|
24 tháng 3, 2010 |
Phần I
Công Giáo Tây Phương Đã Tỉnh
1 2 3
4
Khi mà những nhà thần
học Công giáo như Uta Ranke-Heinemann, Tin Lành như Mục sư Ernie Bringas,
Giám Mục John Shelby Spong và nhiều bậc lãnh đạo khác trong Ki Tô Giáo đã
nhận thức được rằng, những tín lý mà nền thần học Ki Tô Giáo tạo ra về
Giê-su chỉ là những huyền thoại để cho trẻ con tin, hoặc cho những người lớn
có đầu óc ở trình độ của trẻ con, thì tất nhiên Ki Tô Giáo phải suy thoái.
Thật vậy, chính Giáo hoàng và hàng giáo phẩm Công giáo cũng không còn tin
vào những huyền thoại như trên nữa. Sau đây là vài sự kiện chứng minh.
Từ năm 1981, tòa thánh Vatican đã
mời một số chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc
hội thảo, các chuyên gia được giáo hoàng John Paul II tiếp kiến. Ông ta nói
với các khoa học gia là “cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ
sau sự nổ lớn (big bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là
lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Thượng đế.” (Stephen Hawking, A
Brief History of Time, p. 116)
[5]:.
Chúng ta nên để ý, căn bản thuyết Big Bang đã được công nhận là đúng dù năm
1981, thuyết Big Bang chưa được hoàn chỉnh cho đến khi dò ra được bức xạ nền
[background radiation] trong vũ trụ vào năm 1992, và rồi những vân trong bức
xạ nền v..v…nhưng Giáo hoàng cũng đã phải công nhận vũ trụ này sinh ra từ
một Big Bang. Big Bang là hiện tượng nổ bùng của một dị điểm (singularity)
vô cùng đặc, vô cùng nóng, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và đã xảy ra cách
đây khoảng 13.7 tỷ năm chứ không phải là chỉ có từ 6000-10000 năm do sự
“sáng tạo” (sic) của Thượng đế Ki-tô giáo như được viết trong Kinh Thánh,
được coi như những lời không thể sai lầm của Thượng đế.
Rồi đến năm 1996, giáo hoàng John
Paul II đã thú nhận trước thế giới là “thân xác con người có thể không
phải là một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá
trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến
việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”.
[6]
Chấp nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết tiến hóa về nguồn gốc
con người, chấp nhận con người không phải là do Thượng đế tạo ra tức thời mà
chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, giáo hoàng
đã phá tan thuyết sáng tạo của Thượng đế, cùng huyền thoại về Adam và Eve là
tổ tông loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm
gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc
tội” và “cứu rỗi” của
Giê-su chỉ là những luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo
khi xưa, được tiếp tục đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của
một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực.
Tháng
7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và
trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo
Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố: "thiên đường không phải là một nơi trừu
tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven
is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa
ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là
trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong
đời này” (Hell
is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting
from attitudes and actions which people adopt in this life).
Như vậy là Giáo Hoàng đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của giáo hội
Công giáo: “người nào tin Chúa thì sẽ được Chúa cho lên thiên đường sống
cuộc sống đời đời bên ngài, kẻ nào không tin sẽ bị Chúa phán xét đày vĩnh
viễn xuống hỏa ngục ở trong lòng đất”.
Thiên đường, cái bánh vẽ trên trời mà Giáo
hội thường dùng để khuyến dụ những người nhẹ dạ cả tin, và một hỏa ngục để
hù dọa những người yếu bóng vía, sau cùng đã không còn tác dụng gì đối với
nhân loại trong thời đại văn minh tiến bộ ngày nay.
Chúng ta thấy, từ những
công cuộc nghiên cứu mới nhất về Thánh Kinh, về nhân vật Giê-su, về Ki Tô
Giáo nói chung, giới thức giả Tây phương đã thức tỉnh và nhận ra rằng, từ
thế hệ này qua thế hệ khác, trải qua 2000 năm lịch sử, từ khi Giê-su sinh ra
đời, con người Tây phương đã bị giam chặt trong một đức tin thuộc loại mù
quáng, không cần biết, không cần hiểu. Hơn nữa, trước những cảnh chiến
tranh triền miên, thiên tai, bệnh tật, cảnh khổ, cảnh chết đói ở những nước
kém mở mang ở Phi Châu, bất cứ người nào còn có đầu óc suy tư đều không còn
có thể chấp nhận luận điệu thần học về một Thiên Chúa toàn năng, toàn trí,
và những thuộc tính của Thiên Chúa như : "Thiên Chúa quá thương yêu thế
gian...", "Giê-su yêu tất cả mọi người", "Giê-su đến để mang một tin vui,
tin vui tình thương, tin vui tự do..." v..v.. Chỉ có những đầu óc trong đó
có một khuyết tật hay một điểm mù tôn giáo mới có thể còn tin như vậy.
