Đối Thoại Với Giáo Hoàng John Paul II

nhiều tác giả

http://sachhiem.net/DOITHOAI/GiaodiemDT2.php

20-Aug-2014

VỀ NỖ LỰC BÀO CHỮA CHO GIÁO HOÀNG JOHN PAUL II CỦA MỘT TÍN HỮU KITÔ RÔMA

Hoàng Hà Thanh

PHẦN I

   1. Sau khi đọc bài “Scholars Cite Lack of Resurrection Evidence” trong mục Religion, Los Angeles Times phát hành tại Los Angeles ngày thứ bảy, 11 tháng 3, 1995, tôi xuống nhà xem thùng thơ, nhận được tờ Người Việt gửi đến và hân hạnh đọc được bài “Có Sự Ngộ Nhận Về Lời Phát Biểu Của Đức Giáo Hoàng Liên Quan Đến Phật giáo Trong Cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng?” đăng trên báo Người Việt, trang Diễn Đàn, ngày 2 tháng 3, 1995, mà tác giả là Luật Sư Phạm Văn Phổ, chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Bài này đăng lại bài cùng tên đã đăng trên Hiệp Nhất, tháng 3, 1995. Trọng điểm của bài báo này không gì khác hơn là Luật Sư Phổ đóng vai một “apologist” hay “advocate” cho cái gọi là “ngộ nhận” về việc Giáo Hoàng “phỉ báng” Phật giáo.

   Bài viết này nhằm góp ý với Luật Sư Phổ về mấy trọng điểm sau đây: vô thần, giải thoát và cứu rỗi, sự sai lầm của Giáo Hoàng John Paul II. Sự nhận định sai lầm của Luật Sư Phổ, một tín đồ, bắt nguồn từ sự sai lầm to lớn của Giáo Hoàng về Phật giáo, vị giáo chủ của tôn giáo ông.

2. Ngày 22 tháng 10, 1994, cuốn Crossing the Threshold of Hope của Giáo Hoàng John Paul II được phát hành tại nhiều tiệm sách, tôi tìm mua, đọc và viết xong bài giới thiệu cuốn sách vài ngày sau. Khi đọc kỹ cuốn sách nói trên, đặc biệt phần nói về Đức Phật, tôi nhận thấy Giáo Hoàng đã có rất nhiều nhận định sai lầm về Phật giáo. Theo nhãn quan của tôi, sự sai lầm này có thể do hai nguyên do: thiếu hiểu biết về một tôn giáo lớn của nhân loại đã ra đời cách đây hơn 25 thế kỷ và đang trên đà phát triển mãnh liệt trong giới trí thức Tây Phương, hay cố tình nhận định sai lạc có ác ý và nhồi sọ tín đồ của ông với những điều không tốt về Phật giáo, một tôn giáo sẽ được tôn kính ở Tây Phương vào thế kỷ 21 trong khi KiTô Giáo KTG (Christianity) thuộc giáo hội La Mã (Catholic) rời bỏ Tây Phương để phát triển ở Đệ Tam Thế Giới với trình độ trí thức thấp kém. Lúc đó tôi chỉ viết vài bài giới thiệu sách vì sách còn quá mới mẻ đối với các tín đồ của ông và đọc giả khác, nên việc phê bình tạm gác cho tới khi có số đọc giả tạm đủ đọc bài phê bình những sai lầm của tác giả.

3. Đề tựa cuốn sách là Crossing the Threshold of Hope có thể dịch bằng nhiều cách sang Việt Ngữ. Sau khi thử dịch nhiều cách, tôi chọn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, để hy vọng lột được ý của tác giả muốn nói lên ưu tư về sự lung lay của giáo hội vì số tín đồ đi dự thánh lễ càng ngày càng ít, số người đi tu càng ngày càng ít, số người rửa tội tăng chậm hơn mức gia tăng dân số trong giới tín đồ, nhất là những nữ tu sĩ vì tòa thánh Vatican luôn luôn coi nhẹ hàng nữ tu. Muốn hiểu rõ hơn xin đọc History of God của giáo sư Karen Armstrong (nguyên nữ tu sĩ) và A Crisis of Conscience của bác sĩ Hugh R. K. Barber (nguyên là một tín đồ thuần thành), đọc các nhà thần học giải phóng (liberation theology), như Gustavo Gutierrez, Leonardo Boff, Juan Segundo, Batolomé de Las Casas, John Federick Denison Maurice, Dietrich Bonhoeffer, Saul D. Alinsky, các "encyclical letters" (của các Giáo Hoàng) quan trọng như Rerum Novarum của Giáo Hoàng Leo XIII, Qua esimo Anno của Giáo Hoàng Pius XI, Mater et Magistra của Giáo Hoàng John XXIII, đặc biệt tài liệu Rockefeller Report of 1969 (một bản tường trình do cơ quan RAND Corporation ở Santa Monica soạn) với nhan đề là Latin America Institutional Development: The Changing Catholic Church. Bản tường trình này nói lên sự xung đột giữa tòa thánh Vatican và các hàng giáo phẩm của toàn vùng Châu Mỹ La Tinh. Người đọc có thể hiểu bằng hai cách "bước qua ngưỡng cửa hy vọng từ tuyệt vọng sang hy vọng hay từ hy vọng sang tuyệt vọng". Dù hiểu theo cách nào, người ta cũng mường tượng thấy cái lúng túng của Tòa Thánh. Cách dịch của tôi cũng được một nhóm tín đồ dịch cuốn sách của Giáo Hoàng chọn làm đề tựa cho bản tiếng Việt.

4. Vị Trí Của Người Viết: Để tránh những hiểu lầm có thể xảy ra sau khi bài này được đăng tải. Có người sẽ nói bài này viết ra để "bênh" Phật giáo hay tồi tệ hơn nữa, để ... "phá thối". Tôi viết bài này trên cương vị một người nghiên cứu đạo giáo, Phật giáo, Kitô Giáo, Hồi Giáo, Kỳ Na Giáo, Do Thái Giáo... Tôi không quy y với bất cứ một cố Hòa Thượng X, tôi không phải là Phật tử của Thầy Y, tôi không phải là hội viên của ban hộ niệm chùa Y, và chưa bao giờ là thành viên của tổ chức Phật giáo Z nào từ trước đến nay. Đối với hầu hết Chư Tăng và Phật Tử tại đây, tôi là một người hoàn toàn xa lạ... Tôi chỉ là môn sinh của Triết Lý Đấng Thích Ca. Đơn giản có vậy. Tất cả ý kiến trong bài này là của tôi, không hội ý với bất cứ người nào ngoài việc rút tỉa những điều hiểu lấy ra từ  sách vở tôi đã đọc. Đạo lý nào hay, triết lý nào thâm sâu tôi học hỏi, suy ngẫm. Tôi theo 6 điều cuối của Mười Điều Giáo Lệnh nói trong Cựu Ước, tôi theo Thập Thiện Kinh trong kho tàng kinh điển Phật. Tôi suy ngẫm Tứ Diệu Đế và thực thi đúng đắn Bát Chánh Đạo. Không có một cái gì đứng sau bài viết. Tôi cũng không phải là bạn chí thân của bất cứ tờ báo, tạp chí nào. Các vị chủ nhiệm, chủ bút những tờ báo hay tạp chí đăng tải bài viết (không tiền nhuận bút) của tôi hay không là do quyết định của các vị đó. Việc đăng tải hay không nằm ngoài tầm tay của tôi. Tôi chỉ xin một điều, nếu đăng tải bài viết của tôi, khi có lời phê bình hướng về tôi, cho tôi cơ hội đăng bài trả lời theo đúng tinh thần dân chủ. Mục đích của tôi là trình bày với độc giả một ý kiến cá nhân dựa vào những dữ kiện có đầy rẫy trong sách, báo, tài liệu có sẵn trong các thư viện. Việc kiểm chứng những điều tôi đưa ra không phải là một việc làm khó khăn.

Mọi sự phê bình xin hướng thẳng về cá nhân tôi. Những lời phê bình của người đọc sẽ soi sáng trí tuệ của tôi. Tôi xin đa tạ trước. Tôi không hy vọng độc giả đồng ý tất cả những gì tôi viết. Các tín đồ Phật giáo không cần tôi viết bài trả lời vì Phật giáo chủ trương không “chấp ngôn”, “chấp ngữ” và luôn luôn chủ trương “lục hòa”. Phật giáo chủ trương tạo “thiện nghiệp”, không bao giờ tạo “ác nghiệp” cả. Vậy Phật giáo cần gì tới bài viết này của tôi. Tôi giới thiệu sách của Giáo Hoàng không phải vì tôi là tín đồ KTG, tôi viết bài này cũng chẳng phải vì tôi là tín đồ Phật giáo. Tôi viết vì có những nhận định sai lạc về Phật giáo từ phía Giáo Hoàng John Paul II. Hơn 2,500 năm, Phật giáo, theo chứng tích lịch sử, vẫn đi song hành với những nguồn tư tưởng khác, không có một cuộc đổ máu nào xảy ra. Điển hình như tại Trung Hoa: Lão Giáo, Khổng Giáo và Phật giáo đi song hành. Tại Việt Nam, Chùa Một Cột, bên cạnh Vườn Bách Thảo được xây cất cách đây cả 10 thế kỷ, biểu tượng cho Tam Giáo Đồng nguyên.

Chùa Một Cột

5. Theo tôi hiểu, Luật Sư Phổ viết bài báo nói trên không ngoài mục đích là “defuse” một vài căng thẳng mới chớm nở. Theo triết lý nhà Phật, thì việc làm của Luật Sư Phổ mang cái “Tâm Phật” trong đó. Nhưng ai cũng biết “Vô Minh” đưa đến phiền não. Tại Hoa Kỳ, cultural awareness, religious awareness được huấn luyện cho mọi giai tầng công nhân, cũng như trí thức và mọi giai tầng công dân. Nhưng rất tiếc, tôi không thấy điều này ở Luật Sư Phạm Văn Phổ.

6. Lối lập luận trong bài viết này tôi học được của St Thomas Aquinas. Trong bộ thần luận Summa Theologiae, một đại tác phẩm thần học, mà một số người quen thuộc với hệ thống tiếng Pháp biết dưới tên St Thomas d’Aquin, đưa ra 5 cách lập luận để cuối cùng chứng minh có Thượng Đế. Năm cách này, Five Ways (Quinque Viae), mà tôi xin tạm dịch là “Ngũ Cách” hay “Ngũ Đạo”. Ông lấy sự việc A làm “moving cause” để lập luận tới B, từ B sang C, từ C sang D, từ D sang E, tức là Thượng Đế. Tất nhiên lối lập luận không đi đến vô tận mà tới bậc thứ 5 “finality” là hết, nghĩa là Thượng Đế là bậc cuối cùng. Bất cứ ai đọc St Thomas Aquinas phải công nhận đây là lối lập luận thần diệu.

7. Nếu nói “Công” thì phải có “”, hay nói khác hơn những tôn giáo khác không phải là “Công giáo” chỉ là “Tư Giáo” hay “Tôn Giáo Không Chính Thức” như Phật giáo, Cao Đài Giáo, Hồi Giáo... có mặt trong Cộng Đồng Việt Nam? Nếu chữ Catholic mà Luật Sư dịch là “Công”, tôi xin lỗi vì hiểu sai ý Luật Sư. Tại Việt Nam trước đây, nhiều người dùng sai chữ “Lương” trong lúc phân biệt giữa người theo Kitô giáo và người không theo Kitô giáo. Người ta thường nghe nói “Lương” và “Giáo”. “Lương” là lương thiện, thế “Giáo” không lương thiện hay sao? Sự sai lầm cứ tiếp diễn, cho tới lúc dùng theo thói quen mà không hiểu ý nghĩa ban đầu mà người ta dùng với ý nghĩa chê bai.

Cũng như Chúa Giêsu Kitô không sinh vào ngày 25 tháng 12 đầu tiên của Kỷ Nguyên Thiên Chúa (Christian Era) hay có người gọi là Công Nguyên (Common Era), Tây Nguyên (Western Era), Tây Lịch (Western Calendar), và mới nhất Hiện Đại (Present Era). BC (Before Christ) và AD (Anno Domini) được ông Dionysius Exiguus, một tu sĩ vào thế kỷ thứ 6, dùng lần đầu tiên năm 533. Chúa Giêsu Kitô được sinh ngày 1 tháng 3 năm thứ 7 trước công nguyên. Tính đến thời gian hiện tại, Chúa Giêsu Kitô đã sinh cách đây 1995 năm + 7 năm = 2002 năm rồi (theo chứng tích khảo cổ và Thánh Kinh, và sách Luke 1:56). Nhưng sự sai lầm này vẫn tồn tại trên 15 thế kỷ. Ta dùng theo thói quen, không biết là sai, vì không còn ai biết nó sai nữa. Một thí dụ nữa, Chúa dựng nên trời đất và con người trong 6 ngày. Ngày thứ bảy phải nghĩ (Sabbath). Ai làm việc là phạm tội. Ấy thế mà khu phố Bolsa rất tấp nập kẻ mua người bán vào ngày thứ bảy (7th day). Có khi có người bán quà bánh, nước uống trước cửa nhà thờ vào ngày thứ bảy, có ai biết là làm sai lời Thánh Kinh đâu. Xin độc giả đọc lại Thánh Kinh sẽ rõ. Những hàng chữ vẫn còn đó. Làm ngày làm đêm, làm thêm chủ nhật còn chưa đủ sống, huống chi là nghỉ một ngày. Hơn nữa, người Do Thái, tín đồ Tin Lành, Hồi Giáo không đồng quan điểm với tòa thánh coi ngày thứ bảy (7th day) rơi vào Ngày Thứ Bảy (Saturday). Ngày thứ 7 này có thể là Thứ Sáu (Friday) hay Thứ Tư (Wednesday), mặc dù tất cả đều chiêm ngưỡng Cựu Ước.

8. Buổi sáng ta thấy mặt trời mọc phương Đông, trưa trên đỉnh đầu, chiều hạ xuống phương Tây. Ta có cảm tưởng quả đất phẳng và đứng yên một chỗ, mặt trời quay quanh trái đất. Tòa thánh Vatican cho rằng trái đất phẳng, đứng yên một chỗ và là trung tâm của vũ trụ. Tín đồ cứ hiểu như vậy cho tới khi ông Galileo nói rằng trái đất tròn và quay quanh mặt trời. Ông đã trả một giá quá mắc, bị tù chung thân vào lúc tuổi già. Bốn trăm năm sau Tòa thánh mới công nhận là lầm lẫn và hủy bỏ bản án. Còn rất nhiều trường hợp khác như Jeanne d’Arc, Martin Luther, Darwin, Cha dòng tên Pierre Teillard de Chardin… đọc lại lịch sử để rút tỉa những bài học quý báu. Rất tiếc luật sư Phạm Văn Phổ hình như quên những trang sử đen tối đó. Ta thường nghe nói “Vô minh gây phiền não”. Nhận định sai lầm của Giáo Hoàng John Paul II có lẽ sẽ được làm sáng tỏ khi tòa thánh có một vị Giáo Hoàng mới, với tư tưởng cởi mở và thân thiện hơn.

