LTS: Có một căn bệnh lưu niên và nan y mà những tín đồ Thiên Chúa Giáo
luôn mắc phải là cái gì phát xuất từ nhà thờ cũng đều được xem là thánh
thiện, ngoài ra thì là dị đoan, dị giáo, vô thần, tội lỗi,... Khi một
người lương tin điều gì thì người Ki-tô giáo đều cho là tin nhảm nhí.
Còn những gì Ki-tô giáo tin thì là mầu nhiệm, là niềm tin không thể chạm
đến. Cho đến từ ngữ cũng bị căn bệnh đó hành hạ. Chữ "phép" khi ở bên
miệng người lương, "thầy cúng làm phép," thì tín hữu Ki-tô hiểu là "phù
phép", mê
tín, bậy bạ, và chế nhạo với những ý nghĩa rất tiêu cực. Nhưng cũng "phép" đó
xài cho các việc hành đạo bên Ki-tô giáo nói chung, và Ca-tô Rô-Ma giáo
nói riêng, thì các tín hữu dành cho nó một lòng kính cẩn, thiêng liêng:
phép rửa tội, phép thêm sức, phép mình thánh, phép giải tội, phép truyền
chức, phép hôn phối, phép xức dầu,...và phép "lạ". Cứ xem các tác phẩm
văn chương Việt Nam từ bao lâu nay, ít nhất là một đời người, nếu có
những màn kịch lên án những "phép" dị đoan mê tín, thì chắc chắn màn
đó phải nhắm vào những thầy cúng bên lương. Chưa bao giờ có một vở kịch
lột trần những việc xấu xa, giả dối, những "phép lạ" làm bà
Maria chảy dầu, chảy nước mắt, để thu hút "khán giả" của các
ông linh mục Việt Nam. (Chớ ai cho rằng đó là vì các con quạ áo đen này
không có làm điều gì xấu, chúng tôi sẽ dễ dàng đưa ra hàng loạt danh
sách các tài liệu chứng minh.)
Có điều, chữ "phép
lạ" trong
Ki-tô giáo đã trở thành một nhu cầu để cho tôn giáo này sống còn hay
sống khỏe ở các quốc gia còn chậm tiến, và ở các cộng đồng chậm tiến
trên thế giới. Nhân có email của ông Trần Quang Diệu đăng lại bài "MÀN
KỊCH BỊP BỢM “PHÉP LẠ LỘ ĐỨC” của
Tác giả Charlie Nguyễn, tác giả Trần Tiên Long trình bày quan điểm về "phép
lạ" như
sau. Xin mời bạn đọc xem thử. (SH)
Phép lạ trong thánh kinh:
Chúa Giêsu biến 5 ổ banh mì
và 3 con cá cho mấy ngàn người ăn.
Chú thích: Tiếc rằng Chúa Giêsu chỉ làm được có 1 lần
(nếu tin là có thật).
Giá mà Ngài biết thương dân theo đạo của Ngài, như Haiiti
chẳng hạn,
Ngài chỉ cần làm thêm vài ổ bánh mì và vài 3 con cá nữa
nhất là sau lần
động đất kinh hoàng gần đây (năm 2010),
thì họ đâu đến nỗi phải cạp đất sét cho qua ngày!
Trong tất cả các phương trình khoa học,
tuyệt đối không có yếu tố siêu nhiên để giải thích mọi hiện tượng. Tất
cả mọi sự xảy ra trong trời đất đều có nguyên nhân tự nhiên. Bởi thế,
Einstein, một nhà khoa học vĩ đại nhất của nhân loại, đã phát biểu rằng:
“Nếu
bạn làm cùng một việc và theo cùng một cách thức thì bạn sẽ luôn luôn
có kết quả như nhau. Nếu bạn có kết quả khác có nghĩa là bạn đã làm
việc khác hoặc theo một cách thức khác.”
Mặc dù vậy, những nhà biện giải cho Thiên Chúa Giáo (TCG) vẫn cứ khăng khăng
rằng có phép lạ vì họ đang dựa trên những điều mập mờ, không rõ rệt. Nếu mang
một điều rõ rệt ra để thách thức họ thì họ tuyệt đối không có câu trả lời. Chẳng
hạn, chúng ta hãy hỏi họ rằng, quí vị có bao giờ thấy ai đã bị cụt chân tay mà
có thể mọc lại chân tay khác chưa, cho dù có cả hơn một tỉ tín đồ TCG thiết tha
cầu khẩn cùng Thiên Chúa của họ? Còn con cắc kè, tại sao chẳng cần ai cầu xin
mà chân cẳng nó vẫn mọc lại như thường?
Thực ra, những gì còn có xác suất để xảy ra thì không thể gọi là phép lạ.
Thống
kê cho biết có tới 20% những người bị bệnh ung thư được chữa khỏi. Trong số
20% này, chắc chắn có nhiều người vô thần chẳng hề cầu xin chữa bệnh nơi bất
cứ vị thần nào. Còn 80% những người chết vì bệnh ung thư thì sao? Chắc chắn
có rất nhiều người trong số họ đã từng thành tâm cầu khẩn nơi Thiên Chúa của
họ. Vậy tại sao họ vẫn chết?
Kết luận:
Phép lạ chỉ có thể xảy ra ở những điều mập mờ, không rõ rệt, những
điều còn có một xác suất có thể xảy ra, cho dù là một xác suất rất thấp, và
phép lạ chỉ có giá trị đối với những người chưa tìm hiểu vấn đề cho rõ ràng.
Còn nếu chúng ta dùng đầu óc suy luận của khoa học để nghiên cứu tường tận
thì sẽ không bao giờ thấy phép lạ ở đâu hết.
Để trình bày chuyện bịp “hang đá Lộ Đức” một cách rành rẽ và để qúi
vị độc giả dễ nắm bắt các tình tiết hết sức phức tạp của câu chuyện
này, tôi phải bắt đầu kể chuyện hầu qúi vị bằng những khám phá mới nhất
của Nhân Chủng Học (Anthropology) mới được công bố và được các tuần
báo lớn nhất của Mỹ loan báo trong tháng 6-2003 vừa qua. Sau đó tôi
sẽ đối chiếu với khoa thần học hoang tưởng của St. Augustine để tố cáo
thủ đoạn lừa bịp của Vatican qua các tín điều do họ công bố nhằm mục
đích đầu độc và nô lệ hóa con người. Cuối cùng là vạch trần âm mưu của
Vatican cấu kết với chính quyền hoàng gia Pháp giữa thế kỷ 19 trong
việc dàn dựng màn kịch bịp bợm “hang đá Lộ Đức” như thế nào. Từ đó chúng
ta sẽ thấy rõ tinh thần nô lệ đáng xấu hổ của giáo hội Công giáo Việt
Nam là giáo hội luôn luôn chỉ biết cúi đầu vâng phục Vatican một cách
mù quáng hèn hạ nên đã đạt kỷ lục xây cất nhiều “hang đá Lộ Đức” vượt
trội tất cả các giáo hôi công giáo khác trên khắp thế giới !
Đây là một hiện tượng bất bình thường trong sinh hoạt chung của cộng
đồng Công Giáo hoàn vũ. Hiện tượng bất thường này đã vô tình hé mở cánh
cửa bí mật của lịch sử để chúng ta thấy được một phần nào của sự thật
đã bị che khuất về vai trò gián điệp của nhân vật Nguyễn Trường Tộ.
