi mà quần chúng và quốc hội Mỹ nhận ra rằng cuộc chiến do chính phủ của họ chủ trương và đeo đuổi là phi nghĩa (chống lại dân tộc Việt Nam dưới chiêu bài chống Cộng), gây tổn hại đến đời sống nhiều mặt của đất nước và nhân dân Hoa Kỳ, thì Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh đang sa lầy là tất yếu. Đây là mục tiêu lớn nhất cũng có thể là duy nhất trong cuộc Tổng tấn công tết Mậu Thân. Bởi nó nằm ngoài mưu lược của các nhà làm chiến tranh chuyên nghiệp. Trong Thư vào Nam, nhiều lần Lê Duẩn nhắc đến cụm từ “đánh quân sự mà tác động chính trị”. Chính trị ở đây là tình trạng khủng hoảng trong chính trường, tâm lý xã hội Mỹ và dư luận thế giới.

Chủ trương, sách lược, chiến lược là như thế, và thực tế cuộc Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân cũng đã kết thúc gần như thế. Tuy nhiên nó không trùng khớp với kế hoạch “công khai và giả mật” (giả mật : tài liệu "mật" giả hiệu, tung ra để đánh lừa đối phương – chú thích của Diễn Đàn) của các nhà lãnh đạo tối cao của đảng Cộng sản. Hầu hết các địa phương từ Bến Hải đến Cà Mâu đều đồng loạt vang dội tiếng súng của quân Cộng Sản. Tiếng súng làm át cả tiếng pháo Tết gây nên sự náo động, hoảng sợ và tâm lí mâu thuẫn trong quần chúng, gây choáng váng cho Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng đó là tiếng đạn pháo từ ngoài bắn vào, hoặc từ các đội biệt động, đặc công, du kích gài sẵn bên trong. Quân Cộng sản đã không phối hợp được hai chân (chính trị và quân sự), ba mũi (chính trị, quân sự, binh vận) đều khắp trong các thành phố, tỉnh lị, ngoại trừ Huế. Do vậy, quân Cộng Hoà dù rối loạn nhưng chưa bị đánh bại, chính quyền Việt Nam Cộng Hoà dù hoang mang nhưng chưa bị lật đổ, chủ yếu vì Mỹ chưa chịu rút lui.

Tại Sài Gòn (mục tiêu tấn công quan trọng nhất trong ba mục tiêu hàng đầu : Sài Gòn – Đà Nẵng – Huế), cuộc Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa đã không thực hiện được theo mô hình ba mủi giáp công vì bộ binh (lực lượng nòng cốt của tấn công) không vào kịp, hoặc đã bị ngăn chặn ở một số khu vực ven đô. Cán bộ nội thành đã không thể phát động quần chúng tại các địa phương thành một cuộc nổi dậy (tổng khởi nghĩa). Công tác binh vận chẳng có dấu hiệu nào đáng kể. Do vậy sự cố Mậu Thân tại Sài Gòn chủ yếu do các đội biệt động, đặc công và du kích thực hiện. Toà Đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, bộ Tổng tham mưu, đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, bộ Tư lệnh Hải Quân là 6 trong 9 mục tiêu (theo kế hoạch) đã bị quân Giải Phóng tấn công nhưng không có mục tiêu nào dứt điểm. Chỉ trong ngày đầu, hay vài ba ngày sau các chiến binh đã liều chết để thực hiện nhiệm vụ của mình, hơn 90 % bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống bởi lực lượng bố phòng và chi viện.

Ở Huế (một trong ba trọng điểm) đã có sự phối hợp khít khao, nhuần nhuyễn giữa lực lượng tấn công (bộ binh và các binh chủng đặc biệt) từ ngoài vào và lực lượng nổi dậy (khởi nghĩa) đã được chuẩn bị kỹ lưỡng từ bên trong, nhưng công tác binh vận không thực hiện được. Do vậy mặc dù đã không chiếm được hai căn cứ quân sự Mang Cá (bản doanh của sư đoàn Một Việt Nam Cộng Hoà) và Phú Bài, quân Giải Phóng đã đánh chiếm và làm chủ được gần như toàn bộ các khu vực dân cư trong vòng 24 tiếng đông hồ. 11 giờ trưa ngày 1-2-1968 (Mồng Một Tết) cờ của Mặt Trận Giải Phóng đã tung bay trên đỉnh Phu Văn Lâu. Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã bị vô hiệu hoá. Chính quyền “nhân dân” từ phường xã, quận huyện, thành phố, tỉnh được thành lập. Do việc Cộng sản triệt hạ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền mới “trên đầu ngọn súng”, tiếp theo là viêc quân Mỹ, quân Việt Nam Cộng Hoà phản công tái chiếm, truy quét tàn quân Cộng sản và lập lại chính quyền củ, nên vấn đề “thảm sát” Mậu Thân Huế đã xảy ra.

Đà Nẵng, mục tiêu quan trọng thứ hai trong chiến dịch Mậu Thân, mặc dù đã diễn ra trước một ngày theo kế hoạch do bởi ngộ nhận ngày tính theo lịch Bắc – lịch Nam), cũng như các địa phương khác thuộc khu 5 và Tây Nguyên (Hội An, Tam Kì, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hoà, Nha Trang, Kon Tum, Plây Cu, Ban Mê Thuộc) chỉ diễn ra những trận pháo kích lớn hay đột nhập nhỏ vào bộ tư lệnh quân đoàn I, sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn (Non Nước). Cuộc tổng tấn công – tổng khởi nghĩa ở khu vực này không gây được tiếng vang lớn.

Trong lúc chiến cuộc ở những nơi khác trên toàn miền Nam sau ngày thứ ba đã lắng xuống, thì tại Huế quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà bắt đầu cuộc phản công tái chiếm. Bom ào ạt trút xuống từ trời, pháo hạm bắn vào như mưa từ biển, Bộ binh, Thuỷ quân lục chiến, Kỵ binh bay, Nhảy dù, Biệt động quân, Hắc báo, Địa phương quân, Cảnh sát… vây áp từ ba phía đông-nam, đông-bắc và tây-bắc. Cuộc phản công huỷ diệt của ba bốn chục ngàn tay súng Mỹ – Việt Nam Cộng Hoà, và cuộc chiến đấu cố thủ – liều chết của non chục ngàn tay súng Việt Cộng đã diễn ra trên từng thước đất, từng căn nhà, từng góc phố. Khu vực “chiếm giữ và ở lại” ngày một thu hẹp, số thương vong ngày một gia tăng. Ngày 22 quân Cộng sản mặc dù không được lệnh của Hà Nội đã tự động rút dần ra. Ngày 26 các chiến binh giữ cờ trên Phu Văn Lâu mới bị tiêu diệt. Trên những nẻo đường rút lui, các cánh quân Cộng sản kể cả những cán bộ nội thành đã bị lộ, những thanh niên vừa được quân sự hoá mấy ngày, thương binh và những tù binh của họ bị truy kích tơi bời bởi đại liên bắn từ trực thăng, pháo từ hạm đội, và bị băm nát bởi hàng loạt bom rải thảm từ máy bay B52.

Song song với cuộc phản công truy quét, lùng diệt và bình định, quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà ra sức xây dựng các tuyến phòng thủ kiên cố và dày đặc chung quanh các thành phố, thị xã, tiểu khu, chi khu, căn cứ, kho tàng, các trục giao thông… để đề phòng các cuộc tấn công, đột nhập khác của quân Cộng Sản. Cuộc phản công tuyên truyền tâm lý chiến về vụ “tắm máu” tại Huế và tình trạng “thảm bại” của Cộng Sản trên toàn miền Nam cũng được Mỹ và Viêt Nam Cộng Hoà ra sức đẩy mạnh. Trong bối cảnh đó, các nhà lãnh đạo chiến tranh của Hà Nội ra lệnh tiến hành “Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa” đợt hai (tháng 5), rồi đợt ba (tháng 8).

Không còn yếu tố bất ngờ, không có lực lượng nổi dậy từ bên trong để phối hợp, chẳng có mũi nhọn binh vận nào để “giáp công”, chiến dịch Mậu Thân đợt 2 rồi đợt 3 chỉ thuần túy quân sự.

Ngoại trừ khu vực Trị Thiên đã kiệt sức, các đơn vị quân Giải Phóng (từ khu 5 trở vào) được lệnh vượt qua các tuyến phòng thủ dày đặc mới được xây dựng của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà, tiếp tục các cuộc tấn công liều chết vào Sài Gòn và các mục tiêu “nhạy cảm” khác để tiếp tục gây tiếng vang, phát huy thắng lợi các cuộc tấn công liều chết và tử thủ đợt 1. Công cuộc phản công huỷ diệt của quân Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà lại tiếp diễn, đẩy quân Giải Phóng vào tình trạng khốn đốn đến hai ba năm. Nhiều cán bộ, cơ sở nội thành bi giết, bị bắt hoặc bị lộ, các khu vực nông thôn giải phóng bị thu hẹp. Nhiều mật khu mất an toàn. Nhiều đơn vị lớn của quân Giải Phóng phải chạy qua trú đóng bên kia biên giới Lào và Cam Bốt để xây dựng lại lực lượng.