Sự thức tỉnh của Tây
phương không chỉ thuần túy là vì những giá trị mạc khải của tín ngưỡng Ki Tô
Giáo nay đã sụp đổ, vì những giáo lý, bí tích v..v… ngày nay đã không còn
mấy giá trị trong thế giới Tây phương, mà còn vì một khía cạnh khác không
kém phần quan trọng. Đó là cái lịch sử ô nhục đẫm máu của Ki Tô Giáo,
đặc biệt là Công giáo, đã làm cho thế giới thấy rằng đó chỉ là những tổ chức
thế tục, buôn thần bán thánh, nấp sau bộ mặt tôn giáo. Ngày nay, các
học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô đã phanh phui ra rằng
lịch sử Ki Tô Giáo còn cái mặt đen tối, và nếu đặt lên cán cân thì mặt này
sẽ nặng trĩu trên cán cân. Sau đây là vài lời thú nhận của chính giáo hoàng
John Paul II của Công Giáo La-mã.
1994: Trong một
mật thư gửi cho các hồng y, về sau bị lộ ra cho báo chí Ý, giáo hoàng John
Paul II đặt câu hỏi: "Làm sao mà chúng ta có thể tiếp tục yên lặng trước
nhiều hình thức bạo tàn mà giáo hội đã phạm phải nhân danh đức tin - chiến
tranh tôn giáo, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo và những hình thức vi phạm nhân
quyền khác?"(Chicago Tribune, June 5, 1995)
[7]:
1995: Giáo
hoàng John Paul II thúc giục Giáo Hội Ca Tô Rô Ma hãy nắm lấy cơ hội "đặc
biệt thuận lợi" của một thiên niên kỷ mới để ghi nhận "cái
mặt đen tối của lịch sử giáo hội (Công giáo)"
[8]
Rồi đến ngày 12 tháng 3 năm
2000, trong một cuộc “thánh lễ” công cộng tại “thánh đường” Phê-rô, Giáo
hoàng cùng một số hồng y, tổng giám mục, trong đó có tổng giám mục Nguyễn
Văn Thuận, đại diện cho “hội thánh” Công giáo, đã chính thức “xưng thú 7 núi
tội ác” đối với nhân loại của Công giáo. 7 núi tội ác này, qua gần 20 thế
kỷ, đã đưa đến những thảm họa to lớn cho nhân loại như “thập ác chinh”
(thường được gọi một cách sai lầm là “thánh chiến” vì bản chất những cuộc
chiến này rất man rợ, bạo tàn chứ chẳng có gì là “thánh” cả), tòa hình án xử
dị giáo, bách hại dân Do Thái, kỳ thị phái nữ, liên kết với thực dân để
truyền đạo với sách lược xâm lăng văn hóa, mưu toan thống trị và có thái độ
thù nghịch với các tôn giáo khác v..v.. Hành động “xưng thú 7 núi
tội ác” này đã làm cho những lời tự nhận của giáo hội mà giáo hội thường
nhồi nhét vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, rằng Công giáo là tôn giáo
“thiên khải duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “hôn thê
của Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại”, bác ái”, “dân chủ” v..v..,
trở thành những lời nói láo vĩ đại nhất trong lịch sử các tôn giáo của loài
người. Một khi mà những lời nói láo không còn có hiệu lực và không còn
thuyết phục được ai, thì tất nhiên con người sẽ không còn tin vào chúng
nữa. Và ngày nay, ở Tây phương cũng như
ở nhiều nơi trên thế giới, tín đồ bỏ đạo hàng loạt là vì họ không còn muốn
dính dáng gì đến một giáo hội đầy tội lỗi thế gian,
và trình độ người dân ngày nay đã cao, không còn có thể tin vào những
điều thuộc loại hoang đường mê tín nữa. Chính các học giả ở
trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô đã khai sáng cho họ qua những tác
phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về Ki Tô Giáo.