9. Việc Trích Dẫn Không Cần Thiết: Để lập luận rằng Giáo Hoàng không có ý “phỉ báng” Phật giáo, Luật Sư trích dẫn lời nói của ông Toan Ánh và Thu Giang Nguyễn Duy Cần. Sự trích dẫn này không phải là một “Affimative defense”, nên theo tôi, nó “irrelevant”. Tôi rất thất vọng khi đọc lời trích dẫn trong sách thay vì đưa ra những tài liệu, lời phát biểu hay việc làm để chứng minh như giám mục Colombo chuyển lời xin lỗi của Giáo Hoàng đến các vị sư Phật giáo phản đối và dọa tự thiêu về những điều viết ra trong sách của Giáo Hoàng chẳng hạn. Thí dụ như Giáo Hoàng tiếp và kết thân với Đức Đạt Lai Lạt Ma (được giải thưởng hòa bình Nobel, 1989, trong khi Giáo Hoàng John Paul II lại bị ám sát hụt nhiều lần) tại tòa thánh. Cái “defense strategy” của Luật Sư quá dở. Uy tín của Ông Toan Ánh và Thu Giang Nguyễn Duy Cần không đủ mạnh, so với uy tín của Giáo Hoàng. Tôi có thể cam kết Giáo Hoàng không cố ý “phỉ báng” Phật giáo. Ông được tín đồ coi là một bậc đại nhân, ông không thể có cái tâm của kẻ phàm phu. Đặt vấn đề “phỉ báng” ở đây là đặt sai vần đề (out of context). Nếu nói Giáo Hoàng không hiểu rõ triết lý Phật giáo thì đúng hơn, có lẽ vì ông quen với thần học hơn là triết học Đông Phương. Việc làm của Luật Sư Phổ có thể được hiểu là làm giảm uy tín của Giáo Hoàng. Nếu biết Zen Thinking (tức là suy nghĩ trong sáng, tinh tấn và trung thực) trước thì sự suy nghĩ của Luật Sư trong sáng hơn.

PHẦN II

10. Cây Thánh Giá và Cội Bồ Đề: Theo tôi nghĩ, hai hình ảnh huyền diệu nhất của nhân loại là cây Thánh Giá và Cội Bồ Đề. Chúa Giêsu Kitô sinh ra trong một hang đá lạnh lẽo. Ngày 1 tháng 3 năm 7 trước Kỷ Nguyên Thiên Chúa. Cái nôi của Ngài là một máng lừa. Ngài giảng đạo trong vài ba năm (tích cực nhất, khoảng vài tháng, theo Thánh Kinh và Dead Seas Scrolls tìm thấy năm 1947, 1949 và 1952), trong vùng đất cằn cỗi dưới áp lực đòi quy phục của người Do Thái. Rồi ngài bị đóng đinh trên thánh giá để chuộc tội cho tín đồ, ba ngày sau Ngài sống lại, và 40 ngày sau ngài về Nước Chúa ngồi bên tay phải của Đức Chúa Cha (theo Tân Ước). Một cái chết khủng khiếp, đau đớn cùng cực. Từ lúc sinh ra cho tới khi chết, Ngài chịu những đau khổ tột cùng mà con người không thể chịu nổi, Ngài gánh lên vai tất cả tội Tổ Tông của tín đồ, từ thời Adam và Eve, để cứu rỗi và mang lại thương yêu cho tín đồ. Một cái chết bi thảm nhất, một cái chết cực kì cao quý. Tín đồ của Ngài phải tin điều này trước bất cứ điều gì, nếu Ngài không bị đóng đinh, nếu Ngài không sống lại, thì tất cả tín lý đều vô nghĩa, và tất nhiên chủ thuyết cứu rỗi sẽ sụp đổ (theo Tân Ước). Trọng điểm của thuyết cứu rỗi nằm ở đó. Nhưng gần đây các nhà nghiên cứu moi móc chứng tích khảo cổ không chứng minh được sự sống lại (xem bài “Scholars Cite Lack of Resurrection Evidence” đăng trên Los Angeles Times ngày 11 tháng 3, 1995, đọc cuốn Jesus and the Riddle of the Dead Sea Scrolls của giáo sư Barbana Thierning, và những tài liệu về Dead Sea Scrolls).

   Tất cả tín đồ KTG muốn được cứu rỗi chỉ có một con đường duy nhất là quỳ phục trước thánh giá. Chúa Giêsu Kitô sinh ra trong cảnh nghèo nàn, lạnh lẽo và chết thảm lơ lửng trên không. Âm thanh chát chúa của ba cây đinh trên thánh giá trên đỉnh Đồi Xọ và hình ảnh đầu của Ngài nghiêng sang một bên và máu tuôn ra từ thân thể Ngài và tiếng kêu vô vọng vẫn còn văng vẳng bên tai của tín đồ trong 2,000 năm nay: “… Xin Chúa Đừng Bỏ Tôi”. Là nguồn cảm hứng cho việc sáng tác nghệ thuật tuyệt vời, điển hình như Christ On The Mount Of Olives của Beethoven (âm nhạc), The Cruxifixion của Peter Paul Rubens và Christ On The Cross của El Greco (hội hoạ), La Pieta của Michelangelo (điêu khắc),… và cũng là nền tảng cho đức tin của tín đồ. Ngài sẽ trở lại lần nữa (Second coming) vào Ngày Phán Xét (Judgement Day) để mang người sống cũng như người đã chết ra trước mặt Ngài phán xét, ban thưởng hay trừng phạt. Ngài vừa là người buộc tội (accuser), vừa là phán quan (judge).

11. Một hình ảnh trái ngược, trước Chúa Giêsu Kitô trên 5 thế kỷ, tại Phương Đông, Thái Tử Tất Đạt Đa, từ bỏ ngai vàng, cung điện, vợ đẹp con khôn, ngọc ngà châu báu, lạc thú ở đời, trốn khỏi cung ngà điện ngọc, theo đuổi một cuộc sống theo lối khổ tu, đi tìm chân lý cho những nổi khổ đau của chúng sinh. Ngài theo hết vị thầy này cho đến vị thầy khác để học đạo, nhưng vẫn không tìm ra chân lý. Một hôm Ngài quyết định ngồi dưới gốc cây bồ đề, tham thiền trong 49 ngày, có lúc Ngài quá yếu sức phải đương đầu với biết bao quấy phá, thử thách, nhưng tới ngày thứ 49, vào lúc sao mai vừa mọc, Ngài chứng được đạo quả Bồ Đề. Ngài đã “giác ngộ”, tìm thấy chân lý. Một cuộc tham thiền nhập định vô tiền khoáng hậu, từ đó nảy sinh ra Thiền Tôn. Sau khi giác ngộ một cảm giác tột cùng của chân lý, không còn một cái gì cao hơn nữa. Ngài truyền đạo gần nửa thế kỷ khắp nơi. Ngài không phải là một vị thần, vị thánh gì cả, Ngài chỉ là một Vị Đại Sư, chỉ dẫn cho tín đồ một triết lý sống thoát khỏi khổ đau (sinh, lão, bệnh, tử) để tới Niết Bàn. Sau Ngài, các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni được tín đồ gọi là thầy, mà người thường gọi Ông Sư hay Bà  Sư, vì lý do đó.

12. Toàn bộ triết lý của Ngài chỉ gồm vẻn vẹn có 2 phần: Phần nhận định nỗi thống khổ của chúng sinh từ đâu mà ra và phương thức diệt trừ nguyên nhân của khổ đau (Tứ Diệu Đế) và phương châm hành động để đạt tới chân lý, hạnh phúc vĩnh cửu (Bát Chánh Đạo). Ngài là người lái đò đưa chúng sinh từ Bến Mê sang Bờ Đại Giác, tức là Niết Bàn. Niết Bàn là gì, nếu không phải là một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu, một trạng thái tâm linh trong sáng tột đỉnh, không có cái gì cao hơn nữa. Người đời tôn Ngài là Đấng Chí Tôn, Đấng Đại Giác, hay nôm na là Ông Phật, Ông Bụt. Mọi người hay nói rộng hơn chúng sinh, khi sinh ra đều có sẵn Phật tính. Ta chỉ cần phát triển Phật tính đó để thành Phật hay tính Giác Ngộ. Ai cũng có thể thành Phật. Trước Ngài đã có biết bao vị Phật, sau Ngài còn có nhiều vị Phật khác. Phật là gì? Phật có nhiều nghĩa: Tên vị khai sáng ra đạo Phật, và là một sự giác ngộ, thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, bể trầm luân u mê để đạt đến trạng thái hạnh phúc vô biên vĩnh cửu. Ngài chỉ cho nhân loại con đường đi, Ngài không phải là con đường, Ngài không “giải thoát” hộ cho ai, mà mỗi người tự “giải thoát” cho chính mình. Tín đồ quỳ gối dưới chân Ngài cũng vô ích, không thể thành Phật được.

13. Theo triết lý của Đấng Thích Ca, con người có tất cả tự do trong hành động của mình được nói tới trong Bát Chánh Đạo. Tạo nghiệp tốt, đạt quả tốt. Bát Chánh Đạo không phải là 8 giáo lệnh, 8 điều bắt buộc phải theo mà là những lời khuyên, là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống đạo đức, khổ đau do cái nghiệp xấu mà ta tạo ra, được ví như chiếc áo dơ bẩn tanh hôi ta đang mặc trên người. Ta ngồi cầu Phật, niệm Phật, cúng tiền vào Chùa, vào Tự mà vẫn mặc chiếc áo dơ bẩn tanh hôi đó, vẫn không tu thân, thì chẳng bao giờ “giác ngộ” được. Đức Phật chỉ cho ta cách cởi chiếc áo đó ra để cho thân thể được thanh tịnh, chân tâm được trong sáng, trí tuệ được tinh tấn như trí huệ Phật, ta mới thành Phật được. Cái triết lý cao thâm và vi diệu này được nhiều học giả Tây Phương sang Đông Phương nghiên cứu, học hỏi và mang về truyền bá cho mọi người. Đạo Phật xâm nhập vào Tây Phương không bằng con đường thuộc địa hay móc nối với chính quyền. Đạo Phật không có những đoàn truyền giáo đi sau đoàn quân viễn chinh. Mà du nhập vào Tây Phương qua mặt tư tưởng cao siêu, nói khác hơn Đạo Phật như một báu vật mang về từ Đông Phương.

14. Có lẽ vào thế kỷ 21, triết lý Đấng Thích Ca sẽ có một nền móng vô cùng vững vàng. Có “tám vạn pháp môn” giúp ta được “giải thoát”, tùy theo khả năng tu tập của mỗi cá nhân. Đạo Phật không đưa ra một tín lý chắc nịch, cứng nhắc, bắt buộc tín đồ phải theo. Nói khác hơn, có nhiều lộ trình khác nhau đưa ta đến “giải thoát”, tất nhiên cuộc hành trình không phải chỉ có “độc đạo”. Đạo Phật không bắt buộc, không gò bó tín đồ trong một khuôn mẫu hay tín lý cứng nhắc nào cả do Giáo hội từ trên đưa xuống. Theo hay không theo tùy ý mỗi cá nhân. Đạo Phật không có những tòa án tôn giáo hay tòa án dị giáo (như inquisition của tòa thánh Vatican) xét xử những ai nói trái với kinh điển nhà Phật. Trước khi tịch, Ngài truyền dạy tín đồ của Ngài có thể thay đổi kinh điển để thích nghi với việc truyền đạo. Nhưng sau 4 lần kết tập, kinh điển của Ngài không sửa một chữ và truyền lại trên 20 thế kỷ.

Đạo Phật chưa bao giờ, trong quá trình lịch sử trên 2,500 năm, và sẽ không bao giờ tịch biên tài sản, ngăn cấm không cho giữ những chức vụ công, lưu đày, cầm tù chung thân hay cột vào cây, chất củi đốt cho tới khi chết cháy nếu nói điều gì trái với giáo hội. Vì thế Đạo Phật còn gọi là Đạo Từ Bi. Ngay từ lúc khởi hành đi tìm đạo, ta cũng cảm thấy thoải mái, và đã cảm thấy hương vị “giải thoát”. Nam Tông, Bắc Tông hay tông phái Tây Tạng không chống đối nhau, chém giết nhau hàng chục năm, hàng trăm năm. Tất cả chỉ khác nhau ở cách tu luyện. Tại sao cách tu tập khác nhau, vì mỗi người có những khả năng tu hành khác nhau. Đức Phật đưa ra những phương thức khác nhau để hành giả tùy nghi áp dụng cho chính bản thân mình. Chúng ta hãy lấy một ví dụ. Ta đi từ điểm A đến điểm B, ta có thể đi bộ, ta có thể đi bằng xe hơi, đi bằng máy bay. Đấng Thích Ca chỉ cho ta cách sử dụng những phương tiện di chuyển khác nhau. Điểm A là Bến Mê, điểm B là bờ Đại Giác. Trong bộ Thiền Luận, Giáo sư Suzuki mở đầu bằng: “Thiền là nghệ thuật kiến chiếu vào thể tánh, để đưa ta từ triền phược đến giải thoát”. Thiền là một trong những phương cách thực hiện một cuộc hành trình để tự “giải thoát” chính mình. Ta phải tự đi, Ông Phật không cõng ta trên vai. Triết lý Đấng Thích Ca chỉ là cái ngón tay chỉ cho ta thấy mặt trăng, đừng lầm ngón tay với mặt trăng; triết lý Đấng Thích Ca chỉ là con thuyền giúp ta sang sông. Nếu ta không tự chèo lấy, làm sao con thuyền có thể nhổ neo để sang bờ Đại Giác, con thuyền sẽ mãi mãi đậu tại Bến Mê. Chính vì phải tự tu thân tích đức nên Đạo Phật không phải là tôn giáo “yếm thế” hay “tiêu cực” mà ngược lại vô cùng “tích cực”. Việc gắn liền “tiêu cực” với Phật giáo là việc làm của kẻ vô minh.

PHẦN III

15. Thuyết Cứu Chuộc Mới: Luật sư Phạm Văn Phổ nói: “Tuy nhiên, theo thuyết cứu chuộc của Công Giáo, giai đoạn tu tập để đạt tới chỗ “Giác ngộ” chỉ là giai đoạn đầu của tiến trình của công cuộc cứu rỗi. Bởi vì sau khi đã đạt tới giai đoạn “giác ngộ” hoàn toàn, người tu tập phải tiến một bước xa hơn là kết hợp với Thiên Chúa, Ngài là Đấng Tạo Dựng cũng như là Đấng Cứu Rỗi qua việc áp dụng các nhân đức như lòng tin, lòng trông cậy hy vọng và đặc biệt lòng yêu thương, để không những cứu rỗi riêng mình còn cứu rỗi của nhân loại”. Tới đây tôi có cảm tưởng luật sư Phổ là một “doctor of the church” của Tòa Thánh Vatican xuất hiện vào hậu bán thế kỷ 20. Chắc Luật sư chưa rõ “doctor of the church” là gì, xin nói thêm: St Ambrose (340-??), St Jemore(345-420), St Augustine (396-430), Giáo Hoàng Gregory I (540-604), được mệnh danh là Gregory The Great, sau này có St Anselm (1033-1109), St Thomas Aquinas (1225-1274)… là những cột trụ thần học của Tòa Thánh.