Chiến dịch Tổng tấn công – Tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân đối với Cộng Sản là một tổn thất to lớn trên cả hai phương diện chính trị và quân sự trong đấu trường nội địa, nhưng là một thắng lợi quyết định trong lòng nước Mỹ. Nó là các cuộc tấn công liều chết (cũng có thể nói là các cuộc tự sát tập thể hay thí quân) chỉ với mục đích gây xúc động mạnh trong tâm lý quần chúng Hoa Kỳ và lương tâm nhân loại. Nó lay động tận gốc rễ ý chí chiến tranh của phe chủ chiến Mỹ ; nó bày tỏ lòng yêu nước sâu nặng, sức chiến đấu bền bỉ, gan dạ và sự hy sinh vô bờ bến của quân dân miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng, đồng thời nó thể hiện quyết tâm, khả năng vận động, lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh của đảng Cộng sản. Nó đẩy quân Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà vào thế bị động chiến lược và tiếp tục sa lầy. Nó buộc Hoa Kỳ phải xuống thang để tìm giải pháp khác : Đấu tranh hoà bình (tại hội nghị Paris, và…) và Việt Nam hoá chiến tranh.

* * *

Trở lại với Lê Xuân Khoa trong mấy trang (292 – 300) ông viết về Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa (TCK – TKN) Tết Mậu Thân. Đây là những trang Lê Xuân Khoa viết gần gũi với sự thật lịch sử hơn hết, tuy vậy vẫn còn có những gút mắc cần phải được tháo gỡ.

Lê Xuân Khoa cho rằng các nhà chiến lược của Đảng Lao Động chủ trương tiến hành “một trận đánh như trận Điện Biên Phủ để chấm dứt chiến tranh” (nguyên văn). Nhưng vì chủ quan : đánh giá quá cao sức mạnh của mình, đánh giá thấp sức mạnh của đối phương, làm kế hoạch không hợp lí và chủ trương “tắm máu” nên đã thất bại to lớn cả hai phương diện quân sự lẫn chính trị. “Tuy nhiên, trận Tết Mậu Thân đã đem lại cho Hà Nội một thắng lợi to lớn ở Hoa Kỳ” (nguyên văn).

Theo tôi, chiến dịch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân không phải là môt trận đánh như trận Điện Biên Phủ, và mục tiêu chưa phải chấm dứt chiến tranh, mà để buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán để rút lui. Đối với Cộng sản là một tổn thất to lớn chứ không phải là một thất bại to lớn. Không thể thất bại to lớn cho bên này lại không thể đưa đến một thắng lợi dù nhỏ cho bên kia. Lập luận như thế e là không ổn. Tôi sẽ lần lược thảo luận với Lê Xuân Khoa mấy điểm sau đây:

1/ Ở trang 293 Lê Xuân Khoa viết: “… Vì vậy bộ chính trị ở Hà Nội thấy cần phải sớm chấm dứt cuộc chiến tranh bằng một trận đánh quyết định như trận Điện Biên Phủ 1954”.

Theo tôi chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân không như là trận Điện Biên Phủ xét trên nhiều khía cạnh. Bất cứ khía cạnh nào cũng không thể so sánh chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân với trận Điện Biên Phủ được:

– Điện Biên Phủ là một trận đánh quy ước – thuần túy quân sự. TCK – TKN Tết Mậu Thân là một chiến dịch gồm nhiều trận đánh phối hợp ba yếu tố (ba mũi) chính trị, quân sự và binh vận – gọi là Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa ; nhưng thực tế là những trận đánh liều chết của bên yếu có chính nghĩa chống lại bên mạnh hơn (rất nhiều lần), nhưng phi nghĩa.

– Điện Biên Phủ là một trận thách đấu tại một cứ điểm trên địa bàn rừng núi, là một điểm hẹn xét về mặt thời gian lẫn không gian, hoàn toàn không có yếu tố bất ngờ.

– Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân là một cuộc phát động nhiều trận đánh đồng loạt chủ yếu nhắm vào các đô thị, cả thời gian, không gian và qui mô đều có tính chất bất ngờ, hoàn toàn chủ động từ phía tấn công, và hoàn toàn bị động từ phía bị tấn công.

– Điện Biên Phủ đối với Việt Minh là đánh bại quyết tâm cao nhất của Pháp làm bàn đạp đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. TCK – TKN Tết Mậu Thân đối với các chiến lược gia Cộng sản nhằm lung lay ý chí của chính phủ Mỹ, thức tỉnh lương tri của nhân dân Hoa Kỳ và thế giới, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán để rút lui.

Trong chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân, Khe Sanh được các nhà chiến lược của miền Bắc bố trí thành một Điện Biên Phủ giả để thu hút quân Mỹ. Chính phủ Mỹ đã hy vọng và tập chú vào Khe Sanh ở mức cao đến độ, theo Lê Xuân Khoa, Tổng thông Johnson đã cho thiết lập tại Phòng Tình Hình (Situation Room) trong toà Bạch Ốc để tiện theo dõi trận đánh. Westmoreland đã điều đến đó những đại đơn vị thiện chiến gồm nhiều quân – binh chủng với khí tài hùng hậu và hiện đại để đánh nát đại quân chính quy của Cộng Sản, buộc Bắc Việt phải chịu thua, cúi đầu chấp nhận những điều kiện đàm phán của Mỹ và chấm dứt cuộc xâm lược miền Nam. Nhưng chiến tranh đã không diễn ra ở Khe Sanh theo sự chuẩn bị của các nhà lãnh đạo chiến tranh Mỹ, mà diễn ra tại ba trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và hàng trăm mục tiêu khác khắp miền Nam. Căn cứ vào những tin tức tình báo giả, Hoa Kỳ đã điều phối và bố trí quân theo chiến lược do đối phương áp đặt. Chưa đánh mà quân Mỹ đã thua. Chính quyền, Quốc hội, nhân dân Hoa Kỳ và cả thế giới bàng hoàng khi Cộng quân mở màn chiến dịch tết Mậu Thân: Toà Đại sứ – lãnh thổ của Mỹ tại Sài Gòn bị tấn công. Dinh Tổng thống và các cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hoà tại Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế và các tỉnh thành khác bị tấn công. Đặc biệt là Huế, Cộng quân đã đánh chiếm thành phố, đã triệt hạ chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, đã treo cờ trên đỉnh Phu Văn Lâu, đã thành lập chính quyền mới… Qua báo chí, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác, Quốc hội và nhân dân Hoa Kỳ thấy rằng chẳng còn nơi nào trên toàn miền Nam được yên ổn. Nơi nào Cộng quân cũng có thể đột nhập – cho dù đột nhập để bị huỷ diệt.

Công cuộc phản công huỷ diệt tái chiếm sau đó là phản ứng của những anh khổng lồ trước những chiến binh tí hon liều chết. Không khó khăn lắm để những anh khổng lồ bóp nát các chiến binh tí hon liều chết để tái chiếm, vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, cho dù các chiến binh tí hon đã chiến đấu dũng cảm như trế nào.

Tấn công liều chết. Cố thủ liều chết. Nhưng vẫn tiếp tục tấn công. Vẫn tiếp tục cố thủ. Vẫn tiếp tục liều chết. Đợt 1. Đợt 2. Đợt 3. Đánh quân sự để tác động chính trị. Chính trị ở đây là chính trị trong lòng đất nước, xã hội Mỹ và dư luận thế giới. Sức mạnh của những anh khổng lồ khủng khiếp thật, nhưng giới hạn vì tổ quốc của chúng ở xa, lý do chúng tham dự vào cuộc chiến mơ hồ thậm chí phi nghĩa. Những chiến binh tí hon ốm yếu nhưng chiến đấu gan dạ bền bỉ và liều chết vì tổ quốc và Chủ Nghĩa Xã Hội, nên lớp này ngã xuống, đã có lớp khác tiến lên. Vì đây là chiến tranh nhân dân do đảng Cộng sản lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo tối cao của đảng Cộng Sản chấp nhận những tổn thất to lớn ở trong nước để đánh đổi thắng lợi lớn hơn tại Hoa Kỳ.

Lê Xuân Khoa đã không thấy đầy đủ sự thật này, nên ông đã viết:

Chiến dịch TCK – TKN là một thất bại to lớn của đảng Lao Động và Mặt Trận Giải Phóng về cả quân sự lẫn chính trị đối nội, trái với niềm tin toàn thắng của các chiến lược gia Cộng sản. Tổng công kích thì bị đẩy lùi, Tổng khởi nghĩa thì nhân dân không nổi dậy để theo “cách mạng” ” (LXK sđd trang 297).

Khác với những trận đánh trước, kế hoạch Tổng công kích Tết Mậu Thân có mục đích chiếm – và – giữ chứ không phải đánh – và – chạy, vì vậy không có những chỉ thị cho những trường hợp cần phải rút lui. Yếu tố chủ quan này là nguyên nhân chính gây nên sự thất bại của toàn thể chiến dịch” (LXK sđd trang 298).

Có lẽ Lê Xuân Khoa đã vội vàng đưa ra nhận định này. Những người làm chiến lược chủ trương TCK – TKN Tết Mậu Thân trong những chừng mực khác nhau đều am hiểu vấn đề quân sự và đều nếm trải sức mạnh quân sự Mỹ sau mấy năm “Mỹ hoá”. Đặc biệt đa số trong họ đều đã tham gia trận Điện Biên Phủ. Chẳng lẽ họ không biết một kiến thức sơ đẳng khi làm kế hoạch tấn công là không thể thiếu kế hoạch rút lui ? Chẳng lẽ họ đã quên ở Điện Biên Phủ quân số của Việt Minh (bên tấn công) gấp hơn 3,5 lần so với quân số của Pháp (bên phòng thủ). Trong khi đó Việt Minh còn có gần 300.000 dân công chuyển vận các nhu yếu phẩm cho chiến binh. Về phía Pháp việc tiếp tế cho chiến trường gặp khó khăn vì cả đường bộ lẫn đường hàng không đều bị ngăn trở bởi du kích và lực lượng phòng không của Việt Minh. Như thế mà Việt Minh phải chật vật lắm và phải hi sinh rất nhiều mới đạt được thắng lợi.