Có một điều mà toàn dân Việt Nam nên nhớ: Cả hai soạn giả kiêm đạo diễn
của vở kịch bịp bợm “Phép lạ Lộ Đức” là Giáo Hoàng Pio IX và hoàng đế
Pháp Napoléon III đã luôn luôn sát cánh với nhau trong chủ trương xâm
chiếm Đông Dương để mở rộng thuộc địa và nước Chúa. Cả hai nhân vật
chóp bu về thần quyền và thế quyền này đều có quan hệ mật thiết với
các giáo sĩ Pháp nổi tiếng ở Việt Nam thời đó là giám mục Pellerin,
giám mục Puginier, linh mục Huc, giám mục Gauthier và “gián điệp”Nguyễn
Trường Tộ. Giám mục Gauthier là thầy dậy của Nguyễn Trường Tộ trong
10 năm. Nguyễn Trường Tộ luôn luôn tỏ ra trung thành với các giám mục
Pháp, hết lòng tuân phục Giáo Hoàng và tuyệt đối trung thành với Tòa
Thánh Vatican.
Tóm lại màn bịp bợm “Phép lạ Lộ Đức” chẳng những là một biến cố thần
học trong nội bộ giáo hội Công Giáo. Đồng thời về mặt chính trị, “Phép
lạ Lộ Đức” cũng có những hệ lụy oan trái in hằn lên vận mệnh đau thương
của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn đầu của lịch sử mất nước hồi hậu
bán thế kỷ 19. Đây là một vấn đề nhức nhối dễ gây tranh cãi và dù sao
cũng còn là một nghi vấn lịch sử cần được các sử gia làm sáng tỏ thêm.
Do đó, tôi xin dành vấn đề này lại để trình bày trong một bài viết riêng.
Sau đây, tôi chỉ xin đề cập đến những vấn đề liên quan trực tiếp đến
“Phép lạ Lộ Đức” mà thôi.
I.- Nhân chủng học đối diện với lịch sử qua bằng chứng cụ thể về
“Bà Evà thật”.
Tuần báo Newsweek, số ra ngày 23-6-2003 (trang 14) có đăng bài “Nhân
chủng học đối diện với lịch sử” (Anthropology in the face of History).
Kèm theo bài báo là hình ảnh chiếc sọ hóa thạch của một phụ nữ, bên
dưới có ghi chú: “Tất cả sự thật về Bà Evà: Tấm ảnh chụp sọ người cổ
xưa nhất đã được tìm thấy tại Phi Châu” (All about Eve: Portrait of
the oldest human from Africa).
Tác giả bài báo Mary Carmichael viết: “Đối với họa sĩ Michael Angelo
thì bà Evà là một phụ nữ da nâu, mắt đen dễ thương. Đối với họa sĩ Pháp
Rodin thì bà Evà là một phụ nữ đầy cám dỗ nhục dục. Đối với các nhà
khoa học, khuôn mặt thật của bà tổ nhân loại thật khó nắm bắt (the human
matriarch’s face has always been elusive). Tuy nhiên vào năm 1987, các
nhà di truyền học (geneticists) đã kết luận rằng: Bà Evà Phi Châu (có
hình sọ kèm theo bài báo) đã sống trên mặt đất 160,000 năm trước đây
là “bà tổ cuối cùng” của toàn thể loài người (The African Eve who lived
160,000 years ago, was the last ancestor of all humans). Đó là sọ hóa
thạch của con người khôn ngoan (Homo Spiens) cổ nhất nhân loại đã được
tìm thấy. Gọi là “tổ tiên cuối cùng” vì con người khôn ngoan (Homo Sapiens)
là loại người xuất hiện trong giai đoạn chót của quá trình tiến hoá
của nhân loại.
Các cuộc khảo cứu tổng hợp của các nhà khoa học khảo cổ, nhân chủng
học, di truyền học và cổ sinh vật học đã đi đến hai kết luận :
1.- Nguồn gốc con người xuất phát từ Phi Châu, từ đó con người di chuyển
đến các lục địa khác trên thế giới.
2.- Điều đặc biệt đáng chú ý là từ xưa đến nay người ta chỉ tìm thấy
các sọ người hóa thạch một cách riêng rẽ và chưa bao giờ tìm thấy sọ
cùng với xương thân mình và xương chân ở một chỗ. Đây là bằng chứng
cụ thể về thói tục ăn thịt người (cannibalism) trong sinh hoạt thường
ngày của loài người Homo Sapiens. Trước khi bị ăn thịt, đầu của nạn
nhân luôn luôn được chặt ra để vứt bỏ, thân mình và tay chân của nạn
nhân được nướng chín trên đống lửa hoặc được nấu chín. Do đó, chỉ có
xương sọ là còn tồn tại đến ngày nay, còn các xương mình và tay chân
đều đã bị hủy hoại và bị vứt bỏ riêng rẽ cách xa xương đầu.
Tuần báo Time, số ra ngày 23 tháng 6-2003, hai tác giả Lemonick và
Dorfman cho chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về “bà Evà thật của nhân
loại” (trang 56-58) như sau: “Người khôn ngoan đầu tiên của nhân loại
có hình hài như chúng ta, đi đứng như chúng ta và trong một số phương
cách nào đó, họ cư xử như chúng ta” (The first Homo Sapiens look like
us, walked like us and in some ways acted like us as well).
Sở dĩ sọ người phụ nữ có hình in trên báo Newsweek được coi là “Bà
Evà của khoa học” vì đó là sọ người khôn ngoan (homo spiens) cổ nhất.
“Người khôn ngoan” là loại người xuất hiện trong giai đoạn chót của
quá trình tiến hóa của nhân loại. Nếu con người bị coi là bắt đầu biết
phạm tội thì chỉ có thể phạm tội khi bắt đầu có trí khôn mà thôi. Người
đàn bà đầu tiên của “loài người đứng thẳng” (Homo Erectus) cách chúng
ta 2 triệu năm không được coi là “bà tổ Evà” của nhân loại vì “bà tổ”
(matriarch) này giồng vượn nhiều hơn giống chúng ta !
Sọ người đàn bà Homo Sapiens cổ nhất đã được tìm thấy tại miền Herto
thuộc nước Ethiopia do một sự tình cờ vào năm 1987. Vào dịp đó, một
cơn bão làm nước biển dâng lên tràn ngập miền Herto làm trơ ra rất nhiều
xương hóa thạch đã từng bị chôn vùi nhiều ngàn năm dưới những lớp đất
sâu.
Sọ của “bà Evà thật” được phát hiện cùng một lúc với nhiều bộ xương
hóa thạch của hà mã, cá sấu, sư tử, ngựa vằn và chó rừng. Tất cả các
hóa thạch này đều có chung một niên đại là 160,000 năm. Điều đó cho
thấy các tổ tiên xa xưa của chúng ta đã phải chiến đấu rất gay go để
tồn tại giữa một môi trường đầy thú dữ và với đồng loại thích ăn thịt
đồng loại.
