|
29 tháng 4, 2010 |
Ngày 3/3/2010, một máy bay của Hãng Hàng Không Việt
Nam, VN9985, đã được thuê bao để dùng riêng cho việc chuyên trở hơn 100 vị
Giáo phẩm, cư sĩ, Phật tử sang Ấn Độ làm lễ cung nghinh 9 viên ngọc xá lợi,
3 viên ngọc Xá Lợi Phật và 6 viên ngọc Xá Lợi Thánh Tăng, về Việt Nam. Về
đến phi trường Nội Bài, Ngọc Xá Lợi được nghinh rước về chùa Bái Đính, tỉnh
Ninh Bình để quần chúng có thể chiêm bái. Phương tiện chuyên chở là 3 chiếc
xe hơi đắt tiền, 2 chiếc Lincoln Crystal và 1 chiếc Limousine Hummer.
Khi về đến chùa Bái Đính, đoàn cung nghinh xá lợi từ
Ấn Độ sẽ nhập với gần 10.000 đại biểu, quan khách, phật tử và nhân dân địa
phương tiến hành lễ an vị ngọc xá lợi Phật;đồng thờicùng hàng trăm chư tôn
đức, tăng ni phật tử cử hành các khóa lễ cầu nguyện Quốc thái dân an, Thế
giới hoà bình cùng một số hoạt động văn hoá đặc sắc khác.
Đây là một biến cố trọng đại về phương diện văn hóa
và tâm linh cho Việt Nam, không chỉ riêng cho quần chúng Phật tử.
Tuy nhiên, xung quanh cuộc thỉnh rước ngọc xá lợi
Phật này, cũng có vài dư luận lên tiếng phê bình, cho rằng nghi thức nghinh
rước xá lợi Phật như trên là một sự phí phạm, không cần thiết. Đó là nội
dung những bài viết của họa sĩ Lê Thiết Cương, Phật tử ?? Lê Minh Hiếu, một
độc giả viết cho Đại Đức Thích Thanh Thắng và “chiến sĩ dân chủ Ki-tô”
nguoibuongio. Sau đây chúng ta hãy điểm qua những lý luận phê bình của
những người trên.
Lê Thiết Cương: Một chiếc chuyên
cơ của hãng Hàng không Quốc gia bay trong ngày khứ hồi Việt Nam - Ấn Độ để
chở 3 viên Ngọc xá lợi Phật. Đoàn đi gồm khoảng 100 nhà sư, phật tử, nhiều
nhà báo, có cả nhà sử học. Về đến phi trường Nội Bài, 3 viên xá lợi được chở
tới Bái Đính (chùa Bái Đính mới, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) bằng 3
chiếc xe đời mới đắt tiền (2 chiếc Lincoln Crystal và 1 chiếc Limousine
Hummer).
- Đức Phật dạy: Khiếm khuyết lớn nhất của đời người
là thiếu [kém??] hiểu biết -
Đọc cái đoạn này, những người bình thường thì cho
rằng đây là một sự kiện văn hóa, những Phật tử thì cho rằng duyên. Những
người biết thì bảo, cái sự kiện rước xá lợi Phật đắt đỏ, lãng phí, tốn kém
nêu trên nếu soi bằng giáo lý nhà Phật thì không đúng, không sai nhưng nó là
biểu hiện của vô minh. Thiện ác còn chả có nữa là sai đúng. Nhưng vô minh.
Lê Minh Hiếu: Hai, với phương tiện di
chuyển ngày nay và với khoảng cách từ Ấn Độ về Việt Nam thì ai cũng biết
dùng máy bay là thuận tiện nhất. Nhưng người ta vẫn có thể rước Phật xá lợi
về Việt Nam bằng những con đường khác chứ đâu “chỉ có thể rước bằng một
chuyến máy bay trang trọng”. Mà cái trang trọng và linh thiêng nhất là hướng
tâm trí trong sáng của mình tới những điều kỳ diệu chứ đâu bằng việc dùng
một phương tiện vật chất.
Việc rước Phật xá lợi về Việt Nam có thể bằng nhiều
cách. Nhưng với điều kiện hiện nay thì chúng ta rước bằng máy bay là hợp lý.
Còn nếu dùng một chuyên cơ riêng thì có cần thiết đến như thế không? Với số
tiền còn lại, các nhà tu hành sẽ dùng vào những việc kỳ diệu không kém mà
tôi sẽ xin thưa ở một phần sau....
Tất nhiên, số tiền gần 2 tỷ đồng kia là của một Phật
tử thực tâm chứ không phải tiền thuế của nhân dân. Và số tiền đó đã thuộc
quyền sở hữu của những người tu hành như Đại đức – những đệ tử của Đức Phật.
