NGƯỜI VIỆT NAM & “ĐẠO GIÊ-SU”

Trần Chung Ngọc Nguyễn Mạnh Quang
hợp soạn

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/DAOGIESU/TCN_NMQ13.php

20 tháng 1, 2008


Lời Tòa Soạn
Những mục của tác giả Trần Chung Ngọc: 1 2 3 4
Những mục của tác giả Nguyễn Mạnh Quang: 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
Lời Kết Chung

CHƯƠNG 8


XV.- ĐẶC TÍNH NGƯỢC NGẠO TRONG ĐẠO DA TÔ VÀ CỦA TÍN ĐỒ DA TÔ NGOAN ĐẠO (CUỒNG TÍN)

Từ ngày 30/4/1975, đất nước đã được thống nhất và vừa với mới thoát ra khỏi cuộc chiến triền miền cả hơn 30 năm trời, Việt Nam thân thương của chúng ta và chính quyền đương thời luôn luôn bị thù trong giặc ngoài quay phá:

1.- Năm 1979, chính quyền Pol Pot tại Cao Mên xua quân tấn cống vào lãnh thổ Việt Nam cướp của giết ngưpời và tàn phá những nơi chũng tràn tới.

2.- Ngày 17/2/1979, Trung Quốc đem “32 sư đoàn tương đương với 600 ngàn quân với 550 xe tăng, 480 khẩu pháo và 1260 súng cối) ” tràn vào lãnh thổ tấn công và tàn phá các tỉnh ven biên “từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu)”.[i]

3.- Bị siêu cường Hoa Kỳ bao vây kinh tế triền miên từ năm 1975 cho đến năm 1994.

4.- Năm 2003, mấy nhóm dân săc tộc ít người ở vùng cao nguyên Nam Trung Bộ nghe lời xúi giục của ngoại nhân nổi loạn chống chính quyền đòi thành lập nước Tây Nguyên. Sự kiện này khiến cho chúng ta nhớ lại vào mùa xuân năm 1946, Giáo Hội La Mã đã làm như vậy. Vấn đề này được trình bày đầy đủ trong Phần V, Mục XV với chủ đề là Chính Sách Chia Để Trị Của Vatican Tại Việt Nam.

5.- Với sự xúi giục và khích lệ cúa Vatican, nhóm thiêu số tín đồ Da-tô ở hải ngoại cũng như ở trong nước tìm đủ mọi cách chống đối và đánh phá Việt Nam và chính quyền ta. Bằng chứng rõ rệt nhất cho sự thật này là vào ngày 15/3/2001, tại Giáo Phận Orange County, California, vị Bộ Trưởng Bộ Thánh Vụ Truyền Giáo trong Giáo Triều Vatican là Giám-mục Nguyễn Văn Thuận đưa ra lời tuyên bố có nội dung mang nặng tính cách khích lệ và xúi giục tín đồ Da-tô người Việt tại hải ngoại cũng như ở trong nước nổi loạn chống chính quyền. Chuyện này đã được nói rõ ở Chương 2 ở trên. Một lần nữa, xin ghi lại đây lời tuyên bố vô liêm sỉ này để độc giả dễ dàng nhìn ra bộ mặt thật ghê tởm của Tòa Thánh Vatican. Dưới đây là nguyên văn lời tuyến bố vô liêm sỉ này của viên Bộ Trưởng Bộ Thánh Vụ Tuyền Giáo của giáo triều Vatican Giám Mục Nguyễn Văn Thuận"“Vatican không nói, mà làm. Làm ra sao thì cứ nhớ lại biến cố Đông Âu thì rõ.”

Trong khi tổ quốc và dân tộc ở quê nhà bị lâm vào tình cảnh thử thách khó khăn như vậy, thì ở hải ngoại, tiín đồ Da-tô cuồng tín người Việt không những đã không làm gì để góp sức với đại khối dân tộc ở trong nước để chống đờ giặc thù và ổn định tình thế, không những đã không tỏ ra một chút thương cảm cho quê hương đất nước bị thù trong giặc ngoài đánh phá, mà họ còn tỏ ra hân hoan vui mừng sung sướng, mưu đồ đánh hôi, gây thêm khó khăn cho tổ quốc và chính quyền để mưu đồ bất chính. Dưiới đây là những hành động vô liêm sĩ phản dân tộc phản tố quốc của họ:

1.- Năm 1979, khi tin Quân Xâm Lược Trung Hoa tràn qua biên giới Việt Hoa, tấn công và tàn phá các tỉnh ven biên của tổ quốc Việt Nam, thì bọn người này ở hải ngọai lại hồ hởi ăn mừng.

2.- Năm 2003, khi hay tin nhóm thiểu số Tin Lành người Việt cấu kết với một nhóm người thuộc một vài sắc tộc thiểu số ở Tây Nguyên nổi loạn đòi thành lập xứ Tây Nguyên, thì cũng chính bọn người cuồng nô vô tổ quốc “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” này lại tỏ ra vô cùng hân hoan vui mừng. Tệ hơn nữa, các cơ quan truyền thông của những người vong bản này ở hải ngọai còn hô hào ủng hộ những phẩn tự phản động và phản quốc trong tổ chức nổi loạn trên đây và lên án chính quyền Việt Nam vì đã thẳng tay trừng trị bọn phản lọan đội lốt tôn giáo này để đánh phá tổ quốc Việt Nam.

3.- Cũng trong năm 2003, ngay sau khi Hoa Kỳ xua quân tấn công vào lãnh thổ nước Irak vào tháng 3 năm 2003, thì tháng 7 năm đó, bọn người Việt hải ngọai vong bản này lại hí hửng đón gió, thành lập cái gọi là “Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation”, rủ nhau đến họp hành ở Tòa Nhà Civic Center trong thành phố Wesminster (California), cùng sọan thảo một bản thỉnh nguyện thư gửi ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, khẩn khoản yêu cầu tổ chức quốc tế này cưỡng bách chính quyền Việt Nam hiện nay phải tái lập tình trạng Việt Nambị chia đôi như thời 1954-1975 với hy vọng sẽ được Mỹ đưa về Việt Nam nhẩy lên bàn độc để tíếp tục làm tay sai cho Vatican và đè đầu cới cổ nhân dân ta như thời chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu trong những năm 1954-1975.