Riêng học phái thần học gọi “giác ngộ” là giai đoạn đầu của tiến trình của công cuộc cứu rỗi, và sau đó đi xa hơn bước nữa để kết hợp với Thiên Chúa, chắc Giáo Hoàng chưa nghe thấy thuyết này của luật sư Phạm Văn Phổ, một thần học gia đầu tiên của Dân tộc Việt Nam. Người ta đọc cuốn Confessions City of God của St Augustine; cuốn Monologion, Proslogion của St Anslem, cuốn The Theory of Paranymy (bản dịch của D.P.Henry,1964) , St Anselm and His Crictics (của J.M.McEntyre,1954); cuốn Summa Theologiae On Being and Essence của St Thomas Aquinas không tìm thấy một chữ nào nói về thuyết cứu rỗi như luật sư Phổ Thuyết giảng. Âu cũng là vinh hạnh lớn cho Con Cháu họ Hồng Bàng. Nhưng rất tiếc Đức Phật, Đấng Giác Ngộ, nhập Niết Bàn trước công nguyên hơn 5 thế kỷ, mà theo luật sư Phổ, mới tu xong giai đoạn đầu và không có hồng ân sống thêm vài thế kỷ nữa để được luật sư dẫn đến Thiên Chúa để Đức Phật được kết hợp với Thiên Chúa và được cứu rỗi. Thật là chủ quan! Thật tức cười! Khi nói “giác ngộ” là đã đạt tới mức tột cùng, còn gì có thêm chữ hoàn toàn nữa.

16. Thưa luật sư, nếu tôi không hiểu sai, bài viết của luật sư nhằm xoa dịu một vết thương “phỉ báng”, nhưng luật sư đã làm sai, chẳng khác nào có một đống rơm có thể cháy, đáng lý Luật sư cầm thùng nước dội vào cho nó tắt đi, đằng này Luật sư lại cầm lầm thùng dầu hôi đổ vào mồi lửa cho cháy to thêm. Thay vì chữa lửa, luật sư lại trở thành người tạo hỏa hoạn. Thay vì xoa dịu sự “phỉ báng”, lại làm việc “sỉ nhục”. Tôi buồn lắm. Xin mời Luật sư cùng tôi đặt ra một trường hợp giả tưởng, tôi nói giả tưởng thôi, một ông Sư, đầu trọc áo vuông, nói với mọi người là việc quỳ gối dưới Thánh Giá để được cứu rỗi mới chỉ là bước đầu tiên trên con đường đi đến “Giác ngộ”, rồi sau đó nhập Niết Bàn để ngồi bên cạnh Ông Phật. Luật sư nghĩ sao về trường hợp giả tưởng này? Đây là trường hợp bố láo phải không, thưa Luật sư? Thưa Luật sư, Luật sư nợ tín đồ Phật giáo (trong đó không có tôi), đang đi trên Phật lộ để đến “giác ngộ” một lời xin lỗi chân thành. Luật sư không làm buồn lòng Ông Phật vì Ngài là Đấng Đại Giác, với lòng từ bi và hỷ xả vô biên, Ngài đã đạt được tới tận cùng của chân lý rồi. Thật tội nghiệp cho những cụ già, tu hành, tụng kinh gỏ mõ hàng mấy chục năm, sắp tới ngày về Cõi Phật, được Luật sư nói chưa được, các cụ sắp sửa hoàn tất giai đoạn đầu thôi, con đường đi tới chân Thánh Giá còn xa lắm mới được kết hợp với Chúa và được cứu rỗi. Các cụ già sức đâu mà đi xa hơn nữa.

Tối hôm qua tôi nằm mơ thấy Đức Phật, Ngài có nhắn tôi gửi lời xin lỗi Luật sư vì không thể sống đến năm 1995 để chờ Luật sư cho biết Đức Phật còn đi một đoạn đường xa nữa mới được kết hợp với Thiên Chúa trước khi được cứu rỗi. Đức Phật nói Ngài đã “lỡ” chứng được Đạo Quả Bồ Đề và nhập Niết Bàn rồi vào lúc Ngài 80 tuổi. Sau gần nữa thế kỷ truyền đạo, Ngài không còn đủ sức để tu tập giai đoạn kế tiếp nữa. Xin Luật sư cảm phiền, và cũng xin luật sư chuyển lời cảm ơn Đấng Tạo Hóa đã ban cho Ngài hồng ân và cho phép Ngài khai sáng ra đạo Từ Bi, như Giáo Hoàng nói: “Như vậy, thay vì ngạc nhiên trước sự kiện là Đấng Toàn Năng đã phát sinh ra nhiều tôn giáo như vậy, chúng ta phải thích thú tìm thấy nơi các tôn giáo đó” (trang 82, Crossing the Threshold of Hope).

17. Thượng Đế có hay không: Chúa, Đấng Thượng Đế (God), Toàn Năng (The Almighty), Tuyệt Đối (The Absolute), ở khắp cả mọi nơi (omnipresent), quyền năng vô biên (omnipotent), toàn trí toàn thức (omniscient) sẽ cứu rỗi cho loài người. Tại sao? Vì loài người phạm tội. Cái tội này nó đi vào linh hồn (soul) chứ không phải thể xác (body) từ thời Adam và Eve. Thượng đế hiện hữu được các thần học gia biện minh qua nhiều cách. Thoạt đầu, Thượng Đế chỉ là một khái niệm vô hình của người Do Thái, sau này những nhà thần học tán rộng thành ra Thượng Đế của cả nhân loại. Rất tiếc trong thế chiến II, người “Giải thoát” nạn tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã không phải là Thiên Chúa mà là Hồng Quân của Liên Xô vô thần. Chúng ta hãy xem các nhà thần học lập luận về Thượng Đế:

1. Tiêu biểu nhất cho học phái chủ trương biện luận theo sự chấp thuận thông thường (common consent arguments, consengus gentium) là Richard Hooker (xem Treatise on the laws of Ecclesiastical Polity), được hỗ trợ bởi Cicero, Seneca, Clement of Alexandria, Herbert of Cherbury, Phái Plato của Cambridge, Gassendi và Grotius. Nhưng Hegel chống đối.

2. Tiêu biểu cho những người bênh vực cho học phái dựa vào vũ trụ luận (cosmological arguments) gồm có Plato (xem The Laws), Aristote (xem Metaphysics), St Thomas Aquinas (xem Summa Theologiae), Locke (xem Essay on the Human Understanding), Descarters (xem The Third Meditation) và hầu hết những nhà thần học hiện đại của Giáo Hội La Mã. Nhóm này chủ trương mọi sự việc phải bắt nguồn từ một nguyên nhân đầu tiên (first cause). Mà nguyên nhân đệ nhất này là Thượng Đế. Trong số những người phê bình phải kể đến Hume, Kant và J.S.Mill.

3. Tiêu biểu cho lối lập luận dựa vào sự hoàn thiện của sự việc (degrees of perfection arguments) không ai khác hơn là St Thomas Aquinas. Trong lối lập luận “Ngũ Cách” hay “Ngũ Đạo” (Five Ways) trong bộ thần luận Summa theologiae, ông nói: “The fourth way is based on the gradation observed in things. Some things are found to be more good, more true, more noble, and so on, and other things less… Some thing therefore is the truest and the best and the most noble of things… And this we call God” (trích Summa Theologiae). Xin tạm dịch là: “Cách thứ tư được dựa vào sự sắp đặt theo mức độ gia tăng được quan sát thấy ở trong những sự việc. Người ta tìm thấy vài sự việc tốt lành hơn, đúng hơn, cao quý hơn… Vì thế một sự việc nào đó là sự việc đúng nhất và tốt nhất và cao quý nhất… Và chúng ta gọi sự việc này là Thượng Đế”.

4. Tiêu biểu cho nhóm đặt nền tảng lập luận dựa vào luân lý phải kể đến Kant và Hume. Kể từ Kant cho đến nay, có rất nhiều tư tưởng gia biện minh cho sự hiện diện của Thượng Đế lấy điểm tựa là kinh nghiệm đạo đức của con người (human moral experience), họ không đồng thuận với thần học tự nhiên cổ truyền (traditional natural theology). Họ lập luận phải có mệnh lệnh luân lý (moral commands), có người ra lệnh (moral commander), luật lệ luân lý (moral laws). Thượng Đế là người viết luật, ra lệnh thi hành và phán xét. Hai tư tưởng gia hỗ trợ mạnh nền tảng lập luận của Kant, mặc dù không đồng ý một vài phần, là W.R.Sorley (xem Moral Values and the Idea of GB) và A.E. Taylor (xem TheFaith of a Moralist).

5. Tiêu biểu nhất cho nhóm đặt nền tảng lập luận trên bản thể luận (ontological arguments) là St Anselm (1033-1109) (xem Proslogion). St Anselm quan niệm Thượng Đế như sau: “Something that whis nothing greater can be conceived” (aliquid quo nihil maius cogitari possit). Xin tạm dịch là: “Một cái gì không có một cái gì lớn lao hơn có thể nhận thức được” (Proslogion 2). Trước đó 7 thế kỷ, St Augustine (Aurelius Augustinus) đã định nghĩa Thượng Đế là một cái gì “không có ai trên cao hơn được” (… “than whom there is nothing superior”) và ông nói tiếp: “anh phải tin tưởng để anh hiểu; nếu anh không tin, anh không hiểu được” (“Believe in order that you understand; unless you shall believe, you shall not understand” (xem Confessions và City of God).

6. Lập luận thông thường (popular arguments): chúng ta được dạy là phải tin. Tín ngưỡng đồng nghĩa với đức tin và phản nghĩa với lý luận. Vũ trụ chứa đựng những điều khó hiểu, không thể biết (unknowable). Người ta giải thích những điều này là Thượng Đế, vì Thượng Đế hiện hữu.

7. Lập luận dựa vào mục đích luận về vạn vật (teleological arguments). Đại diện cho nhóm người bênh vực cho lập luận này là William Paley (xem Natural Theology). Căn cứ vào sự cấu tạo và vận hành các bộ phận của cơ thể con người, sinh vật, hay vạn vật, người ta tin có một bàn tay nào sắp xếp, phác hoạ, tức là phải có một “designer”, tức là Thượng Đế. Người biện minh hùng hồn nhất phải kể đến F.R. Tennant (xem Philosophical Theology), được hỗ trợ bởi Ralph Cudworth (xem True Intellectual Systems of the Universe), Robert Boyle (xem The Excellence and Grounds of the Mechanical Philosophy), Robert Hooke (xem Micrographia), John Ray (xem The Wisdom of God Manifested in the Works of Creation) Nhưng người phê bình là David Hume (xem Dialogues Concerning Natural Religion). Thuyết tiến hóa (evolution) của Darwin (1809 - 1882) làm lung lay lối lập luận của nhóm này (xem Natural Selection, Origin of Species The Descent of Man). Bản thể luận (ontology), vũ trụ luận (cosmology) và mục đích luận (teleology) là 3 cột trụ của sự tranh biện có sự hiện diện của Thượng Đế.

8. Lập luận trên khía cạnh tôn giáo (religious arguments): người sáng tạo ra vũ trụ là những siêu hình thể dưới nhãn quan của tôn giáo đó. Phật giáo và Kitô Giáo có quan niệm về vũ trụ khác nhau. Phật giáo có duyên khởi và nhân duyên, Thiên Chúa Giáo có Thiên Chúa. Ta không thể so sánh, luận bàn. Bởi vì Tạo Vật Chủ hay Đấng Tạo Hóa (The Creator) không thể biết được (The Unknowable). Không có đúng và không có sai, chỉ có sự “tin”. Nếu sự “tin” được gạt sang một bên, người giải thích vũ trụ là nhà khoa học. Cho tới giờ này khoa học gia chưa có đầy đủ dữ kiện để giải thích. Vì thế sự “tin” vẫn có giá trị.

17. Trở về với quan niệm về vũ trụ của Phật giáo. Phật giáo không quan niệm vũ trụ vạn vật do một đấng nào tạo ra cả, vì thế không quan niệm có Thượng Đế, tạo vật chủ (creator). Vũ trụ vạn vật sinh ra dựa vào 2 lập luận: Thật tướng luận và Duyên khởi luận. Trước khi đi vào 2 lối lập luận này, ta phải xét lối lập luận trong triết lý Đấng Thích Ca, dualistic reasoning, lối lập luận song nguyên. Thí dụ: A là A mà cũng chẳng phải A, B là B mà cũng chẳng phải B. A và B nương tựa nhau mà có. A sinh ra B, B sinh ra A. Chỉ có A khi nào có B, chỉ có B khi có A. A và B phải luôn luôn đi với nhau. Anh A cao 1 thước, anh B cao 1 thước 50. Ta không thể nói A là thấp nếu không có B. B không thể nói là cao nếu không có A. A thấp, B cao vì cả hai nương tựa vào nhau mà thành “thấp” hay “cao”. Nếu A hay B đứng riêng, không có sự việc “thấp, cao”. Tất cả đều là tương đối, “thấp” và “cao” do cảm quan (perception). Ngôn ngữ lập luận của Phật giáo như sau: A thấp, mà cũng chẳng phải thấp. Mới nghe có vẻ như “gàn dở”. Nhưng thực ra không phải như vậy. Cái quan niệm “có, không”, “thật, hư”, “thường trụ, bất biến”, “sanh, diệt”, “vô thỉ, vô chung”… nằm trong lối lập luận này. Cho nên khi nhận định tư tưởng Phật giáo ta phải đi đứng trên ngôn từ, dùng trực nhận, vận dụng trí tuệ tối đa. Trực nhận là một trình độ trí tuệ cao siêu, người bình thường không thể có vì người ta cứ bận rộn với “ngôn từ” nên không tìm ra “ý”. Triết lý Phật giáo nặng về “ý”, nhẹ về “ngôn từ”.