Mà con đường của Đức Phật là con đường cứu khổ, cứu nạn. Giá như một nhà sư,
một thượng tọa vv…nào đó nói với Phật tử thành tâm kia: “Chúng ta cám ơn
lòng thành tâm kính Phật của con. Nhưng chúng ta muốn chỉ xử dụng một phần
số tiền đó để rước Phật xá lợi về. Phần còn lại chúng ta giúp đỡ những đứa
trẻ bất hạnh trên thế gian như sự dạy bảo và lòng mong ước của Đức Phật”.
Một Người phê bình Đại Đức Thích Thanh Thắng:
…. Sau đó đọc được bài của Lê Thiết Cương, và giờ có phản biện của một vị
cao tăng Phật giáo về chuyện rước xá-lợi Phật.
Theo tôi, vấn đề (Lê Thiết Cương và có cả tôi)
đặt ra là việc chi phí cho cuộc rước xá lợi Phật có tốn kém xa xỉ một cách
không cần thiết hay không?...
Xác minh của Đ.Đ Thích Thanh Thắng là chi phí này
khoảng 100 nghìn đô la. Đây là một con số lớn, con số xa xỉ so với người dân
Việt Nam, không nhất thiết phải truy tìm nguồn gốc số tiền đó ở đâu ra. Chấm
hết...
Tóm lại, Đ.Đ Thích Thanh Thắng chưa trả lời cho
vấn đề nêu ra, là chuyện này có phải tốn kém một cách không cần thiết như
thế hay không.
Chúng ta nhận thấy điểm chung của mấy người trên là:
“Tiêu tốn 100000 đô la để thuê bao máy bay, nghinh rước ngọc xá lợi Phật từ
phi trường Nội Bài về Chùa Bái Đính bằng 3 xe hơi loại đắt tiền là một sự
phô trương phí phạm không cần thiết, không đúng với tinh thần an bần khiêm
tốn của Phật Giáo, để tiền làm việc thiện có phải là tốt hơn không.”
Nhận xét đầu tiên của tôi là tại sao Đại Đức Thích
Thanh Thắng phải bận tâm để trả lời một câu hỏi không đáng để trả lời. Phần
trình bày sau đây sẽ chứng tỏ là câu hỏi trên chỉ là một ý kiến cá nhân của
một người mà trình độ hiểu biết là một dấu hỏi lớn.
Đặc biệt là ông Lê Thiết Cương còn viện dẫn một
lời dạy của Đức Phật: “Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là thiếu [kém??]
hiểu biết”, ngụ ý việc nghinh rước xá lợi Phật một cách hoành tráng như vậy
là do sự “thiếu hiểu biết” của các sư tăng, và nặng hơn nữa không chỉ là
thiếu hiểu biết mà còn là “vô minh”.
Tuy nhiên, khi đọc kỹ ba bài của 3 tác giả tên,
tất nhiên trong đó có bài của ông Lê Thiết Cương, tôi có thể khẳng định là
cả ba đều là những người “không hiểu biết” chứ không chỉ là “thiếu hiểu
biết.” Thiếu hiểu biết về một vấn đề nào đó là sự hiểu biết còn thiếu sót,
không đầy đủ, còn “Không hiểu biết” là chẳng hiểu biết gì cả. Đây là trường
hợp Ma Quân giảng Phật Pháp nhưng đó chính lại là Ma Pháp chứ chẳng phải là
Phật Pháp.
Với nội dung nhằm mục đích chống đối phê phán một
chiều, dựa trên sự “không hiểu biết” của mình, các tác giả trên đã đưa ra
những lý luận rất ấu trĩ để bài bác nghi thức nghinh rước xá lợi Phật về
Việt Nam là phí phạm, không cần thiết. Các tác giả trên đã không đủ khả
năng để nhận thức được những ảnh hưởng to lớn cho đất nước Việt Nam trên
bình diện quốc tế, những ảnh hưởng vô giá về văn hóa và tâm linh không thể
mua bằng bất cứ giá nào. Các tác giả trên đã đặt vấn đề phí phạm một cách
hết sức sai lạc, chứng tỏ mục đích của các tác giả là mượn cơ hội để phê
bình tiêu cực về Phật Giáo Việt Nam. Nhưng họ đã lầm vì trình độ quá kém
cỏi của họ, cho nên không lạ gì, chúng ta thấy có nhiều phản ứng phê bình
trình độ hiểu biết và mục đích bất lương trí thức của họ.
Sau đây chúng ta hãy đi vào phần phân tích vụ việc
nghinh rước xá lợi Phật về Việt Nam từ đầu.
Những viên ngọc xá lợi Phật được nghinh rước về Việt
Nam là do Chủ tịch Hội Phật Giáo Thế Giới tại Ấn Độ trao tặng Phó Chủ tịch
Nước Nguyễn Thị Doan nhân chuyến viếng thăm chính thức nước Cộng hòa Ấn Độ
vào cuối tháng 9/2009. Phó Chủ Tịch Nước đã giao cho Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam nhiệm vụ tổ chức lễ tiếp nhận và cung nghinh xá lợi về tôn thờ tại
Bảo tháp chùa Bái Đính, Ninh Bình.