Đằng này, trong chiến dịch TCK –TKN Tết Mậu Thân, quân số của bên tấn công (quân Giải phóng – Việt Cộng) chỉ vào khoảng # 1/4 quân số của bên bị tấn công (Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà). Các yếu tố cần yếu khác để tiến hành tấn công thì mức độ chênh lệch càng to lớn hơn, có thể chỉ bằng một phần mười, một phần trăm, một phần ngàn các phương tiện phản công của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà. Yếu tố bất ngờ và yếu tố nhân dân (giả định có thật để vận động nổi dậy) có thể là những yếu tố mạnh nhưng chưa phải là yếu tố quyết định, bởi vì một khi Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà phản công thì tình thế tức thì đảo ngược. (Mà Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà không thể không phản công). Nhân dân ở giữa hai lằn đạn hoặc ở phía bị phản công thì chỉ có chết. Chẳng lẽ “các chiến lược gia Cộng sản” đều mắc bệnh hoang tưởng hết nên mới làm kế hoạch chiếm – và – giữ “với niềm tin toàn thắng” để rồi trở thành “nguyên nhân chính gây nên sự thất bại của toàn thể chiến dịch”, như Lê Xuân Khoa nhận định ?

Theo tôi thì “các chiến lược gia Cộng sản” (nhóm từ của Lê Xuân Khoa) không quan niệm chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân là trận cuối cùng, “chiếm và giữ”, như các “kế hoạch công khai và giả mật” (tôi tạm dùng nhóm từ này) mà họ cố tình hư trương. Lê Xuân Khoa đã căn cứ vào các kế hoạch “công khai và giả mật” này và những sách báo có chọn lọc của phương Tây, cùng những nhận định của các sử quan viết sách giáo khoa của miền Bắc làm cơ sở cho những nhận định của ông. Theo tôi ngoài các “kế hoạch công khai và giả mật”, “các nhà làm chiến lược chủ trương TCK – TKN của đảng Cộng Sản” (trong đảng còn có những người không chủ trương TCK – TKN, như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp chẳng hạn), còn có kế hoạch tuyệt mật chỉ có trong đầu các lãnh tụ tối cao, hoặc trong các văn kiện nội bộ tối cao. Đó là kế hoạch tấn công liều chết (thí quân, hay tự sát tập thể) tôi đã trình bày ở trên. Còn “các kế hoạch công khai hay giả mật” chỉ nhằm động viên (hay huyễn dụ) chiến sĩ và quần chúng để đẩy họ vào các trận tấn công liều chết vì mục tiêu chính trị, hoặc để tuyên truyền, hoặc để lừa đối phương, hoặc để biện chính cho một chủ trương, một kế hoạch quá táo bạo và nhẫn tâm.

Tôi có mấy bằng chứng để giải trình luận điểm này:

– 1.1/ Trong thư đề 18 tháng 1 năm 1968, Lê Duẩn gởi cho Trung ương cục và Quân uỷ miền Nam có đoạn :

…“ Về đợt hoạt động trong dịp Tết sắp tới, Trung ương dự đoán tình hình phát triển theo ba khả năng:

– Thứ nhất ta thắng lợi ở “trọng điểm” (Sài Gòn – Đà Nẵng và Huế – Chu Sơn), ở nhiều thành phố và vùng nông thôn quan trọng.

– Thứ hai ta thành công ở một số thành phố và vùng nông thôn, nhưng không thắng lợi ở “trọng điểm”.

– Thứ ba ta chỉ giành được thắng lợi ở mức như các đợt hoạt động hằng năm trước đây, chỉ khác là lần này hoạt động được mở rộng trong quy mô toàn miền Nam” (Lê Duẩn – Thư vào Nam trang 184).

Lê Duẩn là chiến lược gia tối cao chủ trương TCK – TKN Tết Mậu Thân. Qua đoạn thư chỉ đạo trên, chúng ta không thấy ông thể hiện “niềm tin toàn thắng” “về đợt hoạt động trong dịp Tết sắp tới”.

– 1.2/ Trong hồi ký Huế Xuân 1968, Lê Minh, chỉ huy trưởng mặt trận Trị Thiên trong chiến dịch Mậu Thân, kể rằng ông được lệnh chuẩn bị, tổ chức, chỉ huy mặt trận Trị Thiên. Quân của ông đã đánh chiếm Huế, triệt hạ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền cách mạng. Đến khi Mỹ – Ngụy phản kích, do tương quan lực lượng quá chênh lệch, chiến sĩ hi sinh nhiều, Ban chỉ huy điện xin Trung ương chuyển quân ra vùng nông thôn, không được trả lời. Tình thế khốn quẫn : Bị phản công dữ dội, thiếu quân, thiếu vũ khí, lương thực, thuốc men, điện xin tiếp viện, báo sẽ có, nhưng chờ không thấy có. Đến khi không chịu đựng được nữa, ngày 22-2, tự động ra lệnh rút lui.

Sau đây là một đoạn trong hồi kí của Lê Minh:

“…Tôi nêu vấn đề: Bàn tấn công không thôi thì được rồi. Bây giờ tấn công xong rồi ở lại luôn. Nhưng nếu không ở được thì sao ? Lênin có nói về đường lối quân sự của giai cấp vô sản: “Khi nói đến tấn công hoàn chỉnh thì phải tính đường rút lui”. Mác nói : “Vũ trang là bà đỡ của chính quyền mới”. Tôi đưa mấy câu đó ra bàn. Chung quy vẫn còn lại một bóng mờ trong vấn đề tấn công là chuyện rút lui. (Sau này, anh Chưởng cho biết Trung ương có dự kiến cả khả năng không giữ được mà phải rút ra. Nhưng cả anh Quang (bí thư khu uỷ Trị Thiên bấy giờ – Chu Sơn) và anh Chưởng (phó bí thư khu uỷ, chính uỷ mặt trận Trị Thiên trong chiến dịch Tết Mậu Thân. Chu Sơn) đều không thông báo với khu uỷ, chỉ cho tôi biết một chút thôi, và bảo đừng bàn chuyện rút lui” (Huế xuân 68, Lê Minh, trang 46-47) .

Như thế là chuyện rút lui có trong kế hoạch tấn công của “các chiến lược gia Cộng sản” chứ không phải “các chiến lược gia Cộng sản” vì hoang tưởng mà có “niềm tin toàn thắng nên không có kế hoạch rút lui”, để rồi: “chiến dịch TCK – TKN là một thất bại to lớn của đảng Lao Động và Mặt Trận Giải Phóng cả về quân sự lẫn chính trị”, như Lê Xuân Khoa nhận định. Có điều kế hoạch rút lui đó phổ biến đến đâu, lúc nào. Đến như Lê Minh – Chỉ huy trưởng chiến trường Trị Thiên cũng chỉ biết tí chút thôi qua một người đồng sự (Thiếu tướng Lê Chưởng, được các lãnh tụ tối cao tin hơn), và chỉ biết về sau. Lê Minh, sau chiến dịch Mậu Thân thắng lợi, bị điều ra Hà Nội ngồi chơi xơi nước, xem như một hình thức kỉ luật.

– 1.3/ Sau TCK –TKN đợt 1, chắc chắn “các chiến lược gia Cộng sản” không thể không nhận ra rằng: Ngoại trừ ở Huế, đã không làm được cuộc TCK – TKN ở Sài Gòn, Đà Nẵng và các địa phương khác. Vì nói như Lê Xuân Khoa, “Tổng công kích thì bị đẩy lui mà Tổng khởi nghĩa thì nhân dân không nổi dậy theo “cách mạng”. Tuy vậy “các chiến lược gia Cộng sản” vẫn ra lệnh TCK – TKN đợt 2 rồi đợt 3 trong điều kiện không còn yếu tố bất ngờ, và TCK thì chắc chắn không chỉ bị đẩy lui (như Lê Xuân Khoa nhận định) mà còn bị phản kích huỷ diệt, còn TKN thì hoàn toàn không có khả năng. Vậy thì các sử quan Hà Nội và cả tác giả Lê Xuân Khoa giải thích thế nào về TCK – TKN đợt 2 rồi đợt 3 ? Họ có “niềm tin toàn thắng” không ? Họ có kế hoạch chiếm – và – giữ không ? Hay là đánh liều chết !

Phải chăng, cũng như các cuộc tấn công liều chết tại Toà Đại sứ Mỹ và các mục tiêu khác tại Sài Gòn trong đợt 1, cũng như cuộc tử thủ 25 ngày đêm tại Huế, TCK – TKN đợt 2 rồi đợt 3 ở Sài Gòn chỉ là những cuộc hành quân thuần túy quân sự – tấn công liều chết, hay thí quân chỉ với mục đích gây tiếng vang và thể hiện ý chí của kháng chiến Việt Nam (do đảng Cộng Sản lãnh đạo) nhằm làm lung lay hơn nữa chủ trương chiến tranh của chính giới Mỹ, nhằm thức tỉnh lương tri dân chúng Hoa Kỳ và thế giới. Thực chất của TCK – TKN đối với các nhà lãnh đạo chiến tranh ở Hà Nội là một khổ nhục kế. TCK – TKN - “chiếm-và-giữ” chỉ là những huyễn dụ để thúc đẩy các con chốt thí liều chết lao mình vào cái khổ nhục kế ấy.

2/ Ở trang 292 – 293, Lê Xuân Khoa viết:

Trước khi nói về hoà đàm Paris (1968-1973), cũng cần phải nói đến chiến dịch Tết Mậu Thân. Đây là nguyên do chính khiến Tổng thống Johnson quyết định rút lui khỏi chính trường, và trước khi ra đi, muốn chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường thương thuyết. Trận Tổng công kích Tết Mậu Thân cũng đánh dấu một khúc ngoặt quyết định trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đem lại những điều kiện thuận lợi bất ngờ cho Bắc Việt”.