Cuộc khảo sát “sọ bà Evà Homo Sapien” là một công trình khoa học quốc
tế, được đặt dưới sự điều khiển của giáo sư Tim White thuộc đại học
Berkeley tiểu bang California. Đầu tháng 6-2003, ủy ban khoa học này
công bố kết quả nghiên cứu trước báo chí: “Sọ người khôn ngoan đầu tiên
được xác định niên đại 160,000 năm” (The very first true Homo Sapien
dated 160,000 years ago). Trong khi đó “Bà Evà của Thánh Kinh Cựu Ước
Do Thái” tính tới nay mới có 6 ngàn năm mà thôi. Điều này cho thấy bà
Evà của huyền thoại tôn giáo “trẻ” hơn bà Evà của khoa học tới 154,000
năm.
Trong quá trình tiến hóa hai triệu năm từ “loài người đứng thẳng” (homo
erectus) đến loài người khôn ngoan (homo sapiens) có những giống người
khác xuất hiện. Đáng kể nhất là giống người Neanderthals. Giống người
này xuất hiện tại Phi Châu 500,000 năm trước đây, sau đó họ di chuyển
qua Âu Châu và bị hoàn toàn diệt chủng vào 30,000 trước. Giống người
này được coi là một nhân chủng ngoại tộc (a side branch) không thuộc
dòng tiến hóa của loài người hiện đại của chúng ta.
Những kết qủa nghiên cứu về sọ hóa thạch của “bà Evà Phi Châu” mới
được Ủy Ban Khoa Học Quốc Tế công bố trong tháng 6, 2003 là những kiến
thức khoa học giá trị dung để cập nhật hóa sự hiểu biết của chúng ta
về nhân chủng học. Qua đó, chúng ta nhận thức được một điếu rất rõ rệt
là: Trí óc của con người đã tiến triển hết sức chậm chạp. Từ trí óc
của loại “vượn người đứng thẳng” (Homo Erectus) đến trí óc của loại
người Homo Sapiens đòi hỏi một thời gian tiến triển tới 2 triệu năm!
Trí óc của “bà Evà Phi Châu” cách đây 160,000 năm thực sự cũng chỉ ở
trình độ trí óc một em bé sơ sinh ngày nay mà thôi. Từ trí óc “sơ sinh”
đó đến trí óc “trưởng thành” của nhân loại ngày nay đòi hỏi một thời
gian 160,000 năm !
Đó là sự thật không thể chối cãi về qúa trình tiến hóa của tâm linh
và trí tuệ loài người. Sự thật khoa học đó xác định rằng: Không thể
bỗng dưng có ngay một bà Evà hoàn chỉnh được Thiên Chúa tạo nên từ một
khúc xương sườn cụt của Adam!. Cách đây 6000 năm, ngay từ lúc vừa mới
được tạo thành, bà Evà đã có đủ trí khôn phân biệt thiện ác, và có đủ
“ý chí tự do” để quyết tâm chống lại Thiên Chúa bằng cách xúi chồng
ăn trái cấm để phạm cái tội tày trời là TỘI TỔ TÔNG!
Thần thuyết “Tội Tổ Tông” là nền tảng của Ki Tô Giáo (gồm cả Công Giáo
– Tin Lành) đã hoàn toàn bị sụp đổ trước các bằng cớ xác thực của khoa
học và lương tri con người. Các thần thuyết khác như Sự Cứu Chuộc của
Jesus, Phép Rửa Tội, các tín điều về Đức Mẹ, v.v… đếu là những chuyện
ngụy tạo vì tất cả đều đã được suy luận ra từ thần thuyết Tội Tổ Tông.
II.- St. Augustine và học thuyết Tội Tổ Tông.
St. Augustine sinh năm 354 tại Algeria, cha là người ngoại đạo, mẹ
là tín đồ Kitô Giáo. Khi Augustine lên 16 tuổi được mẹ dẫn qua Ý và
đến thăm thành phố Milan. Tại đây, Augustine có dịp nghe giám mục Ambrose
thuyết giảng về Thiên Chúa Ba Ngôi, tội Tổ Tông và nhiều điều về bà
Maria. Khi trở lại Algeria, Augustine say mê nghiên cứu Kitô giáo và
viết sách liền trong 34 năm, tạo dựng nên cả một tòa lâu đài đồ sộ về
thần học Kitô giáo. Do công trình vĩ đại về thần học, Augustine được
cử làm giám mục địa phận Hippo ở Algeria. Y chết năm 430, thọ 76 tuổi.
Augustine được các triết gia Tây Phương coi như người thứ hai sáng lập
đạo Kitô sau PhaoLồ và là bậc thầy tư tưởng Tây Phương thời Trung Cổ.
Chỉ tiếc một điều là Augustine đã xây dựng cả một nền thần học Kitô
giáo đồ sộ trên đống cát, đó là huyền thoại Vườn Địa Đàng của Babylon
(The Garden of Eden). Huyền thoại Vườn Địa Đàng nguyên là sản phẩm tưởng
tượng của dân Babylon từ 5000 năm trước Công Nguyên. Trong thế kỷ 10
đến thế kỷ 6 TCN, những người viết Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái đã vay
mượn chuyện Vườn Địa Đàng để phịa ra chuyện ông Adam và bà Evà tổ tông
của loài người ăn trái cấm nên đã phạm tội tổ tông di hại cho cả loài
người tới ngày nay !
Căn cứ vào huyền thoại Vườn Địa Đàng, Augustine đã xây dựng các học
thuyết thần học hão huyền cho Kitô giáo. Quan trọng hơn hết là học thuyết
về Tội Tổ Tông, vì đây là học thuyết căn bản và tử đó đẻ ra các học
thuyết khác của Kitô Giáo :
Học thuyết Tội Tổ Tông : Augustine giải thích nguồn gốc mọi đau khổ
của nhân loại đều bắt nguồn từ tội lỗi “ăn trái cấm” của tổ tiên loài
người là Adam và Evà. Tội này được gọi là “Tội Tổ Tông” hay “Nguyên
Tội” vì đây là tội đầu tiên của loài người chống lại Thiên Chúa (The
Original Sin). Tội Tổ Tông được di truyền cho con cháu muôn đời do sự
giao cấu tội lỗi của cha mẹ. Dù là sự giao cấu hợp pháp giữa vợ chồng
cũng là điều tội lỗi vì hành động giao cấu đã bị ô nhiễm do sự thúc
đẩy của sự ham muốn nhục dục (The inherited guilt was passed on to all
his descendants through the sexual act which was polluted by what is
called concupiscene).
Dựa vào lý luận này, Augustine viết thêm cuốn “On Female Dress” để
nguyền rủa phụ nữ. Augustine gọi mỗi người phụ nữ trên thế gian là một
Evà, kẻ đồng lõa với ma qủi và luôn luôn xúi giục đàn ông chống lại
Thiên Chúa. Chính vì tội lỗi xấu xa bắt nguồn từ phụ nữ mà chúa Jesus
là con một (the only son) của Thiên Chúa đã phải chết. Đàn ông là hình
ảnh của Thiên Chúa (vì Thiên Chúa là Đàn ông Toàn Năng – The Male Almighty),
còn đàn bà là cửa hỏa ngục (the devil’s gate). Chính Augustine là người
đã đem lại cho những người Công giáo niềm tin rằng chỉ có Đức Mẹ Maria
là người duy nhất trên thế gian không mắc tội Tổ Tông. Vì thế Đức Mẹ
được tôn xưng là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội! Chỉ có một phụ nữ duy nhất
trên thế gian không bị Augustine nhục mạ, đó chính là đức mẹ Maria.