Ki Tô Giáo đang suy thoái, con
người Ki Tô trên khắp thế giới đang dần dần từ bỏ niềm tin vào một Thượng đế
không tưởng cũng như vai trò cứu thế của Giê-su.Giáo hoàng đương
nhiệmBenedict XVI đã nhiều lần thú nhận về sự suy thoái không cơ cứu
vãn của Công giáo và Tin Lành ở Tây phương. Theo những tin tức trên báo chí
trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức của Vatican, tờ
L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005, thì Benedict
16 đã lên tiếng phàn nàn như sau:
“Những
tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương
[Ki Tô Giáo] có vẻ đang
chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến
Thiên Chúa nữa.
Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan
và rầu rĩ hơn GH tiền nhiệm là John Paul II, người đã than phiền về sự suy
thoái của đức tin trong các quốc gia phát triển và nói rằng điều này giải
thích sự vật lộn của Giáo Hội Công giáo đối với vấn đề số người đi nhà thờ
giảm rất nhiều trong những năm gần đây.”
[9]
Cũng theo
tin hãng Reuters ở Rome thì Giáo hoàng Benedict 16 đã phải đau lòng mà chấp
nhận một sự thực:
“Thật
là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn
hoá của mình, một thế giới ở thời điểm mà
không có bằng chứng nào là con người còn cần đến Thiên Chúa nữa, và còn cần
ít hơn đến Chúa Ki Tô. Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra
như đang chết dần.”
Theo một phúc
trình mới đây của Vatican thì trong một số nước phát triển, Giáo dân đi
dự lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn khoảng 5%. Ngài nói thêm: Tuy nhiên không
phải chỉ có đạo Công giáo bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh hưởng
nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này.
Không thấy có giải pháp nào mau chóng và
thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội chúng ta cả.
[10]
Giáo hoàng khuyên tín đồ
Công giáo, nhắm vào khối tín đồ Công giáo lạc hậu ở Phi Châu, Nam Mỹ, Phi
Luật Tân, và Việt Nam, hãy kiên trì giữ vững đức tin, tiếp tục tiến bước
trong đường hầm [keep walking in the tunnel], có thể ánh sáng le lói của
Chúa Ki-Tô sẽ xuất hiện ở cuối đường hầm [Christ light would appear at the
end]
Gần đây nhất, ngày 9 tháng
4, 2007, Giáo hoàng Benedict 16 lại cảnh báo là “Âu Châu có vẻ như
sẽ mất đức tin trong tương lai, và gọi những người Âu Châu chỉ muốn
có ít con là theo “chủ nghĩa cá nhân nguy hiểm” [trong khi cả thế giới
đang lo nạn nhân mãn và cổ súy hạn chế sinh đẻ] Giáo hoàng nói: “Bất
hạnh thay, chúng ta phải ghi nhận là Âu Châu có vẻ như đang tuột
xuống một con đường có thể đưa Âu Châu đến sự giã từ lịch sử”
[Ki Tô Giáo vẫn cho rằng lịch sử Âu Châu là lịch sử Ki Tô Giáo]
(Time,
April 9, 2007: “One must
unfortunately note that Europe seems to be going down a road which could
lead it to take its leave from history” Pope Benedict XVI, warning that
Europe appears to be losing faith in its future, calling some Europeans’
desire to have fewer children “dangerous individualism”.)
Ngoài ra,
trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các
giám mục Âu châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã
quyết định sống “như là Thiên chúa không hề hiện hữu”.
(At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the
peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not
exist”.)
Có một sự kiện mà ít người để ý đến. Đó là
Phật Giáo đã giúp cho Tây phương thức tỉnh phần nào, dù Phật Giáo không
bao giờ có chủ trương xâm lăng văn hóa, hay xâm lăng tôn giáo, hay kiếm tín
đồ bằng tất cả những thủ đoạn bất chính như Công giáo. Đây là sự tiến
bộ trí thức tự nhiên trong thế giới Tây phương.
