Tìm hiểu lịch sử Nhà thờ La Vang qua các nguồn tư liệu của Thiên Chúa Giáo nguồn: Giao Điểm Online Nguyễn Đắc Xuân | |||||||||||||||
Là tác giả bộ sách Hỏi đáp về triều Nguyễn và Huế xưa[1], qua thư từ, điện thoại, e-mail nhiều độc giả đã hỏi tôi về lịch sử Nhà thờ La Vang thuộc Giáo phận Huế. Để trả lời bạn đọc, tôi đã sưu tập được một số tài liệu và sách báo có đề cập đến lịch sử ra đời của Nhà thờ La Vang được in hoặc lưu trữ ở miền Nam Việt Nam trước và sau năm 1975, ở Roma, ở Pháp, ở Mỹ, Đài Loan, Philippines.v.v. Tài liệu đã có, tương đối phong phú nhưng rất tiếc là tất cả những tài liệu đó đều của Thiên Chúa Giáo (TCG), chưa tìm được một tài liệu thông sử nào cũng như chưa tìm được một tài liệu lịch sử nào do người ngoài TCG viết nên tôi còn chờ, chưa viết bài trả lời cho bạn đọc phổ thông được. Vì thế, bài viết của tôi giới hạn trong đề tài “Tìm hiểu lịch sử Nhà thờ La Vang qua các nguồn tư liệu của Thiên Chúa Giáo ” .
1. Đi tìm tư liệu lịch sử Nhà thờ La Vang Năm 1998, các họ đạo TCG của người Việt tại Hoa Kỳ, đã tổ chức một lễ “Tôn vinh Đức Mẹ La Vang giữa lòng Giáo-hội Hoa Kỳ” nhân kỷ niệm 200 năm diễn ra sự kiện “Đức Mẹ Maria hiện ra ở La Vang thuộc tỉnh Quảng Trị”. Theo những người tổ chức cuộc lễ nầy thì cái mốc khởi thủy của truyền thuyết Đức mẹ hiện ra ở La Vang bắt đầu vào năm 1798 thời vua Cảnh Thịnh của Phong trào Tây Sơn, trước khi Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long (1802) bốn năm. Theo tài liệu của TCG thì vua Cảnh Thịnh đàn áp người theo TCG nên Đức bà Maria hiện xuống bảo vệ an ủi con chiên ở La Vang”. Trong lúc đó TCG giúp Nguyễn Ánh/Gia Long đánh bại vua Cảnh Thịnh, theo lô-gích thông thường thì các tín đồ TCG ở La Vang thời ấy phải biết ơn vua Gia Long và ngược lại vua Gia Long phải ghi công Đức Bà đã xuất hiện ở La Vang đứng về phía Nguyễn Ánh/Gia Long. Nhưng rất tiếc trong tất cả các bộ sử của nhà Nguyễn không hề có một từ nào nhắc đến vấn đề nầy. Trong lịch sử TCG nhập vào Việt Nam từ thế kỷ XVII cho đến cuối thế kỷ XIX, không bao giờ thiếu mặt các vị Thừa sai TCG trên đất Việt, tất cả những sự việc liên quan đến việc TCG trên đất Việt đều được báo cáo về Vatican. Những báo cáo ấy liên quan đến lịch sử Việt Nam là một kho tư liệu rất quý đối với các nhà nghiên cứu lịch sử cận và đương đại Việt Nam. Việc Đức Mẹ Maria hiện ra ở La Vang nhiều lần (nếu có) vào năm 1798 là một phép lạ, một sự kiện hết sức huyền nhiệm, có ý nghĩa rất to lớn, không những đối với tín đồ TCG Việt Nam mà còn có ý nghĩa với tất cả con chiên trên toàn thế giới. Nhưng mãi cho đến nay chưa ai tìm được một báo cáo nào của các vị Thừa sai gởi về Vatican có đề cập đến La Vang cả (từ cuối thế kỷ XVIII đến đến đầu thế kỷ XX). Phải chăng sự kiện Đức mẹ Maria hiện ra ở La Vang không có thật nên không được đề cập đến trong những báo cáo của các vị Thừa sai gởi về Vatican? Nhà Huế học vĩ đại - Linh mục Léopole Cadière, người thầy của các thế hệ nghiên cứu Huế suốt thế kỷ XX cho đến ngày nay, từng làm cha sở Trí Bưu - Quản hạt Dinh Cát trong đó có nhà thờ La Vang, từng “tham gia tổ chức Đại hội La Vang vào ngày 9.8.1910 (Lê Ngọc Bích, Nhân vật Giáo phận Huế, tập II, Huế 2000, t. 42), không hề viết một dòng nào nói về sự tích Bà Maria hiện ra ở La Vang cả . Phải chăng chuyện Đức Mẹ hiện ra ở La Vang không có thật nên Linh mục Cadière là một nhà sử học chân chính không có tài liệu gì nên không viết ? Linh mục Phan Phát Huồn tác giả sách Việt Nam Giáo Sử, quyển I ( 1533-1933 ), (Cứu Thế Tùng Thư SG 1965) - Bộ sử chính của TCG ở Việt Nam (dày 608 tr.) không hề nói đến lịch sử sự tích Bà Maria hiện ra ở La Vang. Trong cuốn sách quan trọng nầy khi viết về “Công cuộc truyền giáo ở miền Trung…(1888-1933), sau ngày Thất thủ Kinh đô (7.1885) Thực dân Pháp cai trị nước ta, tác giả chỉ lưu ý một việc có liên quan đến Nhà thờ La vang là “Một sự kiện lịch sử được chú ý nhất trong thời gian nầy là việc khánh thành Thánh đường Đức Mẹ Lavang thay thế cho ngôi thánh đường đã bị phá hủy vào năm 1885”. Tác giả Phan Phát Huồng xem Thánh đường “Đức mẹ” La Vang cũng như tất cả các thánh đường mang tên Đức Mẹ khác nên chẳng có gì đặc biệt để viết. Tài liệu viết về Nhà thờ La Vang phong phú nhất xuất hiện ở Giáo phận Huế từ sau ngày Tổng giám mục - Ngô Đình Thục - bào huynh của đương kim Tổng thống Ngô Đình Diệm thời bấy giờ, về lãnh đạo giáo phận Huế (12.4.1961). Để cổ vũ cho La Vang, TGM Ngô Đình Thục đã cho ra đời Nguyệt san Đức Mẹ La Vang (số 1 xuất bản vào tháng 8/1961) (Lê Ngọc Bích, tr.266). Năm 1962, học Đại học Văn khoa Huế tôi có được đọc tờ nguyệt san nầy, còn nhớ tập san đã một số quan chức chính phủ Diệm cúng tiền xây dựng nhà thờ La Vang đứng đầu là Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và các Bộ trưởng của Chính phủ Ngô Đình Diện, nhưng vì đó là một tập san “nội bộ” của TCG nên những người ngoài đạo như tôi không giữ làm gì. Sau năm 1975, trên đường đi tìm tư liệu Huế (tư liệu sống) nhiều lần tôi được hỏi chuyện Linh mục Nguyễn Văn Ngọc ở nhà thờ Francisco trên đường Nguyễn Tri Phương Huế và được Linh mục cho đọc một số trước tác của ông, trong đó có cuốn Linh địa La Vang. Cuốn sách nầy hấp dẫn tôi vì có đăng bài vãn La Vang mà nhiều sách văn học dân gian ở Huế chưa từng biết. Linh mục Nguyễn Văn Ngọc soạn cuốn Linh địa La Vang để phục vụ Đại hội Toàn quốc La Vang năm 1970. Về sau, tôi được biết vào năm 1978 Nguyệt san “Trái Tim Đức Mẹ” ở Mỹ tái bản và tôi đã nhờ một người bạn định cư bên Mỹ mua làm quà cho tôi một cuốn. Trong bộ tư liệu về Nhà thờ La Vang của tôi có nhiều bài viết về La Vang nhân lễ “Tôn Vinh Đức Mẹ La Vang Giữa Lòng Giáo-Hội Hoa Kỳ” năm 1998, đọc kỹ những tài liệu nầy tôi thấy phần rất lớn các nhà báo nhà nghiên cứu tìn đồ TCG đã sử dụng tài liệu trong cuốn sách của Linh mục Nguyễn Văn Ngọc. Và cũng ghi thêm thông tin nầy: Trong mấy năm qua, tôi cố tìm lại các bạn từng học Đại học Văn khoa với tôi hồi đầu những năm sáu mươi để mượn những tờ Nguyện San Đức Mẹ La Vang thời TGM Ngô Đình Thục để tìm tài liệu lịch sử La Vang thì được các bạn tôi cho biết “tất cả những thông tin “lịch sử” có “giá trị” trong các tờ Nguyệt san thuở ấy đã được Linh mục Nguyễn Văn Ngọc sử dụng đưa vào sách của ông. Nên khi đã có Linh địa La Vang thì không cần tìm “Nguyệt san Đức Mẹ La Vang nữa”. Tôi viết bài nầy dựa vào các tài liệu và sách kê sau: Bùi Văn Giải, Linh Địa La