Đức Mẹ trở thành một biệt lệ vĩ đại !
Mọi người Việt Nam bình thường chúng ta khi nghe nói đền chuyện Adam
Evà trong Vườn Địa Đàng đều hiểu rằng đó chỉ là một chuyện thần thoại
để kể cho con nít nghe chơi mà thôi. Còn chúng ta có nghe ai thuyết
giảng về “Tội Tổ Tông” chắc chắn đa số chúng ta chỉ mỉm cười nghe qua
rồi bỏ. Nhưng chúng ta không thể tưởng tượng nổi là cái chuyện hoang
đường Adam Evà ăn trái cấm đã khống chế tâm linh Âu Châu suốt 16 thế
kỷ qua do những học thuyết thần học hoang tưởng của Augustine!
Học thuyết “Tội Tổ Tông” của Augustine đã trở thành hòn đá tảng vĩ
đại của nền văn hóa Kitô giáo Tây Phương và là nền tảng giáo lý cho
tất cả các đạo Kitô gồm có Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo và Chính Thống
Giáo. Các đạo Kitô bề ngoài có vẻ khác nhau, nhưng thực sự chỉ khác
nhau về tổ chức và về một số nghi lễ mà thôi. Nội dung chính yếu về
giáo lý của Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo và Chính Thống Giáo đều đồng
nhất như sau :
“Tất cả mọi người đều sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và bị Thiên
Chúa ruồng bỏ vì Tội Tổ Tông. Chỉ vì Tội Tổ Tông mà con người phải đau
khổ và phải chết. Không một ai có thể tự cứu mình khỏi tội Tổ Tông,
chỉ có một con đường cứu rỗi duy nhất là tin thờ Chúa Jesus là Chúa
Cứu Thế mà thôi”.
Chính vì tin vào thuyết Tội Tổ Tông như trên nên các đạo Kitô đều coi
trọng Phép Rửa Tội (Baptism). Nhiều người nghĩ rằng Phép Rửa Tội là
một hình thức cải đạo cho những người tân tòng nhập đạo Kitô hoặc là
một “phép bí tích” để cho một đứa bé sơ sinh nhập đạo Chúa một cách
long trọng chính thức. Thực sự không phải vậy. Chính vì các người Kitô
giáo tin rằng mọi người sinh ra đều nhiễm tội Tổ Tông, cho nên các đứa
trẻ mới được sinh ra cũng cần phải được rửa tội để nó được lãnh nhận
ơn cứu chuộc của chúa Jesus! Mặc dầu đứa bé sơ sinh hoàn toàn vô tội
về phần nó, nhưng nó đã bị nhiễm tội Tổ Tông do Adam và Evà truyền lại
qua sự giao cấu tội lỗi của cha mẹ nó. Đó là lý do chính yếu dẫn đến
sự rửa tội cho mọi đứa bé mới sinh theo học thuyết của Augustine (The
inherited guilt was passed on to all his descendants through the sexual
act of their parents).
Nhưng nếu chúng ta suy nghĩ kỹ sẽ nhận ra một điều mâu thuẫn là khi
hai người nam và nữ làm đám cưới tại nhà thờ là đã “thánh hóa” bởi phép
“bí tích hôn phối”. Vậy chẳng lẽ “phép bí tích hôn phối” của Chúa lập
ra không có khả năng “thánh hóa” việc chăn gối của vợ chồng bắt buộc
phải có để sinh con hay sao? Vậy vợ chồng làm phép hôn phối theo đúng
luật đạo để làm gì khi hành động giao cấu giữa vợ chồng rất tự nhiên
và hợp pháp ấy vẫn cứ truyền tội Tổ Tông cho đến muôn đời?
Thật sự ngày nay chẳng còn mấy tín đồ Kitô giáo tin vào tội Tổ Tông,
nhưng người ta vẫn cứ mang các đứa bé sơ sinh đến nhà thờ rửa tội theo
truyền thống lâu đời của gia tộc. Giáo hội cũng biết chẳng làm gì có
tội tổ tông, nhưng vẫn cứ để nguyên cho các linh mục có công việc làm
để kiếm ăn và giáo hội vẫn tiếp tục tồn tại trong bình an vô sự. Chẳng
những thế, hầu hết những người ngoại đạo muốn lấy vợ hay chồng theo
Kitô giáo đều phải cam kết cho phép các con sẽ sinh ra sau này được
chịu phép rửa tội. Đây chỉ là một mánh lới lưu manh của các giới lãnh
đạo Kitô giáo dùng để dành dựt tín đồ qua đường hôn nhân mà thôi. Việc
rửa tội cho các đứa bé sơ sinh là một hình thức vi phạm quyền tự do
tín ngưỡng của đứa bé một cách thô bạo và trắng trợn. Muốn tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng thật sự, người lớn phải đợi đến khi đứa bé lớn
khôn để tự nó chọn lựa tín ngưỡng cho riêng mình.
Cái gọi là “Phép Bí Tích Rửa Tội” (Baptism) hoàn toàn dựa trên thuyết
thần học hoang tưởng của Augustine về Tội Tổ Tông. Những khám phá của
khoa học hiện đại đã hoàn toàn phủ bác sự hiện hữu của “bà Evà xúi chồng
ăn trái cấm” như được kể trong Kinh Thánh Cựu Ước. Do đó chúng ta có
thể khẳng định rằng: Tội Tổ Tông là chuyện hoàn toàn hoang đường và
ấu trĩ. Cả loài người chúng ta sinh ra hoàn toàn vô tội, do đó chúng
ta chẳng cần phải “chịu phép rửa tội” để tẩy xóa bất cứ một thứ dấu
vết tội lỗi nào mà chúng ta không hề có.
Nhân tiện, tôi có vài điều muốn nói với ông Đỗ Mạnh Trí, tác giả cuốn
“Ngón Tay và Mặt Trăng”. Nơi trang 55 và 62, ông Trí viết: “Nhiều bạn
nhắc tới ý niệm tội và tội tổ tông trong Kitô giáo một cách miả mai,
thậm chí phẫn nộ”. Trần Văn Kha trích Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ: “Adam
Evà không phải thủy tổ loài người vì con người đại khái đã xuất hiện
cách đây khoảng nhiều triệu năm. - Nếu Adam Evà không phải thủy tổ loài
người thì làm gì có tội tổ tông? - Nếu không có tội tổ tông thì làm
gì có chuyện Chúa phải giáng trần để cứu chuộc? Vậy Kinh Thánh hoàn
toàn huyền hoặc, phi lý và “đạo Thiên Chúa hoàn toàn đã được xây dựng
trên những ảo tưởng” như lời của Nguyễn Văn Thọ trên kia?”
Nơi trang 63-64, ông Đỗ Mạnh Trí xác nhận: “Truyện Adam Evà ăn trái
cấm rồi bị Giavê phạt, chẳng phải là nhà kinh-thánh-học ta cũng có thể
tưởng đó là một huyền thoại”. Sau khi đã thú nhận chuyện Adam-Evà ăn
trái cấm chỉ là một huyền thoại (myth), ông Trí đã tìm cách lý luận
vu vơ và hoàn toàn lạc đề để cuối cùng tránh né không dám trả lời thẳng
hai câu hỏi của ông Nguyễn Văn Thọ đã nêu.