Nếu bỏ hai chữ bất ngờ tôi mạo muội làm đậm ở trên, chúng ta thấy nhận định chung cuộc của Lê Xuân Khoa về chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân trùng khớp với một đoạn trong thư của Lê Duẩn viết cho Trung ương cục và Quân uỷ miền Nam 12 ngày trước khi chiến dịch bắt đầu:

Thực chất yêu cầu trước mắt đặt ra cho đợt hoạt động này là : đối với địch, giáng cho chúng những đòn tấn công sấm sét làm thay đổi cục diện chiến tranh, làm lung lay hơn nữa ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, phải xuống thang chiến tranh” (Lê Duẩn –Thư vào Nam tr 185).

Theo tôi “những điều kiện thuận lợi” (từ của Lê Xuân Khoa) đã không “bất ngờ” (từ của Lê Xuân Khoa) “đối với Bắc Việt” (từ của Lê Xuân Khoa). Độc giả đời sau cần biết thêm rằng ngoài “ba mũi giáp công” (hay các cuộc tấn công liều chết đồng loạt, liên tục, có khả năng không bao giờ dứt) ở quốc nội, chiến dịch TCK – TKN Mậu Thân còn có một mũi giáp công thứ tư do các Hội người Việt yêu nước ở hải ngoại thực hiện : Đó là những đóng góp to lớn của những sinh viên, giáo sư, nhà khoa học, nhà hoạt động tôn giáo, văn hoá vào phong trào phản chiến, phong trào hoà bình trong lòng nước Mỹ, châu Âu và các nơi khác trên thế giới. Do vậy: “Những điều kiện thuận lợi” cũng không bất ngờ với những chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận thầm lặng này.

3/ Về sự kiện “Tắm máu ở Huế”: ở trang 296 Lê Xuân Khoa viết:

Đáng nói hơn hết là những nạn nhân dân sự bị giết gồm công chức, trí thức, lãnh tụ tôn giáo, chính trị và “các phần tử phản động”, tổng số tìm thấy trong số các mồ chôn tập thể 2810 người, không kể hàng ngàn người khác mất tích. Theo Douglas Pikes, một chuyên gia về Việt Nam, số nạn nhân có thể lên tới 5700 người, một số giáo sư hợp tác với đại học Huế cũng bị tàn sát trong trận này”.

Là người Mỹ gốc Việt, lại là người muốn “hoà giải, hoà hợp với chính quyền trong nước”, trước và sau khi viết Việt Nam 1945-1995, chắc Lê Xuân Khoa đã về thăm lại quê cũ nhiều lần, sao ông không nghĩ đến việc tìm hiểu vấn đề tại chỗ với những người trong cuộc và những nhân chứng đang còn sống cùng những tư liệu liên quan, mà ông lại viết về “vụ tắm máu” của Cộng sản qua những tài liệu Mỹ, đặc biệt qua Douglas Pike, một chuyên gia thân thiết của các cơ quan Thông tin Hoa Kỳ?

Theo tôi, mấy ngàn nạn nhân tại Huế trong Mậu Thân không chỉ tìm thấy trong các mồ chôn tập thể. Những mồ chôn tập thể cũng không phải do một mình phía Cộng sản tạo tác. Và thứ tự ưu tiên bị sát hại nếu là do Cộng sản cũng không bắt đầu bằng “công chức, trí thức, lãnh tụ tôn giáo, chính trị”, cuối cùng mới là “các phần tử phản động”.

Do không nghiên cứu trực tiếp, nên mấy dòng trên của Lê Xuân Khoa có nhiều dấu vết từ những tài liệu tuyên truyền của phía Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà phổ biến rộng rãi lúc bấy giờ.

Tết Mậu Thân 1968 tôi bị mắc kẹt tại Huế trong tư cách là một sinh viên sĩ quan trừ bị (Thủ Đức) đi phép. Tôi trở lại quân trường sau khi quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà hoàn tất cuộc tái chiếm thành phố Huế. Tôi đã viết về vụ “ tắm máu Mậu Thân ” trong cuốn sách tự xuất bản năm 2011 : Nước – Lửa và Sóng (bài Câu chuyện trên núi Truồi mà Diễn Đàn đã trích đăng tại đây). Sau đây là phần tóm lược:

Theo tôi, dân Huế bị sát hại trong Mậu Thân cả thảy 4 đợt:

– Đợt thứ nhất do Công Sản tạo tác bắt đầu từ việc đánh chiếm thành phố, lật đổ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền mới. Mà chính quyền bao giờ cũng ở trên đầu ngọn súng. Năm 1954, Ngô Đình Diệm muốn ổn định chính quyền cũng đã tiêu diệt các đảng phái và các giáo phái, phát động rầm rộ các chiến dịch tố Cộng, diệt Cộng. Việc Ngô Đình Diệm tố Cộng, diệt Cộng và việc Ngô Đình Cẩn khẳng định vai trò lãnh chúa miền Trung đã gây nợ máu với rất nhiều gia đình kháng chiến hay không kháng chiến (nhà giàu), không phân biệt Cộng Sản hay không Cộng Sản. Kinh nghiệm máu xương của người dân Thừa Thiên Huế còn kinh qua cuộc đàn áp Phật giáo từ năm 1963 đến năm 1966. Năm 1968 khi những người Mặt trận từ trên núi xuống, từ trong tù ra, với súng trong tay, họ sẽ làm gì trong nhiệm vụ triệt hạ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền mới ? Chắc chắn họ không phân biệt được hay cố tình không phân biệt giữa việc “đền nợ nước và trả thù nhà”. Đây là đợt tắm máu thứ nhất.

– Đợt tắm máu thứ hai xảy ra khi quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà phản công tái chiếm: Việt Cộng ở trong dân, “quân đội Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ phải chiến đấu rất khó khăn để giành lại từng căn nhà, từng góc phố” (Lê Xuân Khoa sđd tr 296). “Với các biện pháp lùng – diệt và được sử dụng hỏa lực thật mạnh một cách bừa bãi, nhiều khi chỉ để phòng ngừa… thường gây thương vong cho nhiều thường dân vô tội”. “Qui tắc chiến đấu” của quân đội Mỹ trong chiến tranh chống du kích đã giết hại nhiều thường dân hơn bộ đội Cộng sản. Nguy hại hơn nữa là mệnh lệnh có tính cách buông thả : “Hãy giết Việt Cộng”. (Lê Xuân Khoa sđd tr 334). Về phía quân Việt Nam Cộng Hoà thì trong họ, hay sau lưng họ, không ít những người có thân nhân vừa mới bị Cộng Sản sát hại, với vũ khí trong tay, họ đã buông thả sự trả thù. Việc tái lập chính quyền cũ cũng diễn ra trên đầu ngọn súng.

– Đợt tắm máu thứ ba xảy ra trên đường Cộng quân rút lui với thương binh, thanh niên đi theo và tù binh của họ. Quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà truy đuổi, trực thăng bắn đại liên xối xả, máy bay oanh kích, đặc biệt B52 rải thảm. Một số mồ chôn tập thể được hình thành trong đợt này.

– Đợt tắm máu thứ tư là tuyên truyền của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà trong và sau khi chiến dịch Mậu Thân kết thúc.

Theo tôi, dù dân Huế bị sát hại vào đợt nào thì phía Cộng Sản cũng là người chịu trách nhiệm chính trước những cái chết không đáng.

Phía Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà chỉ thừa cơ hội để tương kế tựu kế, thực hiện sách lược “gậy ông đập lưng ông” mà bất cứ địch thủ nào cũng làm trong những trường hợp tương tự.

C/ Về lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của các bộ phận người Việt Nam:

Ở trang 321, Lê Xuân Khoa viết:

Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Hoa Kỳ thường chê tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội Cộng sản miền Bắc khiến cho Hoa Kỳ phải đưa quân vào cứu vãn tình trạng nguy ngập ở miền Nam. Điều đó đúng một phần nhưng không phải người Quốc Gia không yêu nước bằng người Cộng Sản cho nên quân miền Nam không chiến đấu dũng cảm bằng quân dân miền Bắc. Trên toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ có một dân tộc, không thể bảo rằng người Việt miền Nam không can đảm bằng người Việt miền Bắc” (LXK sđd tr 321).

Qua đoạn trích dẫn này, Lê Xuân Khoa cho độc giả thấy rằng: Người Việt Nam ai cũng yêu nước cả, ai cũng chiến đấu kiên cường và dũng cảm cả, bất kể là Việt Nam Quốc Gia hay Việt Nam Cộng Sản, bất kể người Việt ở miền Nam hay người Việt ở miền Bắc.

Lê Xuân Khoa sử dụng nhận định này để bác bỏ nhận định mà ông cho là sai của “các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Hoa Kỳ” : “thường chê tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội Cộng Sản miền Bắc khiến cho Hoa Kỳ phải đưa quân vào cứu vãn tình trạng nguy ngập ở miền Nam”. Việc Hoa Kỳ đúng sai thế nào trong quyết định “Mỹ hoá” tôi đã bàn ở trên. Ở đây tôi chỉ thảo luận với Lê Xuân Khoa về lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của người Việt Nam trong thời đoạn lịch sử từ sau hiệp định Genève.

