|
12 tháng 2, 2011 |
“Ngay cả ngày nay, tất cả những thày giáo Catô trong
triết học và nhiều người khác vẫn còn bướng bỉnh phủ
nhận những khám phá của lôgích hiện đại, và tuân thủ
với một sự bám chặt lạ lùng vào một hệ thống vốn nó
đã dứt khoát cổ lỗ cũng như thiên văn học của
Ptolemy.”(Bertrand Russell)
[1] |
I. Lôgích cũ & mới
Ngữ pháp truyền thống bảo chúng ta cho biết – một
câu đơn là gồm có hai phần : chủ ngữ và thuật ngữ
(subject và predicate). Thí dụ:
1. Bính thấy con voi
2.
Ất buồn ngủ
3.
Có một ai vỗ vai tôi
4.
Không ai đi học cả
Vậy, khi nào một câu – xem như một phát biểu lôgích
- là đúng?
Hai câu đầu – chúng ta có thể nói đúng/sai – xét xem
chủ ngữ “Bính” có thuộc tính được diễn tả bằng thuật
ngữ “thấy con voi” không? Tương tự “Ất” có thuộc
tính “ buồn ngủ” không. Chúng ta làm được như thế và
Bính và Ất là những tên gọi, tên người, chúng chỉ
những con người, chỉ một ai đó.
Nhưng hai câu sau – về lôgích chúng ta không thể nói
là đúng/sai; những chủ ngữ của câu 3 chỉ ai đây? Chỉ
người vỗ vai tôi? – nhưng có thể tôi buồn ngủ tưởng
thế, không có ai vỗ vai tôi cả. Câu 4 còn tệ hơn,
“không ai” là ai?
II. Universal (∀x) và existential (∃x) quantifiers
Để giải quyết vấn đề này, những nhà lôgích hiện đại
– phân biệt tên gọị (Bính, Ất) với những từ như “
không ai”, có một ai”, “tất cả mọi người”. Những từ
này được gọi là những “quantifier”. Và như những thí
dụ trên cho thấy, trong ngữ pháp chúng xem ra như có
cùng chức năng, là làm chủ ngữ cho câu, nhưng chúng
tác động toàn toàn khác nhau trong lý luận.
Đây là một khám phá và cống hiến mới của logich hiện
đại
[2].
Không phải đi vào lý thuyết chi tiết. Trong trường
hợp trên, lấy thí dụ “Bính thấy con voi” các nhà
logich hiện tại thực hành như sau:
Nếu, như trong toán học, chúng ta lấy b chỉ một đối
tượng là “Bính” và V là “thấy voi” – chúng ta viết
“bV” (thực ra họ viết theo toán Vb – function V trên
b, những đây chỉ là qui ước, chúng ta không cần bận
tâm ở đây).
Bây giờ – “có một vài người thấy voi” – nếu giả định như cũng có nhiều những
người khác thấy voi, có thể gộp họ vào chung, thành một collection, collection,
tạm hiểu lỏng lẻo ở đây như một tập hợp gồm những người thấy voi trong toàn vũ
trụ – nếu thế có một đối tượng nào đó trong collection này, chúng ta gọi là x,
và x thấy voi. Chúng ta dùng ký hiệu $x ; đơn giản
đọc là “có đối tượng x, sao cho, x thấy voi”, vắn tắt: “$xxV”.
Thế còn “tất cả mọi
người thấy voi” , chúng ta dùng một ký hiệu khác
"x,
đọc là “tất cả những x, sao cho ”, vắn tắt "xxV,
“có tất cả những đối tượng x, sao cho, x thấy voi”.
Và “không ai”,
chúng ta dùng dấu phủ định trước $x thành ¬ $x, đọc
là “không có một đối tương x, sao cho” – và tiếp tục
chúng ta có: ¬ $xxV. “không có x nào, sao cho, x
thấy voi”.
III. Nhiêu khê như thế để làm gì?
Xem ra có vẻ hơi nhiêu khê, nhưng thực ra chỉ là đem
những câu, những mệnh đề đơn giản, phát biểu lại
nhưng dùng những ký hiệu mới, như hai quantifier
trên. Và đây là chỗ tuyệt vời của logich mới. Những
quantifier đó đóng một vai trò chủ yếu trong nhiều
những luận chứng triết học và toán học, ứng dụng
chúng, đem lại rất nhiều khám phá mới rất quan
trọng Lấy thí dụ:
Là thói thường, chúng ta mặc nhiên giả định không gì
xảy ra mà không có giải thích. Người ta đau ốm không
thể không vì đâu, xe cộ hư hỏng không thể không có
lý do, nghĩa là tất cả mọi sự vật, xem ra phải có
nguyên nhân của nó. Nhưng cái gì là nguyên nhân của
tất cả mọi thứ? Hiển nhiên là không thể nào có
trong thế giới vật lý, để con người có thể chạm vào,
sờ thấy được, dù chỉ như con voi giữa chợ của những
người mù, hay một giả thuyết nào đó như Big Bang
trong thiên văn học, Ngay cả “con voi” hay “Big
Bang” chính chúng cũng phải có nguyên nhân. Như thế
phải là trong siêu hình học, và Gót là ứng viên hiển
nhiên cho vị trí “sáng tạo” này.