Vậy ông nêu lên vấn đề tội tổ tông trong sách “Ngón Tay và Mặt Trăng”
(từ trang 55 dến trang 68) để làm gì? Một khi ông đã dám nhìn nhận chuyện
Adam Evà ăn trái cấm là một huyền thoại (myth )tức là một chuyện phịa
(a fictious story) thì với lương tâm tối thiểu của một người trí thức
lương thiện ông cần phải đi tiếp vài bước: - Nếu chuyện Adam Evà ăn
trái cấm là chuyện phịa thì “tội tổ tông”là chuyện hoang đường không
có thật. – Vì không có tội tổ tông, nên cũng chẳng cần Chúa phải mất
công giáng trần để cứu chuộc, vì con người chẳng cần phải cứu chuộc
để làm sạch cái tội mà họ không hề có. - Vì không có tội tổ tông nên
không riêng một mình bà Maria là “Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” mà tất cả
mọi người chúng ta đều là “các dấng vô nhiễm nguyên tội” cả !
Ông Đỗ Mạnh Trí có dám nhìn nhận những sự thật hiển nhiên đó không?
Ông hãy can đảm lên tiếng trả lời để xứng đáng là một người biết trọng
danh dự và lẽ phải.
III. Từ học thuyết hoang đường về Tội Tổ Tông dẫn đến tín điều “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” do Giáo Hoàng Pio IX công bố năm 1854.
Augustine nguyên là một thanh niên phóng đãng trụy lạc nhiều năm trước
khi y trở thành giám mục của địa phận Hippo (Algeria). Do đó, về phương
diện sinh lý, Augustine là một người bất bình thường. Y có rất nhiều
quan niệm lệch lạc về sinh lý, và những bệnh hoạn sinh lý của y đã có
ảnh hưởng lớn đến khoa thần học của Kitô giáo (Công giáo, Tin Lành,
Anh giáo, Chính Thống giáo).
Căn cứ trên nền tảng giáo lý xuất phát từ huyền thoại về Tội Tổ Tông,
Augustine nêu lên học thuyết “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” (The Virgin
of the Immaculate Conception) qua lăng kính méo mó về sinh lý của y
như sau :
Đức Mẹ không sinh ra Chúa Jesus do sự giao cấu với chồng là ông Joseph
nên Đức Mẹ vẫn còn đồng trinh. Chúa Jesus sinh ra do phép của Chúa Thánh
Thần và Đức Mẹ Đồng Trinh nên Chúa hoàn toàn không bị nhiễm tội tổ tông
(sinless/immaculate conception).
Những lý luận lẩm cẩm về thần học của Augustine đã thống trị linh hồn
Kitô Giáo Âu Châu liên tục trên một ngàn năm ! Mãi đến giữa thế kỷ 16
mới có một số trí thức Âu Châu dám viết sách báo lên tiếng đả kích những
thuyết thần học của Augustine về một số điểm quan trọng sau đây :
- Trước hết, họ chê Augustine đã thổi phồng quá đáng việc bà Evà xúi
chồng ăn trái táo ở vườn địa đàng. Chuyện đó chẳng qua chỉ là chuyện
quá nhỏ, không thể khiến cho con một của Thiên Chúa phải xuống thế làm
người và chịu chết để cứu chuộc. Nếu chuyện đó là thật thì người đáng
trách không phải là bà Evà mà là Chúa Cha lẫn Chúa Con đều ngu quá vì
đã không tìm ra được phương cách nào đơn giản hơn để giải quyết cái
vụ ăn trái táo của Adam – Evà !
- Khi có cơ hội thư thả tinh thần, đọc lại chuyện Adam-Evà, người ta
mới khám phá ra rằng: ông bà tổ tiên loài người không có con gái. Adam-Evà
chỉ có hai người con trai là Cain và Abel. Abel bị Cain giết chết nên
trên thế gian lúc đó chỉ có hai người đàn ông là Adam và Cain. Từ đầu
đến cuối chuyện chỉ có một mình Evà là phụ nữ duy nhất trên thế gian
mà thôi. Vậy ai là vợ của Cain? Chẳng lẽ Cain lấy mẹ mình là bà Evà
để sinh ra loài người hay sao? Chuyện Adam-Evà là tổ tiên loài người
đã đi vào ngõ cụt !
- Cũng theo thần học của Augustine thì sau khi Adam – Evà phạm tội,
loài người bị Thiên Chúa tước đoạt nhiều ân sủng nên mọi người đều phải
chết, đàn ông phải làm việc cực nhọc mới có miếng ăn, đàn bà phải mang
nặng đẻ đau mới có con. Nhưng sau khi Jesus phải chết trên thập giá
để “chuộc tội tổ tông” thì mọi hậu quả của tội tổ tông trên số phận
loài người cũng vẫn còn y nguyên: con người vẫn phải chết, đàn ông vẫn
phải vất vả mới có ăn, đàn bà vẫn mang nặng đẻ đau như lúc Jesus chưa
cứu chuộc. Vậy cái gọi là công ơn cứu chuộc của Chúa chỉ là chuyện xảo
trá bịp bợm và hoàn toàn vô ích (salvation for nothing).
Phe cấp tiến Âu Châu dùng lý luận của Augustine phá học thuyết “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” để đạt mục tiêu cuối cùng của họ là “hạ bệ Jesus”.
Họ lý luận rằng: Nếu Jesus sinh ra thuộc dòng David thì Jesus phải là
con của Joseph và bà Maria, vậy bà Maria không thể đồng trinh và Jesus
cũng có 100% tội tổ tông vì cả Joseph và Maria là cha mẹ ruột của Jesus
đã được sinh ra do sự giao cấu của cha mẹ họ.
Nếu Jesus là con của Chúa Thánh Thần thì Jesus chỉ được miễn nhiễm
50% tội tổ tông mà thôi vì bà Maria đã nhiễm tội tổ tông do sự giao
cấu tội lỗi của cha mẹ là ông Joachim và bà Anna. Vậy Jesus đã bị nhiễm
50% tội tổ tông do bà Maria truyền qua nên Jesus không thể được coi
là đấng chí thánh, và do đó, Jesus không thể là Thiên Chúa !
Cuộc bút chiến giữa các phe thần học Âu Châu chung quanh vấn đề “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” kéo dài tới 30 năm trong thế kỷ 16. Tòa Thánh
La Mã không thể dùng lý luận để dập tắt cuộc bút chiến này nên đã phải
vận dụng đến biện pháp mạnh của các tòa án dị giáo để đưa nhiều ngàn
người lên dàn hỏa. Nhờ đó, cơn sóng gió về thần học đã lắng xuống và
tòa lâu đài thần học đồ sộ của Augustine vẫn còn đứng vững thêm vài
thế kỷ !
Đúng 300 năm sau, tức vào giữa thế kỷ 19, quyền uy của tòa thánh La
Mã đã bị sút giảm nhiều trước cao trào dân chủ lớn mạnh ở Âu Châu. Các
tòa án dị giáo bị dẹp bỏ. Cuộc bút chiến vể những học thuyết thần học
lại có cơ hội bùng lên. Những vấn đề được nêu lên chung quanh học thuyết
“Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” có nguy cơ phá sập thanh thế của chúa Jesus
và uy tín của giáo hội Công Giáo La Mã. Vatican lúc đó đã bị dồn vào
thế đường cùng nên buộc lòng Giáo Hoàng Pio IX phải công bố tín điều
“Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” ngày 8-12-1854.
