|
24 tháng 3, 2010 |
Phần I
Công Giáo Tây Phương Đã Tỉnh
1
2 3
4
Trong Phúc Âm John
8:32, Chúa Giê-su phán: “Rồi các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật
sẽ cởi trói cho các ngươi” [Then you will know the truth, and the
truth will set you free]. Nhưng thật là kỳ lạ, trong suốt 2000 lịch sử của
Công giáo, các Giáo hoàng, đại diện của Chúa trên trần, các bậc chăn chiên,
Chúa thứ hai, và các con chiên, nhất là con chiên Việt Nam, lại rất sợ sự
thật. Samuel Butler đã chẳng từng nói: “Công giáo không sợ bất cứ cái
gì khác, mà chỉ sợ có sự thật”.
Nhận định của Samuel Butler
không sai nếu chúng ta biết là, sách lược che dấu sự thật trước đám con
chiên thấp kém là sách lược cốt tủy của Giáo hội Công Giáo.
Tại sao Giáo hội phải làm
như vậy? Vì quyền lực thế tục cũng như tài sản của Giáo hội Công Giáo tùy
thuộc ở số đông tín đồ nên Giáo hội rất sợ tín đồ biết đến cái bản chất thực
sự của Giáo hội cũng như những sai lầm trong Thánh Kinh, những sai lầm mà
chính giáo hoàng hay giáo hội cũng không thể phủ nhận, nhưng không bao giờ
dám cho đàn chiên của mình biết. Chúng ta nên nhớ rằng đã một thời
Giáo hội cấm tín đồ đọc Thánh Kinh, vi phạm luật này có thể bị xử tịch thu
tài sản, bị vạ tuyệt thông, hay bị tử hình.
Giáo hội Công Giáo muốn giữ
độc quyền giải thích Thánh Kinh, thường chỉ là những đoạn chọn lọc kỹ ngoài
ngữ cảnh bất kể đến những mâu thuẫn và những đoạn không thể đọc được trong
Thánh Kinh, và tín đồ chỉ có việc nghe theo vì không thể nào biết được những
giải thích đó đúng hay sai, có trong Thánh Kinh hay có phù hợp với những
điều viết trong Thánh Kinh hay không? Giáo hội Công giáo diễn giải những
đoạn đã chọn lọc kỹ đó cùng với những tín lý giáo hội dựng ra theo ý giáo
hội bất kể sự thật, và cũng lẽ dĩ nhiên tuyệt đại đa số tín đồ cũng chỉ biết
về đạo của họ qua những lời diễn giảng một chiều này.
Giáo lý của Giáo hội đặt
nặng trên truyền thống của Giáo hội, nghĩa là đặt nặng trên những điều “Giáo
hội dạy rằng..” dù rằng những điều này không hề có trong Thánh Kinh, và
với “đức vâng lời”, con đường duy nhất để tín đồ sau khi chết sẽ được lên
thiên đường, một cái bánh vẽ trên trời theo Mục sư Ernie Bringas, cho nên
Giáo hội dạy sao thì tín đồ cứ tin vậy..
Thật vậy, chúng ta có thể
đọc câu sau đây trong cuốn Giáo Lý Của Giáo Hoàng (The Pope's
Catechism) của J. Sheatsley, trang 80:
Tín đồ Công
giáo phải tin tất cả những gì Thiên Chúa đã mạc khải và tất cả những gì Giáo
hội Công giáo dạy, bất kể là những điều đó có hay không có trong Thánh
Kinh. Vì Truyền Thống Công giáo (nghĩa là những
gì giáo hội dạy) và Thánh Kinh đều
do Thiên Chúa mạc khải.
(A
Catholic must believe all that God has revealed and the Catholic Church
teaches, whether it is contained in Holy Scripture or not. Because Catholic
Tradition and Holy Scripture were alike revealed by God)
Và chúng ta không thể không
nhắc lại câu nói thời danh của Thánh Ignatius of Loyola (1491-1536), người
sáng lập dòng Tên: “Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng tin rằng
cái mà chúng ta thấy là trắng thực sự là đen, nếu hàng giáo phẩm trong Giáo
hội Công Giáo quyết định như vậy.“ (We should always be disposed to believe that
which appears white is really black, if the hierarchy of the Church so
decides).