Thật
vậy, năm 1969, John H. Garabedian & Orde Coombs xuất bản cuốn Những Tôn
Giáo Đông Phương Trong Thời Đại Điện Tử (Eastern Religions In The
Electric Age), hình bìa ngoài là hàng chữ lớn viết lên tường: Chúa Ki-Tô
Đã Chết - Phật Đang Sống (Christ Is Dead - Buddha Lives !), nội dung nói
về cuộc nổi giậy đạo đức ở Mỹ (moral revolt in America), phân tích tại sao
hàng triệu giới trẻ đang vứt bỏ những truyền thống của họ và tìm kiếm những
giải đáp mới trong những tư tưởng và tôn giáo Đông phương (Why
millions of young people are rejecting their own traditions and seeking new
answers in the ideas and religions of the East)
Năm 1994, Stephen Batchelor
xuất bản cuốn Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương (The Awakening of the
West), nội dung viết về lịch sử tiếp xúc của Phật Giáo với Tây phương. Cuốn
sách được giới thiệu như sau:
"Cuốn "Sự
Thức Tỉnh Của Tây Phương" là một cuốn viết rất hay về lịch sử tiếp xúc của
Phật Giáo với Tây phương trong 2000 năm qua - một cuốn sử biên về những cơ
hội bỏ lỡ, sự kiêu căng văn hóa, thảm kịch chính trị, và những giấc mộng
không thành. Từ thời đại đế Alexandre, các vua chúa và giáo hoàng Tây
phương đã mong mỏi kiếm được quyền lực bằng cách chinh phục Á Châu. Qua
nhiều thời kỳ họ đã phái từng đợt sứ giả và các nhà truyền giáo tới Á Châu
để tiếp xúc với những người "ngoại đạo", nhưng tâm thức hẹp hòi của người
Tây phương đã làm cho những người này chẳng biết được bao nhiêu về Phật
Giáo.
Ngày nay
Phật Giáo được coi như là một tôn giáo phát triển nhanh nhất và là một trong
những phong trào tinh thần có ảnh hưởng nhiều nhất ở Tây phương."[11]
Stephen Batchelor |
|
Tên cuốn sách đã gây sự
ngỡ ngàng trong thế giới Tây phương không ít. Tây phương vẫn được coi, hay
tự nhận, là văn minh tiến bộ nhất, và tôn giáo Tây phương, Ki Tô Giáo, vẫn
được coi, hay tự nhận, là tôn giáo mạc khải, tôn giáo duy nhất có giá trị
trên thế gian. Vậy tại sao Phật giáo đã làm cho Tây phương thức tỉnh, và
thức tỉnh khỏi cái gì?
Sau đâylà một thí dụ điển hình về sự thức tỉnh của con người Tây
phương: sự xuất bản cuốn Tinh Túy Của Phật Giáo: Một Khai Tâm Thực Hành
Tứ Diệu Đế Của Tôn Giáo Thích Hợp Nhất Cho Thế Giới Ngày Nay (The
Essence of Buddhism: A Practical Introduction To The Four Noble Truths Of
The Religion Most Suited To Today’s World), tác giả là John Walters. Cuốn
sách nhỏ này, vào khoảng 150 trang, rất đặc biệt, vì đó là tác phẩm của một
người trưởng thành trong truyền thống Ki Tô, bị nhồi sọ Phật Giáo là một
tôn giáo yếm thế, vô vọng, một dạng sơ khai của chủ thuyết hiện sinh
[Buddhism as a defeatist philosophy of pessimism and hopelessness, a
primitive form of Existentialism] v..v.., và tin rằng Ki Tô Giáo là tôn
giáo duy nhất có ích cho nhân loại [in the bellief that Christianity was
the only religion that had anything useful to offer to mankind]. Nhưng sau
một chuyến du hành Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, ông ta đã thấy tận mắt
thực chất của Phật Giáo, hoàn toàn không như những điều ông đã được nhồi vào
đầu từ khi còn nhỏ. Ông bèn suy nghĩ lại, tìm hiểu lịch sử và so sánh Ki Tô
Giáo với Phật Giáo. Ông nghĩ tới “những sai lầm và tội ác của những
Giáo hội Ki Tô và những giới chức lãnh đạo trong quá khứ”
(the blunders and crimes of the churches and their leaders in past ages),
những lễ tiết (rituals) trong Ki Tô Giáo mà ông cho là có tính cách
“mê tín tàn bạo” (sadistic superstition) và so sánh với “một
trong những sự vinh quang nhất của Phật Giáo là tinh thần khoan nhượng”
(one of the greatest glories of Buddhism is its tolerance).