Bằng cách xử dụng quyền uy tối thượng của người đại diện Chúa Kitô
(Vicar of Christ), giáo hoàng buộc toàn thể giáo hội Công Giáo tin rằng:
Đức Mẹ là một ngoại lệ đặc biệt do quyền phép của Thiên Chúa ban cho
là “không hề mắc tội tổ tông”. Do đó, Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Jesus hoàn
toàn vô tội (sinless) nên Chúa là đấng chí thánh và cực thanh cực sạch
vô cùng !
IV – “Phép lạ Lộ Đức” là màn kịch bịp bợm của Vatican và chính quyền
hoàng gia Pháp năm 1858:
Tác phẩm “The Great Apparitions of Mary” của Ingo Swann (The Crossroad
Publishing Co., NY 1996) kể chuyện Phép Lạ Lộ-Đức ở Pháp năm 1958 (trang
69-84) như sau :
Lourdes (Lộ Đức) là một thị trấn nhỏ trên sườn núi phía bắc của dẫy
Pyrénées. Vào giữa thế kỷ 19 thì thị trấn này chỉ có khoảng 300 dân,
hầu hết đều nghèo khổ vì thị trấn này không có một nguồn lợi kinh tế
nào cả. Các thị trấn lân cận đều khá vì có nhiều suối nước nóng thu
hút du khách và kiếm lời do việc khai thác kỹ nghệ nước suối có muối
kháng (mineral waters). Tại Lộ Đức có một vách đá dốc đứng cao như ngọn
tháp (a towering rock cliff) có tên là Massabielle, trong vách đá có
một cái hang lớn (a grotto). Chính nơi đây đã được Vatican tuyển chọn
để diễn màn kịch bịp bợm.
Nhân vật chính của màn kịch này là cô bé Bernadette. Cô sinh năm 1844,
là con gái đầu của 8 anh chị em. Cha mẹ là ông Fracois và bà Louise
Soubirous. Khi cô bé Bernadette lên 8 tuổi thì cha bị tai nạn mù mắt
trái và bị thất nghiệp. Cả gia đình lâm vào cảnh sống cùng quẫn. Khi
cô bé lên 11 tuổi thì cô bị bệnh thổ tả và bệnh suyễn trầm trọng. Cha
cô bị bắt về tội trộm. Em trai cô tên Jean Marie đói quá nên chạy đến
nhà thờ ăn cắp cây đèn cầy bằng sáp để ăn, chẳng may bị cha xứ bắt gặp
và bị cha hăm bỏ tù. Vào đầu tháng 2 năm 1858, lúc gia đình cô sắp chết
đói thì mẹ cô được một bà nhà giàu mướn làm đầy tớ (a servant). Do sự
xếp đặt của bà chủ nhà giầu này, với sự đồng ý của cha mẹ, cô bé được
chỉ dẫn đến hang đá Massabielle. Lúc này cô bé lên 14 tuổi, nhưng mù
chữ vì chưa được đi học ngày nào.
Ngày 11 tháng 2 năm 1858, cô Bernadette cùng với một đứa em gái và
một đứa bạn tên Jeanne Abadie đến hang đá Massabielle. Một mình cô đến
qùi trước cửa hang một lúc rồi cô nói cho em gái và đứa bạn biết là
cô đã nhìn thấy “một cô gái đẹp trong ánh sáng mờ” (a beautiful girl
appeared in the soft glow).
Sau khi trở về nhà, em của Bernadette kể chuyện cho mẹ, còn cô bạn
Jeanne Abadie đi khắp thị trấn loan tin Bernadette đã nhìn thấy Đức
Mẹ hiện ra tại hang Massabielle. Chỉ hai tuần sau, cả thị trấn Lourdes
qui tụ một đám đông tín đồ Công Giáo lên tới 8,000 người và họ rủ Bernadette
cùng đi với họ đến hang đá Massabielle. Khi tới nơi, chỉ có một mình
Bernadette nói là có nhìn thấy “một cô gái đẹp” còn tất cả mọi người
khác đều không thấy gì cả ! Mặc dầu vậy, tin đồn về chuyện Đức Mẹ hiện
ra tại Lộ Đức đã lan nhanh khắp nơi như một đám cháy rừng.
Ngày 25 tháng 3 năm 1858, vào lúc 5 giờ sáng, cha mẹ Bernadette đánh
thức con gái dậy để cùng đi với một đám đông tín đồ đến hang đá Massabielle.
Sau khi qùi một mình trước hang đá một lúc, cô bé Bernadette dõng dạc
tuyên bố với mọi người : Cô bé đã hỏi “cô gái đẹp” là ai, thì cô gái
đẹp đó trả lời: “Ta là Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” (I am the Immaculate
Conception). Kể từ đó, hàng ngày có nhiều tín đồ Công Giáo đến hang
đá Massbielle để lần chuỗi Mân Côi. Sau đó, có khoảng 50 người tự nhận
là có nhìn thấy “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” ở trong hang, nhưng không
một ai đưa ra bằng chứng nào cả !
Vì lý do những sinh hoạt bất thường của đám đông giáo dân ở Lourdes
có thể gây nhiều chuyện bất an ninh, nên cảnh sát địa phương đã làm
hàng rào cản không cho giáo dân kéo đến Massabielle mỗi ngày mỗi đông.
Sự việc này được báo cáo lên hoàng đế Napoléon III. Nhà vua đã đích
thân ra lệnh cho cảnh sát ở Lourdes phải rỡ bỏ tất cả các rào cản đó
để cho các tín đồ được tự do đến viếng hang đá Massabielle.
Năm 1862, giám mục Laurance cai quản địa phận Tabres chính thức công
bố thư luân lưu xác nhận “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” là Mẹ Chúa Trời
đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous ngày 11 tháng 2 năm 1858
và những lần kế tiếp, tổng cộng 18 lần cả thảy. Tòa Giám Mục cho phép
sự tôn thờ “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” tại hang đá Lộ Đức trong địa
phận (The Virgin Mary Immaculate, Mother of God, really appeared to
Bernadette Soubirous on 11 February 1858 and on subsequent days, eighteen
times in all. We authorize the cult of our Lady of the Grotto of Lourdes
in our diocese). Từ 1858, mọi phương tiện truyền thông của nước Pháp
được vận dụng tối đa để quảng bá khắp nơi về “phép lạ” Đức Mẹ hiện ra
tại Lộ Đức. Song song với mọi nỗ lực tuyên truyền và quảng cáo, cựu
bộ trưởng tài chánh Pháp là Achille Toul vận động với hãng xe lửa Southern
Railway Company làm đường xe lửa nối liền thành phố Tarbes với Lourdes.
Các công ty xây dựng đổ xô đến Lourdes xây cất rất nhiều khách sạn,
nhà hàng và các phương tiện du lịch.
Năm 1906, hang đá Lộ Đức và nhà thờ lớn tại đây thuộc về tài sản quốc
gia Pháp. Nhưng từ 1910, quyền sở hữu này lại được chuyển về cho thị
trấn Lourdes. Kể từ năm 1990, thị trấn Lourdes tuy nhỏ nhưng có tới
400 khách sạn, hàng trăm restaurants, hàng ngàn gift shops và một phi
trường quốc tế. Hàng năm, số khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới
kéo về hang đá Lộ Đức đã cung cấp cho số dân ở thị trấn nhỏ bé này một
khoản tiền là 400 triệu đôla! (Looking for a Miracle, by Joe Nickell,
Prometheus Book 1993 – page 152). Lộ Đức (Lourdes) đã trở thành một
“con gà đẻ trứng vàng” của nền kinh tế Pháp.