Giáo hội Công
giáo đã viện cái gọi là “mạc khải của Thiên Chúa” để tự tạo quyền lực cho
mình. Nhưng điều này chỉ có thể thuyết phục được đám tín đồ mà tuyệt đại đa
số thuộc loại thất học trong thời bán khai và Trung Cổ, nhất là trong những
thời đại mà Giáo hội giữ độc quyền đọc và diễn giảng Thánh Kinh, cùng cầm
quyền sinh sát trong tay. Nhưng từ thế kỷ 16, khi mà cuốn Thánh Kinh được
dịch ra các tiếng địa phương và người dân được tự do đọc Thánh Kinh thì
người ta đã khám phá ra rằng cuốn Thánh Kinh chứa rất nhiều mâu thuẫn cùng
những điều sai lầm về khoa học và thần học, do đó, tuyệt đối không phải
là sản phẩm “mạc khải” của một thiên chúa toàn năng, toàn trí….
Cuốn Thánh Kinh của Ki Tô
Giáo đã được các học giả Tây phương nghiên cứu phân tích kỹ hơn bất cứ cuốn
sách nào khác. Và kết quả nghiên cứu về cuốn Thánh Kinh trong vòng 200 năm
gần đây của các học giả Tây phương đã đi đến kết luận:
“Các học giả Âu Châu đã phân
tích Thánh Kinh kỹ hơn bao giờ hết, và kết luận của họ là: Thánh Kinh
không phải là cuốn sách do Thiên Chúa mạc khải mà viết ra, như các Ki Tô
hữu đã thường tin từ lâu, do đó không thể sai lầm. Thật ra, đó là, một hợp
tuyển lộn xộn những huyền thoại cổ xưa, truyền thuyết, lịch sử, luật lệ,
triết lý, bài giảng đạo, thi ca, chuyện giả tưởng, và một số ngụy tạo rất
hiển nhiên.”
[1]
Và Giám mục Tin Lành John
Shelby Spong đã khai sáng thêm vấn đề “mạc khải” qua đoạn sau đây:
“Thánh Kinh không phải là lời mạc khải của
Thượng đế.. Nó chưa từng là như vậy bao giờ! Các sách Phúc Âm không phải là
những tác phẩm không có sai lầm, khải thị bởi Thiên Chúa. Chúng được viết
ra bởi những cộng đồng có đức tin, và chúng biểu thị ngay cả những thiên
kiến của các cộng đồng đó. Trong các sách Phúc Âm không phải là không có
những mâu thuẫn nội tại đáng kể hay những quan niệm đạo đức và trí thức làm
cho chúng ta ngượng ngùng, xấu hổ.”
(John Shelby
Spong, Why Christianity Must Change Or Die, p. 72)
[2]:
Nhưng Thánh Kinh không phải
là cuốn sách duy nhất mà Giáo hội Công giáo cấm tín đồ đọc. Sách lược chính
của Giáo hội Công giáo là trói tín đồ vào trong vòng đen tối trí thức và mê
hoặc tâm linh để dễ bề ngự trị. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua vài sự
kiện sau đây.
Lịch sử Công giáo cho thấy
rằng:
“Giáo hội Công giáo đã
có những tác động tàn phá trên xã hội.Khi Giáo hội nắm được vai trò lãnh
đạo, hoạt động trong những ngành y khoa, kỹ thuật, khoa học, giáo dục, lịch
sử, nghệ thuật và thương mại đều sụp đổ.Âu Châu đi vào những Thời Đại Đen
Tối.Tuy Giáo hội vơ vét được một tài sản to lớn trong những thế kỷ đó, hầu
hết những gì định nghĩa cho văn minh đã biến mất.”
(Helen Ellerbe, The Dark Side of Christian History, p. 50)
[3]
Nhận định của Helen
Ellerbe không sai nếu chúng ta biết đến chủ trương của Giáo hội Công Giáo
qua những hành động ngăn chận sự tiến bộ trí thức của nhân loại như:
-
Giữ độc quyền giáo dục với chính sách làm
cho nhân dân ngu muội, tối tăm.
-
Đốt sách vở ghi chép những kiến thức cổ
xưa của nhân loại.
-
Ngụy tạo và viết lại lịch sử với mục đích
chứng thực đức tin của Công Giáo.