A. Thật Tướng Luận: Thật thể, thật tướng hay chân như là chân thật, không giả dối, không biến đổi, không sanh diệt, không còn mất, vô thỉ - vô chung. Cái Chân Như đó, Phật giáo còn gọi là Chân Tâm, Viên Giác, Thắng Nghĩa, Giác Tánh, Phật Tánh, Như Như, Nhất Như… Muốn hiểu được thật tướng phải dùng trực nhận, không bằng ngôn từ để có thể “thể nhập” hay “thể chứng”. Ngôn ngữ dùng để diễn tả hiện tượng giới. Mà đã nói đến hiện tượng giới thì phải có giới hạn vì hiện tượng giới nằm trong cảm quan của ta, không thể dùng để diễn tả sự việc vượt không gian và thời gian. Vũ trụ vô thỉ, vô chung, nghĩa là không có khởi đầu và cũng không có kết thúc. Khởi đầu từ vô thỉ chạy thẳng xuống vô chung. Vì thế Phật giáo quan niệm vũ trụ vạn vật không do một đấng nào có quyền năng vô biên (omnipotent) tạo ra cả. Nếu nói có đấng sáng tạo tức là ta nói có điểm khởi đầu, tức là cái "thỉ".

Đã quan niệm là “vô thỉ, vô chung” thì còn làm gì có đấng tạo hóa hay thượng đế nữa. Không có nguyên đệ nhất (first cause, designer, creator…) thì tất nhiên chẳng có Thượng Đế. Diễn tả sự việc này bằng ngôn từ, tức là có sự giới hạn trong sự diễn tả. Phải dùng trực nhận để hiểu biết vấn đề. Henri Bergson giúp ta thêm để hiểu thế nào là trực nhận (intuition, immediate apprehension). Nghiên cứu thuyết “entropy” để biết sự biến dạng (transformation) và thật thể biến hiện của vũ trụ.

B. Duyên Khởi Luận: là những lý thuyết nói về nguyên nhân hay lý do sanh khởi của hiện tượng giới. Có 5 thuyết trong Duyên Khởi Luận: Nghiệp Cảm, A Lại Đa Thức, Chân Như, Lục Đại và Pháp giới.

1. Nghiệp Cảm: thuyết này rút tỉa từ Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên. Cái nghiệp nó tạo ra thân ta và y báo tức là sơn hà đại địa. Nghiệp biến đổi, quả cũng biến đổi. Nghiệp cảm làm sao thì cảm thọ cái thân và cảnh giới như thế. Dứt trừ được nghiệp báo là trở về với Chân Như, tức là đã Giác Ngộ.

2. A Lại Đa Thức: Trong nghiệp cảm duyên khởi có 6 thức (nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý). Đại thừa thỉ giáo tìm thêm 2 thức nữa, Mạt Na Thức và A Lại Đa Thức. Mạt Na Thức là nhận biết có cái ngã, và giữ gìn cái ngã ấy. Nhưng làm sao giữ được cái ngã ấy trong khi ngũ uẩn và lục thức đều sanh diệt vô thường, hợp lý mãi mã. Vậy ta phải cần có một thức khác để ngăn chặn sanh diệt vô thường, hợp lý mãi mãi. Lấy thí dụ ta muốn giữ đồ ăn lâu ngày. Nhưng với tác dụng của môi sinh, các phản ứng hóa học (chemical reaction) trong đồ ăn xảy ra, đồ ăn sẽ hư thối. Giải quyết vấn đề hư thối, ta bỏ vào tủ lạnh (deep freezer), các phản ứng hóa học đình chỉ, thức ăn không hư thối. Cái deep freezer này là thức thứ 8, tức là A Lại Đa Thức hay Tạng Thức. A Lại Đa Thức hằng khởi, thường tại, chùm chứa tất cả chủng tử của các pháp nên A Lại Đa Thức, thức thứ 8, phát hiện được hết năng lực vô hạn của vạn tượng.

Tóm lại A Lại Đa Thức là cái căn bản của hiện tượng giới. Hiện tượng do chủng tử các pháp mà phát hiện. Nói khác hơn chủng tử cùng hiện tượng, nhân quả lẫn nhau mãi mãi, được kích thích sinh ra duyên mới. Từ đó làm cho hiển hiện vạn hữu và là nền móng qua bao nhiêu kiếp nhân quả luân hồi, đồng thời cũng là căn nguyên của giải thoát, bởi lẽ trong A Lại Đa Thức có đủ cả chủng tử hữu lậu lẫn chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là hạt giống sinh ra thiên sai vạn biệt của hiện tượng giới; còn chủng tử vô lậu cho biết ngoại giới có hư vọng. Bởi thế, đừng để cho tâm vọng động để có thể đưa đến giải thoát. Từ đó ta thấy, toàn bộ tiến trình giải thoát không có sự hiện diện của Phật, của Chúa, của Thượng Đế… mà chỉ có cái tâm của ta. Nỗ lực của người tu hành là kìm hãm cái tâm không cho vọng động thì mới nhìn thấy con đường giải thoát. Nếu nói giải thoát hoàn toàn rồi mới đến gần thánh giá để kết hợp với Chúa để được cứu rỗi là bố láo. Nói xàm.

3. Chân Như: sinh ra vạn pháp, hay nhất thiết duy tâm tạo. Tâm động là cánh cửa của sanh diệt. Tâm tịnh là cánh cửa của Chân Như. Chân Như bất biến, thường trụ, nhưng vô minh làm cho vọng động. Vô minh là vọng niệm, từ cái vọng niệm này có chủ quan, khách quan, tự ngã, phi ngã, vũ trụ và vạn hữu. Chúng sinh vì vô minh nên chỉ thấy có vạn tượng giới, diệt trừ vô minh là thấy được Chân Như. Tâm gồm có vạn tượng và Chân Như. Động là vạn tượng, Tịnh là Chân Như. Từ tịnh sang động phát hiện vũ trụ vạn hữu, từ động sang tịnh phát hiện Chân Như. Chẳng có Phật, Chúa hay Thượng Đế nào giúp người tu hành vứt bỏ cái vọng tâm mà chỉ do chính người tu hành mà thôi. Đó là điểm khởi hành đưa ta đến giải thoát.

4. Lục Đại: là địa (earth), thủy (water), hỏa (fire), phong (wind, air), không (space) và thức (vijnana, understanding, conscience). Năm “đại” trước thuộc về sắc pháp, vạn vật. “Đại” thứ 6 thuộc về tâm (mind). Sự dung thông, ngăn ngại, tác động (intereact, intercorrelate) với nhau sinh ra vũ trụ vạn vật. Vật là hình tướng (form), tâm là lực động (gorce, moving cause). Hai thể này không thể lìa nhau, tương phản, tương hợp với nhau. Lìa hiện tượng không có thật thể, lìa vật không có lý tánh. Giải thoát là phân biệt được Chân Như và Hiện Tượng. Sự nhận biết, phân biệt hoàn toàn do nỗ lực cá nhân. Sự hiện diện của Thượng Đế chẳng có can dự gì cả.

5. Pháp Giới: vũ trụ vạn hữu là kết quả của sự dung thông giữa các pháp. Pháp này dung thông pháp kia, cùng nhau làm duyên khởi, nên gọi là “vô tận duyên khởi” hay “trùng trùng duyên khởi”. Như thế vũ trụ vạn hữu là một cuộc hoạt động không ngừng của hiện tượng, từ vô thỉ đến vô chung, nối tiếp nhau, tràn lan vô tận, như những đợt sóng biển. Nếu hoạt động ngừng thì không có vạn tượng, không có vũ trụ.

19. Có người hỏi vũ trụ luận của Phật giáo là gì, sao có nghiệp cảm rồi lại có duyên khởi, mà duyên khởi lại có những 5 thuyết khác nhau? Rắc rối quá, lẫn lộn quá, chống đối nhau? Không và hoàn toàn không. Tất cả đều giống nhau chỉ khác rộng và hẹp, nông và sâu. Tùy theo khả năng nhận thức hay khả năng trực nhận của mỗi người. Triết lý Đấng Thích Ca là một nhưng có nhiều cách khác nhau trong lối diễn tả để thích nghi với mỗi hành giả. Thí dụ gạo nấu thành cơm hay cháo. Cơm cho người muốn ăn cơm, cháo cho những ai muốn ăn cháo. Cơm và cháo cũng đều là gạo cả. Như trên tôi đã nói, muốn hiểu cái triết lý của Đấng Thích Ca ta phải làm quen với lối suy luận trong Phật giáo thì sự hiểu biết sẽ rõ ràng hơn. Tiểu Thừa, Đại Thừa hay Kim Cương Thừa, tùy nghi, chọn cách diễn tả vũ trụ luận theo sở thích. Nhưng tất cả không ra ngoài căn bản triết lý của Đức Phật.

20. Để bổ túc cho việc nhận thức, ta phải biết thêm cái rộng lớn của không gian và thời gian trong Phật giáo. Mất đi sự nhận thức về không gian và thời gian vô tận thì không thể hiểu nổi vũ trụ quan của Phật giáo. Plato, Aristote, Zeno, Newton, Euclid, Locke, Pascal, Minkowski, McTaggart, Kant, Caird, Borel, Einstein,… sẽ giúp ta rất nhiều để làm quen với không gian và thời gian. Phạm vi bài báo không cho phép khai triển ý niệm về không gian và thời gian.

Đọc Trung Luận của Ngài Bồ Đề Long Thọ, đối với các bậc đại thừa, thật tướng hay duyên khởi cũng không còn nữa. Cái “quán” của Trung Luận chỉ có bậc đại trí giả mới có thể hiểu nổi.

21. Đọc Avesta, Tân Ước Cựu Ước ta thấy có quá nhiều điều giống nhau. Có người nói, Thánh Kinh cóp nhặt từ Zoroaster. Đạo của Zoroaster và Ấn Độ Giáo có nhiều điểm tương đương, vì thế có học giả cho rằng trong 16 năm vắng mặt của Chúa Giêsu Kitô, không được Tân Ước nhắc tới, là thời gian Chúa Giêsu Kitô sang Đông Phương học đạo và có thời kỳ Ngài là một vị tăng Phật giáo (xin đọc The Lost Years of Jesus Christ The Lost Teachings of Jesus Christ của Elizabeth Clare Prophet, và Jesus in India của Holger Kersten, The Lost Years of Jesus Revealed của Dr. Charles Francis Potter). Không một người Việt Nam nào lại biết Nữ Thần Tự Do, Nike (giầy thể thao) là tên một vị thần, hỏa tiễn Poseidon, Titans, phi thuyền Apollo, xe hơi hiệu Saturn, các địa danh Arcadia, Memphis, Ithaca, Philadelphia (Philae + Delphi), Atlanta (nơi sẽ tổ chức Thế Vận Hội 1996), Carthage, Atlas, Palladium, Orion, dầu thơm Clio, Diana, Anteus, Bacchus, Aramis, Xeyrius,… tiệm bán hoa Flora, điệu nhạc Calypso, banh Giants… đều là tên của những vị thần. Thậm chí một sòng bài lớn ở Las Vegas cũng lấy tên một vị thần Excalibur. Ngày thứ ba (Tuesday) tên thần Tyr, thứ tư (Wednesday) tên thần Woden hay Odin, thứ năm (Thursday) tên thần Thor, ngày thứ sáu (Friday) tên thần Frey…

Cuộc sống của chúng ta bao vây bởi nhiều, không phải một vị thần, vị thánh. Người ta tin có thần có thánh. Đã là đức tin, không bàn cãi, không có gì sai trái cả. Nếu bảo đức tin của mình là một “universal truth” thì khoa học gia sẽ lên tiếng và tri thức của con người sẽ nổi dậy. Đức Phật Thích Ca đứng ngoài. Ngài không bao giờ cho mình là thần hay là thánh hay Thượng Đế, Ngài chỉ là một ông thầy giáo, một Đại Sư mà thôi, để giảng dạy luân lý qua hệ thống triết học của Ngài.

Mới đây Richard Dawkins trong cuốn River Out Of Eden: A Darwinian View of Life, ông đưa ra vấn đề có hay không có Thượng Đế, cần hay không cần có Thượng Đế, và ưu thế của khoa học đối với siêu hình học. Ông nói: “After Darwin, there is no need for God”. Xin tạm dịch: “Sau Darwin, không cần có Thượng Đế nữa”. Để hiểu biết thêm về Thượng Đế, nên đọc Power of Myth của Joseph Campbell và Bill Moyers, History of God của Karen Armstrong, The Story of Civilization (11 cuốn) của sử gia Will Durant, A Study of History (12 cuốn) của sử gia hoàng gia Anh Quốc Arnold Toynbee, và The Larousse Encyclopedia of Mythology (Barnes & Noble xuất bản).

Thượng Đế là một ý niệm siêu hình, lời nói của Thượng Đế có tính cách biểu tượng. Nếu coi Thượng Đế như là một nhân vật có nhân tính và lời nói của Thượng Đế là ngôn ngữ của xã hội, luật pháp loài người, tức là ta đưa Thượng Đế đến trước mặt khoa học gia. Ta cứ để Thượng Đế ở vị trí “Unprovable” và “Unknowable”. Ta cứ để Thượng đế đứng gần cái “Why” còn khoa học gia coi phần “How” là tốt nhất. Chắc luật sư Phạm Văn Phổ đồng ý. Người Do Thái chỉ tin có một Thượng Đế của người Do Thái thành ra Thượng Đế của cả nhân loại theo chủ quan tính của họ. Đi xa hơn nữa họ bắt cả thế giới tin Thượng Đế là có thật như một sự thật đã được kiểm chứng. Họ cố tình lầm lẫn giữa “perception” và “conception”.

22. Chủ thuyết Tội Tổ Tông (Father’s sins): tội lỗi, theo Thánh Kinh, được nối tiếp từ ông Adam, xâm nhập linh hồn con người, con cháu của ông ta. Có tội phải chuộc (redemption), xin cứu rỗi (salvation) hay bị đày xuống địa ngục (damnation) do nơi Chúa. Chúng ta thường nghe người Mỹ nói “God Damned!” là như vậy. Chúng ta hãy lắng nghe St Augustine. Ông dạy rằng Adam có toàn quyền hành xử mọi hành động của mình (free will), ông có thể kiềm chế để không phạm tội. Nhưng ông Adam đã phạm tội vì bà Eva đã ăn trái táo trên cây cấm, thay vì ăn trái táo trên cây nhân sinh. Ăn xong hai người mới thấy xấu hổ (mắc cỡ) là mình trần truồng, họ chạy trốn ra khỏi Vườn Địa Đàng và lấy lá cây che các bộ phận sinh dục lại. Trái cấm là sự hiểu biết. Chúa cấm không được biết, vẫn làm là phạm tội (máy điện tử Apple lấy logo là một trái táo đã cắn một miếng). Chỉ có Chúa mới có thể ban ân sủng, tha tội.

