Nguyễn Đắc Xuân - nhà Huế học
Mai Văn Hoan
thực hiện 6/25/2009 10:23:43 AM
http://sachhiem.net/NDX/NDX014.php
ngày 02 tháng 7, 2009
LTS: Nhà thơ Mai Văn Hoan là giáo viên chuyên văn trường Quốc Học Huế, Hội viên Hội nhà văn VN. Bài viết sau đây giới thiệu Nguyễn Đắc Xuân được đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân cuối tuần (29-5-2009) và đăng lại trên trang Web của Hội nhà văn VN. Sachhiem.net cũng xin đăng lại vì trong bài có một vài thông tin liên hệ đến những vấn đề của lịch sử (SH).
Nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân
Nguyễn Đắc Xuân nói với tôi nửa đùa, nửa thật: Đừng gọi mình là nhà văn,
gọi mình là người cầm bút hoặc người viết cũng được. Quả thật rất khó lòng
gọi anh là gì cho chính xác. Anh không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt
Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt
Nam. Anh còn là thành viên Hội đồng khoa học của Trung tâm Nghiên cứu Quốc
học...Nhưng dù ở cương vịnào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử
và văn hóa Huế. Vì thế nhiều người gọi anh là nhà Huế học.
Nguyễn Đắc Xuân sinh ngày 15 – 7 -1937, quê Thủy Vân, Hương Thủy, Thừa
Thiên Huế. Thuở nhỏ, anh theo mẹsống ở nhiều nơi: Đà Lạt, Quảng Ngãi, Đà
Nẵng...Thời còn là học sinh, sinh viên, anh đã hăng hái tham gia phong trào
Phật giáo đấu tranh với chính quyền Ngô Đình Diệm (1963). Học xong đại học
Sư pham (1966), anh cùng với nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường được tổ chức bí
mật đưa lên chiến khu Tri Thiên làm việc ở cơ quan Tuyên huấn Thành ủy. Sau
1975cho đến khi nghỉ hưu (1998), anh từng làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ
thành phố Huế, Phó Tổng biên tập kiêm Thư ký Tòa soạn tạp chí Sông Hương,
trưởng phòng đại diện Miền Trung và Tây Nguyên báo Lao động...
Thời
còn là sinh viên anh đã làm thơ và đã có thơ đăng báo. Hiện anh còn cả trăm
bài chưa tiện công bố. Tác phẩm đầu tiên của anhgây được sự chú ý đối với
bạn đọc viết về thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế. Anh may mắn gặp được những
người bạn học và bạn đồng thời với Bác như các cụ Lê Thiện, Nguyễn Đạm, Lê
Thanh Cảnh... Qua các cụ, anh biết được khá cặn kẽ quãng đời niên thiếu của
Bác. Anh còn sưu tầm được bộ hồ sơ của Mật thám Pháp theo dõi Nguyễn Sinh
Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc từ 1908 đến 1920 và bức thư của hiệu
trưởng trường QG, viết vào tháng 8 – 1908, gửi cho Khâm sứ Pháp báo cáo sơ
lược về nhân thân Nguyễn Sinh Cung. Đây là những tài liệu hết sức quý hiếm,
giúp chúng ta hiểu một cách đầy đủ hơn cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác.
Bạn bè văn nghệ ở Huế nói đùa: Nguyễn Đắc Xuân đào được “mỏ vàng”. Cái “mỏ
vàng” mà anh khai thác mãi vẫn không hết đó là những bí ẩn về lịch sử, văn
hóa triều Nguyễn. Cho đến nay, anh đã xuất bản hàng chục đầu sách về đề tài
này. Trong đó đáng chú ý là :
Chuyện nội cung Huế
(gồm 3 tập, tái bản lần thứ 4), Hỏi đáp
về triều Nguyễn và Huế xưa (gồm 6 tập). Tôi đã tận mắt nhìn thấy
trong phòng làm việc của anh cả một kho tư liệu khá đồ sộ về các triều đại
nhà Nguyễn.
Ở mảng đề tài này anh cũng có một số đóng góp quan trọng. Trong
đó phải kể đến việc minh oan cho vua Duy Tân. Có dư luận cho rằng vua Duy
Tân sẽ theo De Gaulle về Việt Nam làm tay sai chống lại cách mạng. Anh
Nguyễn Đắc Xuân đã may mắn tìm được văn bản gốc ghi, đại ý: Chính quyền
Pháp nghi ngờ vua Duy Tân vẫn còn tư tưởng giành độc lập cho Việt Nam nên
không dùng nữa, chở vua về lại đảo Réunion. Trên đường về thì vua bị tử nạn
máy bay một cách hết sức mờ ám. Ngoài ra, anh còn làm rõ những năm tháng bị
lưu đày và lưu vong của các vua: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Bảo Đại ở
nước ngoài.