-
Hủy diệt các nền văn hóa phi Ki-Tô.
Từ 1559, Giáo hội đã đưa
ra danh sách những sách cấm tín đồ đọc, vi phạm “luật thánh” này sẽ bị vạ
tuyệt thông. Tuyệt thông hay rút phép thông công là hình phạt của Giáo hội
Ca-tô áp dụng đối với các con chiên ghẻ không tuân phục và vâng lời giáo
hội. Hình phạt này có nghĩa là những người bị phạt không còn quyền hưởng
các “bí tích” trong Công Giáo, và do đó Giáo hội không cho họ hiệp thông với
Chúa của họ. Hình phạt này vẫn được Giáo hội sử dụng ngày nay. Thật vậy,
theo bản tin trên VietCatholic News (Thứ Năm 29/05/2008 16:32) thì:
Vatican- Thứ năm ngày
29/05/08, Toà Thánh phổ biển một
sắc lệnh đe dọa rút phép thông công ngay lập tức với những ai truyền chức
linh mục cho giới nữ, biện pháp này cũng sẽ liên quan đến những phụ nữ được
truyền chức linh mục.
Nhưng thật
ra vạ “tuyệt thông” hay “rút phép thông công” của Công giáo là gì? Đối với
những tín đồ thấp kém, nhẹ dạ, cả tin, "tuyệt thông" hay "rút phép thông
công" là một vũ khí hù dọa hữu hiệu, vì họ đã được nhồi vào đầu từ khi còn
nhỏ là muốn hiệp thông với Chúa thì phải đi qua các trung gian như Linh mục,
Giám mục, Giáo hoàng hay "Tòa Thánh". Nhưng đối với giới trí thức, ngay cả
trong giáo hội, thì đó chỉ là một biện pháp hù dọa đáng khinh, vì nó vô giá
trị, vô nghĩa, lỗi thời, và nhất là dựa vào một quyền lực tự phong, không có
một căn bản nào có thể thuyết phục được những người có đầu óc. Thật vậy,
trong cuốn Thượng đế Chưa Chết: Từ Sự Sợ Hãi Tôn Giáo Đến Sự Tự Do Tâm
Linh (God Lives: From Religious Fear To Spiritual Freedom), Linh Mục
James Kavanaugh đã vạch rõ cho chúng ta thấy bản chất và ý nghĩa của Hình
Phạt Hù Dọa Tuyệt Thông Của Tòa Thánh, trang 39:
Tôi thấy
khó mà có thể tin được là trong thời đại kỹ thuật không gian này mà một đoàn
thể tôn giáo (Công giáo. TCN) lại có thể quá lỗi thời để tin rằng một hình phạt thuộc loại huyền thoại
như vậy vẫn còn có ý nghĩa gì đối với con người.
...Tuyệt thông,
trong nhiều thế kỷ, đã là vai trò của giới quyền lực đóng vai Thượng đế .
Đó là sự chối bỏ sự tự do suy tư của con người một cách vô nhân đạo và
phi-Ki-tô. Nhưng nhất là, nó đã là nỗ lực điên cuồng của một quyền lực,
vì quá lo sợ mất đi quyền lực của mình, nên phải kiểm soát tín đồ thay vì
hướng dẫn họ đi tới một tình yêu thương tự do và trưởng thành.[4]
Theo Wikipedia thì danh sách
những ấn phẩm mà Giáo hội Công giáo kiểm duyệt và cấm tín đồ đọc là danh
sách những ấn phẩm mà Giáo hội kiểm duyệt, cho rằng nguy hiểm đến chính Giáo
hội và đức tin của các tín đồ [The
Index Librorum Prohibitorum ("List of Prohibited Books" or “Index of
Forbidden Books”) is a list of publications which the
Catholic Church
censored for being a danger to itself
and the faith of its members.], nhưng thực ra chỉ là để che dấu những sự
thật về những giáo lý của Giáo hội và giữ tín đồ trong vòng ngu dốt để dễ
trị. Trong danh sách những cuốn
sách cấm đọc, với 32 ấn bản trong hơn 400 năm, từ 1559 đến 1966, chúng ta có
thể đếm được 6892 đầu sách cấm tín đồ đọc, và trong mỗi ấn bản đều chứa
những luật của Giáo hội về vấn đề đọc sách, bán sách và kiểm duyệt sách. [The
various
editions also contain the
rules of the
Church relating to the
reading, selling and censorship of books.]