Tội do Adam và Eva phạm, còn lưu truyền từ đời này sang đời khác cho đến ngày hôm nay. Trẻ em sơ sanh cũng có tội, mặc dù còn chưa biết cầm bình sữa, nếu chưa chịu phép rửa tội. Luật gia đặt vấn đề Insanity in Canon Law. Trẻ em quá nhỏ, hay bị tàn tật, không có thể bị “kết án”, mặc dù trên khía cạnh tôn giáo. Xin luật sư nghiên cứu thêm về điểm pháp lý này. Tội của loài người nằm trong linh hồn, không nằm trong thể xác (theo Thánh Paul). Nếu ai chết chưa chịu phép rửa tội (unbaptized) sẽ bị đày đọa mãi mãi (damnation). Nhưng nếu đã chịu phép rửa tội, Chúa sẽ đưa lên Thiên Đàng. “Damnation” là công lý của Chúa, “Salvation” là ân sủng của Chúa. Cả hai đều là điều tốt lành (goodness) của Chúa (?). Nhưng thần thuyết của St Augustine bị Morgan (tên Hy Lạp là Pelagius) bác bỏ kịch liệt. Pelagius quan niệm con người có toàn quyền hành xử hành động của mình theo ý muốn (free will), nếu con người làm đúng theo luân lý, nếu không có “criminal intent”, ý định phạm tội ác, con người sẽ được tưởng thưởng cho lên Thiên Đàng. Nhưng Bertrand Russell gọi chủ thuyết này là chủ thuyết hung ác, ferocious doctrine (A History of Western Civilization, trang 365).

Để diễn tả con người thánh thiện trước khi phạm tội, tất cả người mẫu trong họa phẩm của Michelangelo vẽ ở nhà thờ St Sistine (Tòa thánh Vatican) đều trần truồng, các bộ phận sinh dục được vẽ đầy đủ, cũng như Adam và Eva trước khi ăn trái cấm (ngoại trừ Thiên Chúa trong họa phẩm The Creation). Theo Thánh Kinh, Chúa Giêsu Kitô, được Đấng Chúa Cha sai xuống sống với loài người (Incarnation), chịu đóng đinh trên thánh giá (Crucifixion) để chuộc tội (Redemption) cho loài người. Chuộc tội cho loài người xong, Ngài sống lại (Resurrection) và Ngài lên Nước Thiên Đàng (Kingdom of Heaven) ngồi bên tay phải của Đấng Chúa Cha.

23. Giác Ngộ: toàn bộ nền tảng triết lý của Đấng Thích Ca đặt trên hai cột trụ “Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo”.

A. Tứ Diệu Đế: “Tứ” là 4, “Diệu” là đẹp, quý báu, hoàn toàn, “Đế” là sự thật chắc chắn, rõ ràng đúng đắn nhất, chữ Phạn là Ariya Saccani. Có chỗ gọi là “Tứ Thánh Đế”. Bốn đế đó là:

(1) Khổ Đế: nhận định sinh, lão, bệnh, tử là một bể khổ mênh mông;

(2) Tập Đế: nói đến nguyên nhân của khổ đau (sinh, lão, bệnh, tử);

(3) Diệt Đế: kết quả của sự diệt trừ những khổ đau hay tát cạn biển khổ này;

(4) Đạo Đế: phương pháp tu hành để diệt khổ và sống hạnh phúc vĩnh cửu.

Cái “khổ” ở đây phải hiểu là cái nghiệp xấu tạo ra. Nếu nghiệp tốt, quả tốt, chẳng có gì là “khổ” cả. Tứ Diệu Đế là bài giảng đầu tiên của Đức Phật tại Benares.

Mẹ Teresa đi khắp nơi này đến nơi khác xoa dịu khổ đau cho những người bất hạnh. Phải chăng Mẹ Teresa đã nhận thức thấy nhân loại đầy rẫy khổ đau và biển khổ phải được tát cạn. Nhưng rất tiếc, phần đông nói Phật giáo là yếm thế vì chỉ biết có khổ đế mà quên mất 3 đế kia nữa.

B. Bát Chánh Đạo: hay Bát Thánh Đạo, nghĩa là 8 con đường ngay thẳng hay 8 phương tiện mầu nhiệm đưa con người từ trạng thái “u mê” đến “giác ngộ” sống trong hạnh phúc vĩnh cửu. Bát Chánh Đạo:

1. Chánh Kiến: nhận biết một cách ngay thẳng, công minh;

2. Chánh Tư Duy: suy nghĩ, nghiệm xét chân chính, đúng với lẽ phải;

3. Chánh Ngữ: lời nói chân thật, công bình, hợp lý;

4. Chánh Nghiệp: hành động chân chính, hợp với chân lý, lợi ích cho chúng sinh (người và muôn vật).

5. Chánh Mạng: sống lương thiện, trong sạch, ngay thật, công bằng, từ bi;

6. Chánh Tinh Tấn: chuyên cần, siêng năng, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng;

7. Chánh Niệm: ghi nhớ những điều hay lẽ phải, lợi cho mình cho người;

8. Chánh Định: tập trung tư tưởng vào hành động và suy nghĩ chín chắn, trung thực.

Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo” có thể ví như “Tri” và “Hành”. Tri cho sáng suốt, Hành cho đúng đắn để đi đến “giải thoát”. “Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo” là khuôn mẫu đạo lý của Phật giáo. Tuyệt nhiên không nói đến “tội tổ tông”, không nói đến “chuộc tội”, phải quỳ dưới chân Phật để được “cứu rỗi”. Tuyệt nhiên không ở trên “cứu rỗi”, không ở dưới “cứu rỗi” mà cũng chẳng liên hệ gì đến “cứu rỗi”, thế mà Luật sư Phạm Văn Phổ nói rằng “giải thoát hoàn toàn” chỉ là giai đoạn đầu của tiến trình cứu rỗi để kết hợp với Thiên Chúa để được cứu rỗi”.

Theo triết lý Đấng Thích Ca, ta làm hay (nghiệp tốt) ta hưởng, ta làm sai trái (nghiệp xấu) ta sửa chữa, tu tập để được giác ngộ. Phật, Chúa Giêsu Kitô hay Thiên Chúa không giải thoát cho ta được. Ta phải tự làm lấy, vậy thì kết hợp với Thiên Chúa để làm gì? Quỳ dưới thánh giá để làm gì? Lập luận của Luật sư Phổ có tính cách vơ vào, chủ quan. Vơ vào vì nghĩ rằng đạo của mình là nhất, là một tổng thể, những đạo lý của người khác chỉ là một vi thể. Chủ quan vì ý niệm Thượng Đế là một sự thật hiển nhiên. Đạo Phật mới là đạo không yếm thế, KTG mới là đạo yếm thế, ỷ lại. Chỉ có đức tin nơi Chúa là xong hết. Con người chẳng cần tạo một nỗ lực nào để có một đời sống đạo đức. Cô Mary Magdalene là một người đàn bà mất nết, các tông đồ rất khó chịu khi thấy cô ta quá gần gũi với Chúa Giêsu, rửa chân cho Chúa và tin nơi Chúa. Chúa chấp nhận Mary Magdalene vì cô có đức tin nơi Chúa. Trái lại, nếu một Phật tử chỉ tin có Đức Phật, nhưng không tu thân để tạo nghiệp tốt thì đức tin nơi Đức Phật không giải thoát cho ta được. Thiện nghiệp mới là điều đáng nói, đức tin chẳng có nghĩa gì cả.

24. Phật giáo tiêu cực hay không? Luật sư viết: “Đối với tính cách “tiêu cực” của “thuyết cứu rỗi” (thuyết này không có) của Phật giáo, có lẽ nhận định của Giáo Hoàng đã dựa trên chủ trương của môn phái Tiểu Thừa nhiều hơn. Bởi vì trong khi phái Tiểu Thừa có cái nhìn “Tiêu Cực” về thế giới thì trái lại phái Đại Thừa lại nhìn thế giới với thái độ “tích cực” hơn”.

Trong lúc giải kinh Đại Thừa tại Rajagriba (tại Trung Ấn Độ) cho các vị Tỳ Kheo và Bồ Tát, Đức Phật nói những điều Ngài giảng chưa thích hợp với thời hiện tại, phải 400 năm sau thì người ta mới hiểu nổi những gì Ngài giảng. Ngài tin tưởng vào một vị môn đệ là Naga sẽ giảng giải kinh của Ngài cho hậu thế. Bốn trăm năm sau, Ngài Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna) soạn bộ Trung Luận (1 trong 3 bộ: Trung Luận, Bách Luận hay Bá Luận và Thập Nhị Môn Luận, bộ luận tập tôn của Tam Luận Tôn). Đại thừa không chủ trương chỉ giải phóng cá nhân (individual liberation) mà còn chan chứa vị tha (altruism), ẩn tàng trong các kinh điển của Đại Thừa (Xin đọc Treasure Teaching của giáo sư Robert Thurman, khoa trưởng Religion Department tại đại học Columbia).

25. Luật sư có biết hiện giờ có bao nhiêu vị tăng đang hàng ngày xả thân vào trại cùi ở Việt Nam không? Tôi sẽ hãnh diện chiếu cho Luật sư coi một cuốn phim video cho thấy các vị tăng Phật giáo hoạt động xã hội trong trại cùi. CSVN thấy vị tăng này có uy tín, họ ngăn cấm sư hoạt động, bệnh nhân cùi ra đường phản đối. Nhà cầm quyền CSVN sợ và phải chịu thua. Mọi hoạt động trở lại bình thường. Cuộn video có sẵn, Luật sư xem lúc nào cũng được. Vậy thì “tiêu cực” ở chỗ nào? Đây là một vị tăng áo vàng, tức thuộc Tiểu Thừa.

26. Sau gần nửa thế kỷ, không phải 40 tháng hay 40 ngày, Đức Phật ở trần thế để truyền đạo kể từ ngày tìm thấy chân lý dưới cội bồ đề. Nếu Đức Phật “tiêu cực” thì chắc hẳn không còn muốn sống thêm gần nữa thế kỷ nữa. Thánh kinh nói, 3 ngày sau khi bị đóng đinh trên thánh giá, chúa Giêsu sống lại và 40 ngày sau bỏ thế gian trở về nước Chúa. Tới đây ai cũng thấy Đức Phật “tiêu cực” hay “tích cực”? Trước khi tịch ngài ngọa thiền nằm nghiêng phía bên phải, đầu hướng về phương Bắc, mặt quay về hướng Tây, trong một tư thế vô cùng vững vàng và thoải mái. Các môn đệ, muôn loài chim muông và thú rừng cũng ở quanh Ngài, rồi Ngài ra đi một cách nhẹ nhàng và thánh thiện. Cái thế nằm như vậy thật vững vàng, nên sau khi Ngài nhập Niết Bàn, đạo của Ngài không gặp sóng gió. Đạo của Ngài có thể phát triển bất cứ ở đâu, bất cứ thời nào. Tăng chú鮧 và Phật Tử noi gương đức từ bi của Ngài nên có thể hòa đồng với bất cứ tôn giáo nào. Tất cả mọi người có thể đến với Ngài và học hỏi ở nơi Ngài những triết lý cao thâm huyền diệu từ trái tim của họ. “Phật tại tâm” là như vậy.

27. Tất cả hành vi, lời nói, suy nghĩ tốt lành phải xuất phát từ cái “tâm”. Người nào tu Đạo Phật phải biết diệt trừ “vọng tâm” đó để biến cái vọng tâm đó thành “tâm Phật”. Nếu đã biết tu tập để đạt được “Tâm Phật”, thì “tiêu cực” chỉ là “lộng ngữ”. Theo Luật sư, Tiểu Thừa là tiêu cực, Đại Thừa là tích cực, còn Tông Phái Tây tạng thì sao? Chắc cả hai phải không? Hồi bé tôi đi xe lửa, tôi thấy cây cối và cột đèn chạy từ đằng trước ra đằng sau. Tôi thấy mặt trời chuyển động, trái đất đứng yên một chỗ, cũng như trái đất quay quanh mặt trời, trái đất không đứng yên. Cái nhìn của Luật sư về Phật giáo là cái nhìn của trẻ thơ ngồi xe lửa hay như Tòa Thánh nhìn mặt trời. Vô minh gây phiền não là như vậy. Phật giáo không nói tiêu cực hay tích cực, chỉ có vô minh hay giác ngộ, chỉ có tinh tấn hay không tinh tấn, chỉ có rốt ráo hay không rốt ráo…

28. Cũng như có người gọi Phật giáo là “vô thần” và gọi Cộng Sản cũng là “vô thần”. Đặt vấn đề “vô thần” hay “hữu thần” với Phật giáo là “out of context”. Trong cuốn The Contempolary Status of Atheism, Jean-Marie Le Blonde viết: “… life without God need not be bestial, unintelligent, or immonal, atheism can be serene and deeply human”, xin tạm dịch là “… đời sống không có Thượng Đế không nhất thiết phải là đầy thú tính, thiếu thông minh và vô luận, vô thần có thể là trong sáng và thật đầy nhân tính”. Người ta vẫn lạm dụng chữ “vô thần” để sỉ nhục những người nào không ở trong cái cộng đồng chấp nhận không có Thượng Đế. Tại Pháp cho tới thời Cách Mạng 1789, người nào viết, ấn loát những tài liệu có tính cách vô thần bị truy tố như là theo tà giáo. Khi đó Inquisition ra tay trừng phạt. Nhìn lại lịch sử Việt Nam, 18 đời vua Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Huệ… là những người không theo Kitô Giáo. Các anh hùng liệt nữ đó là “vô thần” đấy, các vị này là Cộng Sản ư? Là đáng khinh bỉ ư? Việc gán chữ “vô thần” cho Phật giáo chắc chắn không phải là sự biểu lộ sự thân hữu hay tương kính. Giáo Hoàng Paul VI trong thông điệp Ecclesiam Suam đã có cái nhìn khác về những người không chủ trương có Thượng Đế, nhưng Giáo Hoàng Jonh Paul II trở lại tư tưởng thời trung cổ, khi Inquisition phát triển mạnh. Ông Phật không phải là một ông Thượng Đế, thần hay thánh. Ông Phật chỉ là một vị Đại Sư. Nhưng người đời tôn sùng Ông, thờ hình tượng Ông, thờ hình tượng Phật Bà Quan Âm (người Nhật gọi là Canon, tên máy chụp hình).

29. Theo triết gia Mortimer J.Adler, chủ biên bộ đại tự điển bách khoa Encyclopedia Britannica, Giám đốc Institute for Philosophical Research ở Chicago, thì triết gia Tây Phương phạm nhiều lầm lỗi triết học từ nhiều thế kỷ nay, trong đó có sự lẫn lộn giữa conception và perception. Ý niệm Thượng Đế là một perception chứ không phải là một conception, vì thế KTG cứ nghĩ rằng Thượng Đế là một sự thật hiển nhiên. Tây Phương quan niệm Thượng Đế từ phía ngoài, chân như của Phật giáo nhìn từ nội tâm. Vì vậy gán “vô thần” cho Phật giáo là một quan niệm sai lầm lớn lao. Cái nhìn sai lạc về Phật giáo cứ tiếp diễn từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Điển hình nhất là nhận định của Giáo Hoàng Jonh Paul II mới đây. Luật sư Phổ như một người thợ mộc mắt toét dùng cây thước đã bị bẻ cong.