Đây là một luận chứng về sự hiện hữu của Gót gọi là
luận chứng về Vũ trụ (Cosmologicsl Argument)
[3].
Luận chứng này có thể phát biểu dưới nhiều dạng (nên
còn gọi là luận chứng Nguyên nhân đầu tiên), và vì
thế cũng có thể bào chữa hay phản bác dưới nhiều
dạng. Nhưng trong bản chất, nó là một nguỵ biện vĩ
đại, vì sai lầm của nó cũng lớn lao như Gót mà người
ta đã tưởng tượng ra từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Chúng ta hãy cùng dùng chỉ hai ký hiệu mới giới
thiệu trên – để chứng minh:
Mệnh đề “tất cả mọi sư vật có một nguyên nhân”
thì hàm hồ:
(a) Nó có thể có
nghĩa là – tất cả sự vật nào đã xảy ra, nó có một
nguyên nhân nào đó, này hay khác. Đó là, với tất cả
x, có một y, sao cho y là nhân của x;
(b) Hay nó có thể
có nghĩa là – có một-gì đó mà nó là nguyên nhân của
tất cả sự vật – đó là, có một y, sao cho với
tất cả x , x là quả của y , hay y là nhân của x.
Giả định là chúng ta nói về một domain, gồm những
đối tượng cùng nhân và quả của chúng. Chúng ta viết
“x là hậu quả của y” như ký hiệu: xCy. Như thế hai
ý nghĩa trên chúng ta có thể viết:
(a) "x $y xCy (“với tất cả x, có một y, sao cho x là quả của y”, (hay y là nhân của x).
(b) $y "x xCy (“có một y, với tất cả x, sao cho x là quả của y”).
Viết như thế, giờ đây, chúng ta thấy (a) và (b) không là tương đương như nhau về logich nữa
(logically equivalent):
Phát biểu (a) dẫn đến từ (b). Nếu như có một sự vật
gì vốn nó là nhân của tất cả mọi sự vật, Như
thế, chắc chắn tất cả mọi sự vật có một nhân này hay
nhân khác.
Nhưng nếu tất cả mọi sự vật có một nhân này hay nhân
khác (b), nó không dẫn đến rằng có một và cùng là
một sự vật đó vốn là nhân của tất cả mọi sự vật (a).
Chúng ta có thể so sánh với lối nói tương tự của
người Việt: “mọi người ai cũng có một bà mẹ”, nhưng
nó không đi dễ dàng đến kết luận “có một ai đó, là
mẹ của tất cả mọi người” – “mẹ muôn vật” chỉ là một
ý niệm, một tượng trưng, và chúng ta biết là không
có, không thực.
Sự hàm hồ của luận chứng vũ trụ trên là giống như
(a) đương nói về đau ốm và xe cộ (người đau, xe
hỏng, có nguyên nhân), nhưng (b) quay sang nói về cái gì là nguyên nhân (của đau ốm và xe cộ), làm
như cái gì là nguyên nhân đó đã được xác minh
rồi. Và đó là nguỵ biện của luận chứng trên về Gót
như là nguyên nhân của vũ trụ. (Chưa kể, nếu giả
đinh nếu như có cái gì là nguyên nhân, hai
câu hỏi có thể đặt ra: không có chứng cứ tại sao
biết cái gì đó là Gót (có người gọi là
Không-Tên), và không có chứng cứ rằng chỉ có
một Gót mà thôi, vũ trụ cũng có thể có hai
nguyên nhân – Âm và Dương chẳng
hạn – sao phải chỉ có một và chỉ có một
mới là đúng). Như vậy luận chứng trên không
chứng minh gì cả, nó vẫn chỉ là một giả định, không
chứng minh, hay ít nhất ở đây, chưa hề được chứng
minh.