Bởi vậy chúng ta
không lấy gì làm lạ khi thấy kiến thức của tuyệt đại đa số tín đồ Công giáo
các cấp quá thiếu sót, nghèo nàn, về chính tôn giáo của mình, cho nên thường
không đủ khả năng để đối thoại một cách nghiêm chỉnh về những vấn nạn của
Công giáo.
Nhưng chúng ta phải công
nhận là, làm cho đầu óc của các tín đồ biến thành đầu óc của các con chiên,
cúi đầu đi theo sự chăn dắt của giới chăn chiên, tin tất cả những gì “bề
trên” dạy, đi kèm với sách lược cấm tín đồ đọc Thánh Kinh, cùng cấm đọc
những tác phẩm, báo chí v..v.. mà giáo hội không cho phép để nhốt đầu óc của
các tín đồ vào cái ngục tù tâm linh của giáo hội là sự thành công lớn nhất
của Giáo hội Công giáo.
Ngoài ra, để nắm giữ đầu
óc tín đồ từ ngày sinh ra đời đến ngày chết, và để tạo quyền lực cho giới
chăn chiên trước đàn con chiên thấp kém, Giáo hội Công Giáo còn dựng lên
những màn ảo thuật gọi là "bí tích" [sacraments], những lễ tiết tín đồ bắt
buộc phải tin hiệu năng huyền nhiệm của chúng theo như những lời "giáo hội
dạy rằng", dù giáo hội "bí đặc", không làm sao giải thích được tại sao lại
phải tin như vậy, vì bản chất những "bí tích" này thuộc loại mê tín dị đoan.
Giáo hội dạy rằng mọi “bí tích” này là do Chúa Giê-su lập ra, và con chiên
nghe đến Chúa là mất hết lý trí, chỉ việc nhắm mắt tin theo. Trong cuộc thảo
luận sau khi trình chiếu cuốn phim tài liệu The Lost Tomb of Jesus
của đài Discovery, khi được hỏi ý kiến về những sự kiện khoa học khám phá ra
trong phim, một ông linh mục đã thản nhiên trả lời: “Đức tin là về sự
huyền nhiệm, không về khoa học” [Faith
deals with mystery, not science]
Chúng ta hãy tự hỏi nền giáo
dục Công giáo thuộc loại nào khi ra lệnh cấm tín đồ không được đọc cuốn
Thánh Kinh và gần 7000 cuốn sách nằm trong danh sách những cuốn “cấm đọc”
của Giáo hội Công giáo. Nhưng tiến hóa là một định luật của nhân loại, làm
sao mà giáo hội có thể ngăn chận được sự tiến bộ trí thức của nhân loại?
Khi mà giáo hội không còn nắm toàn quyền sinh sát và giáo dục toàn dân như ở
Âu Châu trước đây, và người dân đổ xô đi học các trường học công cộng
(public schools), thì xảy ra một nghịch lý. Giáo hội cấm thì cứ cấm, còn
các trường học công cộng vẫn cứ dạy học trò về những tác giả bị cấm, vì các
tác giả này thuộc chương trình học về tư tưởng, triết lý, và văn chương nhân
loại. Và tuy danh sách những sách cấm đọc đã được bãi bỏ từ năm 1966, ngày
nay giáo hội vẫn khuyên các con chiên đừng đọc những sách thuộc loại nguy
hiểm, bảo đó chỉ là sự hướng dẫn đạo đức chứ không phải là luật cấm. [Today the Church may issue an "admonitum," a warning to the faithful,
that a book might be dangerous. It is only a moral guide, however, without
the force of ecclesiastical law."]
Nhưng vì truyền thống “quên mình trong vâng phục” của các tín đồ, và vì tín
đồ được thường xuyên nhắc nhở về “đức vâng lời” cho nên khi một ông linh mục
hay giám mục “khuyên” tín đồ không nên đọc cuốn sách nào thì lời “khuyên” đó
chính là một lệnh, tín đồ sẽ không dám đọc cuốn sách đó, vì họ đã được dạy
là không vâng lời “bề trên” thì sẽ bị “Chúa phán xét”, linh hồn không được
“cứu rỗi”.