Cũng nên biết là phần lớn những người trong tổ chức này là những tín đồ Da-tô, cũng là những người có bằng cấp đại học và đã từng nắm giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền miền Nam truớc ngày 30/4/1975. Vấn đề này đã được người viết trình bày đầy đủ nơi Chương 1 trong cuốn “Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation” (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004).

4.- Năm 2005, khi tòa án Liên bang Hoa Kỳ bác đơn khiếu nại của chính phủ Việt Nam về việc “Trong thời gian từ năm 1962 đến 1971, quân đội Mĩ rải khoảng 77 lít chất độc da cam xuống miền và Nam Trung Việt, gây ảnh hưởng va tác hại đến môi trường của 2.63 triệu mẫu tây và gần 5 triệu người sống trong 25,585 thôn ấp[ii] , thì bọn người vong bản, phản quốc này và đồng bọn lại tỏ ra hí hửng vui mừng như là một đại thắng lợi của chúng.

Phần trình bày trên đây cho thấy rằng, đối với nhóm thiểu số tín đồ Da-tô cuồng tín người Việt, khi Vatican còn quyền lực ở Việt Nam, thì chúng cho là chính nghĩa quốc gia và chính quyền quốc gia (mà thực chất chỉ là chính quyền bù nhìn tay sai Vatican liên minh với đế quốc Pháp hay siêu cường Hoa Kỳ) của chúng còn tồn tại, và chúng quyết tâm chiến đấu để bào vệ cái chính quyền Việt gian này. Khi Vatican không còn quyền lực ở Việt Nam, thì chúng gọi là mất nước, rồi hè nhau tìm cách lạy lục cầu xin các thế lực phản động Âu Mỹ giúp chúng để trở về Việt Nam cầm quyền hầu có thể tiếp tục bán nước và làm tay sai cho Vatican như thời kỳ 1862-1954 trên toàn thể lãnh thổ và thời kỳ 1954-1975 ở mền Nam Việt Nam. Hành động “rước voi về giầy mả tổ” như vậy được chúng gọi là “phục quốc”. Điều đáng buồn là trong cái đám người sử dụng từ “mất nước” ở vào trương hợp này lại có cả bọn phản động phong kiến, bọn lưu manh hoạt đầu chính chính trị đội lốt là “người Việt Quốc Gia” và bọn lưư manh xu thời đón gió. Tất cả những hạng người này đều bị đại khối nhân dân Việt Nam lên án là những quân vong bản phản dân tộc và phản quốc.

¨

Nhìn lại thời kỳ từ năm 1858 đến ngày 30/4/1975, đất nước Việt Nam trải qua không biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đây cũng là thời kỳ đau thương buồn thảm nhất của tổ quốc và dân tộc:

1.- Tài nguyên đất nước bị cướp đọat.

2.- Hàng trăm ngàn mẫu đất bờ xôi ruộng mật bị Giáo Hội La Mã chiếm đoạt làm của riêng của Giáo Hội.

3.- Những mảnh đât ngon lành nhất trong các thành phố, trong các tỉnh lỵ, trong các thị trấn bị chiếm đoạt để xây cất nhà thờ, chủng viện, tu viện, và các cơ sở kinh tài khác của Giáo Hội.

4.- Chùa chiền đình miếu bị phá huỷ và nền đất bị cướp đọat để xây nhà thờ và các cơ sở khác của Vatican.

5.- Dân bị bóc lột tận xương tận tủy cả về vật lực và nhân lực:

a.- Về vật lực: Dân tabij cưỡng bách phải đóng những thứ thuế phi nhân dã man nhất trong lịch sử loài người như thuế thân, thuế muối và nhiều thứ thuế vô lý khác,

b.- Về nhân lực: dân ta bị cưỡng bách phải đi làm lao nô phục dịch cho các công trường xây hàng ngàn dinh thự của các quan lớn quan nhỏ trong bộ máy cai trị của của bọn thực dân xâm lược Pháp và Vatican, hàng ngàn ngồi nhà thơ to lớn vĩ đại với những tháp chuông cao chót vót lên đến tận lưng trời.

6.- Dân ta bị xô đảy vào thảm cảnh đói khổ triền miên và, thảm thương nhất là hai triệu người chết đói trong mấy tháng mùa xuân năm Ất Dậu 1945. .

7.- Dân ta bị chèn ép, bị kỳ thị, bị bách hại, bị sát hại với hơn 300 ngàn nạn chết tức tưởi trong những chiến dịch “làm sáng danh Chúa” trong những năm 1955-1963.

8.- Dân ta bị khinh rẻ, bị coi như là những quân “mọi rợ: những hạng người “vô đạo” và những quân “tà giáo” và bị coi như chó như ngựa.