Vang, Vietnamese Missionaries in Taiwan, Tài liệu Internet; Cao Văn Luận, Bên Giòng Lịch Sử, hồi ký 1940-1965, Trí Dũng xb SG 1972 Đức Cố Lê, Sự thật về “Đức mẹ La Vang”, ww.geocities.com/DucCoLE/Lavang.html. Hồng Phúc (Lm), “Lá Vằng”, 1997 (tài liệu chuẩn-bị cho đại hội La Vang vào năm 1998 của Giáo Hội ĐTC) Hồng Phúc (Lm),“Đốt Lò Hương Cũ: Cụ Ngô-Đình-Diệm và La Vang”, báo Mẹ Việt Nam”, 67 E Hedding St, San Jose, CA 95112, USA), số 102 ra ngày 15-8-98 Lê Đình Bích, Nhân Vật Giáo Phận Huế, tập I&II, (Kỷ niệm 150 năm thành lập Giáo phận Huế 1850-2000), Lưu hành nội bộ. Nguyễn Lý Tưởng, Linh-Địa La Vang, Báo “Mẹ Việt-Nam”, số đặc-biệt 102 ra ngày 15-8-98 về sau in lại trong sách Thuyền Ai Đậu Bến Văn Lâu (do tác giả xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2001) từ tr.175 đến 198; Nguyễn Văn Ngọc (Lm), Linh địa La Vang (Kỷ niệm Đại hội Toàn quốc Lavang 1970), Nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ tái bản Hoa Kỳ 1978 Peter Nguyễn Văn Tai, Vài nét lịch sử về Linh địa La Vang, Radio Veritas, Asia, Philippines, Tài liệu Internet; Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử, quyển I ( 1533-1933 ), Cứu Thế Tùng Thư SG 1965 Trần Hữu Thanh (Lm) ,“Thử Xác-Định Thời-Điểm Và Hoàn-Cảnh Sự Việc Đức Mẹ Hiện Ra Ở La Vang” báo “Mẹ Việt-Nam”, số 102 ra ngày 15-8-98; Trần Quý Thiện (Lm) và Ts Trần An Bài, “Đức Mẹ La Vang Được Tôn Vinh Giữa Lòng Giáo-Hội Hoa Kỳ” báo “Chính-Nghĩa” (554 S 9th St., San Jose, CA 95112, USA), số 439 ra ngày 12-9-98; Trần Văn Trí, “Tinh Thần La Vang” báo Thằng Mõ, 918 S First St, San Jose, CA 95110, USA), số 832 ra ngày 28-3-98; Báo “Saigon USA” (345 E Santa Clara St, #108, San Jose, CA 95113, USA), “Linh-Địa La Vang”, số 97, 14-9-98 Báo “Églises d’Asie” (EDA), “Ky Tô Hữu Hành-Hương Tại La-Vang”, số 270 ra ngày 1-9-98; Báo “L’Observatore Romano” (cơ quan truyền thông chính thức của Tòa Thánh Vatican ở La Mã)“Ky-Tô-Hữu Việt Nam Sùng Kính Đức Mẹ La Vang: Sự Tích Đức Mẹ Hiện Đến Với Giáo Dân Trong Rừng La Vang Ở Việt Nam, số ra ngày 12/19-8-98; Toà Tổng Giám mục Huế, Thánh Địa Đức Mẹ La Vang, Huế 1998 Tổng Giáo phận Huế, Lược sử các giáo xứ, tập II, Lưu hành Nội bộ 2001 Và nhiều tài liệu điền dã khác.
2. Thẩm định giá trị các “tư liệu lịch sử”
Để tiếp cận sự thật lịch sử, tôi trích dẫn những thông tin tư liệu do sách báo đã xuất bản nêu trên và sau đó có lời bình luận thẩm định giá trị khoa học của từng tư liệu theo phương pháp sử học.
2.1. Nguồn gốc hai từ “La Vang” Tài liệu: Báo “Thằng Mõ” (918 S First St, San Jose, CA 95110, USA), số 832 ra ngày 28-3-98, có đăng bài “Tinh Thần La Vang” của Trần Văn Trí. Tên “La Vang” là một trong các tiểu mục của bài này. “Trong hạt Dinh Cát có một họ đạo tên là Cổ Vưu được thành-lập từ thế-kỷ 17, nay còn gọi là xứ Trí Bưu. Người dân sống bằng nghề “làm củi” (chính-yếu là chặt những cây nhỏ dùng để nấu bếp). Theo linh-mục Stanislaô Nguyễn Văn Ngọc, đặc-điểm trong vùng là đồng-bào Công Giáo và không-Công-Giáo đoàn-kết mật-thiết với nhau. Từ thế-kỷ 16, dân đi làm rú, còn gọi là “đi củi”. Họ phá một sở rẫy giữa rú xanh cách Cổ Vưu độ 7 cây số để trồng khoai sắn và cấy lúa. Người dân đặt tên vùng đó là La Vang. Đức giám-mục Hồ Ngọc Cẩn cho biết:“Ban đêm, phường La Vang không có sự thinh lặng. Đêm nào người ta cũng la lối om sòm. Họ đánh mõ, đánh thùng rộn ràng, để đuổi các thú dữ như heo rừng, voi, cọp từ rú xanh ra phá khoai, sắn, lúa, nên người ta gọi là phường La Vang.” (Lm Lê Văn Thành: Đức Mẹ La Vang, 1955, tr. 15-16). Nhưng giải-thích sau đây của linh-mục Philipphê Lê Thiện Bá, gốc Cổ Vưu, có cơ-sở hơn: “Trong sổ bộ lập từ đời nhà Lê, nơi đó, tức sở rẫy của dân Trí Bưu, gọi là phường Lá Vằng, vì có nhiều cây lá vằng, một thứ cây có hột đen ăn được và lá là vị thuốc mà phụ-nữ xứ Dinh Cát dùng để uống sau khi sinh đẻ. Về sau người dân đọc Lá Vằng ra La Vang, và nơi Đức Mẹ hiện ra được gọi là linh-địa La Vang.” (Lm Stanislaô Nguyễn Văn Ngọc: Linh-Địa La Vang, tr. 32-34 và Lm Hồng Phúc: Đức Mẹ La Vang, tr. 30-31).
2.2. Có thể tin được Linh mục Hồng Phúc ?
Tài liệu: Báo “Mẹ Việt Nam” (67 E Hedding St, San Jose, CA 95112, USA), số 102 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Đốt lò hương cũ: Cụ Ngô-Đình Diệm và La Vang” của Lm Hồng Phúc. 2.2.1. Lm Hồng Phúc viết: “Tập sách “Đức Mẹ La-Vang và Giáo-Hội Việt Nam”... Bản thảo của tập sách bị thất-lạc. Cha Giuse Lê-Văn-Thành đã thu-thập lại được một ít tài-liệu, nhờ linh-mục Hồng Phúc ấn-loát gấp 10.000 quyển gởi ra trước kiệu Đại Hội lần thứ 12, tháng 8-1955[2]. Cuối tháng 7, tôi nhận được điện-tín của ngài cho biết máy bay không nhận chở ra Huế. Tôi về viếng Mẹ La-Vang xin Mẹ giúp. Chúng tôi cùng với một cha bạn quen với họ Ngô, vào xin yết-kiến Tổng-Thống. Văn-phòng Phủ Tổng-Thống cho biết là Tổng Thống rất bận. Họ nói với chúng tôi: Đúng 5 giờ, Tổng Thống có thói quen ra thở không-khí trời vài phút... Tôi nói ngay sự việc và xin Tổng Thống giúp...” Độc giả không cần nhớ lại lịch sử, vì Lm Hồng Phúc đã viết trong một đoạn trước đó của cùng bài ấy: “Từ khi lên làm Tổng Thống (tháng 10-1955), mỗi lần có dịp ra Quảng Trị việc đầu tiên là tới La Vang cầu khẩn với Đức Mẹ”. Việc chuyên-chở sách đạo và đại hội La Vang xảy ra vào tháng 8-1955, vào thời gian ấy Ngô Đình Diệm còn là Thủ Tướng của chính phủ Bảo Đại (Ông Diệm phải đợi đến ngày 23 tháng 10/1955 mới lật đổ Bảo Đại để lên làm Tổng Thống), thế mà Lm Hồng Phúc đã gọi Diệm là Tổng Thống thay vì sự thật chỉ là Thủ Tướng. 2.2.2 Lm Hồng Phúc cũng viết:“Ngày 16-8-1961 Cụ đến kính viếng Đức Mẹ”. Nhưng ông lại ghi chú dưới bức ảnh Ngô Đình Diệm đang bước trên các bực cấp của nhà thờ La Vang, đăng cạnh đó: “Tổng-Thống Ngô Đình Diệm trong ngày Đại Lễ Đức Mẹ La Vang 15-8-1961". Tổng Thống đến dự Đại Hội vào ngày lễ chính, thế mà Lm Hồng Phúc không nhớ chính xác là vào ngày nào, và cũng không thấy là mình đã ghi hai ngày khác nhau trong cùng một bài viết. 2.2.3. Trong một đoạn khác, Lm Hồng Phúc viết: “Những lần Cụ đến Dòng Chúa Cứu-Thế... Ra đi có cận-vệ, quân cảnh, còi hụ...”. Từ năm 1955 cho đến năm 1963 nhiều lần tôi (học sinh Quốc Học và Sinh viên Đại học Huế) phải đi đón Tổng thống Diệm thì biết rõ lực lượng hộ tống Thủ Tướng/Tổng Thống Ngô Đình Diệm là Cảnh Sát, Công An, và Hiến Binh, chứ không phải là Quân Cảnh. Một chuyện rõ ràng như vậy mà Lm Hồng Phúc không nhớ viết sai là cận vệ, quân cảnh.