Chân giá trị của Phật
Giáo đã làm cho John Walters thức tỉnh, thức tỉnh khỏi những điều sai sự
thực, mê muội mà tôn giáo truyền thống của ông đã đầu độc đầu óc ông từ khi
ông còn nhỏ. Và đây là sự thức tỉnh về tư duy, một khả năng quý báu nhất
của con người.
Trên đây chỉ là vài tài
liệu điển hình nói lên sự phát triển Phật Giáo ở Tây phương. Tuy nhiên,
chúng không khỏi gây cho chúng ta một thắc mắc: Nếu nền văn minh tiến bộ
Tây phương mà Ki Tô Giáo thường nhận vơ vào làm nền văn minh Ki Tô Giáo thật
sự có giá trị về vấn đề đạo đức, tâm linh, thì tại sao thế giới Tây phương,
nhất là giới trí thức hiểu biết, lại không hài lòng với tôn giáo truyền
thống của mình mà lại thấy Phật Giáo hấp dẫn? Câu trả lời ngắn gọn là:
Tây phương đã thức tỉnh, hay nói đúng hơn, đã tự cởi trói ra khỏi những
mê lầm của tôn giáo truyền thống. Một khi con người Tây phương đã thức
tỉnh ra khỏi sự mê lầm của tôn giáo truyền thống Tây phương thì tất nhiên
tôn giáo truyền thống Tây phương phải suy thoái. Và đây là một sự kiện rất
hiển nhiên, không những chỉ ở Âu Châu mà còn ở trên khắp thế giới, kể cả
nước Mỹ là nước vẫn tự hào là “God’s country” với motto “In God We trust”.
“In God We trust, But which one?”, đó là câu hỏi của Judith Hayes.
Tất nhiên, khi đã mất
niềm tin, về nền tảng tín ngưỡng cũng như về thực chất hành trì của các giáo
hội Ki Tô, con người Tây phương cần phải đi tìm một cái gì khác để bù đắp
vào nhu cầu tâm linh của mình. Tất cả những tôn giáo độc thần khác như Hồi
Giáo, Do Thái Giáo, bản chất đều như nhau, không thể thỏa mãn nhu cầu tâm
linh thích hợp với thời đại này của người Tây phương. Do đó, Tây phương đã
phải đi tìm sự uyên thâm về tư tưởng ở Đông phương. Đông phương có Phật
Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo, và Ấn Độ Giáo. Ấn Độ Giáo thờ nhiều thần, không
thích hợp với người Tây phương. Khổng giáo là những triết lý về xã hội và
có những điều nay không còn hợp thời. Lão giáo thì thoát tục, xa lìa trần
thế. Chỉ còn có Phật Giáo, vừa là một tôn giáo nhân chủ và nhân bản, vừa
là một hệ thống triết lý thực dụng chẳng bao giờ lỗi thời, vừa có tinh thần
khoa học, cho nên có thể nói là thích hợp với con người Tây phương nhất.
Một cuốn sách xuất bản mới đây nhất của Vicky MacKenzies đã chứng minh sự
kiện này. Cuốn sách có tên là Tại Sao Lại Là Phật Giáo? Người Tây Phương
Đi Tìm Kiếm Sự Uyên Thâm Của Trí Tuệ (Why Buddhism? Westerners In
Search Of Wisdom), nxb Tronsons, Anh quốc, và đề năm xuất bản là 2003.
Nói tóm lại, sự thức tỉnh
của thế giới Tây phương là điều tất nhiên. Vì như nữ học giả Công giáo
Joane H. Meehl, sau khi đã nhìn thấy rõ chủ đích và những việc làm của Giáo
hội Công giáo từ thế kỷ 4 cho tới ngày nay, đã viết trong cuốn "Người Tín
Đồ Công giáo Tỉnh Ngộ" (The Recovering Catholic, Prometheus Book,
1995, trang 288):
"Đạo Công giáo chỉ thịnh hành và phát triển trong đám
người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bằng giáo dục
(mở mang dân trí. TCN)
và đời sống kinh tế thoải mái." (Catholicism thrives and grows among the
poor and ignorant. It is overcome by education and economic
well-being).