Đây là sự kiện có ý nghĩa tâm linh đặc biệt đối với
Tăng Ni, Phật tử trong cả nước. Vì xá lợi Phật là một Phật bảo linh thiêng,
có công năng diệu dụng trong quá trình tu tập của đạo Phật. Đây cũng là một
biến cố trọng đại cho đất nước vì không phải nước nào cũng được trao tặng xá
lợi Phật. Việc trao tặng này chứng tỏ là thế giới đã coi Việt Nam như là
một nước Phật Giáo. Theo Giáo sư Nguyễn Trọng Đàn thì hiện nay có 45 triệu
Phật tử đã quy y Tam Bảo. Nhưng con số Phật tử có thể cao hơn nhiều, vì có
rất nhiều người theo đạo Phật nhưng không hề hay chưa hề quy y. Quy y Tam
Bảo là một nghi thức tự nguyện, không bắt buộc trong Phật Giáo. Phật Giáo
quan niệm bất cứ người nào sống theo những lời Phật dạy đương nhiên là Phật
tử rồi. Do đó, theo ước tính thì số Phật tử đã chính thức quy y Tam Bảo
cộng với số người không ít thì nhiều sống với ảnh hưởng của Phật Giáo có thể
từ 80% đến 90% dân số.
Việt Nam có thể coi là một nước Phật Giáo, điều này
không có gì là lạ. Đây không phải là một sự kỳ thị tôn giáo hay có ý muốn
gạt các tôn giáo thiểu số ra ngoài lề xã hội mà là một thực tế xã hội. Thật
vậy, có vài sự kiện chứng tỏ Việt Nam là một nước Phật Giáo: Đại Lễ Tam Hợp,
được Liên Hiệp Quốc chính thức công nhận, đã được tổ chức tại Việt Nam năm
2008; Hội Nghị Nữ giới Phật giáo Thế giới lần thứ 11, năm 2009-2010, được
tổ chức tại chùa Phổ Quang TP.HCM; Cuộc hành trình của Phật Ngọc Hoà Bình
Thế Giới khắp ba miền đất nước; và Hội nghị Phật giáo thế giới 2010 cũng sẽ
diễn ra tại Việt Nam vào khoảng cuối tháng 8 năm 2010. Và nay Việt Nam được
vinh hạnh nghinh rước xá lợi Phật. Xá Lợi Phật là một biểu tượng thiêng
liêng đối với những người theo đạo Phật. Đó là di tích của Đức Phật, một
bậc vô thượng, vô đẳng đẳng, đại vĩ nhân của nhân loại mà thế giới ngày nay
đều công nhận. Xá Lợi Phật về Việt Nam có tác dụng nhắc nhở, không phải là
bắt buộc, cho người dân Việt Nam nhớ đến con đường giải thoát của Đức Phật,
con đường lấy con người làm căn bản, lấy con người làm chủ chính mình, con
người đúng nghĩa là một con người, không sợ sệt nương tựa thần linh, thần
quyền, con người chỉ có thể đạt được sự giải thoát do sự tu tập của chính
bản thân. Xá Lợi Phật cũng còn nhắc cho con dân Việt Nam về chủ trương hòa
bình và đức từ bi của Phật Giáo. Tất cả những điều trên đều dính liền tới
nền văn hóa và lãnh vực tâm linh của người Việt Nam, cho nên chúng không thể
so đo tính toán bằng đồng đô-la được. Những người chống đối có hiểu được
điều này không?
Chúng ta biết rằng nước Mỹ có khoảng gần 80% theo Ki
Tô Giáo, trong đó có khoảng 23% theo đạo Chúa Rô-ma và mấy trăm hệ phái theo
đạo Chúa Tin Lành chiếm hơn 50%. Nhưng Mỹ vẫn được coi như là một nước Ki
Tô Giáo với những motto “In God We Trust” trên tờ giấy bạc, và các chính
khách, kể cả Tổng Thống, luôn luôn nói “God Bless America” mà không có vấn
đề. Vậy khẳng định Việt Nam là một nước Phật Giáo cũng chỉ là một thực tế
xã hội.
Bây giờ chúng ta hãy sang đến chuyện phí phạm,
không cần thiết.
Trước hết là chuyện thuê bao cả một chuyến máy bay.
Phật tử Lê Minh Hiếu viết: với phương tiện di chuyển ngày nay và với
khoảng cách từ Ấn Độ về Việt Nam thì ai cũng biết dùng máy bay là thuận tiện
nhất. Nhưng người ta vẫn có thể rước Phật xá lợi về Việt Nam bằng những con
đường khác chứ đâu “chỉ có thể rước bằng một chuyến máy bay trang trọng”...