2. 3. Những sự kiện sau đây xảy ra vào thời kỳ nào ? 2.3.1. Phong trào Văn Thân yểm trợ thành công cho Nguyễn Huệ lên ngôi vua? Tài liệu: Nhật báo “L’Observatore Romano” (Người quan sát Rô-ma), cơ quan truyền thông chính thức của Tòa Thánh Vatican ở La Mã, số ra ngày 12/19-8-98, có đăng bài “Ky-Tô-Hữu Việt Nam Sùng Kính Đức Mẹ La Vang: Sự Tích Đức Mẹ Hiện Đến Với Giáo Dân Trong Rừng La Vang Ở Việt Nam”, trong đó có đoạn: “Vào cuối thế kỷ 18, lãnh-thổ Việt Nam bị chia thành 2 vương-quốc: Đàng Ngoài thuộc quyền chúa Trịnh đóng đô ở Hà Nội; và Đàng Trong thuộc quyền chúa Nguyễn đóng đô ở Huế. Các chúa trong Nam muốn đánh ra Bắc nên nhờ người Pháp giúp đỡ. Nhưng có một nhóm trí thức, gọi là Văn Thân (Nđx nhấn mạnh), chống lại sự can thiệp của người Pháp và đã thành công trong việc giúp vua Quang Trung lên ngôi. Ông này chiếm được miền Bắc, nhưng từ-trần sớm, để lại ngai vàng cho con là vua Cảnh-Thịnh, tuổi mới lên mười...” Nhận xét: Theo “Việt Nam Sử-Lược” của Trần Trọng Kim, Tập II, Chương X (Tình-Thế Nước Nam Từ Năm Giáp-Tuất Về Sau), thì: Đoạn I. “Văn-Thân nổi loạn ở Nghệ An. Tháng giêng năm Giáp-tuất (1874), là năm Tự Đức thứ 27, đất Nghệ An có hai người tú tài là Trần Tấn và Đặng Như Mai hội tập cả các văn-thân trong hạt rồi làm một bài hịch gọi là “Bình Tây, Sát Tả”, đại lược nói rằng: “Triều-đình dẫu hòa với Tây mặc lòng, sĩ phu nước Nam vẫn không chịu, vậy trước nhất xin giết hết giáo-dân, rồi sau đánh đuổi người Tây cho hết...” Bọn Văn Thân cả thảy độ non ba nghìn người, kéo nhau đi đốt phá những làng có đạo...” Và, trong cùng sách, cùng tập, Chương XV (Việc đánh dẹp ở Trung-Kỳ và Bắc-Kỳ): Đoạn 8. Ông Phan-Đình-Phùng mở đồn điền ở Vũ Quang, Hà Tĩnh, rồi cho người đi sang Tàu, sang Tiêm, học đúc súng đúc đạn, để đợi ngày khởi sự. Sau ông ấy đứng đầu đảng văn thân để chống cự với quân Pháp... (1893-1895)” Qua bài viết này, báo “L’Observatore Romano”, tiếng nói có thẩm quyền cao nhất của TCG, đã tự chứng tỏ là không biết đúng về lịch sử Việt Nam, nhất là về những sự việc liên hệ mà họ kể lại. Chỉ vì vua Cảnh Thịnh ngược đãi tín đồ TCG, mà hội Văn Thân thì cũng làm như thế, cho nên tờ báo nói trên kết hợp cả hai phía lại thành cùng một nhóm, mặc dù hai lực lượng ấy hiện hữu vào hai thế kỷ khác nhau. Thật ra, dưới thời các vua Quang Trung và Cảnh Thịnh, vào cuối thế kỷ 18, không có Văn Thân. Nhóm kháng Pháp này chỉ mới bắt đầu thành hình sau khi quân Pháp đã chiếm lấy nhiều phần đất của Việt Nam, dưới thời vua Tự Đức và sau khi nước Pháp đã đặt nền đô hộ trên nước Việt Nam dưới thời vua Thành Thái, vào cuối thế kỷ 19 mà thôi.
2.4. Các cuộc bách hại TCG tại Việt Nam thực sự bắt đầu xảy ra vào thời điểm nào ? Tài liệu: 2.4.1- Theo báo “L’Observatore Romano” (Người quan sát Rôma) thì: “Vào tháng 8-1798, triều-thần của vua Cảnh-Thịnh ra lệnh đàn áp Thiên Chúa Giáo. Giáo dân cùng với gia đình chạy trốn vào vùng La Vang. Một hôm, Đức Mẹ hiện ra với họ lần đầu, có bồng Đức Chúa Hài Đồng trong tay, có hai thiên-thần vây quanh, hứa sẽ che-chở và cứu vớt họ. Sau đó còn có những lần hiện ra tiếp theo...” 2.4.2- Vào ngày 19-6-1998, giáo-hoàng John Paul II có nói: “Kể từ 1533, nghĩa là từ khi Thiên Chúa Giáo bắt đầu truyền sang Đông Nam Á-Châu, trừ vài thời kỳ yên ổn, Giáo-Hội Việt Nam đã bị ngược đãi suốt 3 thế kỷ...” Trước đó, linh mục Pierro Gheddo, tác giả “Cây Thập-Tự và Cây Bồ-Đề”, đã viết trong cuốn sách ấy: “Thí-dụ, tại Bắc Kỳ, các cuộc trấn áp dữ dội đã bắt đầu vào các năm 1696, 1713, 1721, 1778, v.v...”
2.5. La Vang được chọn làm Trung tâm Thánh mẫu toàn Quốc từ khi nào ?
Tài liệu: 1- Báo “Mẹ Việt-Nam”, số đặc-biệt 102 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Linh-Địa La Vang” về sau sửa chữa in lại trong sách Thuyền Ai Đậu Bến Văn Lâu (do tác giả xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2001) từ tr.175 đến 198, của Nguyễn Lý Tưởng, với đoạn kết luận như sau:“Hội-Đồng Giám-Mục (Việt Nam) họp ngày 01-05-1980 đã chấp-thuận chọn La Vang làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc”. 2- Trong bài báo của Vatican đăng trên “L’Observatore Romano” kể trên, có đoạn: “Qua Bức Thư Chung (của Hội-Đồng Giám-Mục Nam Việt-Nam) đề ngày 8-8-61, La Vang đã được công-nhận là Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc. Sau ngày 30-4-75, tất cả giám-mục của Việt Nam, họp tại Hà Nội ngày 1-5-80, đã long-trọng chấp-thuận việc tiếp-tục chọn La Vang làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc...”
2.6. Nhà thờ La Vang đã được nâng lên hàng Vương Cung Thánh Đường?
Tài liệu: Trong bài “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98, tác-giả Trần Văn Trí viết: “Đền thờ Đức-Mẹ La Vang là Vương-Cung Thánh-Đường đã được xức dầu Thánh ngày 22-8-61 theo sắc-chỉ Tòa Thánh dưới thời Đức Giáo-Hoàng Gioan...”
2.7. Đức Mẹ hiện ra tại La Vang như thế nào ?