30. Vì thế, tạm thời ta hãy đứng ở vị trí của mình. Đừng vội coi cái đức tin của tôn giáo mình là một sự thật “beyond reasonable doubt”. Trang 43 của cuốn Crossing the Theshold of Hope, Giáo Hoàng John Paul II nói:

Buddha is right when he does not see the possibility of human salvation, but he is wrong, for that reason, he denies that creation has any value for humanity.

(Bản dịch của nhà xuất bản Thăng Tiến: “ Phật Thích Ca đúng khi không nhìn thấy khả năng cứu rỗi con người qua việc tạo dựng, nhưng lầm, vì lí do này, Đức Phật chối bỏ cả việc tạo dựng có bất cứ giá trị nào cho nhân loại).

Giáo Hoàng đúng khi nói Phật giáo phát triển mạnh tại Tây Phương, nhưng sai và sai lớn khi nói rằng Đức Phật sai.

31. Như đã nói ở trên “Giải thoát” chẳng có một liên hệ gì đến “cứu rỗi”. Đức Phật có nói về tội Tổ Tông đâu mà cứu rỗi. Phật giáo không quan niệm “Cha ăn mặn, con khát nước”, mà quan niệm “Quýt làm, Quýt chịu”, nghĩa là mỗi người chịu hứng lấy cái “nghiệp” (karma) của mình. Đức Phật Thích Ca có quan niệm Đấng Tạo Hóa hay Thiên Chúa (Creator) tạo dựng lên trời đất đâu. Việc chối bỏ hay chấp nhận phải được coi là “out of context”. Cái ý nghĩa Thượng Đế của KTG tức là cái “Chân Như” của Phật giáo vậy. Chân Như nằm trong nội tâm. Quả thật tôi không hiểu tại sao Giáo Hoàng John Paul II, sinh sau Đức Phật 2,500 năm, lại nói Đức Phật sai. Tượng Phật thấy trên khắp thế giới trên 2,500 năm nay, và Đạo Phật đang phát triển mạnh tại Tây Phương, vậy Đức Phật sai ở chổ nào? Tôi nghĩ một Giáo Hoàng không nên nói Đức Phật sai cũng như một hòa thượng không nên nói Chúa Giêsu Kitô là sai. Căn cơ của các vị đó không đủ để có lời phê bình như vậy.

32. Đường lối của Tòa Thánh: Người đứng đầu tòa thánh Vatican không ai khác hơn là Giáo Hoàng, một biểu tượng của thần quyền cao nhất. Bất cứ điều gì Giáo Hoàng nói, làm đều đúng. Tòa thánh không bao giờ sai, lúc nào cũng đúng trong cái sai. Tất cả những lời phát biểu của Giáo Hoàng về Phật giáo phải được coi là đúng. Vì thế cái chủ thuyết cứu rỗi “đầu gà đít vịt” của nhà tân thần học Phạm Văn Phổ mới ra đời. Luật sư Phổ thuyết giảng “giác ngộ” chỉ là giai đoạn đầu, sau đó còn phải đi xa hơn nữa để kết hợp với Thiên Chúa để được cứu rỗi.

Nhưng trên thực tế, sự thật lại khác. Chẳng hạn Giáo Hoàng Liberius (352-366), Giáo Hoàng Vigilius (537-555) đưa ra những giáo lý sai lầm. Các Giáo Hoàng thời Phục Hưng (1470-1530) là động lực thúc đẩy Martin Luther ra thành lập giáo phái mới. Galileo chỉ được phục hồi danh dự sau 400 năm; Jeanne d’Arc, một cô gái quê người Pháp, nghe tiếng gọi của Thiên sứ Michael, vùng lên giải phóng cho Pháp. Cô bị cột vào cây gỗ, chất củi xung quanh và đốt cho chết cháy lúc mới 19 tuổi. Mãi tới 140 năm sau bản án mới được hủy bỏ, danh dự được phục hồi, nhưng cô đã chết trước đó hơn 1 thế kỷ. Năm 1920, cô được Vatican phong làm nữ thánh St Jeanne d’Arc (30 tháng 5). Có phải Tòa Thánh sai không? Và rất nhiều thí dụ khác nữa. Phạm vi bài báo không cho phép nói hết.

33. Muốn có một cái nhìn rõ ràng hơn, ta nên đọc The March of Folly: From Troy to Vietnam của nữ sử gia Barbara W. Tuchman (Hai lần được giải thưởng Pulitzer, tác giả Distant Mirror, Guns of August, Bible and Sword…); 5 cuốn sách của Malachi Martin: The Vatican, The Final Conclave, Hostage to the Devil, The Jesuits, The Keyes of this Blood (Malachi Martin là mợt thần học gia Tòa Thánh La Mã, linh mục dòng Jesuit, giáo sư tại Vatican’s Pontifical Biblical Institute, ông rất gần với Hồng Y Augustin Bea và Giáo Hoàng John XXIII); The Oxford Dictionary of Popes của J.N.D. Kelly; The Crusades của Henry Treece; In Spanish Prisons của Major Arthur Griffiths; Inquisition: Hammer of Heresy của Edward Burman; A Crisis of Conscience của Dr. Hugh K. Barber, MD (Bác sĩ Baber là giáo sư y khoa tại Đại học Cornell, tác giả trên 400 bài viết khoa học và trên 200 cuốn sách. Năm 1991, tờ báo New York Magazine bầu ông là một trong số “best doctors in New York”); A History of Philosophy (9 cuốn) của Federi Copleston, S.J; A History of Western Philosophy của Bertrand Russel; đại tác phẩm The Story of Civilization (11 cuốn của sử gia Will Durant); The History of the English speaking peoples của Winston Churchill; A Study of History (12 cuốn) của Arnold Toynbee (đại sử gia của Hoàng Anh Quốc); History of the World (2 cuốn) của 25 tác giả, do Bonanza xuất bản, Dictionary of Wars của George C. Kohn để biết Chiến Tranh 30 năm, vài chục chiến tranh tôn giáo; và đừng quên đọc thêm New Catholic Encyclopedia của The Catholic University Press of America, Wasghinton D.C..

Tôi xin trích dẫn phần kết luận về đề tài Inquisition, trang 541, cuốn 12 (trong số 18 cuốn của New Catholic Encyclopendia) của bộ sách nói trên như sau: “Judged by contemporary standards, the INQUISITION, especially as it developed in Spain toward the close of the Midle Age, can be classified only as one of the darker chapters in the history of the Church”. Xin tạm dịch là: “Được phán xét theo tiêu chuẩn đương thời, INQUISITION - Tòa Án Tôn Giáo (có người dùng tòa án dị giáo) đặc biệt khi nó phát triển tại Tây Ban Nha vào gần cuối thời Trung Cổ, chỉ có thể xếp là một trong những trang sử đen tối lắm trong lịch sử của Giáo Hội”.

34. Lời phát biểu của Giáo Hoàng John Paul II: “Everyone who looks for salvation, not only the Christians, must stop before the Cross of Christ” (Trang 73) (xin tạm dịch là: Tất cả mọi người đi tìm sự cứu rỗi, không phải chỉ có người theo Kitô Giáo, phải ngừng trước Thánh Giá của Đấng Kitô). Có lẽ vì câu tuyên bố này mà Luật sư Phổ đưa ra cái thần thuyết “đầu gà đít vịt”. Lại nữa, trang 85, Giáo Hoàng nói: “Nevertherless, it needs to be said right away that the doctrines of salvation in Buddhism and Chritianity are opposed” (Xin tạm dịch là: Dầu sao đi nữa, cần phải nói ngay là chủ thuyết cứu rỗi của Phật giáo và Kitô giáo đối chọi nhau). Cái tội Tổ Tông từ Adam và Eve nó truyền nhiễm từ đời này sang đời khác, xâm nhập linh hồn của con người, nên con người phải ngừng trước thánh giá để được cứu rỗi (?).

35. Tôi không có ý kiến gì về doctrine of the father’s sins của KTG⮠Lãnh vực này thuộc về Đức tin, tin là có tội do ông cha ta kể lại, tin là Chúa sẽ tha tội. Mà đã là Đức tin, ta không thể bàn cãi. Văn nhân thi sĩ tin là trên Nguyệt Hằng có Thằng Cuội Ngồi Gốc Cây Đa. Thi sĩ cứ làm thơ, văn nhân cứ sáng tác, độc giả vẫn cứ thích thú đọc và phi hành gia cứ đổ bộ xuống mặt trăng. Người ta tin ngày 23 tháng Chạp Ông Táo lên chầu Trời tâu lại Ngọc Hoàng những chuyện hỉ nộ ái ố trên thế gian. Người ta vẫn tin có thần tài phù hộ, các cửa tiệm có thờ ông Thần Tài ngay ngoài cửa, miệng ngậm điếu thuốc lá, tay cầm đồng đô la. Người ta tin hóa vàng để người dưới âm phủ có tiền trả tiền “biu” dưới âm phủ. Mở đài truyền hình ra coi thấy hai võ sĩ Mễ, trước khi thi đấu đều làm dấu rồi nhắm mắt cầu nguyện. Một lúc sau một võ sĩ chảy máu mồm máu mũi ngả lăn đùng xuống sàn. Ta cũng thấy hình ảnh tương tự trong các trận đấu Boxing, hai võ sĩ Thái Lan múa may, làm bùa làm phép gì đó, khoảng phút một ông ngã lăn cu chiêng xuống đất. Họ tin có Đấng thần linh phù hộ. Nhưng nếu nhà thơ hay văn nhân quả quyết trên mặt trăng có thằng Cuội Ngồi Gốc Cây Đa thì phi hành đoàn của Phi thuyền Apollo sẽ bước tới và nói: “Hey man, wait a minute. We’ve just come back from there”. Đã là đức tin, không thể bàn cãi. Tuy nhiên không thể cho đức tin của mình là sự thật và bắt người khác tin theo.

Phật giáo quan niệm trong mỗi chúng sinh khi ra đời đều có sẵn Phật tính, đã có tội gì đâu mà cứu. Nếu cá nhân nào mang cái nghiệp xấu là do chính con người đó tạo ra. Cha tạo nghiệp xấu, cha chịu. Con tạo nghiệp tốt con hưởng, tức là “quýt làm, quýt chịu” và không có vấn đề “quýt làm cam chịu”. Sự việc “nghiệp” và “quả” của người cha và người con khác nhau, hoàn toàn không can dự vào nhau. Vì Phật giáo không quan niệm có tội tổ tông, nên không có vấn đề cứu rỗi. Mà đã không có cứu rỗi thì lấy gì để so sánh. Thuyết giải thoát khác hẳn với thuyết cứu rỗi. Đã khác nhau thì không thể so sánh. Vì thế tôi gọi thần thuyết cứu rỗi hay cứu chuộc gì đó của Luật sư Phổ là thần thuyết “đầu gà, đít vịt”, tức là trước sau chẳng ăn nhằm gì với nhau cả.

36. Có điều tôi không tin những phát biểu về Phật giáo là do chính Giáo Hoàng nói mà do Hồng Y Joseph Ratzinger. Đây là lập luận của tôi, có thể Luật sư không đồng ý: vào năm 1139, Công Đồng Lateran II đòi hỏi Tòa thánh truy tố những kẻ theo tà đạo (heresy), mà hình phạt là rút phép thông công, trục xuất ra khỏi giáo hội và bị nguyền rủa. Giáo Hoàng Alexander III bổ túc thêm ra lệnh cầm tù và tịch biên tài sản (1162-1163). Tiếp theo đó là các thông điệp Ad abolendam (1184), Vergentes in senium (1199), Excommunicamus (1231), Ille humani generis (1231), Ad exstirpanda (1252), v.v… Tòa án tôn giáo, Inquisition, phát triển mạnh tại Tây Ban Nha, và nhiều nước khác. Hình phạt: cả thể xác (tra tấn, cầm tù, tử hình) lẫn tinh thần (nguyền rủa). Tòa thánh tránh xử tử hình gây máu chảy, thay thế vào lối xử tử hình này bằng cách châm lửa đốt nơi công cộng sau khi đọc tố trạng sermo generalis. Điển hình nhất là cô gái gốc quê, 19 tuổi người Pháp, theo tiếng gọi của Thiên Sứ Michael, dấy binh trừ giặc bị thiêu sống tại thành Rouen. Đó là Jeanne d’Arc, trở thành St Jeanne d’Arc.

37. Người đi vào lịch sử với chức vụ inquisitor general (tổng phán quan tòa án tôn giáo, giống như chánh thẩm) không ai khác hơn là Tomas de Torquemada (1420-1498), một linh mục thuộc dòng tu Dominican. Spanish Inquisition thành lập năm 1478 và được bãi bỏ năm 1834. Ông đóng vai chủ động trong việc trục xuất người Do Thái ra khỏi Tây Ban Nha năm 1492. Để đương đầu với sự ra đời của Giáo Phái Tin Lành, Inquisition được trao cho Holy Office năm 1542. Công đồng Vatican II đổi tên thành Congregation for the Doctrines of Faith (1965). Những trang sử đen tối của Tòa thánh được khép lại sau nhiều thế kỷ làm điên đảo thế giới.

Năm 1985, Giáo Hoàng John Paul II bổ nhiệm Hồng Y Joseph Ratzinger đứng đầu Congregation for the Doctrines of Faith, và Latin American Bishops’ Conference (viết tắt là CELAM) có cùng địa chỉ và văn phòng. Chủ thuyết của Congregation for the Doctrines of Faith đưa ra làm các giám mục khắp nơi lẫn lộn. Các vị này không biết nhiệm vụ rõ ràng và biên cương của sự truyền giảng Phúc Âm. Giáo Hoàng John XXIII cho tổ chức Công Đồng Vatican II để lắng nghe tiếng nói từ nhiều phía ngõ hầu xây dựng một giáo hội tốt lành hơn, hiệp nhất hơn. Sau 30 năm chưa một bước tiến khả quan nào được ghi nhận. Tới đây ta có thể hiểu cái “state of mind” của Tòa thánh.

Tiếng nói của những người có tinh thần xây dựng đã biến họ đứng vào chiến tuyến đối nghịch với Tòa thánh, điển hình như các nhà thần học Hans Kung, Charles Curran, Edward Schillebeeckx, Jacques Pohier, William Callahan (dòng Jesuit), cha Terry Sweeny, Tổng giám mục Raymond Hunthausen, sister Teresa Kane… Tờ US News & World Report phát hành ngày 17 tháng 11, 1986 chạy một bài với đề tựa “The Pope Cracks Down on American Bishops”. Thần học gia Hans Kung, bị trục xuất ra khỏi chức vụ giảng dạy, kết hợp với một số thần học gia khác đưa ra một cuốn sách nhan đề là Church in Anguish – Has the Vatican Betrayed Vatican II? Để đàn áp sự chống đối, Giáo Hoàng John Paul II tuyên bố: “One cannot believe in Christ without believing in the Church, the body of Christ”. Xin tạm dịch là: “Một người không thể tin ở Đấng Kitô nếu không tin vào Hội Thánh, thân thể của Chúa Kitôi”.