Những tín đồ cuồng tín luôn luôn tung tin đồn rằng Đức Mẹ Lộ Đức đã
chữa cho nhiều người khỏi bệnh khi họ đến nơi đây cầu khấn với Đức Mẹ.
Tuy nhiên, họ đều không biết rằng: nhân vật chính của “phép lạ Lộ Đức”
là cô bé Bernadette đã chết lúc 32 tuổi (16-4-1879) vì bệnh suyễn, bệnh
sưng phổi và lao xương. Nếu Đức Mẹ có quyền năng làm phép lạ chữa bệnh
cho nhiều người, tại sao Đức Mẹ không chữa bệnh cho người có công nhất
với Đức Mẹ trong việc tuyên xưng Người là “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”
? Một điều mỉa mai ai cũng thấy là ở Lộ Đức người ta treo đầy những
chiếc nạng của những người què (giả vờ), nhưng tuyệt nhiên chưa từng
có một người cụt tay, cụt chân nào được Đức Mẹ chữa lành cả !
Sau khi giáo hoàng Pio IX công bố tín điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội” năm 1854, Vatican đã cấu kết với hoàng gia Pháp dựng lên màn kịch
“Phép lạ Lộ Đức” với tin đồn Đức Mẹ đã đích thân hiện ra và tự xưng
mình là “Đức Trinh Nữ vô nhiễm nguyên tội”. Trò bịp này đã củng cố niềm
tin của đại đa số tín đồ dân quê chất phác thời đó tại Âu Châu. Tuy
nhiên, giới báo chí đã lớn tiếng tố cáo trước dư luận : Trong vụ “Phép
lạ Lộ Đức”, Vatican đã giúp Pháp có thêm một trung tâm hành hương với
số lợi thu hàng năm không phải là nhỏ. Ngược lại, Pháp giúp cho Vatican
có cơ hội củng cố niềm tin của tín đồ Công giáo đối với uy quyền của
Tòa Thánh. Đây chẳng qua là chuyện cộng tác thực hiện một âm mưu nhằm
phục vụ quyền lợi của cả hai bên mà thôi. Dư luận báo chí đã khiến cho
tinh thần của nhiều giáo dân chao đảo và đưa họ đến chỗ nghi ngờ về
thẩm quyền của giáo hoàng trong việc công bố các tín điều. Họ lập luận
rằng : dù cho ở chức vụ đứng đầu giáo hội, giáo hoàng cũng vẫn chỉ là
một con người, nghĩa là vẫn có thể có những sai lầm trong quyết định
của mình. Vậy giáo hoàng không thể có quyền độc đoán buộc mọi tín đồ
phải tin theo những quyết định riêng của giáo hoàng, dù cho quyết định
riêng đó là một tín điều (dogma).
Trước áp lực của báo chí và dư luận bất lợi của giáo dân Âu Châu, giáo
hoàng Pio IX đã phải triệu tập Công Đồng Vatican I vào năm 1869. Để
cứu vãn sự sinh tồn của Tòa Thánh, phần đông các hồng y và giám mục
tham dự Công Đồng I đã bỏ phiếu tán thành một tín điều mới, đó là tín
điều “Giáo Hoàng không thể sai lầm” (The dogma of Papal Infallibility)
buộc mọi tín đồ Công giáo phải tin tưởng vào huấn quyền tuyệt đối của
Tòa Thánh và phải tin Giáo Hoàng là người duy nhất trên thế gian có
thẩm quyền xác nhận hay phủ nhận chân lý. Người Mỹ chế diễu đức tin
Công Giáo theo kiểu này là “Đức tin Shotgun” (Shotgun faith)!.
Sau khi Công Đồng Vatican I bế mạc, Tòa Thánh ra lệnh cho các giáo
hội Công Giáo trên khắp thế giới phải xây thêm tại khuôn viên nhà thờ
một “hang đá Lộ Đức” để nhắc nhở toàn thể giáo dân về hai tín điều là
“Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” và “Giáo Hoàng không thể sai lầm”. Đó là
tất cả ý nghĩa của cái gọi là “hang đá Lộ Đức” ! Như chúng ta đã biết,
tín điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” là một học thuyết của Augustine
dựa trên huyền thoại bà Evà xúi chồng ăn trái cấm trong vườn Địa Đàng.
Đây là một chuyện hoàn toàn hoang đường về tội Tổ Tông đã bị các ngành
khoa học hiện đại bác bỏ. Vậy, tín điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”
đã trở thành vô nghĩa vì nguyên tội (tức tội tổ tong) không hề có, nên
chẳng có một ai bị nhiễm cả, không riêng gì một mình bà Maria. Ngày
nay, tín điều “Giáo Hoàng không thể sai lầm” thực sự chẳng thuyết phục
được ai, nó chỉ càng làm cho mọi người thấy rõ hơn cái bản chất ngoan
cố bất lương của Vatican mà thôi.
V.- Tinh thần nô lệ đáng xấu hổ của Công Giáo Việt Nam :
Bất cứ ai đã từng sống trên đất Mỹ cũng nhận thấy một sự khác biệt
rất rõ rệt giữa Công Giáo Mỹ và Công Giáo Việt Nam là : không một giáo
xứ Công Giáo Mỹ nào xây hang đá Lộ Đức trong khuôn viên nhà thờ thuộc
giáo xứ họ. Trái lại, tại Việt Nam, các giáo xứ từ Bắc vào Nam đều xây
bên cạnh nhà thờ một hang đá gọi là “hang đá Lộ Đức” ! Điều đó đủ cho
thấy giáo hội Công giáo Việt Nam đã thi hành triệt để mọi mệnh lệnh
của Vatican một cách hết sức mù quáng. Đối với Vatican, hàng giáo phẩm
VN luôn luôn có thái độ khúm núm sợ sệt chẳng khác nào những tên nô
lệ đối với chủ của chúng vậy. Mặc dầu cũng là những tín đồ Công giáo,
nhưng Công giáo Mỹ tỏ ra độc lập và tự trọng đối với Vatican, chứ không
đến nỗi lệ thuộc quá đáng như Công giáo VN. Sự khác biệt này đã được
trình bày khá rõ rệt trong tác phẩm “How to Save the Catholic Church”
của linh mục tiến sĩ Andrew Greenley và nữ tu sĩ tiến sĩ Mary Dukin,
Viking Penguin xuất bản tại Canada 1984.