9.- Nền văn hóa cổ truyền của dân tộc chà đạp, bị nhục mạ. Sách "Vatican Thú Tội và Xin Lỗi" viết:

“Trọng tội của Giáo Hội không phải là nguồn phúc lộc bình an dưới thế! Ngược lại, và riêng Việt Nam, Giáo Hội chống phá đạo hiếu, phế bỏ bàn thờ tổ tiên, chà đạp văn hiến dân tộc Đại Việt, gọi tôn giáo bản địa là thờ Bụt Thần Ma quỷ… Giáo Hội chia hai dân tộc Việt Nam là dân có đạo là dân riêng của Giáo Hội, và dân vô đạo là dân ngoại đạo theo tà thần, tạo dựng thành kiến kỳ thị rất sâu đậm và thô bạo.. Đức Hồng Y Hà Nội Phạm Đình Tụng xác minh trọng tội này của Giáo Hội trong bài tham luận đọc tại Roma vào năm 1998, có Đức Giáo Hoàng đương kim (John Paul II) ngồi dự thính.” [iii]

Nói làm sao hết được thảm cảnh của dân ta trong nỗi nhục nhằn vong quốc trong thời gian 1858-1975 này! Chính vì vậy mỗi người dân Việt đều mang một con tim sôi máu, bao nhiêu triệu người dân Việt là bấy nhiêu con tim sôi máu, ngoại trử (1) nhóm thiểu số tín đô Da-tô cuồng tín “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, (2) nhóm thiểu số phản động phong kiến, (3) bọn lưu mạnh hoạt đầu chính trị và (4) bọn lư manh xu thời đón gió.

(Cũng nên biết ba nhóm người thiểu số trên đây tự phong là “người Việt Quốc Gia” rêu rao là chiến đấu cho cái mà chúng gọi là “chính nghĩa quóc gia” dưới lá “cờ vàng ba sọc đỏ” do Liên Minh Pháp – Vatican đạo diễn và cho ra đời vào ngày 5/6/1945 để làm bức bình phong che đậy cho chính sách chia để trị, dùng người Việt đánh người Việt và dùng tín đồ Da-tô làm tay sai để cai trị đại khối nhân dân người Việt thuộc các tôn giáo khác. Vấn đề này đã được trình bày khá đầy đủ trong Mục XV với tựa đề là Chính Sách Chia Để Trị của Vatican tại Việt Nam, Phần V trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.)

Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Đứng trước những thảm cảnh như đã nói trên đây, từ năm 1858, đặc biệt nhất là từ mùa thu năm 1945, hàng triệu con tim sôi máu đã cương quyết lên đường đi đòi lại công lý, đòi lại quyền làm người và đòi lại núi sông cho dân tộc:

Trong mắt tôi đã thấy,

Dân tôi:

Người trước nối người sau,

Tay trong tay kết chặt một vòng,

Đi đòi lại núi sông trong tay giặc

"Thế giặc mạnh lấy gì mà chống đỡ?"

Lời Diên Hồng vạn tiếng quyết tâm.

Phải trải xương,

Phải đỏ máu với quân thù

Phải đoàn kết triệu bước chân dấn bước,

Từ sông Hồng xuôi về sông Cửu,

Từ đồng bằng nối mãi tới Trường Sơn.

Khắp non sông vang dội bước quân hành

Tay giáo mác và con tim sôi máu.

Trong ánh mắt triệu niềm tin rực sáng

Buổi quân về giải phóng Việt Nam.

Quê hương tôi hôm nay đã thấy

Những mẹ già chị gái

Làm hậu cần nuôi quân,

Những thanh niên hôm nay

Đã làm anh kháng chiến,

Những em bé mười lăm

Gánh vai trò liên lạc.

Cả nước đồng một lòng

Đứng lên tiêu diệt giặc.

Lời réo gọi của non sông đất nước:

Các anh

Xin đứng dậy

Lên đường!

(Nguyễn Tố Chi)

Cũng vì những "con tim sôi máu" mà họ tự nguyên đến với nhau và kết hợp thành một đại gia đình bộ đội và đối xử với nhau trong tình "huynh đệ chi binh", không hề có chuyện cấp trên gọi cấp dưới là "thằng" là "mày", là "mi" và xưng "tao" với cấp dưới. Và cũng vì "con tim sôi máu" nung nấu ý chí diệt thù đi đòi lại núi sông cho dân tộc, cho nên mới có những anh hùng như Hoàng Văn Nô[iv] lăn xả vào địch, dùng lưỡi lê đâm địch rồi ôm chặt lấy địch cùng chết với địch để cho đồng đội tiến lên hòan thành nhiệm vụ, như Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Chức nhào ra nằm xuống lấy thân xác làm sức cản bánh xe súng cao xạ để khỏi rơi xuống vực sâu trong khi chuyển súng tới nơi bố trí, mới có Trần Oanh lao vào sát tường lô cốt gắn bộc phá, giật sập ổ súng đại liên của địch, mới có Phan Thành Giót trườn lên dưới làn đạn tiến tới ném lựu đạn vào lỗ châu mai, làm tê liệt hỏa lực đối phương để mở đường cho đồng đội xung phong, mới có Trần Cừ [v] liều thân lao mình vào bịt họng súng đại liên của địch cho đồng đội tiến lên, mới có La Văn Cầu đã bị thương gẫy một cách tay mà còn ôm bom chạy nhào tới mục tiêu để hoàn thành nhiệm vụ: “Đòi lại núi sông cho dân tộc”..

Mặt khác, cũng trong thời kỳ 1858-1975 này, nhóm tín đồ Da-tô đã tỏ ra vô cùng sung sướng và hết sức hồ hởi triệt để tuân hành lệnh truyền của đấng bề trên nhẩy ra tích cực tiếp tay cho quân cướp xâm lăng vừa để được vinh thân phì gia, vừa để phục vụ cho Tòa Thánh Vatican trong sứ mạng mở mang nước Chúa. Vấn đề này sẽ được trình bày rõ ràng và đầy đủ ở nơi Chương 7 ở trên..

Tình trạng này đã gây nên một sự hoàn toàn trái ngược về tư duy, thái độ, hành động cũng như quan niệm về sự tồn vong của đất nước và dân tộc giữa một bên là tuyệt đại đa số nhân dân theo nền đạo lý tam giáo cổ truyền và một bên là nhóm thiểu số tín đồ Da-tô. Những khi đại khối nhân dân ta hân hoan đón mừng nhừng ngày vui của dân tộc, thì họ (nhóm thiểu số tín đồ Da-tô) coi những ngày này như là những ngày buồn thàm nhất đối với họ. Đó là những ngày:

1.- Ngày 19//8/1945: Vào ngày này, toàn dân ta quyết tâm vùng lên phất cờ khời nghĩa đánh đuổi quân cướp ngoại thù Nhât Bản và Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc.