Việc rước Phật xá lợi về Việt Nam có thể bằng nhiều cách. Nhưng với điều
kiện hiện nay thì chúng ta rước bằng máy bay là hợp lý. Còn nếu dùng một
chuyên cơ riêng thì có cần thiết đến như thế không? Với số tiền còn lại, các
nhà tu hành sẽ dùng vào những việc kỳ diệu không kém...
Xin hỏi Phật tử (??) Lê Minh Hiếu những con đường
khác để rước xá lợi Phật về Việt Nam là những con đường nào? Máy bay
thuê của hãng Hàng Không Việt Nam thì cái nào trang trọng và cái nào không
trang trọng. Trang trọng là trong nghi thức đón rước chứ không phải là máy
bay. Nếu bắt buộc phải dùng máy bay thì con đường khác là dùng máy bay dân
sự đi chung với hành khách thường. Có ai nghĩ đến chuyện mua một lúc trên
một trăm vé cho trên một trăm bậc trong hàng Giáo Phẩm, cư sĩ, Phật tử trong
một chuyến máy bay thường lệ, cộng với những thủ tục nhập cảnh, xuất cảnh áp
dụng cho mọi người. Hơn nữa có một máy bay dân sự nào khởi hành theo giờ mà
Giáo hội muốn và nằm chờ ở Ấn Độ để bay về cùng ngày. Ngoài ra, việc nghinh
rước xá lợi Phật là một việc riêng của Phật Giáo, cho nên, thuê bao một
chuyến máy bay dùng riêng cho việc nghinh rước xá lợi Phật về Việt Nam, xét
đến mọi khía cạnh, là một chuyện rất hợp lý và không thể nói là phí phạm
không cần thiết. 100000 đô-la chứ nếu tốn kém hơn nữa, việc phải làm vẫn
phải làm. Hơn nữa, số tiền 100000 đô-la là do một doanh nhân Phật tử cúng
dường cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam để dùng vào việc nghinh rước này. Cho
nên một người nào đó viết: “Xác minh của Đ.Đ Thích Thanh Thắng là chi phí
này khoảng 100 nghìn đô la. Đây là một con số lớn, con số xa xỉ so với người
dân Việt Nam, không nhất thiết phải truy tìm nguồn gốc số tiền đó ở đâu ra.
Chấm hết.” là viết bậy, là không hiểu gì về vụ việc.
Này nhé, nguồn gốc số tiền đó là của một doanh nhân
Phật tử cúng dường [có thể cũng còn có sự đóng góp của các Phật tử khác].
Cúng dường để làm gì? Để dùng trong việc nghinh rước xá lợi Phật về Việt
Nam. Có phải không? Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam không thể dùng số tiền đó
vào việc khác, kể cả những việc công ích như từ thiện. PGVN chỉ có thể dùng
số tiền đó theo tâm nguyện của Phật tử cúng dường. Phật tử trên cúng dường
với mục đích rõ ràng cho việc đạo, không thể dùng số tịnh tài đó cho việc
đời. Phật Giáo là đạo của Trí Tuệ nên PGVN không có quyền sử dụng số tiền
đó cho việc khác, vì đó không phải là số tiền cúng dường để cho GHPGVN muốn
làm gì thì làm. Cho nên, việc dùng dố tiền cúng dường của Phật tử cho việc
nghinh rước xá lợi Phật về Việt Nam, bất cứ theo nghi thức nào cũng đều là
nghiêm chỉnh, đúng cách. Không giống như trong Đạo Chúa Rô-ma, tiền đóng
góp của Giáo dân, thường được dạy là “để cho đức thánh cha của chúng ta và
giáo hội là việc thiện” [For our holy father and the church to do charity]
nhưng giáo hội đã dùng đến 3 tỷ đô la để bồi thường cho những nạn nhân tình
dục của các “Chúa thứ hai” can tội loạn dâm và ấu dâm. Vậy nếu mấy tác giả
trên muốn đặt vấn đề phí phạm không cần thiết thì phải đặt với Phật tử đã
cúng dường chứ không thể đặt với GHPGVN. Có một điều sơ đẳng như vậy mà mấy
người cũng còn chẳng biết, nói chi đến chuyện hiểu biết Phật Giáo mà trích
dẫn Kinh điển giảng láo giảng lếu.
Vậy rõ ràng là các tác giả trên đã cố tình mượn cớ
để phê bình GHPGVN, một sự phê bình quá ấu trĩ và không đúng chỗ, chứ không
phải là vì đạo tâm của các tác giả. Cho nên tất cả những lý luận bài bác
việc phí phạm không cần thiết trong vụ việc nghinh rước xá lợi Phật của các
tác giả trên đều trở thành vô giá trị vị các tác giả đã không đủ khả năng
nhận thức đúng về một vấn đề đơn giản.