Theo tôi, nhận định trên của Lê Xuân Khoa là câu nói đầu môi chót lưỡi, là lời hiệu triệu của các nhà lãnh đạo chính trị với mục đích huyễn dụ người nghe, hoặc là lời ngụy biện của những kẻ hèn nhát, vô trách nhiệm muốn tỏ ta cũng yêu nước như bất cứ ai. Nhà nghiên cứu không nên nói chung chung mơ hồ như vậy. Nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là chứng minh “người Việt miền Nam” – “người Việt miền Bắc”, “người Việt Quốc Gia” – “người Việt Cộng Sản” đã thực hiện lòng yêu nước như thế nào ? Nếu lòng yêu nước mà không thể hiện bằng hành động cụ thể, hoặc thể hiện bằng hành động trái ngược (có hại cho nước), không đúng chỗ (đứng trong hàng quân của chính quyền Liên hiệp Pháp như chính phủ Quốc gia của Bảo Đại, hay đứng dưới quyền lực của ông chủ Mỹ) thì chỉ là lời nói suông với mục đích huyễn hoặc chính mình và lừa dối kẻ khác (nói một đường làm một nẻo). Cũng như thế : “chính quyền trong nước” ngày nay (vốn là “người Việt miền Bắc”, “người Việt Cộng Sản, vốn là một bộ phận của dân tộc”) có còn là người Việt yêu nước và chiến đấu dũng cảm nữa không ? Hay đã trở thành những kẻ hèn nhát hại dân hại nước, thậm chí còn buôn dân bán nước?

Sở dĩ Lê Xuân Khoa đưa ra những lời nhận định chung chung và có tính áp đặt như vậy (người Việt Nam ai cũng yêu nước và chiến đấu dũng cảm cả) vì ông cứ khư khư những định kiến mà không có một nỗ lực thích đáng nào để nắm bắt những chuyển biến và sự phát triển các thành phần chính trị cũng như tâm tư nguyện vọng của đa số quần chúng nhân dân trên cả hai miền Nam – Bắc từ sau 1954.

Các định kiến đó là: hễ cứ miền Bắc là Cộng Sản, và miền Nam là Quốc Gia (cũng như định kiến của đa số người Việt hải ngoại hiện nay là hễ bất cứ ai ở trong nước cũng đều là Cộng Sản cả). Và chỉ có người Quốc Gia và người Cộng Sản mới yêu nước và chiến đấu dũng cảm.

Tôi muốn phá vỡ định kiến đó bằng một phản biện : Từ sau 1954 nhiều người cư trú trên miền Bắc nhưng không phải là “Việt Nam Cộng Sản”. Đa phần nhân dân cư trú tại miền Nam, cũng không phải là “Việt Nam Quốc Gia”. Trong một hoàn cảnh đặc biệt, những người không Quốc gia, cũng không Cộng sản đó đã chứng tỏ lòng yêu nước của mình theo một cách riêng: tham chiến với thái độ bất đắc dĩ khi bị bắt buộc phải vào lính, hoặc trốn lính, đào ngũ, hoặc đứng ngoài. Bởi vì, theo họ : đi với Mỹ là phản quốc, theo Cộng sản là đi vào con đường mà họ cho là sai lầm, tội ác.

Sự thể này manh nha từ một thực tế là sau hiệp định Genève, miền Bắc được cai trị bởi chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thành lập sau cách mạng tháng Tám và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp với chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội dẫn đến thắng lợi nửa chừng là giành lại được một nửa đất nước (từ vĩ tuyến 17 trở lên). Đây là một nhà nước nhân dân chính danh, nhưng đã tự làm ô nhục bằng cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu bạo tàn. Trong lòng xã hội miền Bắc và chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do những người Việt Nam Cộng sản lãnh đạo còn có một thiểu số người Việt Nam Quốc Gia không theo kịp cuộc di cư vào Nam, và một bộ phận người Việt Nam khác (ngày càng gia tăng) kêu đòi tự do dân chủ – là nạn nhân của tất cả các cuộc cải cách, cải tạo, chỉnh huấn (cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo văn hoá văn nghệ) và thực trạng hủ bại của guồng máy quan liêu độc tài toàn trị ngày một củng cố và phát triển. Những người Việt Nam phi xã hội chủ nghĩa này không đủ sức để hình thành nên một lực lượng quần chúng hợp nhất, một thành phần chính trị riêng biệt. Dù muốn dù không, đa số trong họ đều bị cuốn hút, hay bị vô hiệu hoá trước những biện pháp chuyên chính tàn bạo và đê tiện của đảng Cộng sản.

Điều đáng chú ý là: Vì mục tiêu thống nhất đất nước là nhu cầu chính đáng và bức thiết của cả dân tộc, những người Việt Nam phi xã hội chủ nghĩa này buộc phải chấp nhận sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, đã hội nhập cùng đại đa số nhân dân miền Bắc, đã đóng góp công sức, xương máu và của cải vật chất cho công cuộc kháng chiến chống “Mỹ – Ngụy, giải phóng miền Nam”. Bản thân họ, hoặc con em cháu chắt họ đã tình nguyện tham gia quân đội miền Bắc, cũng đã chiến đấu dũng cảm bên cạnh những đồng đội có gốc gác công nông mà “các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ đã “khen” so với tinh thần và hiệu quả chiến đấu “đáng chê” của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà…”, khiến Lê Xuân Khoa chẳng mấy bằng lòng.

Tại miền Nam tình hình phức tạp theo một chiều hướng khác : Từ sau khi Mỹ thay thế Pháp trong vai trò là đồng minh hay là ông chủ của các chính quyền độc tài gia đình – Thiên chúa giáo trị Ngô Đình Diệm, hay quân phiệt trị Nguyễn văn Thiệu dưới danh xưng là Việt Nam Cộng Hoà, quần chúng nhân dân chia làm ba bộ phận với ba khuynh hướng chính trị khác nhau :

– Một bộ phận nương tựa vào quyền lực Mỹ, hy vọng vào những giá trị tự do dân chủ Mỹ và nền văn minh Ki tô giáo, chủ trương chống Cộng như một giáo điều, phá bỏ hiệp định Genève, ra sức xây dựng miền Nam thành một quốc gia riêng biệt và độc tôn Thiên Chúa giáo. Bộ phận này là thiểu số, vào khoảng hai đến ba mươi phần trăm dân số toàn miền Nam, (Theo nhận định của Tổng thống Mỹ – Eisenhower: Nếu bầu cử theo tinh thần của hiệp định Geneve, 80 % dân chúng miền Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh). Lê Xuân Khoa gọi bộ phận quần chúng này là Việt Nam Quốc Gia. Càng về sau, do sự phát triển của tình hình: Mỹ ngày càng lộ rõ vai trò đế quốc, các chế độ Việt Nam Cộng Hoà kế tiếp nhau càng lộ rõ tính chât lệ thuộc và độc tài, một số người thuộc thành phần chính trị này chuyển dần qua hai thành phần sau. Do vậy, tỷ lệ này càng giảm xuống, có thể đến mức dưới 10 % vào thời điểm 1975.

– Bộ phận thứ hai đông đảo hơn, không có thống kê cụ thể, nhưng đông hơn rất nhiều số quần chúng ủng hộ phe Quốc gia. Khuynh hướng chính trị là chống Mỹ–Ngụy, chủ trương thống nhất đất nước, hướng về miền Bắc với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, về đảng Cộng sản và chủ nghĩa Xã hội. Họ tham gia Mặt trận Giải phóng, đặt mình dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng Cộng sản.

– Bộ phận thứ ba đa phần là đồng bào theo đạo Phật và những người ngoài Công giáo, đã tham gia kháng chiến chống Pháp, đã có kinh nghiệm độc tài – vô thần của đảng Cộng sản, khuynh hướng chính trị là trung lập (không Mỹ, cũng không Cộng sản). Tầng lớp trên (của bộ phận quần chúng này) ước mơ về một nhà nước theo thể chế Xã hội chủ nghĩa phi Cộng sản, hay Xã hội chủ nghĩa Phật giáo, chủ trương đấu tranh dân chủ, hoà bình, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, hoà giải và hoà hợp dân tộc. Năm 1963, Phật tử và đồng bào thuộc thành chính trị thứ hai, thứ ba hưởng ứng cuộc đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo do giáo hội Phật giáo miền Trung phát động. Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (miền Nam) thành lập, chủ trương cuộc đấu tranh kêu đòi dân chủ, hoà bình và quyền dân tộc tự quyết. Phong trào bị Mỹ và Thiệu – Kỳ đàn áp đến tan rã vào giữa năm 1966. Năm 1973, Phật tử và quần chúng thuộc thành chính trị thứ hai, thứ ba tham gia các phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris. Năm 1974, tham gia Lực lượng Hoà giải – Hoà hợp Dân tộc do Phật giáo Ấn Quang tổ chức. Tháng Tư 1975 hậu thuẫn cho tướng Dương Văn Minh thành lập chính phủ chuyển tiếp từ Việt Nam Cộng Hoà qua chính quyền Cách mạng. (xem: Phong trào Phật giáo miền Trung - Huế – từ Chấn Hưng đến Dấn Thân – Chu Sơn)

(Sự phân chia ba bộ phận quần chúng, ba khuynh hướng chính trị như thế là tượng trưng, các con số phần trăm ấy chỉ là tương đối. Thực tế là trong rất nhiều gia đình, đặc biệt những gia đình thuộc tầng lớp trên, đều có người ở bên này, có người đứng bên kia…)