2.- Ngày 2/9/1945: Vào ngày này, chính quyền của nhân dân ta dưới quyền lãnh đạo của Cụ Hồ Chí Minh tuyên bố với nhân dân thế giới rằng kể từ đây, nhân dân nước Việt Nam đã thoát khỏi ách thống trị của người Nhật, thoát khỏi ách thống trị của Liên Minh Pháp – Vatican, cương quyết đứng lên liều chết để bảo vệ quyền độc lập của dân tộc và quyền làm người vừa mới giành lại được.

3.- Ngày 7/5/1954: Vào ngày này, toàn thể nhân dân Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh đánh bại Liên Quan Pháp – Vatican tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khiến cho Liên Minh Pháp – Vatican phải tan rã và đế quốc Pháp phải công nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam rồi cuốn gói ra đi. Đại chiến công này giống như đại chiến công của quân dân ta dưới quyền lãnh đạo của Đại Đế Quang Trung đánh bại đạo quân Thanh tại trận Đông Đa vào ngày 5 Tết năm Kỷ Dậu 1789, khiến cho toàn bộ 280 ngàn quân giặc phải hối hả bỏ chạy vè Tầu. .

4.- Ngày 30/4/1975: Vào ngày này, đai quân miền Bắc tiến vào thủ đô Sàigòn, khiến cho Liên Minh - Mỹ - Vatican phải tan rã, Mỹ phải cuốn gói ra đi, quân đội và chính quyền quân phiệt Da-tô tay sai của Liên Minh Mỹ - Vatican rã ngũ tan hàng. Nhờ vậy nước nhà được thống nhất, và quyền lực của Vatican ở Việt Nam cũng chấm dứt kể từ đây. Ta có thể ví ngày này của dân tộc ta giống như:

a.- Ngày 9/4/1865 của dân tộc Hoa Kỳ, ngày mà Tướng Robert E. Lee, Tư Lệnh Quân Đội Miền Nam, thân hành đến tòa nhà tư pháp của làng Appomattox đầu hàng Tướng Ulysses Grant, Tư Lệnh Quân Đội miền Bắc, mang lại thống nhất cho đất nước Hoa Kỳ kể từ đó,

b.- Ngày 20/9/1870 của dân tộc Ý Đại Lợi. Vào ngày này, Quân Đội Cách Mạng Ý dưới quyền lãnh đạo của nhà cách mạng anh hùng dân tộc Ý là Giuseppe Garibaldi đem đại pháo nã vào Tòa Thánh Vatican khiến cho Giáo Hoàng Pius IX (1846-1878) phải kéo cờ trắng đầu hàng vô điều kiện. Nhờ vậy mà các tiểu quốc nằm dưới quyền trực trị của Vatican (papal states) thoát khỏi ách thống trị tham tàn bạo ngược của “bọn quạ đen” và đất nước Ý được thống nhất kể từ đó. Chuyện này đã được trình bày khá đầy đủ trong một chương sách có tựa đề là Cuộc Chiến Chống Vatican để Thống Nhất Đất Nước của Dân Tộc Ý (trong Mục XXVI, Phần VII) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.

Cũng nên biết, sau ngày 30/4/1975, theo gương chính quyền Cách Mạng Pháp 1789, chính quyền cách mạng Việt Nam ban hành biện pháp quốc hữu hóa khối bất động sản kếch sù của Giáo Hội ở miền Nam Việt Nam, vì rằng khối tài sản khổng lồ này là do Giáo Hội đã ăn cướp được của nhân dân ta từ năm 1862 cho đến ngày 30/4/1975. Thi hành biện pháp này, chính quyền Việt Nam chỉ làm công việc bắt buộc phải làm là xử lý những kẻ có tội với tổ quốc và dân tộc Việt Nam theo nguyên tắc “Trả lại cho Caesar cái gì của Caesar.” (Render into Caesar the things that are Caesar’s) mà thôi!.

Có thể vì Giáo Hội La Mã đã mất hết quyền lực và mất hết đặc quyền đặc lợi ở Việt Nam cho nên tín đồ Da-tô người Việt mới gọi ngày 30/4/1975 là “ngày mất nước”, “ngày quốc nhục” và những ngày 19/8/1945, 2/9/1945, 7/5/1954 là những ngày buồn thảm đau thương. Cũng từ ngày 30/4/1975, họ tự coi như là những người mất nước. Chúng ta có thể thấy rõ tình trạng nói ngược này trong những sách báo, trong các băng nhạc do các trung tâm sản xuất băng nhạc Asia và Paris By Night, Mây Production, v.v… và trong những ngôn từ họ sử dụng khi họ giao dịch với nhau qua thư từ hay khi nói chuyện với nhau.

Trong thực tế, tín đồ Da-tô người Việt và băng đảng lưu manh xu thời không phải chỉ nói ngược khi chúng sử dụng từ kép”mất nước”. Nếu để ý đến những từ ngữ họ sử dụng như dân chủ, tự do, tự do tôn giáo, nhân quyền, lòng ái quốc, mất nước, Việt gian v.v…, rồi kiểm chứng cung cách hành xử của chúng, chúng ta sẽ thấy, tất cả đều bị chúng cưỡng từ đoạt lý, nghĩa là hoàn toàn trái ngược với những định nghĩa trong tự điển, trái ngườc với truyền thống của dân tộc, trái ngược với ngôn ngữ của xã hội loài người, trái ngược với ý nghĩa thông thường đuợc mọi người công nhận, trái ngược với công lý (commom sense) và trái ngược với cả cung cách hành xử của chính chúng, nhưng lại rất thích hợp và rất đúng với xã hội “con chiên” hay “con cừu” của chúng. Bằng chứng là:

1.- Việt Nam ngày nay đã hoàn toàn độc lập. Chính quyền do người Việt Nam lãnh đạo. Nước Việt Nam đang trên đường canh tân hóa đất nước, dân chủ hóa chính quyền. Cả thế giới cùng công nhận Việt Nam là một nược độc lập theo chế độ cộng hòa chủ nghĩa và đã có chỗ ngồi trong Liên Hiệp Quốc sánh vai cùng với gần hai trăm quốc gia hội viên trong tổ chức này. Ấy thế mà chúng vẫn cho rằng “mất nước”. Trong cuốn băng Paris By Night 90, ông MC Nguyễn Ngọc Ngạn, một trí thức Da-tô, vừa là nhà văn, vừa là nhà giáo mà vẫn dùng từ “mất nước”, giống như những người ít học hay vô học trong cộng đồng Da-tô thường sử dụng.