Vì có cả sự tham gia của “chiến sĩ dân chủ Ki Tô”
nên tôi cũng xin bàn qua về chuyện thế nào mới thực sự là sự phí phạm không
cần thiết.
Nói về chuyện phí phạm không cần thiết thì các
“chiến sĩ dân chủ Ki-Tô” cần biết là sau khi bị ám sát gần chết nếu không có
một toán bác sĩ ở ngoài Giáo hội giải phẫu trong 5,6 tiếng đồng hồ để cứu
sống, thì GH John Paul II được hãng Mercedes chế tạo cho một cái “nhà tù
lộng kiếng” (Glass Prison = Popemobile) để cho ông Giáo hoàng, nhân danh là
“đại diện của Chúa” nhưng sợ chết, ngồi trong đó đi khắp nơi dạy con chiên
“đừng sợ”. Phí tổn tạo chiếc xe bọc sắt đó là 511000 đô-la. Người ta đã đặt
câu hỏi : “Tại sao ông ta cần đến phương tiện an ninh tốn kém, phí phạm,
không cần thiết như vậy? Phải chăng ông ta nên đặt đức tin vào Gót và bỏ đi
sự bảo vệ? Tôi nghĩ rằng Tình Yêu và sự bảo vệ của Thiên Chúa cũng đủ rồi.
Hơn nữa, nếu Gót muốn Giáo hoàng chết thì có phải tất cả những biện pháp an
ninh đều vô dụng không? Hiển nhiên là về vấn đề an ninh, Giáo hoàng là một
người vô thần và tin cậy vào những thứ thực sự có thể bảo vệ ông ta”.
[Why does the pope need security anyway? Should he
not put his faith in god and forgo the protection? I would think god's love
and protection would be sufficient. Furthermore if god wants the pope dead
would not the security detail be worthless? Apparently when it comes to
security the pope is an atheist and relies on real things to protect him.]
Cuộc thăm viếng Malta của Giáo hoàng Benedict XVI
trong mấy ngày vừa qua tốn khoảng 750000 Euro. Giáo hội dùng tiền của Giáo
dân bỏ ra 500000 Euro, còn chính quyền địa phương phải nai lưng ra trả
250000 Euro, tiền của dân.
Vào tháng 9 tới đây, Giáo hoàng có chương trình thăm
viếng Anh Quốc. Phí tổn cho cuộc thăm viếng này được ước tính vào khoảng 20
triệu Euro, tiền của giáo dân và dân Anh. Hội đồng Giám Mục Anh và Walis,
Scotland đài thọ khoảng 15 triệu Bảng Anh (tiền của Giáo dân), còn bao nhiêu
Cảnh sát địa phương phải dùng quỹ của Cảnh sát để đài thọ (cũng tiền của
dân). Vì vậy, hiện nay đã có hơn 10000 chữ ký trong bản kiến nghị gửi lên
chính quyền Anh chống cuộc thăm viếng của Benedict XVI. Không những thế,
hai nhà vô thần nổi tiếng là Richard Dawkins và Christopher Hitchens còn
đang nhờ luật sư tìm hiểu khía cạnh pháp lý để có thể bắt giam ông Giáo
hoàng này khi ông ta đến Anh vì tội bao che các “Chúa thứ hai” can tội loạn
dâm và ấu dâm.
Mục đích của Giáo hoàng đi các nơi chẳng phải là có
sứ mệnh ngoại giao, vì Vatican thì có gì để mà ngoại giao với các nước
khác? Chính trị, kinh tế đều không, mà chủ đích chỉ là hi vọng giữ các con
chiên trong vòng mê tín và tuân phục Vatican, hoặc khuyến khích sự cuồng tín
của con chiên. . Một mục đích hoàn toàn tôn giáo, duy trì chính sách “ngu
dân dễ trị”, nhưng gây sự tốn kém không ít cho các giáo hội địa phương và
chính quyền địa phương. Nhà Nước Việt Nam chắc cũng đã biết rõ điều này cho
nên trước đây đã không cho phép Giáo hoàng John Paul II đến Việt Nam. Và
đối với Giáo hoàng đương nhiệm, Benedict XVI, một con người vô đạo đức mà
cả thế giới đã lên tiếng khinh khi dè bỉu, tôi nghĩ Nhà Nước Việt Nam cũng
không có lý do gì hoặc lợi ích gì về kinh tế, ngoại giao, để cho ông ta đặt
chân lên đất nước Việt Nam. Không có lý do gì để nhà nước phải tốn kém
trong việc đón tiếp, bảo vệ an ninh cho một con người chỉ có giá trị đối với
đám con chiên của ông ta ở dưới.