Công
trình gây được tiếng vang gần đây của anh là Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung.
Sách dày trên 400 trang với nhiều tư liệu quí hiếm. Đây là
công trình anh kiên trì theo đuổi suốt 20 năm nay. Anh bắt tay nghiên cứu từ
khi tóc còn xanh và hoàn thành lúc tóc đã bạc trắng mái đầu. Ở Huế, không
chỉ mình anh đi tìm lăng mộ vua Quang Trung nhưng xem ra dự đoán của anh là
có cơ sở hơn cả. Tìm lăng mộ vua Quang Trung chẳng khác gì đáy biển mò kim
vì chẳng hề có một dấu tích gì. Tất cả những gì liên quan đến đời Tây Sơn ở
Huế đều bị các triều đại nhà Nguyễn và thời gian xóa sạch. Nguyễn Đắc Xuân
phải lần đọc hàng núi tài liêunhư :
Phủ biên tạp lục
của Lê Quý Đôn, Đại Nam nhất thống chí
của triều Nguyễn, Lịch sử Phật giáo, gia phả các dòng họ nổi tiếng ở Huế,
văn học cổ Việt Nam, Trung Quốc... Anh đi nhiều nơi, gặp gỡ, trao đổi, hỏi
han những bậc học giả uyên thâm trong và ngoài nước...
Lăng mộ vua Quang
Trung cứ hé lộ dần. Đầu tiên, anh phát hiện: trước và trong thời Tây Sơn, ở
phía nam sông Hương có phủ Dương Xuân nằm trên gò Dương Xuân. Nhưng đến thời
nhà Nguyễn thì không hề thấy nhắc đến nữa. Anh nghi là phủ Dương Xuân đã bị
nhà Nguyễn triệt phá. Đọc thơ của các danh sĩ từng làm quan thời Tây Sơn,
anh bắt gặp một số câu có nhắc đến điện Đan Dương. Chẳng hạn như: Đan Dương cung điện nhật tam thu (
Cảm hoài , Ngô Thì Nhậm). Điều đó chứng tỏ Tây Sơn đã biến phủ Dương Xuân
thành cung điện Đan Dương. Và khi Quang Trung mất anh nghi là vua được mai
táng một cách bí mật ở ngay cung điện Đan Dương này. Bởi trong bài Tòng giá
bái tảo Đan Lăng cung ký của Phan Huy Ích có câu: Sơn Lăng vạn cổ điện Thần Kinh.
Điều đó nói rằng Đan Lăng (còn có tên là Sơn Lăng) có thể là lăng mộ của vua
Quang Trung. Trước khi mất, Ngọc Hân có nguyện vọngmuốn nằm bên cạnh vua
Quang Trung. Và nàng đã được toại nguyện: Bên Đan Dương quanh quất mạch liên châu (một câu trong bài
điếu văn do Phan Huy Ích soạn thay Quang Toản).
Một hiện tượng bất thường
nữa là những tấm bia của chùa Thiền Lâm gần điện Đan Dương đều bị mài đục
hết chữ. Các sư đào bới trong khuôn viên chùa thì phát hiện rất nhiều viên
đá tảng...Từ những chứng cứ, hiện tượng trên, anh đi đến kết luận: Lăng mộ
Quang Trung nằm trên vùng đồi khu vực chùa Thiền Lâm, chùa Vạn Phước và chùa
Diệu Đức, ở ấp Bình An cũ, thuộc phường Trường An ngày nay.. Mọi người đang
hồi hộp đón chờ ngành Khảo cổ học tiến hành khai quật. Nếu đúng đó là khu vực
lăng mộ của vua Quang Trung thì công lớn đầu tiên thuộc về Nguyễn Đắc Xuân.
Và như vậy thì “Huế sẽ có thêm một địa chỉ văn hóa có giá trị” (Nguyễn Khắc
Phê).
Những
năm gần đây, Nguyễn Đắc Xuân còn dành thời gian viết về những văn nghệ sĩ mà
anh yêu mến, ngưỡng mộ như Tố Hữu, Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ, Phạm Duy... Toàn
bộ nhuận bút tập sách Trịnh Công Sơn có
một thời như thế, anh dành tặng cho những em học nhạc ở Huế. Anh
còn tìm lại được trường ca Tiếng hát Dã
Tràng – một trong những tác phẩm âm nhạc đầu tiên của Trịnh Công
Sơn đã bị thất lạc hơn 40 năm nay. Nhận bản nhạc từ tay một người bạn học cũ
của Trinh Công Sơn thời học Sư phạm ở Quy Nhơn, anh sung sướng ngỡ như cầm
được báu vật. Đây là một nhạc phẩm có tầm ảnh hưởng rất lớn trong sự phát
triển tài năng âm nhạc của Trịnh. Lời trường ca Tiếng hát Dã Tràng có câu “Tôi
dìu tôi đi giữa trời bão tố” giúp chúng ta hiểu phần nào tâm trạng đau buồn,
cô đơn của Trịnh Công Sơn thời đó.