Thật vậy, đời sống vật
chất ở Tây phương tương đối cao, xã hội càng ngày càng cải tiến, số người
nghèo và ít học càng ngày càng giảm bớt. Cho nên, số người tha thiết với
một Thiên Chúa không tưởng của Ki Tô Giáo càng ngày càng giảm. Hiện tượng
này đã quá rõ rệt trong thế giới Tây phương. Nhưng vấn đề chính để cho
con người Tây phương thức tỉnh là sự mở mang dân trí. Khi mà Giáo hội
Công giáo không còn đủ khả năng để kiểm duyệt những sách nghiên cứu về mọi
khía cạnh của Ki Tô Giáo thì người dân càng ngày càng tiếp cận với những sự
thật về Ki Tô Giáo. Các bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo không còn khả năng để
thuyết phục giáo dân tin vào những điều họ nói, ngoại trừ những giáo dân
trong những cộng đồng nghèo khổ mà chính sách bưng bít, che dấu sự thật của
giáo hội vẫn còn có hiệu quả. Trong thế giới Tây phương ngày nay, chúng ta
thấy cả ngàn tác phẩm viết về mọi khía cạnh của Ki Tô Giáo, và trên Internet
chúng ta cũng thấy rất nhiều trang nhà nghiên cứu và đưa ra những sự thật về
Ki Tô Giáo. Số tài liệu này nhiều đến độ không ai có thể tự cho là mình đã
có thể đọc hết được.
Sau đây là một số đầu sách điển hình. Đọc những cuốn
sách này, chúng ta sẽ hiểu tại sao Ki Tô Giáo lại suy thoái, và tại sao Giáo
hoàng Benedict XVI cũng như Hội Đồng Giám Mục Âu Châu đã phải than phiền là:
Thật là khác lạ trong thế giới
Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình,
một thế giới ở thời điểm mà không còn bằng
chứng để con người còn cần đến Thiên Chúa nữa, và còn ít cần hơn đến Chúa
Ki-tô.
1.
Về Lịch sử phát triển Công Giáo
La Mã:
1. The Cross, The Flag, and
the Bomb, William A. Au; 2. Holy Blood, Holy Grail, Michael
Baigent, Richard Leigh & Henry Lincoln; 3. Our Hands Are Stained With
Blood: The Tragic Story of the "Church" and the Jewish People, Michael
L. Brown; 4. The Birth of Christianity: Reality and Myth, Joel
Carmichael; 5. The Final Superstition, Joseph L. Daleiden; 6.
The Early Christian Church, J.G. Davies; 7. The Court-Martial of
Jesus: A Christian Defends The Jews Against the Charge of Deicide,
Weddig Fricke; 8. Deceptions and Myths of the Bible, Lloyd M.
Graham; 9. The Inquisition of the Middle Ages, Henry Charles Lea;
10. The Mythmaker: Paul and the Invention of Christianity, Hyam
Maccoby; 11. The Truth About The Catholic Church, Joseph McCabe; 12.
The Vatican & Zionism, Sergio I. Minerbi; 13. Middle Ages, George F.
Mott & Harold M. Dee; 14. The Spanish Inquisition, Jean Plaidy; 15.
A Legacy of Hatred: Why Christians Must Not Forget The Holocaust,
David A. Raush; 16. Dungeon, Fire, and Sword, John J. Robinson; 17.
Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy, Peter de Rosa; 18.
The Crusades, Henry Treece; 19. The Barbarian West: The Early Middle
Ages, Wallace-Hadrill; 20. Characters of the Inquisition, William
Thomas Walsh.
2. Về Sách Lược Truyền Đạo và Chính Trị Công Giáo La Mã:
1. Unholy Trinity: How
The Vatican's Nazi Networks Betrayed Western Intelligence to the Soviets,
Mark Aarons & John Loftus; 2. The Vatican Empire, Nino Lo Bello;
3. American Freedom and Catholic Power, Paul Blanshard; 4. a. Gia
Tô Thực Dân Sử Liệu, b. Sách Lược Gia Tô Thực Dân Thống Trị Toàn Cầu,
c. Gia Tô Thực Dân Chính Sử, Chu Văn Trình; 5. Pope, Premier, President,
Roland Flamini; 6. Catholicisme et Sociétés Asiatiques, Alain Forest
& Yoshiharu Tsuboi; 7. The Roman
Catholic Church in Colonial Latin America,
Richard E. Greenleaf; 8. The
Catholic Church in World Politics,
Eric O. Hanson; 9. Les Missions Étrangères et la Pénétration
Francaise au Viet-Nam, Nicole-Dominique Lê; 10.