Tài liệu: 1) Báo “L’Observatore Romano” của Vatican, ra ngày 12-8-98, có đăng bài “Sự-Tích Đức-Mẹ Hiện Ra Tại Rừng La-Vang Ở Việt-Nam” trong đó có đoạn: “... Cùng với gia-đình, các Ky Tô Hữu vào trốn trong rừng La Vang, cách xa nhà họ chừng 60 cây số. Họ họp hằng ngày dưới một cây lớn và đọc kinh lần chuỗi vinh-danh Đức Mẹ. Một hôm, Đức Mẹ với hai thiên-thần vây quanh và bồng Chúa Hài-Đồng trong tay, hiện ra với họ lần đầu tiên, hứa sẽ bảo-vệ và an-ủi họ. Sau đó, còn có những lần hiện ra tiếp theo...” 2) Báo “Églises d’Asie” (EDA), số 270 ra ngày 1-9-98, có đăng bài “Ky Tô Hữu Hành-Hương Tại La-Vang”, trong đó có đoạn: ... Việc hành-hương tại La Vang bắt nguồn từ cuối thế-kỷ 18. Năm 1798, dưới triều Tây Sơn, vua Cảnh Thịnh đã ban-hành một cuộc đàn-áp rất khắc-nghiệt khiến cho giáo-dân phải chạy trốn vào trong một thung-lũng, tập-trung cầu-nguyện ở một khoảng đất trống lẻ-loi giữa rừng dày đặc nằm về hướng Tây của Tỉnh Quảng-Trị. Họ họp nhau quanh một bức tượng Đức Mẹ đặt trên cành của một cây đa lớn, xin được đấng mà họ gọi là “Mẹ” an-ủi và ban cho sức mạnh. Vào cuối thế-kỷ 19, một nhà thờ được dựng lên chỗ đó... 3) Báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98, có đăng bài “Tinh-Thần La Vang” của Trần Văn Trí, trong đó có đoạn: ... Lm Ng. V. Ngọc kể: “Trong lúc lánh nạn tại đây, ban đêm họ họp nhau cầu-nguyện và lần chuỗi. Bỗng nhiên họ thấy một bà đẹp-đẽ mặc áo choàng hiện ra gần một cây đa đại-thụ, mà họ nhận biết ngay là Đức Mẹ, có bồng Chúa Hài-Đồng, hai bên có hai thiên-thần cầm đèn chầu... 4) Báo “Mẹ Việt-Nam” số 102 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Linh-Địa La Vang” của Nguyễn Lý Tưởng, trong đó có đoạn: ... Tương-truyền Đức Mẹ đã hiện ra tại gốc cây đa cổ-thụ. Dân làm rừng thường đến đó van-vái, về sau họ nghe nói có một Bà linh thiêng hiện ra tại đây nên họ đã đắp một cái nền dưới gốc cây đa, gọi là nền vọng, và rào chung quanh. 5) Báo “Saigon USA”, số 97 ra ngày 14-9-98, có đăng bài “Linh-Địa La Vang” trong đó có đoạn: ... Cây đa đại-thụ: Theo cổ-truyền ngày xưa Đức Mẹ đã hiện ra gần gốc nó, nay không còn tăm dạng gì... ... LM Giuse Nguyễn Xuân Cảnh (Kim Long) đã ở Phó tại Cổ Vưu dưới thời hai Cha Sở: Bonin (Ninh) và Cadière (Cả)... ... Đến sau Cha Cadière (Cả) đã sắm một bàn kiệu...
Phụ chú 1: Nguyễn Lý Tưởng trong bài “Linh-Địa La Vang” trên báo “Mẹ Việt-Nam” đã viết: “Lm Stanilas Nguyễn Văn Ngọc đã trích dẫn một đoạn trong bức thư của Lm Lôrensô Lâu, ở vùng Dinh Cát (Quảng Trị) đề ngày 17-2-1691 gởi về Roma”: Như thế rõ ràng là các báo cáo từ vùng Dinh Cát (gồm có La Vang) đã được gởi về thấu tận Roma từ hơn một thế kỷ (1691-1798) trước khi có vụ gọi là “Đức Mẹ Hiện Ra Tại La Vang”; và Trần Văn Trí trong bài “Tinh-Thần La Vang” trên báo “Thằng Mõ” cũng đã viết: “Vài Nét Lịch-Sử Về La-Vang: 1717-1739: xảy ra một số xáo trộn mà Tòa Thánh phải trực-tiếp can-thiệp...” Đây cũng là một bằng chứng nữa chứng tỏ rằng Roma đã theo dõi sít sao tình hình cộng đồng TCG tại La Vang hơn năm thập niên trước vụ gọi là Đức Mẹ Hiện Ra Tại La-Vang. Tất-nhiên, ai nấy đều thấy: sở dĩ hiện nay không có tài liệu viết về vụ này lưu trữ tại Vatican, chỉ vì một lý do quá đơn giản: Không Hề có chuyện Đức Mẹ Hiện Ra Tại La Vang.
Phụ chú 2: Nguyễn Lý Tưởng còn viết: “Năm 1886 Đức Giám-Mục Caspar ở Huế mới quyết-định xây nhà thờ bằng gạch... phải mất 15 năm mới hoàn-thành. Đại-Hội Đức-Mẹ La Vang lần thứ I và khánh thành nhà thờ vào các ngày 6, 7 và 8 tháng 8 năm 1901." Vậy thì trong suốt thời kỳ 15 năm này (88 năm sau vụ gọi là “Hiện Ra”, và ít nhất là 25 năm sau lần “tài liệu bị tiêu hủy dưới thời Tự Đức” vào năm 1861) tại sao không có người nào tìm ra được một tài liệu nào khả tín, nếu có, về sự xuất hiện của Đức Mẹ tại La Vang? Vấn đề bây giờ là: những chi tiết mới được thêm thắt trong các bài viết dẫn trên, nếu không được phanh phui ra, hẳn là sẽ bị sử dụng như là “tài liệu căn bản”, “bằng chứng lịch sử” để tiếp tục đầu độc các thế hệ con cháu của chúng ta bây giờ và trong tương lai.
2.8. Có ai tận mắt được trông thấy Đức Mẹ hiện ra tại La Vang không ?
2.8.1. “Nhà Chùa thành Nhà Chúa” trong hoàn cảnh nào?
Tài liệu: Trong bài “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98, Trần Văn Trí viết: “Vào đầu thế-kỷ 19, tiếng đồn về Đức Bà linh thiêng lan rộng khắp nơi. Trong những năm đầu 1820-1840, các người Công Giáo thuộc các làng Ba Trừ, Cổ Thành và Thạch Hãn có chung nhau xây một ngôi chùa ngay tại nơi Đức Mẹ hiện ra, gọi là chùa Ba Làng. Nhưng sau đó họ bàn tính lại với nhau và đồng thuận rằng Đức Bà hiện ra là “bên giáo”, nên họ đã nhường ngôi chùa lại cho bên Công Giáo và các gia-đình Công Giáo tu sửa “ngôi chùa thành nhà Chúa.” (Lm Hồng Phúc: Đức Mẹ La-Vang, tr. 35).