Nhưng nay Tây phương thực sự
đã thức tỉnh, thức tỉnh vì những sự thật về Ki Tô Giáo đã giải phóng Tây
phương ra khỏi ngục tù tâm linh sau bao thế kỷ bị Giáo hội Công giáo trói
buộc và giam giữ. Và sự thức tỉnh của Tây phương đã đưa đến sự suy thoái
không phương cứu vãn của Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng. Đây là
một sự kiện không ai có thể chối bỏ. Nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta thấy
thật ra sự thức tỉnh của Tây phương không phải trong thời đại này mới xảy ra
mà đã bắt nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con người ít ra là từ cuộc
Cách Mạng Khoa Học (The Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ 17, từ
Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) vào thế kỷ 18, Thời Đại Khai
Sáng (The Age of Enlightenment) vào thế kỷ 19, và Thời Đại Phân Tích
(The Age of Analysis) vào thế kỷ 20. Những thời đại này đã kéo con người
Tây phương ra khỏi Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời
đại mà sự thống trị của Công Giáo La-mã đã đưa Âu Châu vào 1000 tăm tối được
biết dưới tên Thời Đại Trung Cổ (The Middle Ages) hay Thời Đại Hắc
Ám (The Dark Ages), hay Thời Đại Của Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức
(The age of barbarism and intellectual darkness).
Những thời đại bắt
nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con người như trên đã từ từ văn minh hóa
Công Giáo La-mã, hay nói đúng hơn, theo John E. Remsburg, đã tước khỏi những
bàn tay đẫm máu của Công Giáo La-mã những bó củi để thiêu sống người và
những thanh gươm để giết người. Mặt khác, sau khi Martin Luther ly khai
với giáo hội Công Giáo La-mã vào đầu thế kỷ 16, không công nhận chế độ giáo
hoàng, để lập ra hệ phái Ki-Tô Phản Đối (Protestantism) mà chúng ta thường
biết dưới cưỡng từ Tin Lành, thì Thánh Kinh bắt đầu được dịch ra những tiếng
địa phương, và cũng bắt đầu từ đó, những công cuộc nghiên cứu Thánh Kinh và
về nhân vật Giê-su trong Thánh Kinh phát triển. Kết quả của những công
cuộc nghiên cứu này đưa đến hình ảnh của một Giê-su như là một người Do Thái
thường, sống với ảo tưởng mình chính là con của Thượng đế của người Do Thái
và là cứu tinh của dân tộc Do Thái. Hình ảnh lịch sử này khác hẳn với
hình ảnh thần linh có khả năng làm những phép lạ và có khả năng cứu rỗi mà
giáo hội Công Giáo La-mã đã tạo dựng lên. Và cũng từ đây, những tín lý, tín
điều, cũng như những lễ tiết có tính cách mê hoặc mà giáo hội Công Giáo
La-mã gọi là "bí tích" đã không còn chỗ đứng trong những xã hội Tây phương,
ít ra là trong giới thức giả hiểu biết, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội,
và cũng còn ở trong quảng đại quần chúng.
Thực
chất của Ki Tô Giáo đã được các học giả nghiên cứu kỹ trong vòng 200 năm gần
đây, bác bỏ mọi huyền thoại mà Ki Tô Giáo dựng lên, những chuyện thuộc loại
hoang đường, mê tín cổ xưa đó bắt buộc phải ra khỏi đầu óc của con người,
nhường chỗ cho những sự kiện khoa học và những thực tế xã hội.. Một cuốn
sách điển hình về hiện tượng giải hoặc Ki Tô Giáo này là của Uta
Ranke-Heinemann, người phụ nữ duy nhất trên thế giới chiếm được ngôi vị giáo
sư thần học Công giáo của giáo hội Công giáo [the first woman in the world
to hold a chair of Catholic theology], cuốn “Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ
Con” (Putting Away Childish Things, HarperCollins, 1995). Những chuyện
trẻ con nào? Đó là những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo: “Tư cách thần
thánh của Chúa Ki Tô”; “Sinh ra từ một nữ trinh”; “ngôi mộ trống”; “Ngày Thứ
Sáu tốt đẹp”; “Phục sinh”; “Thăng Thiên”; “Bị hành quyết để chuộc tội”; “Hỏa
ngục” [The divinity of Christ, The Virgin mother, Good Friday,
Easter, Resurrection, Ascension, Redemption by execution, Hell].