2.- Chúng gọi những người suốt đời hy sinh cho đại cuộc đánh đuổi Liên Quân Xâm Lược Pháp Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc và những người chiến đấu cho đại cuộc thống nhất đất nước trong những năm 1954-1975 là “Việt gian”. Ngược lại, chúng lại tôn vinh thằng phản thần tam đại Việt gian Da-tô Ngô Đình Diệm lên là “chí sĩ yêu nước”, là “nhà ái quốc đã chết vì dân (Da-tô)”, bất kể là nhà các viết sử thế giới đều gọi nó là thằng bù nhìn làm tay sai cho Mỹ và cho Vatican, bất kể là trong cuốn sử Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004), sử gia Nigel Cawthorne đã ghi nhận thằng tam đại Việt gian họ Ngô này là một trong số 100 tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại.

3.- Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô của Giáo Hội vẫn lớn tiếng cao rao tranh đấu cho tự do tôn giáo cho Việt Nam, nhưng nếu có một người nào thuộc một tôn giáo khác muốn thành hôn với người yêu là tín đồ Da-tô, thì người đó lập tức bị đòi hỏi phải từ bỏ tôn giáo cổ truyền của gia đình, phải đi học giáo lý, phải làm lễ rửa tội theo đạo Da-tô, rồi mới được làm lễ thành hôn ở nhà thờ. Cũng vì thế mà trong buổi Hội Thảo Liên Tôn Việt Mỹ được tổ chức tại San José, California vào ngày 15/10/1994, Bà Ngọc Tuyết Tiên đã phải nghẹn ngào nói cho mọi người biết rằng:

"Tôi rất đau buồn suốt mấy chục năm qua khi thấy những mối tình duyên bất thành giữa nhiều đôi trẻ, phần lớn do cha mẹ Thiên Chúa Giáo quá khắt khe buộc dâu, rể theo các đạo khác phải đi nhà thờ rửa tội, xưng tội; đã có nhiều trường hợp đôi bạn trẻ phải ly di hoặc quyền sinh." [vi]

4.- Vatican và tín đồ Da-tô vẫn lớn tiếng cao rao tranh đấu cho nhân quyền cho các dân tộc sống trong các chế độc độc tài.. Ấy thế mà vào tháng 8/2001, chính Giáo Hoàng John Paul II lại cưỡng bách Giám-mục Giám-mục Emmanuel Milingo 71 tuổi phải từ bỏ bà vợ Maria Sung 43 tuổi [mới cưới đã được gần ba tháng dù rằng cặp tân lang và giai nhân này đã có làm lễ cưới trước bàn thờ Chúa Jesus trong một ngôi giáo đương của một hệ phái Tin Lành.

5.- Vatican và tín đồ Da-tô vẫn lớn tiếng cao rao tranh đấu cho tự do dân chủ cho Việt Nam, nhưng chính bản thân Vatican lại là một quốc gia theo chế độ tăng lữ, quân chủ chuyên chính toàn trị, một chế độ cực kỳ chuyên chế, cực kỳ phong kiến và cực kỳ lạc hậu.

6.- Vatican và tín đồ Da-tô của Giáo Hội La Mã vẫn lớn tiếng cao rao tranh đấu cho tự do dân chủ, nhưng tín đồ Da-tô người Việt ở Bắc Mỹ không bao giờ tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận của những người bất đồng chính kiến với họ. Chúng sử dùng tất cả các phương tiện truyền thồng như báo giấy, báo điện tử, truyền thanh, truyền hình và rỉ tai để chửi bới, vu khống, sỉ vả, xoi mói vào đời tư các tác giả có tác phẩm nói lên những sự thật trong lịch sử trong đó có những sự thật về những việc làm đại gian đại ác của Giáo Hội trong gần hai ngàn năm qua hay những sự thật về các chế độ đạo phiệt Da-tô tay sai của Giáo Hội. Cũng vì thế mà tất cả anh em trong nhóm Giao Điểm đã trở thành những nạn nhân của chúng từ giữa thập niên 1990 cho đến nay. Chúng cũng hành động thô bạo và mọi rợ như vậy đối với (1) những người Việt hải ngoại trở về thăm quê hương hay cư ngụ ở Việt Nam (trường hợp các ông Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy,và rất nhiều người khác), (2) những văn nghệ sĩ người Việt hải ngoại về Việt Nam trình diễn và những văn nghệ sĩ từ trong nước ra hải ngoại trình diễn, và (3) tờ báo có chủ trương thông tin và nghị luận trung thực phản ảnh đúng theo lương tâm của nhà báo trong một quốc gia theo chế độ tự do dân chủ như ở Bắc Mỹ và Tây Âu. Nạn nhân gần đây nhất của họ là tở Viet Weekly ở Westminster, California từ tháng 7/2007 cho đến nay. Sẽ nói rõ hơn ở phần dưới.

Tạm kể sơ sơ năm (6) trường hợp điển hình trên đây để quý vị thấy rõ là Vatican hay Giáo Hội La Mã và tín đồ của Giáo Hội có cái bản chất ăn nói và hành động ngược ngao, nói một đàng làm một nẻo.