2.9. Trong trường hợp nào người ta bắt đầu nghe nói đến việc “Đức Mẹ” hiện ra tại La Vang? Tài liệu: Trong bài “Linh-Địa La Vang” đăng trên báo “Mẹ Việt-Nam”, số 102 ra ngày 15-8-98, sau đăng trong sách Thuyền ai đậu bến Văn Lâu, (tác giả tự xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2001, từ tr. 175-198), Nguyễn Lý Tưởng viết: 1- Năm 1797, nhân khi thủy-quân của Nguyễn Ánh tiến ra tận cửa bể Tư Dung (cửa Tư Hiền) thuộc tỉnh Thừa Thiên, thì Lê Văn Lợi, một vị quan của Tây Sơn đã đề-nghị vua ra lệnh bắt hết người Công Giáo và các linh-mục, lấy lý-do dân theo đạo ủng-hộ Nguyễn Phúc Ánh...Vua Cảnh-Thịnh đã ra mật-lệnh cho các địa-phương hẹn đến tháng 5-1798 sẽ bắt và giết tất cả giáo-dân cũng như linh-mục, không để sót người nào...Đức giám-mục Jean De Labartette lúc đó đang trốn tránh ở làng Di Luân... Tin đó được loan truyền ra trong giới Công Giáo và dân theo đạo ở các làng Trí Bưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa bèn chạy vào miền núi La Vang để ẩn núp. Và chính trong thời-gian đó Đức Mẹ đã hiện ra với họ. (Thuyền ai đậu bến Văn Lâu, tr. 187-189); 2- Tương-truyền Đức Mẹ đã hiện ra tại gốc cây đạ cổ-thụ. Dân làm nghề rừng thường đến đó van vái, về sau họ nghe nói có một Bà linh thiêng hiện ra tại đây nên họ đã đắp một cái nền dưới gốc cây đa gọi là nền vọng và rào chung quanh. Khoảng đầu đời Minh Mạng, 1820, dân ba làng Thạch Hãn, Ba Trừ và Cổ Thành chung nhau làm một ngôi miếu nơi đó, về sau họ nghe nói ngày xưa có một Bà bên đạo hiện ra ở chỗ đó nên cả ba làng đồng thuận nhường chỗ đó lại cho dân bên đạo Công Giáo. Giáo-dân thời đó đã đem việc này trình cho vị linh-mục ở xứ Trí Bưu (Cổ Vưu) và cha xứ[5] đã cho sửa-sang nơi đó thành một nhà thờ bằng tranh. Đây là ngôi nhà thờ đầu tiên tại La Vang. 3-Vua Đồng-Khánh lên ngôi (1885), chủ-trương tìm kiếm hòa-bình...Cũng trong thời-điểm này, cha xứ Trí Bưu (Cổ Vưu) đã hỏi những giáo-hữu lớn tuổi trong giáo-xứ khi đến giờ lâm-chung, chịu phép giải tội và xức dầu thánh[6], rằng: “Con phải thề nói sự thật, con có nghe cha mẹ, ông bà trước kia nói gì về sự-tích Đức Mẹ hiện ra tại La Vang không?” Tất cả những người đó đều trả lời: “Có” và “chuyện xảy ra đã gần 100 năm rồi.” Đức Mẹ đã hiện ra trước đó khoảng 100 năm, nghĩa là vào thời Tây Sơn. Bằng-chứng là năm 1886 Đức Cha Caspar (Lộc) ở Huế đã quyết-định xây đền thờ kính Đức Mẹ hiện ra, theo cha mẹ, ông bà kể lại, cách nay cả trăm năm, tức là vào cuối thế-kỷ 18, thời Tây Sơn.
2.10. Về trường hợp vận dụng lịch sử theo ý mình của Linh mục Trần Hữu Thanh Linh-mục Trần Hữu Thanh là một nhân vật TCG quan trọng nổi bật từ thời Ngô Đình Diệm ở Miền Nam; ông được xem là linh hồn của “chủ-nghĩa nhân-vị” vốn là xương sống của đời sống chính trị và ý thức hệ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trần Hữu Thanh cũng là một trong các tác giả nghiên cứu viết về La Vang. Để thấy ý kiến của Lm Thanh khác với các tác giả khác như thế nào, xin trích dẫn lại những thông tin đã nêu trên:
Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La-Vang Vào Lúc Nào, trong Hoàn-cảnh Nào? Tài liệu: 1- Theo L’Osservatore Romano, “tháng 8-1798, triều-thần của vua Cảnh-Thịnh ra lệnh đàn-áp Ky Tô Giáo. Giáo-dân cùng với gia-đình chạy trốn vào rừng La Vang... Một hôm, Đức Mẹ hiện ra.” 2- Theo Nguyễn Lý Tưởng, “vua Cảnh-Thịnh đã ra mật lệnh cho các địa-phương hẹn đến tháng 5-1798 sẽ bắt và giết tất cả giáo-dân cũng như linh-mục, không để sót người nào...Dân theo đạo ở các làng Trí Bưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa bèn chạy vào miền núi vùng La Vang để ẩn núp. Chính trong thời-gian đó, Đức Mẹ đã hiện ra với họ.” 3- Theo Trần Văn Trí, “năm 1798, đời Cảnh-Thịnh, giáo-dân phải trốn tránh vì những lệnh bắt giáo-sĩ, thu ảnh-tượng, rỡ nhà thờ, đàn áp giáo-dân... là năm Đức Mẹ hiện ra ở La Vang.”
2.11. Chùa Lá Vằng bị đập phá để làm đền thờ Đức Mẹ La Vang như thế nào ? Như Phần I trên tôi đã viết “Sau năm 1975, trên đường đi tìm tư liệu Huế (tư liệu sống) nhiều lần tôi được hỏi chuyện Linh mục Nguyễn Văn Ngọc ở nhà thờ Francisco trên đường Nguyễn Tri Phương (Huế) và được Linh mục cho đọc một số trước tác của ông, trong đó có cuốn Linh địa La Vang. Cuốn sách nầy hấp dẫn tôi vì có đăng bài vãn La Vang mà nhiều sách văn học dân gian ở Huế chưa từng biết”. Và, tôi cũng đã viết ở trên “Trong bộ tư liệu về Nhà thờ La Vang của tôi có nhiều bài viết về La Vang nhân lễ “Tôn Vinh Đức Mẹ La Vang Giữa Lòng Giáo-Hội Hoa Kỳ” năm 1998, đọc kỹ những tài liệu nầy tôi thấy phần rất lớn các nhà báo nhà nghiên cứu TCG đã sử dụng tài liệu trong cuốn sách của Linh mục Nguyễn Văn Ngọc”. Nhưng rất tiếc bài Vãn La Vang mà tôi rất thích lại không được các nhà nghiên cứu, các nhà báo TCG nhắc đến. Nhân đây, để hiểu rõ hơn trong trường hợp nào “một ngôi chùa ở La Vang đã bị đập phá để làm đền thờ Đức Mẹ La Vang” tôi xin trích lại một số đoạn Linh mục Nguyễn Văn Ngọc giới thiệu bài Vãn ấy. Linh mục ngọc viết: “Người thời xưa còn kể thêm rằng: những người lương địa phương đi làm rú thường hay tới van vái tại cây đa ở phường La vang. Về sau họ nghe nói có Bà linh thiêng hiện ra tại đây nên họ bèn đắp một cái nền vọng dưới gốc cây đa và rào sơ tứ phía. Do đó trong Vãn La vang có những câu sau đây: “Bên lương chức dịch rộn ràng Đắp nền thờ vọng rào hàng xơ ly Chốn này linh ứng oai nghi Ngoại mình khấn vái đều gì cũng linh. […] Những ai vào chốn sơn trung Hễ khi đến đó nguyện cùng được an Những người mót củi đốt than Cũng đều đến đó kêu van khẩn nài”
Vào khoảng đầu đời Minh Mạng (khoảng 1820 trở đi. NĐX chú), 3 làng: Thạch Hãn, Cổ Thành và Ba Trừ chung nhau làm một cái miếu hay chùa trên nền thờ vọng ở gốc cây đa La vang, nhưng về sau bị động họ phải rút lui. Vì thế trong những năm trước đây mấy người già cả bên lương ở gần linh địa Lavang còn nhớ tích trên, nên năng nói rằng: “Bà ấy là Bà bên lương mà bên giáo đã dành đi đó”. Tác giả Vãn La vang kể lại câu chuyện đó như sau: “Dân ta chớ khá công nài Bứt tranh đốn củi để mai làm chùa Làm rồi khi ấy đi mua Hương đèn lễ vật dọn chùa sửa sang Dọn ra Thần Phật hai hàng Lư hương bát nước nghiêm trang đề huề” Làm rồi chức dịch mới về Nhơn dân lao khổ ê hề bấy lâu Về nhà nghỉ giấc canh thâu Tự nhiên mộng mị chiêm bao rập ràng. Trên chùa Thần Phật rộn ràng. Về bắt chức dịch mấy làng xôn xao Rằng Phật rằng Thần lao đao Có Bà bên đạo phép cao lạ lùng. Bà vào bà đánh tứ tung Bao nhiêu Thần Phật đều tung ra ngoài Tiếng Bà thật đã linh oai. Lư hương bát nước đền đài đều hư. Chức làng thức dậy lao lư Hỏi nhau coi thử cũng như một điềm Sáng mai chức việc đi liền Kêu nhau coi thử sự thiềng làm sao Xét coi trọng việc chiêm bao Hoặc hư hoặc thiệt thể nào cho yên Kéo nhau mới tới ngoài viên Thấy ngôi Thần Phật ngả nghiêng ngoài đường” Kêu nhau khi ấy rộn ràng Kẻ nghiêng người vác về làng cho mau. Tưởng rằng Thần thánh linh mầu Đem về cúng tế bấy lâu nay tròn Không hay Phật giả yên ngôn Tiếc vàng quang thiếp, tiếc son, tiếc dầu Linh Bà người hoá phép mầu Thôi thôi ta phải chạy mau về làng. Cùng nhau bàn bạc rộn ràng Chùa nầy để cúng về đàng đạo nhơn Rỡ đi thì sợ người hờn Phá không dám phá thiệt hơn thế nào Tiếc công dân sự lao đao Ăn làm 3 tháng lại hao của tiền Bây giờ Phật ở không yên Lo làm nơi khác tiêu miền xứ xa.” Sau biến cố lạ lùng trên, các chức dịch sắc hào cả 3 làng đồng thuận nhượng cúng đám đất và ngôi chùa tranh mới làm cho bên Công giáo. Vãn Lavang kể tiếp rằng: “Sai người xuống dưới Thạch-hàn Tìm ông đạo cựu hỏi han một lời Ông chức nghe tiếng làng mời. Tức thì vội vã gót rời ra đi Tới nơi hiệp mặt một khi Thuật ra mọi sự vân vi cho tường Chốn này linh ứng phi thường Chúng tôi xin cúng về đường đạo ông Chùa tranh một cái đã xong Vườn thờ một bức trong vòng một nơi Bên ông gìn giữ cho Người, Để lo vun quén tày bồi cây đa Chốn nầy là chốn Chúa Bà Cho nên Thần Phật quỉ ma kiêng dè” Sau khi ông chức đã nhận đất và chùa do 3 làng nhượng xong, ông vội vã đến trình công việc đó cho Cha Bổn sở, và theo sự xếp đặt của vị Linh mục, ngôi chùa đã được biến thành nhà thờ Công giáo (tr. 39-43).