The Missionaries: God Against the Indians,
Norman Lewis; 11. a. Catholic Imperialism and World Freedom,
b. Vietnam: Why Did We Go?,
c. The Vatican's Holocaust,
Avro Manhattan; 12. The Vietnamese Response to French Intervention:
1862-1874, Mark W. McLeod; 13. The Politics of the
Vatican, Peter Nichols; 14. Christ or Evil? The Corrupt Face of
Christianity in Africa,
Anene Obianyido; 15. The Holy Humbugs, Padchi; 16. Missionaries,
Julian Pettifer & Clive Prince; 17. The Roman Catholic Church in Modern
Latin America,
Karl M. Schmit; 18. Histoire de la Pénétration Francaise au Vietnam (1858-1897),
Nguyễn Xuân Thọ; 19. Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại
Việt-Nam, Cao Huy Thuần; 20. Dieu et César: Les Catholiques dans
L'histoire du Vietnam, Trần Tam Tĩnh; 21.
French Catholic Missionaries and the Politics of
Imperialism in Vietnam, 1857-1914,
Patrick J.N. Tuck.
3.
Về Vatican:
-”Vatican Mis À Nu” của
Đức Ông Luigi Marinelli
-Những cuốn “The Vatican’s Mafia”; “Vatican Exposed: Money,
Murder, and the Mafia”;
“The Vatican’s Finances”; “The Antichrist in the Vatican”;
“The Lies of Pope John Paul
II” v..v.. của Đức Ông Rafael
Rodríguez Guillén.
-“The
Secret Archives of the Vatican” của Maria Luisa Ambrosini & Mary Willis
-“The Vatican and Zionism” của
Sergio I. Minerbi.
-“The Love Affairs of the Vatican or The Favorites of the Popes”
của Dr. Angelo S.
Rappoport
-“In the Vatican: The Politics and Organization of the Roman Catholic
Church” của
Thomas Reese
-“Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy”
của Giám mục dòng Tên Peter de Rosa
-“The Vatican’s Holocaust” của
Baron Avro Manhattan
-“In the Vatican” của Peter
Hebblethwaite
-“The Vatican Empire” và
“The Incredible Book of Vatican Facts and Papal Curiosities”
của
Nino Lo Bello
-“O Vatican: A slightly wicked view of the Holy See” của Paul Hofmann
-“The Vatican Connection” của
Richard Hammer
- “Papal
Sin” của Garry Wills
4.
Về Phân tích và phê bình Thánh Kinh:
1. The X-Rated Bible: An
Irreverend Survey of Sex in the Scriptures, Ben Edward Akerley; 2. A
History of God, Karen Armstrong; 3. The Bible Handbook, W.P.Ball,
G.W. Foote et al..; 4. a. The Gospel of Love Versus Crime, b. The
Shadow of the Deamon, Jack Bays; 5. Going By The Book: Past and
Present Tragedies of Biblical Authority, Ernie Bringa; 6. Dieu Contre
Dieu, Robert Dalian; 7. Christianity Cross-Examined, William
Floyd; 8. Bible Romances, G.W. Foote; 9. Who Wrote the Bible?,
Richard Elliott Friedman; 10. One Hundred Contradictions in the Bible,
Marshall J. Gauvin; 11. Deceptions and Myths of the Bible, Lloyd
M. Graham; 12. a. The Book of Ruth, b. The Born Again
Skeptic's Guide to the Bible, Ruth Hermence Green; 13. Mythology's
Last Gods: Yahweh and Jesus, William Harwood; 14. Some Mistakes of
Moses, Robert G. Ingersoll; 15. All the Obscenities in the Bible,
Gene Kasmar; 16. The Bible Unmasked, Joseph Lewis; 17. The Case
Against Christianity, Michael Martin; 18. a. Resurrection: Myth or
Reality, b. Born a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, John
Shelby Spong; 19. Jesus and the Riddle of the Dead Sea
Scrolls,
Barbara Thiering; 20. The Bad News Bible: The New Testament, David
Voas; 21. Fictional Transfiguration of Jesus, Theodore Ziolkowski;
22. The Five Gospels: What Did Jesus Say?, The Jesus Seminar.
5.