Tóm lại, phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ ràng là tất cả những tín lý, giáo luật, lời dạy và truyền thống hay tập tục trong đạo Da-tô dù là đã có sẵn ở trong Cựu Ước hay Tân Ước, dù là do chính Giíao Hội La Mã đặt ra từ ngày 20/5/325, tất cả đều ngược ngạo, trái ngược với công lý (human laws), trái ngược với công đạo (common sense), trái ngược với nhân tính (human characters), trái ngược với tình người (human feelings), trái ngược với lẽ phải, trái ngược với lương tâm, trái ngược với nhân luân, trái ngược với đạo lý, trái ngược với nhân quyền, trái ngược với khoa học, trái ngược với đà tiến của nhân loại, trái ngược với nền văn minh của xã hội loài người, trái ngược với thể chế dân chủ tự do, trái ngược với tất cả nguyên tắc đạo lý của xã hội Đông Phương như hiếu, trung, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, v.v… Nếu có điều nào đồng thuận với công lý, công đạo hay đồng thuận với bất cứ điều gì trong xã hội văn minh của loài người, thì đó chỉ lả:

1.- Huênh hoang, khoác lác, khoa trương để lừa bịp người đời mà Giáo Hội thường cao rao như:

a.- Giáo Hội La Mã là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và trông truyền” và là “Hiền Thê của Thiên Chúa Hiện Làm Người”.

b.- Đạo Da-tô là “đạo của bắc ái, đạo của tình thương.

c.- Tranh đấu cho dân nghèo và giai cấp lao động.

d.- Tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo cho nhân dân Việt Nam.

e.- Tranh đấu cho dân chủ tư do cho nhân dân Việt Nam.

2.- Bắt chước và nhận vơ là của Giáo Hội La Mã như:

a.- Điều răn nói về đạo hiếu của con cái đối với cha mẹ (trong Mười Điều Răn)

b.- Phong thánh cho bà Jean D’ Arc (1412-1431) để nhận vơ người nữ anh hùng này của dân tộc Pháp là bà thánh của Giáo Hội, và

c.- Nhân vơ nền văn minh Tây Phương là nền văn minh Thiên Chúa Giáo.

Sở dĩ có tình trạng ngược ngạo và quái đản như vậy là vì chủ trương bất di bất dịch của Giáo Hội là muốn bơi ngược dòng lịch sử, dùng bạo lực (dựa vào bạo lực của cường quyền hay của các đế quốc thực dân xâm lược Âu Mỹ) để cưỡng bách các dân tộc nạn nhân phải làm nô lệ và phải sống theo những điều ngược ngạo trên đây của Giáo Hội. Bằng chứng rõ ràng và hùng hồn nhất cho sự thật này là việc Giáo Hội ban hành Sắc Chỉ Pontifex Romanus và ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455)[vii] và các sắc chỉ hay thánh lệnh khác được ban hành tiếp theo sau đó như Inter Caetera được ban hành vào năm 1456 trong thời Giáo Hoàng Callistus III (1455-1458), Aeterni Regis được ban hành vào năm 1481 trong thời Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1482), Inter Caetera, Examinae Devotions và Dudun Siquidem được ban hành vào hai năm 1493 và 1494 trong thời Giáo Hoàng Alexander VI (1493-1503).[viii]

Căn cứ vào chủ trương và những hành động ngược ngạo của Giáo Hội và của tín đồ Da-tô cuồng tín như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể nói, “Đừng tín những gì Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô nói, mà hãy nhìn vào những gì họ làm.” (Nhại theo lời tuyên bố của một nhân vật lãnh đạo chính quyền Miên Nam trong những năm đầu của thập niên 1970.)

XVI .- TRÌNH ĐỘ KIẾN THỨC CÙNG CUỘC ĐỜI

BẤT LƯƠNG VÀ ĂN BÁM XÃ HỘI CỦA GIỚI TU SĨ DA TÔ

Trong các chương sách ở trên, chúng tôi đã trình bầy (1 về nguyên nhân khiến cho tín đồ Da-tô nói láo như cuội, và về (2) về phương cách tạo cơ hội cho các ông tu sĩ của Giáo Hội hủ hóa để giải quyết vấn đề sinh lý bị dồn ép. Dưới đây xin nói về trình độ kiến thức cũng như cuộc đời bất lương và ăn bám của các ông tu sĩ Da-tô. Về vấn đề này, điều chắc chắn là không ai biết rõ bằng các ông trí thức Da-tô. Trong cuốn sách Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Chúa, học giả Da-tô Charlie Nguyễn nói về trình độ kiến thức hiểu biết của các ngài tu sĩ Da-tô như sau:

“Cái gọi là sự học vấn của các trường tôn giáo hoặc sự uyên bác của học sĩ Ulama thực chất chỉ là môn học “tán hươu tán vượn” về những điều huyền hoặc của thần học (theology). Thần học Hồi Giáo cũng tương tự như thần học của Do Thái Giáo hoặc Ki-tô Giáo. Thần học là một môn học đầy tính chất hoang tưởng, viển vông và nhảm nhí. Càng đi sâu vào thần học, con người càng lún sâu vào “ốc đảo tâm linh”, xa rời thực tế và đầy đặc những định kiến sai lầm. Những mảnh bằng “Tiến Sĩ Thần Học” là những giấy chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ đến khi có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm thấy xấu hổ là đã được cấp những mảnh bằng về thần học mà thôi.” [ix]

Về cuộc đời bất lương và ăn bám xã hội của giới người này, ông viết:

Hầu hết các tu sĩ là những kẻ đại gian đại ác ngụy trang dưới lớp áo đen, áo đỏ, áo trắng đóng vai đạo đức giả phỉnh gạt tín đồ. Bề ngoài, họ làm ra vẻ thuận thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ, họ ganh tị tranh đua nhau và sẵn sàng hạ thủ nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng đủ mọi thủ đoạn để bòn rút tiền bạc xương máu của giáo dân, để xây nhà thờ nguy nga đồ sộ chỉ cốt để họ được vênh vang với đời. Mái nhà thờ của họ càng rộng lớn bao nhiều, càng che khuất ánh sáng mặt trời chân lý bấy nhiêu. Các bức tường của nhà thờ càng cao bao nhiêu càng ngăn cách giữa con người với nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội. Họ tội lỗi cùng mình lại nắm quyền tha tội cho đám tín đồ vô tội hoặc ít tội hơn họ. Họ thực sự là một bọn ăn cướp nguy hiểm hơn bọn cướp thường vì những kẻ cướp thường đều bị luật pháp trừng trị. Trái lại, bọn cướp đội lốt giáo sĩ lại được giáo dân tôn kính, đi lại tự do vênh váo và được xã hội tâng bốc là “những vị lãnh đạo tinh thần”. Tất cả các tệ nạn này đều phát xuất từ sự thiếu hiểu biết của đại đa số giáo dân. Do vậy, việc giáo dục khai sáng tâm linh là vô cùng cần thiết để cứu nước và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất cao đẹp của dân tộc ta mà tuyệt đối đa số giáo dân không hề biết tới.”[x]

XVII.- KẾT LUẬN:

TU SĨ VÀ TÍN ĐỒ DA TÔ LÀ NHỮNG QUÂN VONG BẢN

PHẢN QUỐC CỰC KỲ NGƯỢC NGẠO

Căn cứ vào sự dạy dỗ các tín đồ của Giáo Hội La Mã như:

Phải tuyệt đối tin tưởng và trung thành với Tòa Thánh Vatican”

“Phải triệt để vâng lời tuân hành lệnh truyền của các đấng bề trên” ,v.v….

“Chỉ công nhận quyền lực của Tòa Thánh Vatican, chỉ công nhận các chính quyền Liên Minh với Tòa Thánh Vatican và các chính quyền bù nhìn làm tay sai cho Vatican hay các thế lực liên minh với Vatican.”

Căn cứ vào những hành động xấc xược, ngược ngạo, hiếu sát, khát máu, lấn lướt, vơ vào và tàn ngược của tín đồ Da-tô Âu Châu trong thời Trung Cổ,

Căn cứ vào những việc làm tàn ác dã man của tín đồ Da-tô người Pháp trong vụ tàn sát khoảng hai chục (20) ngàn tín hữu Tin Lành người Pháp vào ngày 22/8/1572 mà sách sử gọi là “the St. Bartholomew’s Day Massacre of 1572”,

Căn cứ vào những hành động dã man của tín đồ Da-tô người Ái Nhĩ Lan tàn sát nhiều ngàn người Tín Lành Ái Nhĩ Lan và hành hạ họ một cách cực kỳ dã man trước khi sát hại họ,

Căn cứ vào những hành động dã man và tàn ngược của tín đồ Da-tô người Croatia đã tàn sát tới gần 800 ngàn tín đồ Do Thái Giáo, Chính Thống Giáo và Hồi Giáo ở Croatia trong những năm 1941-1945,

Căn cứ vào những hành động dã man và tàn ngược của tín đồ Da-tô người Việt trong thời kỳ từ năm 1858 cho đến năm 1954 (trên toàn lãnh thổ), đặc biệt là trong những năm 1954-1975 họ đã tàn sát tới hơn 300 ngàn người ở miền Nam Việt Nam,

Căn cứ vào những hành động dã man và tàn ngược của tín đồ Da-tô người Rwanda và chế đọ đạo phiệt Da-tô của Giám-mục Augustin Misago trong vụ tàn sát khoảng 800 ngàn người Tutsis ở Rwanda trong năm 1994.

Căn cừ vào những hành động ngạo ngược và dã man của tín đồ Da-tô người Việt ở Bắc Mỹ từ cuối thập niên 1970 cho đến ngày nay,

Căn cứ vào hành động ngược ngạo và dã man của tín đồ Da-tô người Cuba trong vụ bắt giữ em bé Alian vào năm 2000 để làm con cờ chính trị, không cho em bé này trở về sống với cha ruột của em ở Cuba,

Căn cứ vào những hành động của tín đồ Da-tô người Pháp nổi loạn chống lại chính quyền Cách Mạng 1789 Pháp và nước Pháp để tiếp tay cho Liên Minh Thánh Phổ - Áo- Anh – Nga – Vatican trong những năm 1792-1815,

Căn cứ vào những hành động của tín đồ Da-tô người Việt đã cấu kết với các thế lực ngoại cường Pháp, Vatican và Hoa kỳ để chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ thập niên 1780 cho đến ngày nay,

Chúng ta có thể kết luận rằng, tất cả tín đồ Da-tô ngoan đạo của Giáo Hội La Mã ở vào bất kỳ thời điểm nào và ớ bất cứ nơi nào trên thế giới, cũng đều là những người không còn khả năng sử dụng lý trí để nhận ra được sự khác biệt giữa đúng và sai, giữa phải và trái. Họ đã trở thành những người mất hết lương tâm và cực kỳ vô liêm sỉ, đã trở thành những quân vong bản, phản quốc với những ác tính hết sức ngược ngạo, hết sức hung dữ, hết sưc háo sát, cực kỳ gian dối, cực kỳ tham tàn, cực kỳ thô bạo, cực kỳ sống sượng, ưa thích lấn lướt, vơ vào và cực kỳ bạo ngược. Tùy theo tình hình hay thời thế, những ác tính này của chúng sẽ thể hiện ra thành hành động cụ thể vào những khi hoàn cảnh mà chúng cho rằng đủ mạnh để hành động. Thực trạng này đã được sử gia Loraine Boettner ghi nhận mà chúng tôi đã ghi lại ở trên, xin ghi lại đây một lần nữa để độc giả dễ dàng nhận ra:

Rome in the minority is a lamb (Khi là thiểu số, Giáo Hội La Mã là con cừu).