Như vậy hiểu và phân tích cho đúng những quantifỉer
là quan trọng, và không phải chỉ trong lôgích, Những
từ “không ai”, có một ai”, “tất cả
mọi ai” - hay tổng quát hơn “không-gì”, “một
vài”... làm chủ ngữ, nhưng không đứng thay, hay biểu
thị một đối tượng, một chủ thế nào cả, chúng tác
động một cách hoàn toàn khác biệt trong suy luận.
Chúng ta bắt đầu thấy, sai lầm trong logich, tri
thức học đã đưa sang thành những sai lầm trong bản
thể học, trong siêu hình học.
Gót là một thí dụ cụ thể. Từ một gì không có, do
ngôn ngữ hàm hồ, đã dung lý luận nguỵ biện, khiến
những ai dễ dãi mới nghe, tưởng chừng Gót là một gì
có thực, nhưng những ai thính tai lôgích, dễ dàng
chỉ ra sai lầm như trên.
Quay về vũ trụ và thuyết Big Bang, Hoặc vũ trụ kéo
dài vô hạn ngược về quá khứ, hoặc tại một thời điểm
nào đó nó đã đi ra để có hiện hữu.
Trong trường hợp thứ nhất, vũ trụ không có khởi
đầu, nhưng nó đã có đấy như từng bao giờ đã vẫn có
đấy (tại sao không - ở điểm này Russell đã nói,
chúng ta tưởng tượng có một khởi đầu chỉ vì sự nghèo
nàn trong trí tưởng của chúng ta
[4],
về lôgích, có hay không có khởi đầu, cả hai đều
không điều nào lôgích hơn điều nào, thế nên quay về
Tàu và Ấn, tư tưởng của họ vẫn cho rằng vũ trụ là
“vô thuỷ vô chung” – không có khởi đầu, và không có
tận cùng).
Trong trường hợp
thứ hai, nếu như vũ trụ đã khởi nguyên tại một thời
điểm đặc biệt nào đó, và các nhà vật lý gọi là Big Bang
(vụ nổ vũ trụ lớn). Mặc dù từ khi giả
thuyết Big Bang ra đời đến nay, các nhà vật lý đã
thay đổi và có nhiều giải thích, họ lần lượt nói
những điều khác nhau với chúng ta về biến cố này,
(như cho đến gần đây, đi đến giải thích trước Big
Bang lại có những Big Bang khác chẳng hạn, hay Big Bang đi đến
Big Crunh, rồi lại Big
Bang nữa,...). Đang bàn về logich ở đây, chúng
ta có thể bỏ qua những nội dung này, cứ xem xét
trường hợp thứ hai. Trong trường hợp này vũ trụ
thành có hiện hữu từ không-gì (dùng tiếng Tàu
cho văn vẻ, nghiêm trọng, nếu bạn thích – “hư
không”), hay ít nhất không-gì như bất cứ một gì vật
chất có trong vũ trụ của vật lý, dù sao đi nữa, vũ
trụ với tư cách là gồm toàn thể những gì trong thế
giới vật lý. Quay về xem xét mệnh đề “vũ trụ
thành có hiện hữu từ không-gì”. Như trên, chúng
ta hãy cùng gọi vũ trụ là c, và hiện tượng
nói trên là: “x thành ra hiện hữu từ y” là “xEy”,
như thế “không có một x, sao cho c thành
hiện hữu từ x” , dùng dấu phủ định trước $x như nói
trên, chúng ta viết thành : “¬$x cEx.”
Nhưng xét lại xem,
“¬$x cEx” không có nghĩa như chúng ta đã từ đó dẫn
khởi đến nó như thế, “không có x nào, sao cho một vũ
trụ c nào đó hiện hữu từ x”; vì nó hoàn toàn tương
đương với trường hợp thứ nhất, nghĩa là vũ trụ không
có khởi đầu. Trong nghĩa thứ nhất dẫn trên, vũ trụ
không thành ra hiện hữu, nhưng nó vẫn có đó, vẫn
hiện hữu từ vô thuỷ vô chung. Nói về một cụ thể, vậy
thì ở đây không có trường hợp trong đó cụ thể thành
hình từ một gì hay một-gì-nào khác
[5].
Trong trường hợp thứ hai, khi chúng ta nói – vũ trụ
thành ra hiện hữu từ không-gì (nothing),
chúng ta hàm nghĩa rằng vũ trụ thành hiện hữu từ sự-không-gì (nothingness). Như thế không-gì
có thể là một-gì.
Nothingness?
Một ngày nào trời thật đẹp, bạn hãy ngửng nhìn lên
màu xanh thẳm cùng tận trên cao kia – màu xanh
đó
có từ không-gì, và hãy tiếp tục suy nghĩ.