Nhưng thần học giải phóng (liberation theology) vẫn phát triển mạnh tại Nam Mỹ Châu. Vào năm 2000, 70% tín đồ sẽ nằm ở Đệ Tam Thế Giới. Năm 1973, lần đầu tiên thần học giải phóng chính thức được Gustave Gutierrez nói tới. Nhóm nghiên cứu Thần Học và Hội Thánh được thành lập tại Peru, mà hai nhân vật tích cực là Leonardo Boff và Juan Segundo. Trong cuốn A Crisis of Conscience, trang 152, tác giả, Bác Sĩ Barber nói: “Liberation Theology is a worldwinde manifestation for human emancipation”. Xin tạm dịch là: “Thần học giải phóng là một sự thể hiện trên khắp thế giới cho sự thoát quyền của con người”. Thần học giải phóng không đặt trọng tâm vào thần học mà là giải phóng, bắt nguồn từ tư tưởng của những người viết sách Exodus trong Cựu Ước.

Vào thế kỷ 15, một linh mục dòng Dominican là Bartolomé de Las Casas (1474-1566) đứng lên chống lại bọn conquistadors đi tìm vàng để giải phóng cho người Da Đỏ. Thừa hưởng tinh thần Inquisition thời Trung Cổ, Hồng Y Joseph Ratzinger, đứng đầu Congregation for the Doctrines of Faith, đã đóng góp rất nhiều vào cuốn sách Crossing the Threshold of Hope, một loại “bút vấn - bút đáp” giữa Giáo Hoàng và ký giả Messori. Hồng Y Ratzinger không nghe được tiếng nói của Giám Mục Hoa Kỳ, Nam Mỹ Châu, các nhà thần học của Hội Thánh, thì làm sao hiểu nổi được Phật giáo là gì. Nếu nói Giáo Hoàng “phỉ báng” hay nói sai về Phật giáo có lẽ không chính xác. Chúng ta phải hỏi lại Hồng Y Joseph Ratzinger thì rõ hơn.

38. Làm sao sống hòa đồng trong cộng đồng thế giới? Chỉ còn vài năm nữa chúng ta bước sang một thế kỷ mới. Thế giới phải có một “consensus”, trong đó có sự tương nhượng (compromise), tương kính (mutual respect) và nhất là tôn giáo đa nguyên (religious pluralism). Trên thị trường sách trong vài tuần lễ vừa qua, có xuất hiện một cuốn sách đề tựa là The Jew In The Lotus của Roger Kamenetz. Tác giả là một thi sĩ và giáo sư Anh ngữ tại Louisiana State University. Đề tựa cuốn sách dựa vào The Jewel In the Lotus (Một viên ngọc quý trong bông sen). Trong cuốn sách ông đưa ra những cảm nghĩ của người Do Thái trải qua biết bao thế kỷ lưu đày mà vẫn giữ được đạo để san xẻ với Phật giáo Tây Tạng sau mấy chục năm bị đàn áp bởi Trung Cộng. Cuốn sách tường thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Lạt Ma và 8 vị Rabbi người Do Thái. Họ thấy giữa Do Thái Giáo và Phật giáo Tây Tạng cùng chung những trớ trêu của lịch sử, họ thấy gần gũi nhau hơn. Hai bên đều “giác ngộ” (enlightened) trước hoàn cảnh lịch sử đau thương phủ lên tôn giáo họ.

Kitô Giáo và Phật giáo Việt Nam cũng có chung một định mạng lịch sử trong mấy chục năm chiến tranh. Biết bao nhiêu nhà thờ bị đỗ nát, tượng Phật bị bắn thủng mắt, biết bao nhiêu tín đồ hai tôn giáo quằn quại trong trại cải tạo, biết bao nữ tín đồ phải chịu ô nhục ngoài biển cả trên con đường tranh đấu đòi tự do, tôn giáo là thành trì và vũ khí cuối cùng. Thành trì bị chọc thủng, vũ khí bị rỉ sét, quân sĩ chia rẽ, liệu chúng ta có thể tạo được chiến thắng sau cùng hay không? Hẳn là không. Đạo của ai người nấy giữ. Đức tin của ai người nấy theo. Một Giáo Hoàng, một Hòa Thượng hay bất cứ người nào trong chúng ta chưa đủ căn cơ để phê phán các Đấng Giáo Chủ và Tín Lý của các Ngài đã tồn tại mấy ngàn năm nay.

39. Nhà bác học Albert Einstein nói: “The religions of all civilized peoples, especially the peoples of the Orient, are primarily moral religions. The development from a religion of fear to moral religion is a great step on peoples’ lives.” (xin tạm dịch là: Những tôn giáo của những dân tộc văn minh, đặc biệt là những dân tộc của Đông Phương, chính yếu là những tôn giáo dạy luân lý. Sự phát triển từ tôn giáo lấy căn bản là sự sợ hãi sang tôn giáo dạy luân lý là một bước tiến vĩ đại trong đời sống của các dân tộc). Ông nói tiếp: “There is nothing divine about morality; it is purely human affair”. (Xin tạm dịch là: Chẳng có gì là thiêng liêng trong vấn đề luân lý cả; đó chỉ là công việc của con người). Ông lại nói tiếp: “Science without religion is lame, religion without science is blind” (Xin tạm dịch là: Khoa học không có tôn giáo là khoa học què quặt, tôn giáo không có khoa học là tôn giáo mù quáng). (Trích trong Ideas and Opinions, Dell Publishing, Inc. 1954). Tôn giáo mà nhà bác học Albert Einstein nói ở đây là thứ tôn giáo dạy luân lý (moral religion), chứ không phải tôn giáo lấy sự sợ hãi (religion of fear) của tín đồ làm phương tiện. Chỉ có “moral religion” mới là thứ tôn giáo đích thực của thế kỷ 21, mà thế giới mong đợi.

Con người hiện đại quá chán ghét những gì gò bó, khuôn mẫu lỗi thời. Con người cần được giải phóng toàn diện trong phạm vi đạo đức. Thần quyền hình như không còn hợp với nếp sống tâm linh của con người nữa. Trí óc con người đã phát triển, mọi điều thiếu hợp lý, thiếu hợp tình, thiếu công bằng, bóp chẹt sự phát triển con người toàn diện sẽ không còn chỗ đứng. Vì thế tôi rất thích thần học giải phóng (liberation theology) của các vị linh mục Nam Mỹ Châu, đang thịnh hành trong Đệ Tam Thế Giới, chiến 70% số tín đồ của Giáo Hội La Mã vào năm 2000.

PHẦN IV

Vài hàng góp ý với Luật Sư Phổ, người viết mong có một sự đả thông tư tưởng. Vì phạm vi bài viết không cho phép nói nhiều hơn. Chúng ta đều ngập lụt trong cõi “u minh”, nên có thể có những hậu quả không tốt. Tôi hân hạnh trích lời của Hòa Thượng Thích Mật Thể trong Thế Giới Quan Phật giáo, trang 15: “Muốn tìm hiểu chân lý, trước hết ta phải thành thật với ta, và chớ coi mình là trung tâm điểm của vũ trụ hay lấy mình làm thước đo người chẳng hạn. Phải coi bản ngã của ta, nó có thể biến hóa rất nhiều cách, hòng phỉnh phờ ta vào con đường sai lạc. Ta không nên chiều theo nó quá, phải ngược dòng lại, dẹp hết lòng ích kỷ nhỏ hẹp, tính tự kiêu mê lầm, cùng phê phán lý thuyết này với chủ nghĩa nọ, và mở rộng lòng ta để đón lấy cái có ích cho nhân loại trên mục đích xây dựng hạnh phúc chân chính thiện mỹ”.

Ra tòa hàng ngày, chắc Luật Sư thường nghe “… to tell the truth, the only truth, the whole truth, nothing but the truth, so help me God”. Truth will prevail. Khi đặt bút viết bài này, tôi luôn nghĩ có rất nhiều vị linh mục Kitô giáo uyên bác kinh điển Phật giáo, cũng có những vị cao tăng thấu hiểu thánh kinh và thần học. Tôi ví kiến thức và đức độ các ngài như ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn, kiến thức của tôi về hai tôn giáo chỉ là một cọng cỏ bên khe suối. Những gì tôi viết ra dựa vào những tài liệu có sẵn, nếu độc giả đòi hỏi, tôi xin dẫn chứng.

Vừa viết tới đây, tôi nghe tiếng chuông đổ từ ngôi nhà thờ của người Châu Mỹ La Tinh cách đó một dặm vọng qua cửa sổ. Vừa đọc xong 2 cuốn Apology của Plato và Zenephon, tôi phải viết bài này nên tôi tạm ngưng đọc The Clouds của Aristophane, bây giờ trở lại đọc tiếp.

Kính chào Luật Sư Phạm Văn Phổ.

Hoàng Hà Thanh

Los Angeles, California.

BƯỚC QUA NGƯỠNG CỬA VÔ MINH?

Trần Chung Ngọc

Trước hết, nếu có thể, tôi xin được tự ý đổi lại chủ đề của tuyển tập thành “Nhận Định về cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng Của John Paul II”, vì “Đối Thoại Với John Paul II” có thể nói là một điều rất khó thực hiện nếu không muốn nói là bất khả thực hiện. Có ít ra là 4 lý do để cho một cuộc đối thoại như trên không nên có, và không thể thực hiện được:

1. John Paul II là chủ chăn của 1 số tín đồ đông đảo. Ngài ở địa vị cao quý, sống trên nhung lụa, và Ngài còn phải để toàn thời gian (full time) để phục vụ dân nghèo theo như lời dạy của GiêSu Kitô (Giêsu Christ), cho nên Ngài không thể hạ mình để đối thoại với những cư sĩ Phật giáo nghèo khổ, địa vị thấp kém, coi vật chất như huyễn, không tiếng tăm như chúng ta.

2. Tâm cảnh (mind-set) của 1 cư sĩ Phật giáo bình thường, sống trước thềm một thiên niên kỷ mới, tự bao giờ vẫn đồng hành với nền văn minh nhân loại, ý thức được những tiến bộ của khoa học, không vướng mắc vào những chuyện huyền hoặc hoang đường, thật quả là bất khả tương hợp (incompatible) với một tâm cảnh của thời Trung Cổ.

3.  Phật giáo chống đối vô minh nhưng không chống người bị màn vô minh che phủ, và Phật giáo quan niệm vô minh chỉ có thể phá vỡ bằng giáo dục và chuyển hóa chứ không thể phá vỡ bằng cách trực diện chống đối.

4. Phật Pháp vốn không tranh cải với các thế gian pháp.

Tuy không thể đối thoại, nhưng nếu chúng ta muốn có vài nhận định về cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng thì đây là điều chúng ta có thể làm được, và nên làm, vì đây là một quyền căn bản của chúng ta trong thế giới tự do. Thật ra thì Giáo Hoàng (GH) John Paul (JP) II đáng thương hơn là đáng trách. Thiền Sư Nhất Hạnh có nói rằng: “Có hiểu thì mới thương”, cho nên, vấn đề chính là chúng ta nên tìm hiểu những động cơ nào đã thúc đẩy John Paul II viết cuốn sách trên. Và khi hiểu rồi thì tình thương sẽ giải quyết tất cả, chúng ta sẽ không còn bận tâm về những chuyện không đáng để tâm nữa.

Để làm công việc tìm hiểu trên tôi đã đọc kỹ từ đầu tới cuối cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Giáo Hoàng John Paul II. Nhưng thay vì làm công việc “điểm sách”, trước hết, bỏ qua những lời “mẹ hát con khen hay” hoang tưởng, thiếu thực tế, thiếu suy nghĩ trong phần “Lời Cảm Tạ” và “Lời Giới Thiệu” ở đầu cuốn sách (bản Việt ngữ), tôi xin trích dẫn những lời John Paul II viết về Đức Phật và Phật giáo, rồi đi thẳng vào nhận xét về Giáo Hoàng John Paul II của vài trí thức, Gia-tô cũng như phi Gia-tô, sau đó sẽ khai triển và bình luận thêm về những nhận xét này.

* * *

Ở trang 43, John Paul II viết về Đức Phật như sau:

Đức Phật đúng khi ngài không thấy trong việc tạo dựng có thể có sự cứu rỗi, nhưng ngài lầm khi, vì lý do đó mà ngài phủ nhận việc tạo dựng có một giá trị nào cho nhân loại”. (Buddha is right when he does not see the possibility of human salvation in creation, but he is wrong when, for that reason, he denies that creation has any value for humanity).

Và ở trang 85 – 86, John Paul II viết về Phật giáo như sau:

“Giáo lý về sự cứu rỗi của Phật giáo tạo thành điểm trọng yếu, hay đúng hơn, điểm duy nhất của hệ thống này. Tuy nhiên, truyền thống Phật giáo và những phương pháp dẫn xuất từ đó, cả hai đều có hầu như đơn độc một “thuyết cứu rỗi qua Chúa Kitô” (soteriology) tiêu cực. Sự “giác ngộ” chứng nghiệm bởi Đức Phật bắt nguồn từ điều xác tín rằng thế giới này là xấu xa, là cội nguồn xấu ác và đau khổ của nhân loại. Để giải phóng mình ra khỏi sự xấu ác này, con người phải tự giải thoát ra khỏi thế giới này, điều này cần thiết là phải đoạn tuyệt với những ràng buộc nối chúng ta với thực tế bên ngoài - những ràng buộc hiện hữu trong bản chất con người, trong tâm thức, trong thân thể chúng ta. Càng thoát khỏi những ràng buộc đó bao nhiêu, chúng ta càng thờ ơ với mọi thứ trong thế giới, và chúng ta càng thoát khỏi sự khổ, sự xấu ác mà cội nguồn là từ trong thế giới. Chúng ta có thể tới gần Thần Gia-tô (God) bằng con đường này không? Điều này không được kể tới trong sự “giác ngộ” mà Đức Phật đã thông tri.

Phật giáo đại để là một hệ thống “vô thần”. Con người không tự giải thoát khỏi cái xấu ác qua cái thiện từ nơi Thần Gia-tô; mà chỉ tự giải thoát qua sự cất bỏ ràng buộc với thế giới xấu xa. Sự vô chấp rốt ráo đó không phải là sự hiệp thông với Thần Gia-tô, mà gọi là Niết Bàn, một trạng thái thờ ơ toàn hảo đối với thế giới. Tự cứu có nghĩa là, trên hết, tự giải thoát khỏi sự xấu ác bằng cách trở thành thờ ơ với thế giới, nguồn gốc của sự xấu ác. Đây là tột điểm của quá trình tu tập tinh thần”.