Rome as an equal is a fox (khi ngang số, Giáo Hội La Mã La Mã là con cáo).

Rome in the majority is a tiger (khi chiếm đa số, Giáo Hội La Mã là con cọp).

Sau ngảy 30/4/1975, tất cả những người Việt hải ngoại ở Bắc Mỹ và Âu Châu đều đã được sống trong các chế độ tự do dân chủ, tự do học hỏi, tự do vào các thư viện tìm đọc sách sử thế giới và lịch sử Giáo Hội La Mã. Nếu tín đồ Da-tô người Việt chịu khó vào các thư viện, tìm đọc lịch sử thế giới và tìm hiểu những tài liệu nói về những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã, thì họ đã có thể nhìn ra bộ mặt thật cực kỳ ghê tởm của Giáo Hội La Mã. Đây là những trường hợp của các ông Charlie Nguyễn, Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ, ông Phạm Hữu Tạo và hành ngàn tín đồ Da-tô người Viểt khac nữa.

Bộ mặt thật của Giáo Hội La Mã ghê tởm như thế nào?

Xin thưa, Giáo Hội La Mã ghê tởm ở chỗ chuyên nghề sử dụng những chuyện hoang đường được mệnh danh là những "tín lý Ki-tô" để mê hoặc người đời rồi lùa những nạn nhân dại đột đã nghe theo Giáo Hội vào cái tròng Ki-tô (Catholic loop), rồi giam nhốt họ trong "cái ngục tù ngu dốt" và kìm hãm họ mãi mãi ở trong tình trạng bán khai để lợi dụng họ (1) làm hậu thuẫn cho Giáo Hội tiếm đoạt chính quyền tại các địa phương vào khi con số tín đồ đã đạt đến mức độ mà Giáo Hội có thể trở thành con cáo hay con cọp, (2) làm những con thiêu thân trong những lực lượng xung kích gọi là những đạo quân thập tự trong những chiến dịch “làm sáng danh Chúa” với những nhiệm vụ tàn sát những nhóm dân thuộc các tôn giáo khác, tàn phá tất cả các công trình kiến trúc (đền đài, chùa chiền, đình miếu) không phải là Ki-tô giáo, thiêu hủy tất cả những sách vở và tài liệu lịch sử thuộc các nền văn hóa khác, cưỡng bách những người còn sống sót phải theo đạo Da-tô làm nô lệ cho Giáo Hội. Tất cả những việc làm bạo ngược như vậy của Giáo Hội chỉ là thể hiện đúng theo tinh thần của những lời dạy trong Cựu Ươc mà rõ ràng nhất là trong các sách Leviticus (26: 1-18), Phục Luật (6:14, 12: 2-3, 13: 6-9, 21:18-21, 22:13-23), Dân số (31:28, 31:40), Xuất Hành (12:12, 13:12, 22:18, 20), và theo tinh thần Sắc Chỉ Romanus Pontifex do chính Giáo Hội ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455).

Giang sơn dễ đổi, bản chất khó chừa. Mặc dù đã sống hơn 30 năm ở các nước tự do dân chủ như ở Hoa Kỳ với định chế "Tôn giáo phải tách rời khỏi chính quyền" và với tất cả những quyền tự do như tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do ngôn luân, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do di chuyển, tự do cư trú, v.v…, nhưng họ vẫn tự giam mình trong cái “ngục tù ngu dốt” của Giáo Hội La Mã, không dám hay không có khả năng sử dụng các quyền tự do trên đây. Họ vẫn không chịu phóng tâm mở rộng tầm mắt để học hỏi cái hay cái đẹp trong chế độ tự do dân chủ hầu có thể hành xử thích nghi với hoàn cảnh mới và cuộc sống mới ở Hoa Kỳ hay ở Bắc Mỹ. Vì thế, tâm trí họ mới vẫn còn như khi ở trong nước trước ngày 30/4/1975, chẳng tiến bộ được một chút nào cả.

Thế mới biết, đã là con chiên hay con cừu thì phải mang cái bản chất của con chiên hay con cừu, nghĩa là phải ngu dốt như con cừu, phải đi bằng bốn chân thì mới thể hiện được cái bản sắc của loài thú. Chả trách nào nhà báo Long Ân đã có lời nhận xét rất chính xác về bọn người này với nguyên văn như sau:

Con người đã nhân danh tôn giáo để làm những chuyện điên cuồng nhất, đã nhân danh tôn giáo để biện minh cho quyền lực phi nhân áp đặt lên đầu kẻ khác. Con người đã phản lại tôn giáo, đã chặt đứt cây cầu đưa đến cuộc tìm kiếm chính mình, đã cúi đầu đi trên bốn chân để từ con người trở về với nguồn gốc của con người súc sinh.”[xi]

(xem tiếp)


Chú thích Chương 8

[i] Lê Xuân Khoa, Sđd., tr.398.

[ii] Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam Và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 171.

[iii] Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 245-246.

[iv] Võ Nguyên Giáp, Sdd., trang 168 nói về trường hợp của chiiến sĩ Hoàng Van Nô, trang 217 nói về trường hợp chiến sĩ Phan Thành Giót, trang 112 nói về trường hợp của hai chiến sĩ Tô Vinh Diên và Nguyễn Văn Chức.

[v]Nghiêm Kế Tổ, Sđd. tr. 206.

[vi] Ban Nghiên Cứu Ðạo Giáo, Tạl Sao Không Theo Đạo Chúa - Tuyển Tập I (Spring, TX: TXB, 1994), tr 223.

[vii] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 14-15.

[viii] Nguyên Vũ, Ngàn Năm Soi Mặt (Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr. 389.

[ix] Charlie Nguyễn, Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2003), tr. 355-56.

[x] Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 63-64.

[xi] Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1953 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 340.

 


Trang Tôn Giáo