Dựa vào lôgích mới, và đừng vội tin
[6].
Lê Dọn Bàn
(Jan, 2011)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1]
Từ lôgích dẫn sang chuyện ngụy biện về Gót ,
lấy trong: Graham Priest. Logic: A Very
Short Introduction. Oxford University
Press, USA, 2001.
Bertrand
Russell. Lịch sử Triết học phương Tây-
Chương 22, Lôgích học của Aristotle
(bản dịch LDB)
http://chuyendaudau.blogspot.com/2011/01/bertrand-russell-lich-su-triet-hoc_08.html
[2]
Gottlob Frege (1848-1925) và Bertrand
Russell (1872-1970) là hai người tiên phong
thiết lập và phát triển.
[3] Luận chứng vũ trụ phát biểu đơn giản
như sau:
(1)
Tất cả gì hiện hữu có một nguyên nhân
cho hiện hữu của nó
(2)
Vũ trụ hiện hữu
(3)
Thế nên, Vũ trụ có một nguyên nhân
cho sự hiện hữu của nó
(4)
Nếu Vũ trụ có một nguyên nhân cho sự
hiện hữu của nó, vậy thì nguyên nhân đó là
Gót
(5)
Thế nên, Gót hiện hữu
Các câu (1), (2 là tiền đề, câu (3) là kết
luận; nhưng (4) là thêm vào ngang xương,
thực sự không liên hệ với (1), (2), (3) –
tức là nói từ đâu đâu, nói điều mình thích,
không phải điều mình suy nghĩ, sang câu
thứ (5) thì hoàn toàn là nói điều mình
thích và muốn; có thể viết lại như sau:
(4a) Nếu Vũ trụ có một nguyên nhân cho sự
hiện hữu của nó, theo tôi, tôi thích gọi
nguyên nhân đó là Gót
(5a) Thế nên, bạn nên thích như tôi,
và tôi muốn bạn đồng ý – Gót hiện hữu
(!)
Dĩ nhiên, nếu ai dễ dãi, sau (1), (2), (3)
là lý luận, tin rằng (4), (5) cũng là lý
luận và tin theo, dễ dãi tin theo;
nhưng tin một cách nhắm mắt như thế - hay
đúng hơn như tiếng Viêt nói – “mắt nhắm mắt
mở” đã tin ngay – tin như thế - đúng là mù
quáng chứ còn gì! - có giá trị gì?
Đó là những người mới “tin” – trân trọng gọi
nó là “đức tin”, còn trẻ con, học “giáo lý”
từ lúc chưa biết suy nghĩ tường tận, thì
thôi còn nói làm gì. ngay đến thông minh như
Kant, Russell còn mỉa mai là lớn đầu mà vẫn
không gột được những mê tín từ lúc còn được
bế ngồi trên đùi mẹ!
Lý sự - chứ không phải lý luận - theo lối
(4a) và (5a) – trong tiếng Anh có câu
“begging the question” – có nghĩa là lý sự
cùn như thế - khiến người nghe không sao
không thể chất vấn người nói.
Trong Aristotle, ông nói về Cái Động lực
Nguyên thuỷ (Prime Mover) – để tạm giải
quyết chuỗi bất tận - c đến từ b, thế còn b?
b đến từ a, thế còn a,... mệt quá – a không
đến từ đâu cả, tạm gọi là là cái động lực
ban đầu! Xong chuyện. Mãi sau này, những nhà
lý thuyết Ki tô mới nhặt lên, chùi sạch, gán
vào “God” họ đã thờ phụng từ lâu rồi, cho có
một lý thuyết cho oai . Nhưng đó là chuyện
tôn giáo, tín ngưỡng, nhưng không là chân lý
triết học, không có chút nào lôgích.
Sau khi
nhặt lên, những người Kitô, gán thêm cho
“Gót” – những toàn trí, toàn năng, toàn
thiện, và đặc biệt quái đản là chỉ có Một –
tại sao lại chỉ có một? Một hội đồng, một
tập thể không được à. Chúng ta có thí dụ về
chuyện những 12 bà “mụ nặn” trẻ con.
Chúng ta, cũng như hầu hết các dân tộc khác
trên thế giới cũng có chuyện về “tạo thiên
lập địa”, nhưng đông và vui hơn, chúng ta có
nhiều ông Trời:
Ông đếm cát
Ông tát bể (biển)
Ông kể sao
Ông đào
sông
Ông
trồng cây
Ông xây
rú (núi)
Ông trụ trờị..
Cái ý niệm chỉ có một là của riêng
người DoThái bày ra, mà chính họ trước đó
vốn đã có rất nhièu Gót, sau họ đã thay đổi.