Về Cấu trúc độc tài toàn trị của chế độ giáo hoàng:
1. The Papacy and the
Modern World, Karl Otmar Von Aterin; 2. The Pope and the Mavericks,
Louis Baldwin; 3. The Decline and Fall of the Medieval Papacy, L.
Elliot Binns; 4. American Freedom and Catholic Power, Paul Blanshard;
5. Church: Charism & Power, Leonardo Boff; 6. The Final
Superstition, Joseph L. Daleiden; 7. The Rest of Us Catholics: The
Loyal Opposition, Joseph Dunn; 8. The Limits of the Papacy,
Patrick Granfield; 9. A Modern Priest Looks at his Outdated Church,
James Kavanaugh; 10. The Infallibility Debate, John J. Kirvan; 11.
Infallible? An Inquiry, Hans Kung; 12. The Keys to this Blood,
Malachi Martin; 13. The Totalitarian Church of Rome: Its Fuehrer,
Its Gauleiter, Its Gestapo, and Its Money-Box , Joseph
McCabe; 14. Freedom's Foe - The Vatican,
Adrian Pigott; 15. Authority in the Roman Catholic Church, Maximilian
F. Russer; 16. Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy,
Peter de Rosa.
6. Về Linh mục bỏ đạo và loạn dâm:
1. Pourquoi J'ai
Quitté L'Église Romaine, Georges Las Vergnas; 2. Why I Left The
Roman Catholic Church,
Charles Davis; 3. Letters To An Ex-Priest, Emmett McLoughlin; 4.
Shattered Vows, Priests Who Leave, David Rice; 5. Full Pews and Empty
Altars, Richard Schonherr & Lawrence Young; 6. Liberating Faith,
Geffrey B. Kelly; 7. Braking Faith, John Cornwell; 8. Sex,
Priests, and Power, Richard Sipe.
7. Về Thiên Chúa Của Ki Tô Giáo:
1. A History of God
& The Case for God, Karen Armstrong; 2. Gospel Fictions,
Randel Helms; 3. Gospel Truth, Russell Shorto; 4. God is not
Great, Christopher Hitchens; 5. Atheism: The Case Against God;
6. Critiques of God, Peter A. Angeles; 7. The Dark Side of God,
Douglas Lockhart; The God Delusion, Richard Dawkins; 8. Putting
Away Childish Things, Uta Ranke-Heinemann; 9. The Impossibility of
God, Michael Martin; 10. The Impossibility of God,
Jeffrey Grupp;
11. God: The Failed Hypothesis, Victor J. Stenger; 12. God’s
problem, Bent D. Ehrman.
Xin đón đọc kỳ tới:
Phần II.-
Công Giáo Việt Nam Vẫn Còn Mê.
[7] In a 1994
confidential letter to cardinals which was later leaked to the
Italian Press, Pope John Paul II asked: "How can one remain silent
about the many forms of violence perpetrated in the name of faith -
wars of religion, tribunals of the Inquisition and other forms of
violations of the rights of persons?"
[8] Ibid.,:
Pope John Paul II had urged the Roman Catholic Church to seize the
"particularly propitious" occasion of the new millennium to
recognize "the dark side of its history".
[9] ROME (Reuters,
July 27, 2005) - Mainstream churches in the West appear to be dying
as societies that are increasingly secular see less need for God,
Pope Benedict said in comments published on Wednesday.
[10] It is different in
the Western world, a world which is tired of its own culture, a
world which is at the point where there’s no longer evidence for a
need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in
the Italian Alps.
"The so-called traditional
churches look like they are dying," he said, according to a text
published by Vatican daily L’osservatore Romano.
Participation at Sunday
Mass in some developed countries was as low as 5 percent, a recent
Vatican report said.
[11]
The "Awakening of the
West" is a beautifully written history of the Encounter of Buddhism
with the West during the past 2000 years - a chronicle of missed
opportunities, cultural arrogance, political tragedy, and
unfulfilled dreamd. Since the time of Alexander the Great, European
kings and popes longed for the power to be gained through the
conquest of Asia. They sent periodic streams of envoys and
missionaries to establish contact with the "infidels," but the
European's narrow-mindedness prevented them from learning much at
all about Buddhism.