Tôi có đọc bài “Hủy phá Tăng bảo: thủ đoạn cũ của
chủ nghĩa Ngô Đình Diệm mới” của Minh Thạnh, và bài “Âm Mưu Ngăn Chận
Ảnh Hưởng Của Phật Giáo” của Nguyễn Trí Cảm . Tôi thực tình nghĩ
rằng, hai tác giả trên đã quá đề cao một thiểu số vô danh vô tên tuổi. Làm
sao họ có thể “hủy phá Tăng bảo” được. Làm sao họ có thể ngăn chận được ảnh
hưởng của Phật Giáo. Những người có ý nghĩ và dự định ngu xuẩn như trên chỉ
là làm việc “xe cát Biển Đông” vì họ không chịu tìm hiểu thế giới ngày nay
trên thực tế đã là thế giới hậu Ki-Tô, và Phật Giáo là tôn giáo đang càng
ngày càng lớn mạnh trên thế giới, lớn mạnh về phương diện tâm linh trí tuệ
với chủ trương hòa bình, từ bi, chứ không phải lớn mạnh vì có nhiều tín đồ
cuồng tín, mê mẩn vì một cái bánh vẽ trên trời, cam tâm cúi đầu tuân phục
những “bề trên” vô đạo đức.
Thật vậy, nếu họ chịu khó theo dõi tin tức thời sự
thế giới thì họ phải biết rằng:
Ki Tô Giáo đang suy thoái, con người Ki Tô trên
khắp thế giới đang dần dần từ bỏ niềm tin vào một Thượng đế không tưởng cũng
như vai trò cứu thế của Giê-su. Giáo hoàng đương nhiệm
Benedict XVI đã nhiều lần thú nhận về sự suy thoái không cơ cứu vãn của đạo
Chúa Rô-ma (Roman Catholicism) và đạo Chúa Tin Lành ở Tây phương. Theo
những tin tức trên báo chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức
của Vatican, tờ L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7,
2005, thì giáo hoàng Benedict 16 đã lên tiếng phàn nàn như sau:
“Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương [Ki Tô Giáo]
có vẻ đang chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không
còn cần đến Thiên Chúa nữa.
Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan và rầu rĩ hơn GH tiền nhiệm là
John Paul II, người đã than phiền về sự suy thoái của đức tin trong các quốc
gia phát triển và nói rằng điều này giải thích sự vật lộn của Giáo Hội đạo
Chúa Rô-ma đối với vấn đề số người đi nhà thờ giảm rất nhiều trong những
năm gần đây.”
(ROME (Reuters, July 27, 2005) - Mainstream churches in the West
appear to be dying as societies that are increasingly secular see less need
for God, Pope Benedict said in comments published on Wednesday.
His outlook was even glummer than that of his predecessor John Paul,
who lamented the decline of faith in the developed world and said it
explained the Catholic Church's struggle with falling attendance in the West
in recent years.)
Cũng theo tin hãng Reuters ở Rome thì Giáo hoàng Benedict 16 đã
phải đau lòng mà chấp nhận một sự thực:
“Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một
thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới ở thời điểm mà
không có bằng chứng nào là con người còn cần đến Thiên Chúa nữa, và còn cần
ít hơn đến Chúa Ki Tô. Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra như đang
chết dần.”
Theo một phúc trình mới đây của Vatican thì trong một số nước phát
triển, Giáo dân đi dự lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn khoảng 5%. Ngài nói
thêm: Tuy nhiên không phải chỉ có đạo Chúa Rô-ma bị như vậy mà Giáo Hội Tin
Lành cũng bị ảnh hưởng nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này. Không
thấy có giải pháp nào mau chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội
chúng ta cả.
(It is different in the Western world, a world which is tired of its
own culture, a world which is at the point where there’s no longer evidence
for a need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in the
Italian Alps.
"The so-called traditional churches look like they are dying," he
said, according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.
Participation at Sunday Mass in some developed countries was as low as
5 percent, a recent Vatican report said.
"The Catholic Church is not doing as badly as the big Protestant
Churches but naturally it shares the problem of this moment in historỵ"
"There’s no system for a rapid change.”)
Giáo hoàng khuyên tín đồ đạo Chúa Rô-ma, nhắm vào khối tín đồ đạo
Chúa Rô-ma lạc hậu ở Phi Châu, Nam Mỹ, Phi Luật Tân, và Việt Nam, hãy kiên
trì giữ vững đức tin, tiếp tục tiến bước trong đường hầm [keep walking in
the tunnel], có thể ánh sáng le lói của Chúa Ki-Tô sẽ xuất hiện ở cuối đường
hầm [Christ light would appear at the end]
Gần đây nhất, ngày 9 tháng 4, 2007, Giáo hoàng Benedict 16 lại
cảnh báo là “Âu Châu có vẻ như sẽ mất đức tin trong tương lai, và
gọi những người Âu Châu chỉ muốn có ít con là theo “chủ nghĩa cá nhân nguy
hiểm” [trong khi cả thế giới đang lo nạn nhân mãn và cổ súy hạn chế sinh
đẻ] Giáo hoàng nói: “Bất hạnh thay, chúng ta phải ghi
nhận là Âu Châu có vẻ như đang tuột xuống một con đường có thể đưa
Âu Châu đến sự giã từ lịch sử” [Ki Tô Giáo vẫn cho rằng lịch
sử Âu Châu là lịch sử Ki Tô Giáo]
(Time, April 9, 2007: “One must unfortunately note that Europe
seems to be going down a road which could lead it to take its leave from
history” Pope Benedict XVI, warning that Europe appears to be losing faith
in its future, calling some Europeans’ desire to have fewer children
“dangerous individualism”.)