2.12. TGM Ngô Đình Thục với Nhà thờ La Vang Ông Lê Ngọc Bích - một trí thức TCG học cùng lớp với Nguyễn Lý Tưởng ở Đại học Huế và cùng khoá với tôi (1962-1965), một người thân cận của Giáo phận Huế, tác giả nhiều công trình nghiên cứu lịch sử thuộc Giáo phận Huế. Khi viết về tiểu sử TGM Ngô Đình Thục trong cuốn Nhân vật Giáo phận Huế, Tập II, (Giáo Phận Huế 2000) có đoạn ông Bích viết: “Ngày 12.04.1961 Tổng giám mục Ngô Đình Thục chính thức nhận giáo phận Huế, là vị Tổng Giám mục Chính toà Việt Nam đầu tiên lãnh đạo giáo phận. Trong một thời gian ngắn ngủi từ 1961-1963 Đức cha Ngô Đình Thục đã thực hiện cho giáo phận nhiều công trình: - […] - Trung tu và tân tạo khu La Vang trở thành trung tâm hành hương của giáo dân Việt Nam. Xin Toà thánh nâng Thánh đường La Vang lên bậc “Vương cung thánh đường”.(NĐX nhấn mạnh) […] Để cổ vũ lòng sùng kính Đức Mẹ La Vang, giáo phận có tờ Nguyệt san “Đức Mẹ La Vang” do LM. Trần Văn Tường làm Chủ nhiệm, LM Nguyễn Văn Trinh làm Chủ bút và Thư ký Toà soạn LM. Nguyễn Kim Bính, Tổng Quả lý là ông Phạm Quang Lộc. Số 1 Nguyệt san “Đức Mẹ La Vang” ra đời vào tháng 08-1961. Từ đó đã thu hút đông đảo người đọc và người viết cộng tác”(tr.266).
3. Niên biểu nhà thờ La Vang từ khởi thủy đến khi bị chiến tranh tàn phá năm 1972. Đặt ra ngoài những thông tin “truyền khẩu”, căn cứ vào những tài liệu có thể kiểm chứng, tôi lập một niên biểu của Nhà thờ La Vang sau đây: 1780 hoặc xưa hơn nữa, Phường Lá Vằng ra đời (Nguyễn Văn Ngọc, tr. 34) 1798 - 1885: Truyền thuyết tại La Vang có ngôi chùa (có nơi gọi là miếu) La Vằng (NVNgọc, t.14 và 36) sau bị “Đức Bà” hiện ra phá hủy và biến thành “Nhà chúa”; 1886-1901, (bắt đầu sau ngày Thất thủ Kinh đô một năm), Giám mục Gaspar[9] (sic) xây dựng một nhà thờ ngói tại La Vang. Trải qua 15 năm mới xong, dưới ba đời cha sở Bonnard, Patinin, Bonin. “Nhà thờ được làm theo kiểu Việt Nam, có cột kèo xuyên trến với hai tháp vuông đơn sơ và chứa độ 400 người” (NVNgọc, 58-59). 1901, 6 đến 8/8 Đại hội La Vang lần thứ nhất; Gaspar làm phép cho tượng “Đức mẹ” La Vang; 1910, từ 9/8, Linh mục L.Cadière - cha sở Trí Bưu - Quản hạt Dinh Cát “tham gia tổ chức ĐH La Vang (Lê Ngọc Bích, t.42) 1922, Morineau đảm nhiệm họ đạo Trí Bưu, mở đường vào La Vang (phía bắc đường mới bây giờ) (LNBích, t.57) , 1924 -1928, Morineau xây nhà thờ La Vang theo đồ án của Parmentier 2 tầng mái ngói, 2 cánh thánh giá, tháp chuông 2 tầng (LNBích, t.57); 1949-1954, La Vang nằm trong vùng kiểm soát của kháng chiến, nhà thờ bị hư hỏng nặng; (niên biểu nầy và các niên biểu sau đều trích của Lm NVNgọc) 1955, (giữa năm), cha sở La Vang LM Giuse Trần Văn Tường kêu gọi trùng tu nhà thờ La Vang; 1955, tháng 8, Đại hội lần thứ 13; 1961, 13/4, trong một phiên họp tại Huế dưới quyền chủ toạ của TGM Ngô Đình Thục (giám mục niên trưởng) “đã định chọn” đền thờ La Vang làm “Đền thờ toàn quốc dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ”, và “Trung tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc”; 1961, tháng 8, ra đời Nguyệt san Đức Mẹ La Vang 1961, ngày 8/8, Hội Đồng Giám Mục họp tại Đà Lạt có những quyết định như sau: 1. Xin Toà thánh nâng đền thờ Đức Mẹ La Vang lên hàng Vương Cung Thánh Đường (NVNgọc, tr.104); 2. Mở rộng phạm vi đền thờ La Vang và làm thêm các cơ sở mới: a) Một bàn thờ dâng hiến Giáo hội và Tổ quốc Việt Nam cho trái tim vô nhiễm “Đức Mẹ” và một bàn thờ cho “Tử đạo Việt Nam”; b) Một công trường rộng lớn theo kiểu đàn Nam Giao; c) Xây một toà nhà lớn cho khách đến viếng; d) Thiết lập một tu viện. (NVNgọc, tr.105) Công việc xây dựng được tiến hành ngay bằng tiền của Giáo dân và tất cả các quan chức trong chính quyền Ngô Đình Diệm đóng góp. 1961, ngày 22-08, Sắc của Tòa Thánh Vatican nâng đền thờ Ðức Mẹ La Vang lên bậc Tiểu Vương Cung Thánh Ðường đã được rước từ nhà thờ Trí Bưu vào theo nghi lễ đặc biệt Á Ðông”. (BVGiải, tr. và NVNgọc) 1963, cuối năm, chính quyền Ngô Đình Diệm bị sụp đổ, TGM Ngô Đình Thục sống lưu vong ở nước ngoài nên nhiều hạng mục của công trình xây dựng ở đền thờ La Vang bị ngừng trệ; 1964, tháng 5, Đại hội hành hương “Đức mẹ” La Vang lần thứ 16 (Theo Toà Tổng Giám mục Huế) 1964, tháng 8, Nguyệt san Đức Mẹ La Vang cáo biệt (đã ra được 36 số); 1970, Đại hội hành hương “Đức mẹ” La Vang lần thứ 17 (Theo Toà Tổng Giám mục Huế) ; 1972 La Vang bị tàn phá nặng nề. Bản niên biểu cho thấy: Từ ngày bắt đầu xây dựng (1886) cho đến trước ngày Giải phóng miền Nam Việt Nam (1975) với lịch sử gần 90 năm (không tính thời kỳ truyền khẩu trước năm 1885), chứng tỏ nhà thờ/đền thờ/“Tiểu Vương Cung Thánh Đường”/Thánh Địa “Đức Mẹ” La Vang là “công đức” to lớn của các các vị Giám mục, linh mục Pháp (có gắn bó với thực dân Pháp) và Tổng Giám mục Ngô Đình Thục và Chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Vì thế, ngày nay khi viết lịch sử Nhà thờ La Vang phục vụ tín đồ TCG và khách tham quan La Vang cần quan tâm tránh gây sốc đối với các phong trào yêu nước đã tham gia chống thực dân Pháp[10], chống Đế quốc Mỹ xâm lược, đồng thời quan tâm đến tín đồ các tôn giáo khác đã từng là nạn nhân của anh em nhà họ Ngô, kể cả con cháu của những người đã từng bị anh em nhà họ Ngô bắt buộc phải đóng góp tiền của để xây dựng nhà thờ La Vang. ¨ Các vị chức sắc TCG người Pháp và đặc biệt là hai ông Ngô Đình Thục và Ngô Đình Diệm đã gieo vào lòng giáo dân TCG niềm tin “Đức Mẹ” được đồn là đã hiện ra để an ủi che chở cho giáo dân Trí Bưu La Vang. Niềm tin do ý đồ chính trị tạo nên đã biến thành niềm tin tín ngưỡng của một số đông giáo dân. Mà theo niềm tin tín ngưỡng TCG mà tôi đã được học tại Đại học Văn khoa Huế là “mặc khải” không cần tư liệu lịch sử, không cần hợp lý hay không, chỉ có “tin” hay “không tin” mà thôi. Do đó tôi viết bài nầy không nhằm mục đích hướng đến các giáo dân đã sùng kính “Đức Mẹ” La Vang mà chỉ nhắm phanh phui những điều thiếu khoa học của “những tài liệu sử” mà các nhà viết sử TCG đã công bố, và công bố những điều có liên quan đến nhà thờ La Vang mà các nhà viết sử TCG đã tảng lờ. Tôi viết bài nầy cũng như hàng chục tham luận khoa học lịch sử khác về đề tài “Triều Nguyễn và Huế xưa” của tôi trong mấy chục năm qua để góp phần làm sáng tỏ những sai lệch, những bí ẩn lịch sử đã diễn ra trong thời gian đất nước bị ngoại xâm và cuộc chiến tranh trường kỳ giải phóng dân tộc. Đây cũng là trách nhiệm của người cầm bút đời nầy tránh cho các thế hệ mai sau, khỏi nhầm lẫn sử dụng những chuyện hư cấu, lời đồn đại, chuyện do người đời sau dàn dựng cho quá khứ làm tài liệu lịch sử. Tôi biết tham luận của tôi sẽ làm cho nhiều cây bút TCG không bằng lòng như họ đã không bằng lòng với những bài viết của chính những cây bút TCG. Để tiếp cận được chân lý khoa học, tôi mong được các bậc thức giả trong và ngoài TCG góp ý cho bài viết nầy. Trước khi kết thúc, tôi xin chân thành cám ơn Đức Cố Lê đã cho tôi được trích lại nhiều tư liệu của ông, cám ơn hương hồn Linh mục Nguyễn Văn Ngọc đã cho tôi được tiếp cận với “tư liệu lịch sử” của đền thờ La Vang gần ba mươi năm trước. Xin cám ơn tất cả. Ngày 11 tháng 11 năm 2005