Ý niệm “chỉ có một” đó là nguyên nhân của
biết bao nhiêu tại hoạ cho nhân gian. Cái
một ông “Gót” đó – chỉ mở quyển sách
“Thánh” đó mà đếm – Gót đã giết người máu
thành biển, xương thành núi rồi. (Mở kinh
thánh – đếm xem bao nhiêu người đã bị Gót
giết, trong đó – cho vui); kể chi con cháu
của ông trong xuốt 2000 năm qua. Một tác giả
Mỹ Michael Parenti viết God and His
Demons, ông dẫn câu “It's not God I have
a problem with, it`s his fan club” - ông
muốn nói (như tôi nghĩ) - không phải tôi
thèm nói gì về Gót, chẳng qua là với bọn mê
dại tai hại trên trần gian này theo thờ ông
ta! Chướng tai gai mắt lắm.
Thế nên, trước những thiên tai, chiến tranh,
bệnh tật, ... đã thành một vấn nạn lớn lao
- sẽ bàn dịp khác (Luận chứng về Tà Ác) –
tại sao Gót toàn những thứ tốt – toàn
năng, toàn trí, toàn thiện mà lại tạo
một nhân gian đầy trầm luân, đau thương như
vầy? Thỉnh thoảng, có khi bạn phải đi viếng
đám tang một đứa bé – chắc bạn cũng có thể
nghe một thày chăn chiên nào đó nói – đại
loại “thôi bây giờ cháu đã an toàn mãi mãi
trong tay Gót” – nói thế là đỡ, có khi còn
phải nghe nhiều phần chướng tai hơn - “ấy
Chúa thương cháu quá nên gọi về sớm”. Người
nghe như thế, không thể nào không nghĩ đến
những vụ scandal các thày chăn chiên
Catô Pediophilia.
Có người bảo Gót đi vắng, hay chết rồi,
không hiện hữu nữa, hay tạo thiên địa xong
thì phủi tay, không dính líu gì với nhân
gian thế sự nữa. Rất nhiều lý thuyết chi ly
rắc rối.
Chẳng qua là tâm lý con người vẫn thích bàn
về những gì bí mật, cái ông ngáo ộp doạ
trẻ con chuyện “thiên đàng địa ngục hai
bên” đó - có đâu - vốn không có, nên tha hồ
bàn, kể cả người viết này– nhưng những bàn
luận không phải tất cả là dựa trên lôgích.
Chỉ dụ dỗ trẻ con “ai khôn thời dại, ai dại
thời khôn, đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha đọc kinh
cầu nguyện xót xa linh hồn, linh hồn phải
giữ linh hồn, đến khi gần chết được lên
thiên đàng”. Không biết bây giờ trẻ con có
còn ngây thơ chơi hát cái trò quái đản do
một thày chăn chiên truyền giáo ma mãnh nào
đó đã thâm hiểm gài vào những tâm trí thơ
dại - như ngày xưa tôi đã thấy, nữa không.
[4]
“Cái
ý niệm rằng mọi sự vật phải có một khởi đầu
thực do từ sự nghèo nàn của trí tưởng tượng
con người mà ra” – Russell,
Tại Sao
Tôi Không là người Kitô?(LDB
dịch) .
http://chuyendaudau.blogspot.com/2009/05/tai-sao-toi-khong-la-nguoi-kito_28.html
[5]
Nếu các bạn không muốn nhức đầu – không thể
dễ dàng nghĩ lên trên thuyết nhân quả, vậy
đây là lối thoát; nếu bạn nghĩ –tương sinh:
mọi sự sinh ra lẫn nhau – “Cái này có nên
cái kia có, cái này không nên cái kia không,
cái này sinh nên cái kia sinh, cái này diệt
nên cái kia diệt”,..cứ như thế - mong
không nhức đầu và tránh được phi lý.
[6] Bertrand
Russell. Hiện hữu và Bản chất của Gót “Tôi
nghĩ rằng đức tin là một thói xấu đồi bại,
bởi vì đức tin có nghĩa là tin vào một mệnh
đề, trong khi không có lý do chính đáng để
tin vào nó. Điều đó có thể được đem lấy làm
như một định nghĩa của đức tin” - (bản dịch
LDB): http://chuyendaudau.blogspot.com/2010/07/hien-huu-va-ban-chat-cua-got.html
Posted by Lê Dọn Bàn at
6:59 PM
nguồn http://chuyendaudau.blogspot.com/2011/01/logich-cu-moi.html Sunday, January 9, 2011