Ngoài ra, trong một hội nghị đặc biệt vào năm
1999, các giám mục Âu châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu
Châu đã quyết định sống “như là Thiên chúa không hề hiện hữu”.
(At a special synod in 1999, the bishops of Europe
declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as
though God did not exist”.)
Trong khi đó thì Phật Giáo lại phát triển mạnh trên thế giới tuy rằng
Phật Giáo không bao giờ có chủ trương xâm lăng văn hóa, hay xâm lăng tôn
giáo, hay kiếm tín đồ bằng tất cả những thủ đoạn bất chính như đạo Chúa
Rô-ma.
Thật vậy, ngay từ năm 1969, John H. Garabedian &
Orde Coombs đã xuất bản cuốn Những Tôn Giáo Đông Phương Trong Thời Đại
Điện Tử (Eastern Religions In The Electric Age), hình bìa ngoài là hàng
chữ lớn viết lên tường: Chúa Ki-Tô Đã Chết - Phật Đang Sống (Christ
Is Dead - Buddha Lives), nội dung nói về cuộc nổi giậy đạo đức ở Mỹ (moral
revolt in America), phân tích tại sao hàng triệu giới trẻ đang vứt bỏ những
truyền thống của họ và tìm kiếm những giải đáp mới trong những tư tưởng và
tôn giáo Đông phương (Why millions of young people are rejecting their own
traditions and seeking new answers in the ideas and religions of the East)
Năm 1994, Stephen Batchelor xuất bản cuốn Sự Thức
Tỉnh Của Tây Phương (The Awakening of the West), nội dung viết về lịch
sử tiếp xúc của Phật Giáo với Tây phương. Cuốn sách được giới thiệu như
sau:
"Cuốn "Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương" là một
cuốn viết rất hay về lịch sử tiếp xúc của Phật Giáo với Tây phương trong
2000 năm qua - một cuốn sử biên về những cơ hội bỏ lỡ, sự kiêu căng văn hóa,
thảm kịch chính trị, và những giấc mộng không thành. Từ thời đại đế
Alexandre, các vua chúa và giáo hoàng Tây phương đã mong mỏi kiếm được quyền
lực bằng cách chinh phục Á Châu. Qua nhiều thời kỳ họ đã phái từng đợt sứ
giả và các nhà truyền giáo tới Á Châu để tiếp xúc với những người "ngoại
đạo", nhưng tâm thức hẹp hòi của người Tây phương đã làm cho những người này
chẳng biết được bao nhiêu về Phật Giáo.
Ngày nay Phật Giáo được coi như là một tôn
giáo phát triển nhanh nhất và là một trong những phong trào tinh thần có ảnh
hưởng nhiều nhất ở Tây phương."
(The "Awakening of the West" is a beautifully
written history of the Encounter of Buddhism with the West during the past
2000 years - a chronicle of missed opportunities, cultural arrogance,
political tragedy, and unfulfilled dreamd. Since the time of Alexander the
Great, European kings and popes longed for the power to be gained through
the conquest of Asia. They sent periodic streams of envoys and missionaries
to establish contact with the "infidels," but the European's
narrow-mindedness prevented them from learning much at all about Buddhism.
Buddhism is said to be the fastest growing
religion and one of the most influential spiritual movements in the West.)
Tại sao Phật Giáo lại có thể phát triển ở Tây
phương, một thế giới vẫn được coi, hay tự nhận, là văn minh tiến bộ nhất, và
tôn giáo Tây phương, Ki Tô Giáo, vẫn được coi, hay tự nhận, là tôn giáo mạc
khải, tôn giáo duy nhất có giá trị trên thế gian. Điều này không có gì là
lạ. Vì một khi người dân Tây phương nhận thức được rằng, tôn giáo Tây
phương, điển hình là Ki Tô Giáo, chẳng qua chỉ là một mớ những điều hoang
đường mê tín không còn phù hợp với sự tiến bộ trí thức của con người thời
đại ngày nay, thì tất nhiên người Tây phương phải đi tìm một giá trị tâm
linh thực sự ở nơi khác. Nơi khác này không ở đâu ngoài Phật Giáo.