Vài lời của ban biên tập: 1. Về Chùa Lá Vằng: Bài Vãn La Văng (trong cuốn Linh Địa La Vang) cho chúng ta hai dữ kiện đáng lưu ý: a. Hai câu “Bà vào bà đánh lung tung. Bao nhiêu Thần Phật đều tung ra ngoài.” (tr.41) Cho thấy ban đêm người Công Giáo vào cướp chùa, đập phá tượng Phật nhưng họ lại chối tội bằng cách gán cho bà Mary đập phá. Vô tình, tác giả xác nhận rằng người đàn bà Do Thái (mẹ chúa Giê-su) đêm hôm đi cướp cạn. b. Cuốn “Linh Địa La Vang” của LM Nguyễn Văn Ngọc xuất bản năm 1969, được LM Phaolô Lê Văn Đẫu, Tổng đại diện giáo phận Huế chuẩn y ngày 13.4.1970. Việc chuẩn y nầy đã trở thành một bằng chứng lịch sử mà chính tòa Tổng Giám Mục Huế, chứ không phả ai khác, đã xác nhận “Nhà thờ La Vang nguyên là một ngôi chùa của Phật giáo đã bị người Công Giáo cướp đoạt ban đêm rồi giao cho cha Sở Dinh Cát”. Và đó là lý do mà hai Thượng Tọa Phước Châu và Chơn Tế viết thư khiếu nại đòi trả lại. 2. Trong cuốn Rơi Mặt Nạ, Văn Sử Địa 1998 của Chu Văn Trình và Ban Tu Thư Tự Lực, trg. 205-112, dưới đề mục "Chùa Lá Vàng ở Quảng Trị bị Gia Tô Cướp Đổi Thành Nhà Thờ La Vang": "La Vang tên gốc là làng Cổ Vưu có từ thời Nhà Lê, đến thời Gia Long đổi là phường Lá Vàng nằm phía Tây đồn Dinh Cát, thủ phủ địa đầu của Việt Nam từ năm 1307, khi Vua Chiêm Thành Chế Mân hiến dâng Nhà Trần hai châu Ô và Lý làm lễ cưới Huyền Trân Công Chúa. Hiện nay La Vang (Lá Vàng) thuộc xã Hải Phú, quận Mai Lĩnh, tỉnh Quảng Trị, cách nam Quảng Trị 6 km, cách bắc Phú Xuân (Huế) 58 km. ...Ngày 17-8-1798, vua Cảnh Thịnh ra sắc dụ cấm đạo Gia Tô kể từ Phú Xuân (Huế) đến Bắc Hà, vì đây chỉ là "đạo dạy mê tín, dối gạt dân chúng và đảo lộn trật tự xã hội" [Tạ Chí Đại Trường: Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, 1991, trg. 309]. ...Năm 1823, dưới triều Minh Mạng, Chùa Lá Vàng thờ Phật Bà Quan Âm bị những người Gia Tô cướp phá và đổi thành nhà thờ La Vang, Phật Bà Quan Âm đổi thành Maria đồng trinh. Dữ kiện trên tương tự hành vi của Caesars nặn ra Tôn Giáo Giả (Religious Costumes) tức Gia Tô La Mã Giáo hiện nay. "Chúng đơn giản gắn tên cho các tượng thần cũ bằng những tên mới... - Tượng thần Jupiter trở thành Tông Đồ Peter - Tượng thần Vệ Nữ (Venus) trở thành Maria đồng trinh... [They simply gave their old Gods and Idols new names... Jupiter became the Apostle Peter and Venus became the Virgin Mary etc...] (Chick Publications: The Big Betrayal, p. 15; Fifty Years in the "Church of Rome" by Chiniquy, p. 51, Chick Publications; The Godfathers, p. 7, by J. T. C.., Chick Publication) ...Gần đây có tác giả Hồng Phúc, một Linh mục Gia Tô Việt Gian cuồng tín, chủ ý lừa dối công luận, cố tình viết xuyên tạc sự thật lịch sử để chạy tội quá khứ cho cha ông chúng can tội phá hoại văn hóa bản địa như cuốn "Đức Mẹ La Vang", trg. 35: "Trong những năm đầu 1820-1840, các người Phật Giáo và Công Giáo thuộc các làng Ba Trừ, Cổ Thành và Thạch Hãn có chung nhau xây một ngôi chùa ngay tại nơi Đức mẹ hiện ra, gọi là Chùa Ba Làng. Nhưng sau đó họ bàn tính lại với nhau và đồng thuận rằng Đức Bà hiện ra là "bên Giáo", nên đã nhường ngôi chùa lại cho bên Công giáo và các gia đình Công giáo tu sửa "ngôi chùa thành nhà Chúa" Nhưng lịch sử đã chứng minh không bao giờ có chuyện Phật Giáo và Gia Tô chung nhau xây một ngôi chùa. Lịch sử hình thành Công Giáo La Mã từ thời Jesus đã cho biết: Công Giáo đi đến đâu thì ở đó chúng tìm mọi cách đập phá tất cả công trình kiến trúc có trước để xây trên nền đất cũ nhà thờ Gia Tô của chúng… ...Ngày 4-8-1885, cách mạng Văn Thân nổi giậy thiêu hủy nhà thờ La Vang đòi lại đất cho Chùa Lá Vàng. Cũng dịp ấy, Cố đạo gián điệp Caspar ở nhà thờ Kim Long (Huế) đã tiến cử Nguyễn Hữu Độ, Hoàng cao Khải, Phan Đình Bình...lên Thống Tướng thực dân De Courcy đem quân tàn sát Văn Thân, cướp lại đất Chùa Lá Vàng cho Gia Tô. Năm 1886, cố Tây gián điệp Caspar xây lại nhà thờ La Vang lần thứ hai, đến 15 năm sau mới xong, ngày 8-8-1901, nhà thờ thứ hai có tên là Thánh Đường La Vang. Năm 1923, cố Tây thực dân Allys xây lại nhà thờ lần thứ ba bằng gạch, ngói, 5 năm mới xong. Năm 1959, thời Gia Tô phản quốc Ngô Đình Diệm ...nhà thờ La Vang được Diệm trùng tu, xây ba cột trụ xi măng cốt sắt, tới 1961 mới xong. Năm 1972, nhà thờ La Vang bị bom Mỹ oanh tạc, chỉ còn lại ba cột xi măng. Các ngày 13-15 tháng 8 -1998, đạo đồ Gia Tô kỷ niệm 200 năm cướp chùa Lá Vàng ngụy tích là hồn ma Mary hiện hình. ...Với những nguồn sử liệu kể trên, nhà thờ La Vang chỉ là một chứng tích đại nhục cho dân tộc Việt Nam, đánh dấu thời kỳ nô lệ - Việt Nam làm nô lệ cho Gia Tô - Thực Dân Da Trắng. Giáo hội Gia Tô thuộc địa kế thừa hiện nay là Giáo hội Gia Tô Việt Gian bán nước.” 3. Về Lai Lịch bà Mary và Giê-su chúng ta có vài thông tin như sau: Tân Ước cuốn Matthew (Mã-Thi-Ơ 1:18-24) kể: Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh. Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn. Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi. Việc xảy ra đúng như lời Thiên Chúa [của Ki Tô Giáo] tiên đoán qua nhà tiên tri: “Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ (they? Ai?) sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng ta”. Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, đem Mary về nhà làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.