Còn đây là chân dung của họa sĩ Bửu Chỉ
trong những ngày “xuống đường” qua phác họa của Nguyễn Đắc Xuân: Bửu Chỉ
nhỏ thó, đội mũ nồi, nghiêng vai vẽ biếm họa trên tường Morin (Ấn tượng Bửu
Chỉ). Một Bửu Chỉ đầy cá tính: “ bướng”, “ “ngạo” và “cực đoan” được anh
thâu tóm qua câu chuyện tặng tranh. Bửu Chỉ nói với Nguyễn Đắc Xuân: “Mình
sẽ tặng Xuân bức tranh Người Mang Dáng Cổ Thành làm quà mừng nhà mới, nhưng
với điều kiện Xuân không được treo bức tranh nào của người khác trong căn
phòng này”. Anh có những nhận xét khá tinh về tranh Bửu Chỉ: Con người không thể tránh được vực thẳm của
hủy diệt, Nhưng cái vưc thẳm hủy diệt của Bửu Chỉ chịu ảnh hưởng của đạo
Phật nên không bi đát như triết lý hiện sinh của Albert Camus hay của Jean P
Sartre”. Thật là tri âm, tri kỷ ! Trong hồi ức về nhà thơ Tố
Hữu, anh nhắc lại một kỷ niệm khá cảm động nói lên sự quan tâm của nhà thơ
Tố Hữu đối với những trí thức miền Nam tham gia cách mạng. Giai đoạn 1971 -
1972, Nguyễn Đắc Xuân được điều động về công tác tại vùng địch hậu ở Nước
Ngọt ( xã Tân Lộc, Phú lộc).
“Mật khu” đóng trong một cái hang, bên cạnh
dòng suối nhỏ. Muốn lên cứ phải băng qua đường quốc lộ, vượt qua dãy núi
Răng Cưa trùng trùng điệp điệp, đi tiếp thêm vài ba ngày mới đến nơi. Mỗi
lần băng qua đường quốc lộ phải lên phương án chẳng khác gì một trận đánh.
Thế mà lãnh đạo cứ đã cử giao liên về tận Nước Ngọt trao cho anh tập thơ
chính tay Tố Hữu gửi tặng. Anh ngỡ ngàng không hiểu vì sao mình lại có được
cái vinh dự ấy.
Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tố Hữu nhờ anh nhắn với
nhạc sĩ Phạm Duy và Trịnh Công Sơn: i> Hãy cứ ở đó chứ đừng đi đâu cả. Với Pham Duy, Tố Hữu khuyên: Tiếp tục sáng tác đi ! Lấy khúc đầu
(kháng chiến chống Pháp) nối với khúc đuôi (sau khi nước nhà thống nhất) để
khúc giữa qua một bên. Đến năm 2000, nhà thơ Tố Hữu thêm một lần
nữa nói với anh về Phạm Duy: Phạm Duy
là một người rất có tài. Còn chuyện thời gian anh ta ở miền Nam có làm việc
này việc nọ thì cũng dễ hiểu thôi, anh ta cũng phải làm để sống và nuôi vợ
con chứ ! Điều đó chứng tỏ Tố Hữu rất cảm thôngvới Phạm Duy.
Tấm lòng của nhà thơ hết sức nhân từ, độ lượng. Anh cũng đang sưu tầm, chuẩn
bị tư liệu để viết về nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà thơ Trần Vàng Sao,
họa sĩ Lê Bá Đãng, đạo diễn điện ảnh Đặng Nhật Minh...
Tiếp
xúc với Nguyễn Đắc Xuân, tôi rất khâm phục tác phong làm việc khoa học, cần
mẫn; tính thẳng thắn, trung thực, cầu thị của anh. Với anh, người cầm bút
chân chính phải là một nhà văn hóa đồng thời là một kẻ sĩ. Anh tâm niệm:
“Còn viết là còn tư duy, còn học hỏi, còn gắn liền với cuộc sống của nhân
dân mình”. Qua hàng nghìn trang sách viết về con người Huế, văn hóa Huế,
lịch sử Huế... Anh xứng đáng được mọi người vinh danh: Nhà Huế học !
Nguồn: http://vanvn.net/News