Về phía quần chúng: bộ phận thứ hai, thứ ba cộng lại là đa số tuyệt đối (80 %, càng về sau càng gia tăng), nhưng vì cư trú tại miền Nam – là lãnh thổ tạm thời chịu sự quản lý của chính quyền Liên Hiệp Pháp theo hiệp định Genève. Về sau, dù muốn, dù không, tất cả đều phải là “công dân hợp pháp ” của “ nước Việt Nam Cộng Hoà ”, đều phải chịu sự cai trị của những người mà Lê Xuân Khoa gọi là Việt Nam Quốc Gia được ông chủ Mỹ chọn lựa. Vì nhu cầu sinh sống, nếu không làm ăn riêng lẻ (nông nghiệp, thương mại, thợ thủ công …) thì làm thuê cho các cơ sở kinh tế tư nhân, hoặc là công chức trong các ngành nghề do chính quyền quản lí. Đặc biệt, thanh niên đến tuổi quân dịch hay tuổi động viên đều phải trở thành binh lính hay sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, đều phải vác súng Mỹ đi đánh nhau với người ruột thịt ở phía bên kia chiến tuyến ; đều nghe tiếng bom Mỹ vang động từ miền Bắc, từ rừng núi hay nông thôn ; đều thấy tác hại khủng khiếp của chất độc hoá học và bom napalm lên con người, cỏ cây, làng mạc, đất đai ; đều thấy lính Mỹ vênh váo, hoành hành ngang ngược khắp các tỉnh thành miền Nam ; đều chứng kiến xã hội băng hoại trước sự chi tiêu xả láng của nửa triệu quân nhân Mỹ sau những cuộc hành quân diệt Cộng. Lê Xuân Khoa đã không nhận ra được sự thật này nên ông đã phản đối “các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ thường chê tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội Cộng sản miền Bắc…”

Thử hỏi, khi một chính quyền, một quân đội quá phụ thuộc vào nước ngoài (Lê Xuân Khoa bảo là vì Mỹ bỏ rơi nên Việt Nam Cộng Hoà mới thua) lại được chỉ huy bởi các tướng lãnh “chỉ quan tâm đến việc tranh chấp quyền hành và bảo vệ quyền lợi phe nhóm”, mà bảo quân đội đó chiến đấu dũng cảm, liều chết như các chiến binh Cộng sản miền Bắc sao ?

Theo tôi, các nhà chính trị và quân sự của Mỹ đã đúng khi so sánh tinh thần và hiệu quả tác chiến của quân đội hai phía Việt Nam như trên. Họ cũng không sai khi bảo rằng những người đang chống lại họ là yêu nước, và những người cộng tác với họ là không yêu nước. Các nhà cai trị thực dân đế quốc thường không trọng, hoặc khinh những người bản địa cộng tác với mình, nhưng ghét và trọng những ai chống lại mình. Đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, nếu bảo rằng đa số những quân nhân bị ép buộc phải sung vào quân lực Việt Nam Cộng Hoà đều không yêu nước là sai. Thực tế, đa phần những quân nhân Việt Nam Cộng Hoà bất đắc dĩ này đã yêu nước trong hoàn cảnh đặc biệt của họ. Họ không thể nào “chiến đấu dũng cảm” trong cuộc chiến tranh do người Mỹ áp đặt (Lê Xuân Khoa gọi là chủ động). Họ không thể bắn vào người anh em ruột thịt đang chiến đấu vì mục tiêu thống nhất đất nước mà họ khao khát, cho dù họ không đồng tình hay thậm chí dị ứng ý thức hệ Xã hội chủ nghĩa và chế độ Cộng sản độc tài miền Bắc. Giữa họ và người anh em bất đồng chính kiến ở bên kia chiến tuyến có một khát vọng chung là độc lập, hoà bình và thống nhất tổ quốc. Giữa họ và người Mỹ đế quốc không có điểm chung nào cả.

Trong chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân, vì dị ứng với Cộng sản các thứ, nên các chiến binh Việt Nam Cộng Hoà bất đắc dĩ này đã không nghe theo lời khuyến dụ của các cán bộ binh vận làm binh biến. Do vậy nên kế hoạch TCK – TKN Tết Mậu Thân đã không thành đạt như ý muốn của các nhà lãnh đạo tối cao của đảng Cộng Sản.

Trong cuộc Tổng tấn công mùa xuân 1975, các chiến binh miền Bắc đã tiến nhanh, thắng nhanh chủ yếu vì đa số trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà đã không cầm súng đánh trả, đã chuẩn bị các thứ trong điều kiện có thể để chờ đoàn quân Giải phóng vào tiếp quản. Bởi vì Hoà bình, Thống nhất đất nước, Hoà giải, Hoà hợp dân tộc cũng là khát vọng sâu thẳm và mạnh mẽ của họ. Đây là một chọn lựa có ý thức, chứng tỏ lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm của họ trong một tình thế đặc biệt. Khi một quân đội mà đa số chủ trương không đánh, hoặc đánh bất đắc dĩ, đánh cầm chừng, lấy lệ…, thì thiểu số còn lại có “yêu nước” đến đâu, và “chiến đấu dũng cảm” như thế thế nào, cũng không tránh khỏi thất bại. Đó là chưa nói đến những người Việt Nam Quốc Gia hèn nhát, tham nhũng. Như thế, việc đánh giá về sự thất bại của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, và sự thắng lợi của quân đội miền Bắc cần phải được các sử gia xem xét lại. Điều vô cùng đáng tiếc là : Để chứng tỏ mình đang làm nên “chiến công hiển hách”, đoàn quân Giải phóng với xe pháo rầm rập, súng ống tua tủa đã bắt buộc những người anh em (chính phủ Dương Văn Minh) đang chờ đón mình với hai bàn tay không và tấm lòng rộng mở – phải dong tay, tuyên bố đầu hàng như những kẻ thù đang bắn giết nhau giữa trận mạc.

Trở lại với Lê Xuân Khoa và những dòng tiếc nuối về cuộc chiến tranh mà theo ông “Hoa Kỳ đã chủ động và sai lầm”, đã “bỏ lỡ nhiều cơ hội hoà bình”, đã “từ bỏ trách nhiệm”, để rồi cuối cùng “bị mang tiếng bại trận” (LXK sđd chương 8 – Sai lầm của Hoa Kỳ). Ở trang 360 Lê Xuân Khoa viết:

Chỉ vì lòng chán ghét cuộc chiến tranh do chính mình chủ động, chán ghét những người lãnh đạo Việt Nam thiếu khả năng do chính mình chọn lựa, và đánh giá sai lầm tinh thần yêu nước của những người Việt Nam Quốc Gia, Hoa Kỳ đã từ bỏ trách nhiệm cam kết với nhân dân miền Nam Việt Nam cũng như với nhân dân Cam-bu-chia và Lào. Sau ba mươi năm liên lụy với hai cuộc chiến tranh ở một vùng đất xa xôi và bỏ lỡ nhiều cơ hội hoà bình, Hoa Kỳ không những bị mang tiếng bại trận mà còn phải mất hơn hai mươi năm nữa để tìm cách giải quyết cuộc khủng hoảng quốc tế về vấn đề tị nạn từ ba nước Đông Dương”.

Đây là mấy dòng Lê Xuân Khoa tiếp cận sự thật lịch sử hơn hết, và đồng thời ông cũng thể hiện tâm cảm của mình (một người Việt Quốc Gia). Điều đáng buồn là sự thật lịch sử và tâm cảm của ông đã không khế hợp được với nhau.

Nửa câu đầu trong đoạn trích dẫn trên, xin được chép lại: “Chỉ vì chán ghét một cuộc chiến tranh do chính mình chủ động, chán ghét những người lãnh đạo Việt Nam thiếu khả năng do chính mình lựa chọn…,”

Với nửa câu này thôi, Lê Xuân Khoa đã mô tả gần như chính xác một bên của cuộc chiến tranh mà ông đã áp đặt tên gọi, và đã không chứng minh được là “Nội chiến và Uỷ nhiệm”.

Khi chủ thể tạo tác mà chán ghét cái công trình “do chính mình chủ động”, và đồng thời chán ghét cái công cụ (những người lãnh đạo Việt Nam – nguyên văn của Lê Xuân Khoa) do “chính mình chọn lựa” đến thế thì xin hỏi tác giả Lê Xuân Khoa : Cái dân tộc phải chịu đựng sự tàn phá ghê gớm từ cuộc chiến tranh đó sẽ chán ghét đế mức độ nào cho xứng với tội ác do chúng gây nên ? Và sự việc mà đảng Cộng Sản đã tuyên truyền chống Mỹ Ngụy, giải phóng miền Nam có gì là sai trái, là bịa đặt?

Với nửa câu này thôi, Lê Xuân Khoa đã mô tả Mỹ như một ông chủ độc đoán, một đế quốc xâm lược chính danh.

Đến nửa câu sau: “…và đánh giá sai lầm tinh thần yêu nước của những người Việt Nam Quốc Gia, Hoa Kỳ đã từ bỏ trách nhiệm cam kết với nhân dân Việt Nam cũng như với nhân dân Cam-bu-chia và Lào…”

Lê Xuân Khoa đã chê trách Hoa Kỳ như một đồng minh sai lầm, và phản bội. Một đồng minh sai lầm có thể sữa chữa, tha thứ. Nhưng khi một đồng minh phản bội, thi không còn là đồng minh nữa, mà trở nên kẻ thù.