Nhưng ông Randel Helms trong cuốn Những Chuyện Giả tưởng Trong Phúc Âm (Gospel Fictions), trang 48 nhận xét rằng, “Có lẽ Matthew không biết là theo luật Do Thái, điều từ hôn không thể tực hiện được trong sự kín đáo mà phải công khai và hợp pháp (Matthew was perhaps unaware that this was not possible under Jewish law; the process had to be legal and public.) Câu Joseph là người tốt bụng, không muốn nàng bị nhục trước công chúng ... cũng chứng tỏ là Joseph biết rõ là cái thai trong bụng Mary không phải là của mình. Jane Schaberg trong cuốn The Illegitimacy of Jesus, xuất bản năm 1987, còn cho rằng “rất có thể bà Mary bị hiếp, và Matthew (tên người soạn cuốn Tân Ước Mathiơ) đã dựng lên một khung thần học tinh vi để biến đổi thực tế ô nhục trên (vì bị hiếp dâm mà sinh ra Giê-su) thành một huyền thoại mà ông ta có thể xây dựng một truyền thống trên đó.” (Jane Schaberg, in her 1987 book The Illegitimacy of Jesus, argues that Mary was most likely raped, and that Matthew constructed an elaborate theological architecture to try to transform that nasty reality into a myth he could build a tradition). Tuần báo Time, tờ báo có uy tín và phát hành vào bậc nhất trên thế giới, số ngày 6 tháng 12, 1999, Reynolds Price, một học giả chuyên gia về Thánh Kinh (biblical scholar), viết về Giê-su ở Nazareth: Xưa và Nay (Jesus of Nazareth: Then and Now). Tác giả viện dẫn Phúc Âm James như sau: Chuyện người ta cho rằng Giê-su là đứa con hoang có lẽ uẩn hàm trong câu hỏi của dân làng trong Mark 6 (Kinh Tân Ước Mark chương 6), “Đây có phải là con bà Mary không?” Bị gọi là con của người mẹ, thay vì con của người cha, thường hàm ý đó là đứa con hoang, hay ít nhất là một dấu chỉ không biết cha là ai, bất kể người cha này là thần thánh hay là người thường. Nhiều người chống đối thuyết đồng trinh thời đó cũng cho rằng Mary có mang Giê-su với một người lính La Mã tên là Panthera. Chuyện sinh ra đời của Giê-su thật là mù mờ bởi những nghi vấn về người cha là ai. (Reynolds Price, Time, Dec. 6, 1999: The suggestion that Jesus' childhood may have been dogged by the accusation of bastardy is perhaps implicit in his townspeople's question in Mark 6, "Isn't this Mary's son?" To be called one's mother son, as opposed to one's father's, was often an implication of bastardy, or at least a sign that one's paternity was unknown, whether divine or not. Early opponents likewise suggested that Mary had conceived Jesus with a Roman soldier, Panthera. His childhood may well be clouded by questions about his paternity.)
Giám Mục Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Giê-su Sinh Ra Đời (Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, 1992) đưa ra nhận xét, trang 41: Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra và chưa nổ. (John Shelby Spong, Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, p. 41: He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemmed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.) (Xin xem thêm cuốn La Vang Giáo Sử, Giao Ðiểm tái bản 2007)
[1] Đã in 6 tập do Nhà xuất bản Trẻ (TP HCM) phát hành [2] Theo Nguyễn Văn Ngọc , (tr. 96)là Đại hội thứ 13, [3] Bên Phật-Giáo cũng có một Bà: Đức Phật Bà Quán-Thế-Âm. [4] Từ ngữ “bên” cho thấy là có ít nhất 2 bên liên can trong hiện-vụ, và cách dùng chữ lương-thiện như thế chứng tỏ là bên không TCG cũng đã có nhìn nhận ngôi chùa là của bên Phật Giáo [5] Có đáng tin không, dưới triều Minh Mạng, khi sự cấm đạo ngày càng gắt-gao, hằng trăm giáo dân đã bị bắt (kể cả giáo sĩ Marchand ở tít từ trong Gia Định), mà vẫn còn có một cha xứ hiện diện bên ngoài vùng ẩn nấp La Vang, để các tín đồ từ trong đó ra tiếp xúc báo cáo tình hình được sao ? [6] Có đáng tin không, khi có cha xứ Trí Bưu (gồm cả La Vang, là nơi ẩn trú của giáo dân từ 3 làng nói trên và từ nhiều vùng khác nữa, thí dụ “cách đó 60 cây số” nghĩa là từ Huế) mà cha xứ ấy không nghe biết gì về tin đồn truyền ra từ 1798 cho đến hơn hai thập niên về sau (1820-1840) về việc có Bà linh thiêng hiện ra cách đó chỉ 4 cây số, cho đến khi dân đến báo là đã “đồng thuận nhường chỗ đó lại cho bên TCG”? [7] Những người già cả đó là ai ? Tại Lourdes và Fatimat thì có` con người cụ thể, có tên tuổi và được thờ phụng. Những người kể chuyện La Vang một trăm năm trước (so với năm 1885) không cụ thể là ai cho nên đến bây giờ không có một người nào “thuở ấy” được nhắc đến tên cả. Phải chăng đó là chuyện do các cha cố sau năm 1885 phịa ra nên không thể có một người nào có tên tuổi địa chỉ cụ thể mồ mã của họ cả. Cha xứ bắt thề như thế là để căn-cứ vào đó mà lập hồ sơ về chuyện hiện ra, và sở dĩ thế là vì từ trước 1885 không hề có một hồ sơ tài liệu nào cả về chuyện Đức Mẹ Hiện Ra, dù cho sau này người ta nói là hiện ra vào năm 1798, nhường ngôi chùa lại cho bên Công Giáo vào khoảng 1820-1840. Và tại sao lại không có một tài liệu nào, khi mà ít nhất là một bức thư của linh mục Lôrensô Lâu về việc viếng thăm Cổ Vưu (Trí Bưu) đã được gửi về La Mã từ thời 1691, và khi mà Tòa Thánh Vatican đã có thể trực-tiếp giải quyết chuyện nội bộ La Vang từ thời 1717-1739? [8] Hoà thượng Thích Chơn Tế (chùa Tường Vâiệt nam ở Huế) và Thượng toạ Phước Châu chùa Sắc Tứ Tịnh Quang ở Triệu Phong Quảng Trị. [9] Về tên của vị Giám mục Gaspar trong tư liệu lịch sử viết không thống nhất, Trần Trọng Kim viết là Caspard, Nguyễn Văn Ngọc viết là Gaspar, Nguyễn Lý Tưởng viết là Caspar (Lộc). Theo Lê Ngọc Bích trong Nhân vật Giáo phận Huế, (t.II, tr.213), tên đầy đủ chính thức của vị Giám mục nầy là Marie-Antoine Louis Caspar (tên Việt Nam Lộc) (1841-1917). [10] Ví dụ gọi các nhà yêu nước Văn Thân là “lũ giặc Văn Thân” (Nguyễn Văn Ngọc, Linh Địa La Vang, tr.54)
Các bài cùng đề tài...
| |||||||||||||||
Trang Tôn Giáo |