Sau đây là một thí dụ điển hình về sự
thức tỉnh của con người Tây phương: sự xuất bản cuốn Tinh Túy Của Phật
Giáo: Một Khai Tâm Thực Hành Tứ Diệu Đế Của Tôn Giáo Thích Hợp Nhất Cho Thế
Giới Ngày Nay (The Essence of Buddhism: A Practical Introduction To The
Four Noble Truths Of The Religion Most Suited To Today’s World), tác giả là
John Walters. Cuốn sách nhỏ này, vào khoảng 150 trang, rất đặc biệt, vì đó
là tác phẩm của một người trưởng thành trong truyền thống Ki Tô, bị nhồi
sọ Phật Giáo là một tôn giáo yếm thế, vô vọng, một dạng sơ khai của chủ
thuyết hiện sinh [Buddhism as a defeatist philosophy of pessimism and
hopelessness, a primitive form of Existentialism] v..v.., và tin rằng Ki
Tô Giáo là tôn giáo duy nhất có ích cho nhân loại [in the bellief that
Christianity was the only religion that had anything useful to offer to
mankind]. Nhưng sau một chuyến du hành Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, ông
ta đã thấy tận mắt thực chất của Phật Giáo, hoàn toàn không như những điều
ông đã được nhồi vào đầu từ khi còn nhỏ. Ông bèn suy nghĩ lại, tìm hiểu
lịch sử và so sánh Ki Tô Giáo với Phật Giáo. Ông nghĩ tới “những sai
lầm và tội ác của những Giáo hội Ki Tô và những giới chức lãnh đạo trong quá
khứ” (the blunders and crimes of the churches and their
leaders in past ages), những lễ tiết (rituals) trong Ki Tô Giáo mà
ông cho là có tính cách “mê tín tàn bạo” (sadistic superstition)
và so sánh với “một trong những sự vinh quang nhất của Phật Giáo là tinh
thần khoan nhượng” (one of the greatest glories of Buddhism is its
tolerance).
Chân giá trị của Phật Giáo đã làm cho John Walters
thức tỉnh, thức tỉnh khỏi những điều sai sự thực, mê muội mà tôn giáo truyền
thống của ông đã đầu độc đầu óc ông từ khi ông còn nhỏ. Và đây là sự thức
tỉnh về tư duy, một khả năng quý báu nhất của con người.
Nhưng không phải là những Giáo hội Ki Tô và những
giới chức lãnh đạo Ki-tô chỉ có những sai lầm và tội ác trong quá khứ, mà
ngày nay, trong thế kỷ 21, vụ xì-căng-đan bao che các linh mục loạn dâm và
ấu dâm của từ giáo hoàng xuống tới các hồng y, giám mục đang nổ ra như bom
trên khắp thế giới.
Tin trên tờ Wall Street Journal ngày thứ Bảy 24
tháng 4, 2010, trang A6, bài “Third Bishop Resigns Over Abuse” cho giám mục
Roger Joseph Vangheluwe ở Bruges, Bỉ, là giám mục thứ ba trong vòng ba ngày,
xin từ chức, thú nhận là đã cưỡng bách loạn dâm với một trẻ em 25 năm trước
và đã được giáo hoàng Benedict XVI chấp thuận.
Chúng ta phải hiểu rằng giáo hoàng cho ông giám mục
trên từ chức không có nghĩa là ông giám mục đó bị lột áo chùng thâm của giám
mục, mà chỉ là biện pháp để đưa ông ta đến một nơi khác, cũng như Hồng Y
Bernard Law ở Boston khi xưa, xin từ chức ở Boston được chấp thuận và đưa về
Vatican làm một chức vụ lớn, lương cao, và được phái đến Việt Nam để con
chiên Việt Nam hân hoan đón tiếp trong “năm thánh”(sic).
Với những sự kiện như trên, tôi nghĩ rằng từ nay
giáo hội đạo Chúa Rô-ma không còn mặt mũi nào còn có thể tự xưng là một giáo
hội “thánh thiện, duy nhất, tông truyền” được nữa.
Vậy bằng cách nào mà các tín đồ Ki-tô có thể “hủy
phá Tăng bảo” hay “ngăn chận ảnh hưởng của Phật Giáo ở trong nước cũng như
trên thế giới. Càng âm mưu, càng dùng thủ đoạn xuyên tạc, họ càng để lộ sự
yếu kém về trình độ hiểu biết của họ., tinh thần nô lệ mù quáng của họ, và
nhất là, họ đã tự mình xa lánh dân tộc, tổ quốc.
Các bài cùng đề tài:
- Âm Mưu Ngăn Chận Ảnh Hưởng của Phật Giáo
- Tản Mạn Xung Quanh Cuộc Nghinh Rước Xá Lợi Phật (Trần Chung Ngọc)