Người đọc sách và là người Việt Nam bình thường như chúng tôi hiểu vấn đề không đến nỗi rối rắm, phức tạp như thế:

Khi người Mỹ “chủ động” tiến hành cuộc chiến tranh của họ trên một đất nước xa xôi lạ lẫm như Việt Nam, và “chính họ chọn lựa” những người trợ thủ bản xứ (Trợ thủ là lời nói cho dễ nghe. Nói khó nghe là tay sai, là công cụ. Lê Xuân Khoa gọi là “những người lãnh đạo Việt Nam”) như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, thì chắc chắn họ (người Mỹ) không thể xem các nhân vật ấy và thuộc cấp (của hai ông) là người Việt Nam yêu nước được. Bởi người yêu nước (của bất cứ quốc gia nào) không cộng tác với bất cứ ngoại bang nào để tiến hành cuộc chiến tranh của chúng trên đất nước mình. Vả lại, khi người Mỹ chọn lựa người bản xứ làm trợ thủ phục vụ cho lợi ích của họ, thì cái mà Lê Xuân Khoa gọi là trách nhiệm hay cam kết gì đó “đối với nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Cam-bu-chia và Lào” chẳng qua chỉ là lời huyễn dụ vào một thời điểm cần thiết. Đến khi thấy những trợ thủ ấy “thiếu khả năng”, hoặc vì lý do nào đó gây khó khăn trở ngại cho công cuộc của họ thì chắc chắn sẽ bị loại trừ. Cứ xem người Mỹ đối xử với anh em Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu như thế nào thì đủ rõ.

Câu thứ hai của đoạn trích dẫn trên hàm chứa hai ý chính : Một là Hoa Kỳ mang tiếng bại trận. Hai là Hoa Kỳ phải mất hai mươi năm để giải quyết vấn đề tị nạn. Tôi nói qua ý thứ hai trước : Theo tôi vấn đề người Việt Nam chạy ra nước ngoài trong và sau sự kiện “30-4-1975” gồm hai thành phần : một là những người di tản trong kế hoạch của Mỹ, hai là những người trốn chạy ra nước ngoài do các chính sách “cải tạo chế độ cũ” và các cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa của “chính quyền trong nước”. Về thành phần di tản theo kế hoạch, nếu có đủ thời gian, Mỹ có thể đưa ra khỏi Việt Nam đa số những người “Việt Nam Quốc Gia” đã cộng tác với Mỹ trong “cuộc chiến tranh do chính mình chủ động”. Về thành phần tị nạn bao gồm các đối tượng cải tạo (cải tạo chế độ cũ, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo văn hoá văn nghệ, cải tạo nông nghiệp), nói chung là nạn nhân của chế độ Cộng Sản về cả hai phương diện chính trị và kinh tế. Nếu không bị ngăn trở, có cơ hội và điều kiện, một nửa dân miền Nam sẽ vượt biên, trốn chạy khỏi đất nước, làm người tị nạn tại bất cứ quốc gia và vùng lãnh thổ nào, thậm chí phải chết để thoát khỏi chế độ độc tài đảng trị.

Nhưng cái Lê Xuân Khoa gọi là “vấn đề tị nạn” theo tôi thực chất phát xuất từ vấn đề di tản những đồng sự và con cháu “những người lãnh đạo Việt Nam thiếu khả năng” “do chính mình chọn lựa” để tiến hành “cuộc chiến tranh do chính mình chủ động”. Bởi vì xét cho cùng, nếu không có cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ chủ động, thì sẽ không có “cuộc khủng hoảng quốc tế về vấn đề tị nạn từ ba nước Đông Dương”. Phải chăng Lê Xuân Khoa đã sử dụng khả năng lí luận mèo lại hoàn mèo để diễn đạt tính chất cuộc “ chiến ba mươi năm ” mà Hoa Kỳ đã “chủ động” và “liên lụy” ?

Nếu sử học là môn học của sự bất nhất và mập mờ thì Lê Xuân Khoa đích thực là một bậc thầy của môn học bất nhất và mập mờ ấy.

Lê Xuân Khoa cho rằng Hoa Kỳ “bị mang tiếng bại trận” chứ thực tế Hoa Kỳ đã không bại trận như nhận định của nhiều người. Trước đoạn trích dẫn trên đúng 18 dòng, Lê Xuân Khoa viết:

Điều đáng tiếc là phong trào phản chiến lên cao và vì những mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền và quốc hội về chính sách đối với Việt Nam, Hoa Kỳ không những đã không khai thác được sự thất bại quân sự và chính trị của Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng miền Nam sau trận Tết Mậu Thân, mà còn giúp cho đối phương tạo được ưu thế trên bàn hội nghị” (LXK sđd tr 359).

Về kết quả của chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân cho cả hai phía (Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà) tôi đã thảo luận ở trên. Ở đây tôi chỉ thắc mắc là Lê Xuân Khoa đã không cho độc giả biết mục tiêu của phong trào phản chiến tại Mỹ là gì, vì sao nó “lên cao” và nội dung cụ thể của “những mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền và quốc hội về chính sách đối với Việt Nam” là gì ? Không như thế thì làm sao độc giả có thể chia sẻ với Lê Xuân Khoa điều làm cho ông “đáng tiếc” ? Theo ông : nếu phong trào phản chiến không lên cao, “những mâu thuẫn giữa chính quyền và quốc hội” không trầm trọng, thì Hoa Kỳ có thể khai thác được sự thất bại quân sự và chính trị của đối phương “để giành ưu thế trên bàn hội nghị”. Như thế Hiệp định Paris 1973 sẽ là một thành tựu có lợi cho Hoa Kỳ, ít ra “phải có điều khoản duy trì một lực lượng quân Mỹ tối thiểu để bảo đảm việc thi hành thỏa ước”. Và như thế Việt Nam Cộng Hoà sẽ không bị bỏ rơi, “chương trình Việt Nam hoá” chiến tranh sẽ “được Hoa Kỳ thực hiện đúng mức”, và “Việt Nam Cộng Hoà có thể tránh khỏi tình trạng sụp đổ mau chóng và thê thảm”, cho dù “không bảo đảm cho việc Nguyễn Văn Thiệu chiến thắng được Cộng Sản” (LXK sđd tr 359-360).

Theo tôi, đến thời điểm này (sau chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân) mà đặt vấn đề Nguyễn Văn Thiệu có chiến thắng được Cộng Sản hay không là điều nhảm nhí. Có lẽ Lê Xuân Khoa cũng không nghĩ khác. Nhưng ông lại tỏ ra rất nghiêm túc khi nêu ý kiến là: Việt Nam Cộng Hoà không đáng bị bỏ rơi, chương trình Việt Nam hoá chiến tranh đáng ra nên được Hoa Kỳ thực hiện đúng mức, để “Việt Nam Cộng Hoà có thể tránh được tình trạng suy sụp mau chóng và thê thảm”. Lê Xuân Khoa đã tách riêng Nguyễn Văn Thiệu và những người Việt Nam Quốc Gia làm hai thực thể riêng biệt. Có lẽ, theo ông : Nguyễn Văn Thiệu là người lãnh đạo thiếu khả năng đã được Hoa Kỳ chọn lựa và đang bị Hoa Kỳ chán ghét. Còn những người Việt Nam Quốc Gia là những người yêu nước chân chính, Hoa Kỳ không nên đánh giá sai lầm rồi đánh đồng sự đối xử.

Chắc chắn là phong trào phản chiến, Quốc hội và cả chính phủ Mỹ đã không nghĩ như thế. Khi một Thống tướng như Westmoreland mà còn bị cách chức, một Tổng thống như Johnson mà phải từ bỏ sự nghiệp chính trị của mình (quyết định không ra ứng cử tổng thống), và Hoa Kỳ phải bắt đầu những cuộc đàm phán với Việt cộng để tìm đường rút ra khỏi bãi lầy, thì sá gì tâm cảm của những người Việt Nam Quốc Gia mà Lê Xuân Khoa là đại diện. Bởi vì đối với Mỹ : Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu và Việt Nam Quốc Gia chỉ là một. Tất cả đều là công cụ. Công cụ để chủ động dấn thân vào. Và cũng là công cụ khi bị ép buộc phải rút ra.

Khi chấp nhận thua Việt Nam qua việc ký kết hiệp định Paris, phe chủ chiến Mỹ đã chấp nhận thua nhân dân và Quốc hội Hoa Kỳ trước phong trào phản chiến. Do vậy, vấn đề ai thắng ai trong cuộc chiến tranh Đông Dương của Mỹ cần xem xét lại. Bởi trong quá trình chủ động xâm phạm quyền tự quyết của các dân tộc Việt Nam, Lào và Cam Bốt ở những mức độ khác nhau của 6 đời tổng thống từ Roosevelt, qua Truman, qua Eisenhower, qua Kennedy, qua Johnson, đến Nixon, các chính phủ Mỹ vô hình trung đã đẩy đất nước vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, đã thách thúc Lương tri của dân chúng Hoa Kỳ và thế giới. Cái lương tri ấy thể hiện một cách đầy đủ qua lời tuyên đọc nổi tiếng của Tổng thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson năm 1776 nhân lễ độc lập. Cái lương tri ấy được thể hiện bài bản hơn qua tuyên ngôn nhân – dân quyền của cách mạng Pháp 1789. Cái lương tri ấy đã được chủ tịch Hồ Chí Minh trích đọc trong tuyên ngôn độc lập 2-9-1945:

“Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng, Tạo hoá đã ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Cái Lương tri ấy nằm sâu trong tâm thức của nhân dân Hoa Kỳ và loài người tiến bộ. Cái Lương tri ấy từng bước thức tỉnh theo các thời đoạn của cuộc chiến tranh phi nghĩa do chính phủ Mỹ chủ động. Cái Lương tri ấy đã bàng hoàng xao xuyến và giao động trước những cuộc tự thiêu của ngài Thích Quảng Đức và các vị Tăng, Ni trong phong trào đấu tranh bất bạo động của Phật tử kêu đòi tự do và bình đẳng tôn giáo năm 1963. Cái lương trí ấy được đánh động đến đỉnh điểm qua những trận tấn công liều chết của những chiến binh tí hon Việt Nam chống trả quyết liệt trước tên xâm lược khổng lồ là đế quốc Mỹ trong chiến dịch Tết Mậu Thân. Chính cái Lương tri ấy đã kéo các chiến binh Mỹ thoát khỏi vũng lầy Việt Nam, đưa họ trở về với đất nước và nhân dân Hoa Kỳ

Điều đáng kinh ngạc là cái Lương tri ấy rất gần gũi với lương tri Việt Nam được đúc kết bằng máu xương của cả dân tộc qua hàng ngàn năm chống đuổi xâm lược với tuyên ngôn độc lập đầu tiên được nhân dân tuyên đọc từ gần ngàn năm trước :

Nam quốc sơn hà Nam đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Cho dù chính phủ Mỹ toan tính như thế nào, ngoan cố, hậm hực, thù oán, lươn lẹo ra sao trước tình thế phải rút lui chẳng mấy danh dự, xét về ngữ nghĩa và xu thế phát triển các tương quan lực lượng: “Việt Nam hoá chiến tranh” cuối cùng có nghĩa là trao lại quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam. Mà nhân dân Việt Nam, chẳng còn con đường nào khác ngoài con đường độc lập, hoà bình, thống nhất đất nước, hoà giải – hoà hợp và dân chủ.