Tác giả trích dẫn câu 1
Corinthians 13:11 ở ngay đầu cuốn sách: “Khi tôi còn là một đứa trẻ, Tôi
nói như một đứa trẻ, tôi hiểu như một đứa trẻ, tôi nghĩ như một đứa trẻ;
Nhưng khi tôi trở thành một người trưởng thành, tôi dẹp bỏ những chuyện của
trẻ con” [When
I was a child, I spoke as a child, I understood as a child, I thought as a
child; But when I became an adult, I put away childish things.]
Trong
cuốn "Theo Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại
Của Quyền Lực Thánh Kinh" (Going By the Book: Past and Present Tragedies
of Biblical Authority), Mục sư Ernie Bringas, tốt nghiệp môn thần học
tại đại học United Theological Seminary ở Dayton, Ohio, cũng đưa ra một nhận
định tương tự::
Với
sự tái khám phá phương pháp khoa học trong thế kỷ 16 ở Âu Châu và sự tiến
triển tiếp theo của thời đại Khai sáng trong thế kỷ 18, một sự phân tích
Thánh Kinh một cách thuần lý hơn là điều không thể tránh được. Trong một thế
giới đang trở thành hướng theo tinh thần khoa học, những mô tả về Chúa đi
trên sóng, về ma quỷ, thiên thần, những câu chuyện về sự sống lại của Chúa,
và nhiều hiện tượng khác, càng ngày càng khó có thể chấp nhận như là những
sự thực lịch sử.
Trong
những năm 1835-1836, cuốn
"Khảo Sát Cặn Kẽ Về Đời Sống của Giê-su" (The Life of Jesus
Critically Examined) của D. F. Strauss đã quy một số chuyện
trong Tân Ước là "huyền thoại" và định nghĩa
những câu chuyện phi lịch sử như trên là sự biểu thị của một chuỗi những ý
tưởng tôn giáo. Ngày nay, kết quả những cuộc nghiên cứu phân tích tiếp tục
hỗ trợ và xác nhận sự khẳng định này. Đa số các học giả coi những chuyện
trong Tân Ước và bảy giáo lý giáo hội đưa ra sau đây đều là huyền thoại:
1. Đức
Mẹ đồng trinh
2.
Hiện thân của Chúa
(Thượng đế hiện thân thành
người, nghĩa là, Thượng đế là Giê- su.)
3.
Nhiệm vụ chuộc tội của Chúa
[kế hoạch cứu rỗi]
4. Sự
sống lại của Chúa.
5. Sự
thăng thiên của Chúa
(Thân xác Chúa bay lên
trời 40 ngày sau khi sống lại)
6.
Chúa trở lại trần
(để làm sống lại những
người chết cho ngày phán xét cuối cùng)
7.
Ngày phán xét cuối cùng
(Thiên Chúa phán xét mọi
người khi Giê su trở lại trần thế) [4a]
(xem tiếp đoạn sau)...>>>
[4] I found it hard to
believe that in the age of space technology a religious body could
be so out of touch as to believe such a mythological penalty could
have any meaning left for man.
[4a]
With
the rediscovery of the scientific method in 16th-century Europe and the
subsequent evolvement of the Enlightenment during the 18th-century, it was
inevitable that a more rational analysis of Scripture would occur. In a
world becoming scientifically oriented, descriptions of walking on water, of
demons, angels, resurrection stories, and other phenomena grew increasingly
unacceptable as historical realities.
In 1835-1836, The Life of Jesus Critically Examined, by D. F. Strauss,
referred to some NT narratives as "myth" and defined those unhistorical
elements as expressing a series of religious ideas. Today, analytical
studies continue to support and confirm this assertion. The majority of
scholars regard the following NT accounts and Church-developed doctrines as
myth:
1.
The virgin birth
2.
The Incarnation (God in human form; that is, God as Jesus)
3.
The work of Atonement (plan for salvation)
4.
The resurrection
5.
The ascension (Jesus' bodily ascent into heaven 40 days after the
resurrection)
6.
The Second Coming (the return of Jesus to raise the dead and to summon all
to the Last Judgment)
7. The Last Judgment (the judgment of all by God at Christ's
Second Coming