Hai tác giả đều là tu sĩ Công giáo viết : Trình độ trí thức của giáo
dân Mỹ da trắng càng cao bao nhiêu thì giáo hội Công giáo Mỹ càng xuống
dốc bấy nhiêu. Từ thập niên 1960, một nửa giáo hội Mỹ là di dân vừa
nghèo vừa dốt (By 1960’s, half of the American Catholics were poor and
uneducated immigrants – page 11). Những cái gì xấu xa do người Mỹ trắng
thải ra đều được chuyển qua đám di dân Công giáo da màu. Điển hình là
vụ hang đá “Đức Mẹ Sầu Bi” ở Portland thuộc tiểu bang Oregon. Hang đá
này đã bị Công giáo Mỹ phế bỏ thành một cái hang “khỉ ho cò gáy” từ
nhiều thập niên qua. Vậy mà đám giáo dân Công giáo Việt Nam qua Mỹ sau
1975 đã khôi phục nó thành một trung tâm hành hương sầm uất thu hút
hàng chục ngàn người (toàn là Việt!). Đó là việc mà hàng giáo phẩm Mỹ
đã không làm nổi. Nhưng đám tu sĩ Công giáo Việt Nam đã làm được, không
phải vì tu sĩ Công giáo Việt Nam tài giỏi mà vì số giáo dân Việt Nam
mê muội tại hải ngoại còn đông quá !
Hai tác giả tu sĩ Mỹ còn cho biết : Hầu hết các mệnh lệnh của Vatican
đều được hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ duyệt xét lại và sửa đổi trước khi
phổ biến đến toàn thể giáo dân. Trong thực tế, giáo hội Công giáo Mỹ
là một giáo hội tự trị (American Catholic Church became a Do-It-Yourself
Catholicism – page 8).
Nay xin điểm qua tình hình Công giáo Á Châu, tờ Asia Week số ra ngày
19-12-1997 tường thuật như sau :
Sri-Lanka (Tích Lan) là một đảo quốc có 15 triệu dân, đại đa số theo
đạo Phật, 8% (tức 1.2 triệu) theo đạo Công giáo. Linh mục Tissa Balasuriya
(tốt nghiệp thần học và thụ phong linh mục tại Rome trong thập niên
1940) thuộc giáo hội Công giáo Sri-Lanka đã viết sách bằng Anh ngữ tựa
đề “Mary and Human Liberation” chống lại Tòa Thánh vào thập niên 1990.
Sách này được dịch sang tiếng Pháp để phổ biến tại Âu Châu dưới tựa
đề “Marie ou la libération humaine”. Linh mục Tissa đưa ra quan điểm
của ông về “Đức Mẹ thật” là một phụ nữ thất học và nghèo khổ tại Do
Thái. Đức Mẹ không thể đồng trinh vì có nhiều con và điều này đã được
xác nhận trong Tân Ước. Tội tổ tông là một huyền thoại, nên các tín
điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” là vô nghĩa. Tất cả các tín điều về
Đức Mẹ đều là những sản phẩm của môn thần học kỳ quặc, không phù hợp
với não trạng của người Á Châu. Muốn giải phóng tư tưởng người Công
giáo thì cần phải bỏ các tín điều đó và bỏ luôn tín điều “Giáo hoàng
không thể sai lầm”.
Cuốn sách “thần học cách mạng” của linh mục Tissa đã bị Hồng Y Ratzinger,
bộ trưởng Bộ Giáo Lý của Vatican, hạch tội tỷ mỉ trong một bản phúc
trình 55 trang đệ trình giáo hoàng John Paul II ngày 2-1-1997. Giáo
hoàng đã đích thân tuyên phạt linh mục Tissa án phạt tuyệt thông và
trục xuất ông ra khỏi giáo hội. Lý do được nêu lên là linh mục Tissa
đã dám chống lại huấn quyền tuyệt đối của Tòa Thánh.
Trong tháng 10 – 1997, Bộ Giáo Lý Vatican cũng ra lệnh cho hội đồng
Giám Mục Hàn Quốc cấm các linh mục thần học Kong Soel, Yangmo và Re
Jemin không được viết sách báo chống Tòa Thánh. Hội đồng Giám Mục Nhật
Bản lên tiếng chỉ trích Tòa Thánh là “chẳng hiều gì về văn hóa Á Châu”
cả!
Các bản tin ngắn nói trên đủ cho ta thấy nhiều giáo hội Công giáo Á
Châu không đến nỗi hèn vì họ vẫn có thái độ khảng khái nói lên quan
điểm của họ chống đối Vatican.
Là một người Việt Nam, chúng ta phải đau lòng công nhận một sự thật
không thể chối cãi là Công Giáo Việt Nam có một tâm cảm nô lệ hết sức
mù quáng đối với Tòa Thánh La Mã. Thậm chí có người đã mỉa mai nói rằng:
“Dù cho Tòa Thánh đánh rắm, Công Giáo Việt Nam cũng khen thơm”. Thật
qủa đúng vậy. Cái tín điều nhảm nhí “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” chỉ
là một cái rắm thối của giáo hoàng Pio IX năm 1854 đã được cả giáo hội
Công Giáo Việt Nam vừa hít vừa rối rít khen thơm. Trước 1954, cái danh
hiệu “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” đã được địa phận Bùi Chu tôn vinh
làm Thánh Bổn Mạng của địa phận. Mới đây, vào đầu năm 2003, giáo xứ
Đức Mẹ Lộ Đức là một giáo xứ lớn của Việt kiều tại thành phố Houston
đã xây một “Hang Đá Lộ Đức” tại khuôn viên nhà thờ của giáo xứ với tổn
phí 800,000 đôla !
Ngày nay, người Công giáo Việt Nam có đầu óc chẳng còn mấy ai tin vào
chuyện Adam-Evà ăn trái cấm và do đó họ cũng nghi ngờ phần nào về cái
tín điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” và tín điều “Giáo Hoàng không
thể sai lầm”. Nhưng vì truyền thống lâu đời của gia tộc họ vẫn tiếp
tục duy trì thói quen là cầu nguyện trước hang đá Lộ Đức sau khi xem
lễ xong tại nhà thờ. Họ thích đứng trước Hang Đá Lộ Đức để cầu nguyện
riêng với Đức Mẹ mà họ yêu mến hơn yêu Chúa. Đối với họ, Thiên Chúa
cao xa qúa nên rất khó gần gũi thân mật. Chỉ có Đức Mẹ là Mẹ dịu hiền
và Mẹ có đầy quyền uy trước mặt Chúa. Đức Mẹ xin Chúa điều gì cũng được,
nên họ thích cầu nguyện với Đức Mẹ để xin Mẹ ban cho họ mọi thứ mà họ
muốn. Niềm tin đó còn khi người Công giáo VN chưa tỉnh ngộ thì các Hang
Đá Lộ Đức vẫn tồn tại.
Nhưng thực tế hiển nhiên đã chứng tỏ rằng: màn kịch “hang đá Lộ Đức”
là biểu tượng cho hai tín điều bịp bợm: “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”
và “Giáo Hoàng Không Thể Sai Lầm” do Pio IX và Napoléon III âm mưu dựng
lên để lừa gạt đồng bào Công giáo Việt Nam đã trên một thế kỷ qua. Nay
đã đến lúc đồng bào Công giáo Việt Nam nên bình tĩnh dùng lý trí xét
lại những giáo điều mà Vatican đã áp đặt lên giáo hội Công giáo Việt
Nam. Các hang đá Lộ Đức thật sự chỉ là một hình thức của nhiều công
cụ tâm lý nhằm đầu độc và nô lệ hóa các tín đồ nhẹ dạ dễ tin. Xin đồng
bào Công giáo Việt Nam đừng để những trò lừa bịp đó giam hãm qúy vị
trong ngục tù tư tưỏng của chính mình và đừng để hành động mù quáng
tuân phục Vatican làm tổn hại đến quyền lợi của dân tộc.