Ở bên kia bán cầu, cuộc đấu tranh Dân chủ và Hoà bình kết thúc. Phe chủ chiến Mỹ đã lùi bước. Phe chủ hoà, nhân dân và Lương tri Hoa Kỳ đã kìm hãm được con ngựa bất kham do chính mình bầu chọn là bộ máy chiến tranh hung hăng, lạm quyền và dối trá.

Ở bên này bán cầu, cuộc chiến tranh xâm lược và chống xâm lược lụi tàn. Đế quốc Mỹ đã thua. Nhân dân và đảng Cộng sản Việt Nam đã thắng. Cuộc vận động Dân chủ và cuộc chiến tranh vệ quốc ở hai bên bán cầu có liên hệ hữu cơ.

Điều vô cùng đáng tiếc là tiếp liền theo cuộc chiến tranh Nhân dân để làm nên những chiến thắng ấy, đảng Cộng sản đã đánh mất Lương tri khi lùa đẩy nhân dân bất kể thành phần chính trị (thứ nhất, thứ hai, thứ ba) vào cái chuồng Xã Hội Chủ Nghĩa. Hành động như thế, đảng Cộng sản tự biến mình thành kẻ phản bội tồi tệ nhất trong số những kẻ phản bội suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Vấn đề vô cùng bức thiết hiện nay là : nhân dân Việt Nam – người chủ cái Lương tri được un đúc và thử thách qua hàng ngàn năm lịch sử dựng xây, bảo vệ, và phát triển – phải hành xử như thế nào để đẩy lùi tình trạng bị cai trị bởi một đảng không còn có lương tri, hầu nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi tình trạng suy sụp, tối tăm, lệ thuộc ngoại nhân (chủ yếu là Trung Quốc) nhục nhã như hiện tại. Nhân dân Việt Nam học được bài học gì từ cuộc chiến tranh vệ quốc vừa hào hùng – vừa bi đát kéo dài hơn thế kỉ ??? Nhân dân Việt Nam học bài học gì từ cuộc đấu tranh dân chủ, nhân đạo và hoà bình của nhân dân Hoa Kỳ và thế giới, mà nếu không có nó, Mỹ sẽ khó mà thoát khỏi bãi lầy Đông Dương, và Việt Nam còn lâu mới thấy được thống nhất và hoà bình ???

Chu Sơn

Xin xem tiếp hai mục sau đây:

- - Thư [phản hồi] của tác giả Lê Xuân Khoa

- - Thư [trả lời] của Chu Sơn

ở phần Phụ Lục: http://sachhiem.net/LICHSU/C/ChuSonA.php

Nguồn: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/doc-sach-viet-nam-1945-1995-cua-le-xuan-khoa-1,

http://giaodiemonline.com/2016/08/doc-sach-LXK.htm

Trang Thời Sự




Đó đây


2024-04-25 - Phóng Sự: Thiếu Tướng Hoàng Kiền -Ahllvtnd Nói Chuyện Thời Sự Về Đường Trường Sơn Đường Hồ Chí Minh -

2024-04-25 - CHẾ ĐỘ TAY SAI - BÀI VIẾT CỦA TIẾN SỸ MỸ T.P.WINKINSON -

2024-04-20 - KHÔNG BIẾT NHỤC - Nhóm Việt Nam vinh danh các liệt sĩ Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam - Chủ nhật ngày 17/3/2024, 1 nhóm Việt Nam đến viếng mộ 5.099 quân nhân Hàn chết trong chiến tranh ở Việt Nam. Dòng chữ trên một tấm có nội dung: “Bởi vì các chiến sĩ của các bạn yên nghỉ ở đây, đất nước chúng ta đứng vững với niềm tự hào.” Thật là không biết nhục!!

2024-04-19 - Israel Tấn Công Trả Đũa Iran -

2024-04-19 - 80 Năm Thực Dân Pháp Đô Hộ Việt Nam - Văn minh hay bóc lột? -

2024-04-19 - HOÀNG NAM: DÂN TA ĐÃ QUÁ NHÂN TỪ VỚI HỌ NGÔ - Gửi Hoàng Nam, chủ kênh Challenge Me.

2024-04-18 - "THUẾ THUỘC ĐỊA" - 60 NĂM CHÂU PHI VẪN LÀ BÒ SỮA NUÔI BÉO NƯỚC PHÁP -

2024-04-18 - Ổi Xanh: 274. Ông Võ Văn Thưởng từ chức. Thái độ của HDH và một số YouTuber... bố đời. -

2024-04-17 - Sidney, Úc: 1 Giám mục bị đâm trong lúc làm lễ - Không biết Chúa làm gì mà bắt các giám mục của Chúa phải đổ vỏ! Các đây mấy năm, có viên chức chính phủ đề nghị treo bảng ở các nhà thờ "Đây là nơi nguy hiểm cho trẻ con"

2024-04-16 - Đọc báo QĐND - Bài viết: Không "chính trị hoá" các vụ án kinh tế -



▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 >>>




Thư, ý kiến ngắn
● 2024-04-21 - KHÔNG BIẾT NHỤC - Một Nhóm Việt Nam vinh danh các lính Hàn trong chiến tranh Việt Nam! - SH sưu tầm -

● 2024-04-19 - “CỬA LÒ - KHÁT VỌNG TOẢ SÁNG” - Nguyễn Tiến Trung -

● 2024-04-16 - Bất bình trước sự san bằng, trộn lẫn CHÍNH /TÀ của những người mù sử: HOÀNG NAM - Chủ kênh Challenge Me - FB Lý Thái Xuân -

● 2024-04-01 - Phim ĐÀO PHỞ & PIANO -Tại sao không nên đánh dấu người yêu nước bằng biểu hiệu của một tập thể thiểu số - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-21 - CHỐNG CỘNG: Chuyện cười ra nước mắt ở Sở Học Chánh Tacoma, Wa - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-09 - Tổng thống Nga, Vladimir Putin đọc thông điệp gửi Quốc hội Liên bang (29/2/2024) - Gò Vấp -

● 2024-03-09 - Các hoạt động của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong những năm 1942-1954 - trích Hồi ký Nguyễn Đình Minh -

● 2024-03-08 - Hồi ký lịch sử 1942-1954 - Liên Quan đến Giám mục Lê Hữu Từ, Khu tự trị Phát Diệm, Công Giáo Cứu Quốc - VNTQ/ Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư -

● 2024-02-15 - Trương vĩnh Ký dưới con mắt của người dân - Trần Alu Ngơ -

● 2024-02-14 - Các nhà hoạt động ẤN ĐỘ GIÁO phản đối chuyến viếng thăm của Giáo hoàng John Paul II - FB An Thanh Dang -

● 2024-02-09 - “KHÁT VỌNG NON SÔNG” của VTV1 và chuyện Trương Vĩnh Ký - Nguyễn Ran -

● 2024-02-05 - Góc kể công - Đồng bào Rô ma giáo cũng có người yêu nước vậy! Đúng. - Lý Thái Xuân -

● 2024-02-01 - Câu Lạc Bộ Satan Sau Giờ Học Dành Cho Trẻ 5-12 Tuổi Sắp Được Khai Trương Ở Cali, Hoa Kỳ - Anh Nguyen -

● 2024-01-29 - Giáo hội Rô ma giáo Đức "chết đau đớn" khi 520.000 người rời bỏ trong một năm - The Guardian -

● 2024-01-29 - Một tên Thượng Đế-Chúa ngu dốt về vũ trụ, nhưng thích bốc phét là tạo ra vũ trụ - Ri Nguyễn gửi Phaolo Thai & John Tornado -

● 2024-01-29 - Kinh "Thánh" dạy Con Chiên Giết Tất Cả Ai Theo Tôn Giáo Khác - Ri Nguyễn vs John Tomado -

● 2024-01-29 - Nhân Quyền Ở Nước Mỹ: Vụ Án Oan, 70 Năm Sau Khi Tử Hình Bé George Stinney - - Giác Hạnh sưu tầm -

● 2024-01-29 - NOEL - Ba Giáo Hoàng John Paul II, Benedict XVI, Francis I Thú Nhận Đã Bịp Chiên- Cừu Chuyện Jesus Ra Đời - Ri Nguyen -

● 2024-01-29 - Một dàn đồng ca, ngày càng đặt câu hỏi về quyền lực của Giáo hoàng - John L. Allen Jr. -

● 2024-01-29 - Tỷ lệ phá thai nơi người công giáo lại cao hơn nơi người ngoài công giáo! - Lê Hải Nam -


▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 >>>