(The Buddhist doctrine of Salvation constitutes the central point, or rather the only point, of this system. Nevertheless, both the Buddhist tradition and the methods deriving from it have an almost exclusively negative soteriology. The “enlightenment” experienced by Buddha comes down to the conviction that the world is bad, that it is the source of evil and of suffering for man. To liberate oneself from this evil, one must free oneself from this world, necessitating a break with the ties that join us to external reality – ties existing in our human nature, in our psyche, in our bodies. The more we are liberated from these ties, the more we become indifferent to what is in the world, and the more we are freed from suffering, from the evil that has its source in the world. Do we draw near to God in this way? This is not mentioned in the “enlightenment” conveyed by Buddha.

Buddhism is in large measure an “atheistic” system. We do not free ourselves from evil through the good which comes from God; we liberate ourselves only through detachment from the world, which is bad. The fullness of such a detachment is not union with God, but what is called Nirvana, a state of perfect indifference with regard to the world. To save oneself means, above all, to free oneself from evil by becoming indifferent to the world which is the source of evil. This is the culmination of the spiritual process).

Chúng ta để ý rằng John Paul II đã cố ý dùng một số danh từ có ý nghĩa đặc thù trong Gia-tô Giáo, những danh từ rất xa lạ hoặc có nghĩa khác hẳn trong Phật giáo, để viết về Phật giáo, thí dụ như “Salvation = Cứu rỗi” ; và “Soteriology = Thuyết cứu rỗi qua Chúa Kitô” (Soteriology = the branch of theology concerned with the doctrine of salvation through Christ (theo tự điển) = Một ngành trong môn Thần Học nói về thuyết lý cứu rỗi qua Chúa Kitô; hoặc theo định nghĩa chính thức của Gia-tô trong cuốn Catholic Word Book do Catholic Information Service, Knights of Columbus ở New Haven, Connecticut xuất bản: Soteriology = The division of Theology which treats of the mission and work of Christ as Redeemer) để rồi hỏi một câu vô nghĩa, ít ra là đối với các Phật tử: “Chúng ta có thể tới gần Thần Gia-tô bằng con đường này không? Điều này không được nói tới trong sự “giác ngộ” mà Đức Phật đã thông tri”.

Trước khi Jesus Christ ra đời hơn 500 năm, Đức Phật đã giác ngộ và đưa ra con đường tự lực tự cường, dũng mãnh phá vỡ vô minh qua óc suy lý và thực hành Bồ Tát Đạo, cứu nhân độ thế. Vậy Phật tử không tin ở sự cứu rỗi của một Thần Gia-tô (để cho được chính danh, tôi đã dịch chữ God trong đạo Giatô là “Thần Gia-tô” vì John Paul II đã dùng danh từ “vô thần” để chỉ Phật giáo), vậy ai cần tới gần Thần Giatô? Và “giác ngộ” là một trạng thái tâm linh không thể nghĩ bàn, vượt qua mọi đối đãi nhị nguyên, Thánh phàm như một, Thần hay không cũng chẳng khác gì nhau, vậy nói tới việc tới gần Thần Gia-tô để làm gì? Hơn nữa, đã ở trạng thái vô chấp rốt ráo, nghĩa là đã “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” rồi thì còn hiệp thông với Thần làm cái gì? Nhưng thôi, chúng ta hãy đi vào nhận xét của một số trí thức về những lời phê bình trên của John Paul II:

Nalin de Silva, một thành viên của “Liên Minh các Hiệp Hội Phật giáo” tại Tích Lan, cho rằng “những nhận xét lắt léo với ác ý của Giáo Hoàng (về Phật giáo) có vẻ như là phản ứng trước sự bành trướng của Phật giáo và Hồi Giáo gần đây ở Âu Châu”. De Silva nói: “Ông ta đang cố gắng chống đỡ đức tin của ổng, Hồi Giáo và Phật giáo là 2 thách thức chính đối với Ki-tô Giáo”. (A Federation member, Nalin de Silva, said the Pope’s remarks were malicious and appeared to be a reaction to the recent spread of Buddhism and Islam in Europe. “He is trying to defend his faith,” de Silva said, “Islam and Buddhism are the main challenges to Christianity.”)

Ken Tanaka, một giáo sư của viện Phật Học ở Berkeley phát biểu rằng: “Rõ ràng là Giáo Hoàng đã không chịu làm bài tập” (nghĩa là không chịu tìm hiểu vấn đề cho cặn kẽ) và đã trình bày “một quan điểm quá đơn giản về Phật giáo”. Giáo sư Tanaka nói: “Cốt tủy của Phật giáo là thoát khỏi sự ràng buộc vào tham, sân, si chứ không phải là thoát khỏi thế giới. Nhờ đó mà con người ngộ được một trình độ tỉnh thức cao hơn”. (Rev. Ken Tanaka, a professor at the Instiute for Buddhist Studies in Berkeley, said it is clear that the Pope “hasn’t done his homework” and presents “a very simplistic view of Buddhism”. Essentially, Buddhism is about becoming detached from greed, hatred, and ignorance and not from the world,” Tanaka said. “That’s how one awakens to a higher level of awareness”.)

Thomas Hand, một linh mục Gia-tô, nói rằng ông ước mong Giáo Hoàng “có thể nói về Phật giáo dựa vào những kinh nghiệm bản thân. Ta không thể nói về bất cứ cái gì sâu sắc hiển nhiên như Phật giáo mà không tự mình đi vào trong đó”. (Rev. Thomas Hand, a Catholic priest, said he wished the pope “were able to speak about Buddhism from experience. You can’t speak about anything as obviously profound as Buddhism without getting into it.”)

Alan Senauke, một thiền sư, nói rằng những lời phê bình của Giáo Hoàng về Phật giáo chẳng hơn gì mấy cái chuyện “dựng lên những hình nộm, rồi quật chúng xuống”. Ông nói: “Dù là không biết hay cố ý, đó cũng là một sự trình bày sai lầm nghiêm trọng về Phật giáo.” (Alan Senauke, a Zen priest, said the pope’s comments on Buddhism were little more than “setting up straw men, then knocking them down.” “Whether through ignorance or intention, it is a serious misrepresentation of what Buddhism is all about,” he said.)

Lama Ole Nydahl không lấy gì làm ngạc nhiên về những lời phê bình của Giáo Hoàng. Người hỏi rằng: “Sao mà một người như Giáo Hoàng có thể đồng ý được với một tôn giáo như Phật giáo, một tôn giáo đưa con người vượt qua cảnh giới nhị nguyên và tạo ra một mối liên hệ lành mạnh với thân và ý?”. (Lama Ole Nydahl was not surprised with the pope’s comments. “How could a man like he possibly agree with a religion like Buddhism, which takes people beyond dualism and produces a healthy relationship with their bodies and minds?” he asked.)

Chúng ta thấy rằng những nhận xét của Ken Tanaka, Thomas Hand, và Alan Senauke cùng nói lên một điểm: Giáo Hoàng không đủ kiến thức để bình luận về Phật giáo nên đã đưa ra những nhận xét sai lầm nghiêm trọng về Phật giáo. Nhưng nhận xét của Tỳ Kheo Nalin de Silva và Lạt Ma Ole Nydahl mới thực sự đi vào nguồn gốc của vấn đề: tâm cảnh của Giáo Hoàng John Paul II không thể lĩnh hội được cái sâu sắc của Phật giáo, Giáo Hoàng đã viết về Phật giáo một cách lắt léo ác ý và lý do là để chống đỡ niềm tin của Giáo dân. Sau đây tôi sẽ phân tích vấn đề trên một cách rộng rãi hơn để làm sáng tỏ những uẩn hàm (implications) trong lời phê phán của de Silva và Ole Nydahl.

* * *

Thật vậy, nếu chúng ta đọc kỹ cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Giáo Hoàng John Paul II thì chúng ta có thể nhận ra hai điểm chính:

1. Giáo Hoàng lo sợ trước sự bành trướng của Phật giáo và Hồi Giáo trên thế giới nên đã đưa ra những nhận xét một chiều, kiêu căng, hoàn toàn dựa theo giáo lý Gia-tô, với mục đích hạ thấp các tôn giáo lớn khác, để giữ giáo dân.

2. Đây là một nỗ lực có mục đích củng cố quyền lực của Giáo Hoàng, Tòa Thánh, và giới giáo sĩ lãnh đạo Gia-tô để duy trì truyền thống “hệ thống chăn chiên theo cấu trúc Kim Tự Tháp” của Gia-tô Giáo. Cấu trúc này sẽ được sáng tỏ qua lời mô tả của Penny Lernoux trong một đoạn sau.

Với mục đích trên, Giáo Hoàng đã trích dẫn khá nhiều từ Thánh Kinh, nhắc lại một số tín điều và coi đó như là những chân lý bất biến mà giáo dân, những người không đọc Thánh Kinh hay chỉ đọc những đoạn các linh mục chọn lựa để giảng, phải tin.

Tất cả những toan tính trên đều có lý do. Nhưng trước hết tôi xin có một nhận xét tổng quát về cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng. Bỏ qua một phần nhỏ của cuốn sách nói về các tôn giáo khác, phần còn lại là về Gia-tô Giáo La Mã và ta có thể nói phần này trình bày mặt ngoài của một chiếc mề đay. Đối với mỗi điểm trên cái mặt ngoài này chúng ta có thể tìm ra một hay nhiều điểm đối nghịch trên mặt trái. Công việc chứng minh rất dễ dàng, nằm ngay trong Thánh Kinh và lịch sử gần 2000 năm của Giatô La Mã Giáo. Tuy nhiên, tạm thời chúng ta hãy để vấn đề này qua một bên và xét đến những lý do đưa đến việc Giáo Hoàng viết cuốn sách trên.

* * *

HAI LÝ DO

A. LÝ DO THỨ NHẤT khiến cho Giáo Hoàng John Paul II phải bận tâm là đà suy sụp của Gia-tô Giáo và quyền lực của Giáo Hoàng cùng tòa Thánh Vatican trên thế giới. Điều này thể hiện trong số lượng công du của ngài từ khi đăng quang, với mục đích vớt vát, duy trì niềm tin của giáo dân qua những tác phong khả ái của một vị lãnh tụ tôn giáo kiêm kịch sĩ nhà nghề. Thật vậy, trong một cuộc phỏng vấn của đài PBS năm 1977, Ngài thú nhận với J. Michener là Ngài "được huấn luyện để diễn xuất trên sân khấu khi còn trẻ. Đúng vậy, tôi muốn trở thành một kịch sĩ." ("I trained for the stage as a young man," he admitted to J. Michener of their PBS series in 1977: "Yes, I wanted to be an actor.")

Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi Ngài cố gắng nói trọ trẹ vài câu tiếng Việt để làm nức lòng giáo dân Việt Nam trong những cuộc tiếp xúc với người Gia-tô Việt Nam lưu vong. Điều này sẽ được sáng tỏ trong phần trình bày sau đây. Sự suy sụp của Giatô Giáo La Mã mà biểu tượng là hệ thống quyền lực Vatican, có rất nhiều nguyên nhân, sau đây tôi chỉ đưa ra vài nguyên nhân chính:

1. Nguyên nhân thứ nhất và chính yếu được trình bày trong nhận xét của Malachi Martin trong cuốn The Keys of This Blood:

"Trong hầu hết các nước ở Âu Châu, phong trào hiện thực sống đời thế tục hầu như đã hoàn toàn thắng. Trong vùng này, các tôn giáo có tổ chức - Giatô, Tin Lành và Do Thái - được coi như là giống nhau ở điểm cùng nhấn mạnh trên những tuyệt đối. Những tôn giáo này được coi là đóng góp rất ít hoặc không đóng góp gì cho đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa hiện thời ở các nước Tây phương. Giáo Hoàng biết rất rõ rằng, trong thế kỷ tới, Gia-tô Giáo sẽ chỉ còn tồn tại ở các nước trong thế giới thứ ba. Từ bao giờ, Giatô Giáo chỉ nẩy nở trong đám dân chúng nghèo khổ và ít học. Tây phương phức tạp không còn tiếp nhận sự hẹp hòi của Gia-tô Giáo nữa. Giáo Hoàng biết rõ như vậy."

(In most European countries, secularism has already triumphed completely. In that region, organized religions – Catholic, Protestant and Jewish – are regarded as alike in their insistence to absolutes. They are considered to have little or nothing to contribute, therefore, to the current political, economic and cultural life of Western European countries… The Pope is well aware that, in the next century, catholicism has always flourised only in poor population of low educational quality. The sophisticated West can take Catholicism's narrowness no longer. The Pope realizes that.)

Malachi Martin là một nhà thần học sáng danh vào bậc nhất, đã từng là giáo sư của Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh ngay tại Vatican, ắt hẳn không viết một cách vu vơ. Thực tế là, 70% số giáo dân Giatô hiện thời trên thế giới là dân ở Nam Mỹ, Châu Mỹ La Tinh, Châu Phi và Phi Luật Tân ở Á Châu. Mức sống kinh tế của số dân này ra sao, và trình độ học vấn ra sao, chắc chúng ta cũng đều đã biết.

Cho nên, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên về phần lớn các cuộc công du của John Paul II là nhắm vào thế giới thứ ba, ve vuốt thú nhận một cách mơ hồ những lỗi lầm của Giáo hội trong quá khứ và tạ tội với một số dân tộc trong thế giới thứ ba, mong họ hãy quên đi quá khứ, hãy quên đi những bất hạnh mà Gia-tô giáo đã mang tới cho dân tộc họ, hãy quên đi chủ trương tiêu diệt nền văn hóa cổ truyền địa phương để thay vào đó bằng một nền văn hóa hẹp hòi tàn độc của một tôn giáo Tây phương. Và đặc biệt đối với Việt Nam, lợi dụng khối người Gia-tô chống cộng lưu vong, ngài đã "khuấy động" ảo tưởng về một viễn tưởng lật ngược thế cờ ở Việt Nam giống như ở Ba Lan, nơi mà 90% dân số theo Gia-tô Giáo, nhưng quên rằng hơn 90% dân Việt Nam là phi Gia-tô, và người Việt Nam vẫn chưa quên vai trò của người Gia-tô Việt Nam trong thời Pháp thuộc, trong thời kháng chiến, và dưới thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Ngài không có hi vọng gì ở các nước văn minh tiến bộ, vì nơi đây dân trí cao, tín đồ không còn quỳ xuống hôn chân "Đức Thánh Cha" nữa mà trực diện chất vấn John Paul II về những giáo lý đi ngược thời gian, không phù hợp với thực trạng xã hội.

Đoạn sau đây trong cuốn Cry of the People của Penny Lernoux sẽ làm sáng tỏ phần nào quan điểm của Malachi Martin:

"Từ lúc đầu, xã hội Mỹ La Tinh được xây dựng giống như một Kim Tự Tháp, với vài người Âu Châu đến định cư và hưởng mọi quyền lợi của đế quốc, và quần chúng thổ dân, da đen, giai cấp thấp, không có một quyền nào. Cái tháp tồn tại được là vì khối nhân dân ở dưới đáy được nhắc nhở rằng họ ngu si, lười biếng, và thấp kém. Những nhà truyền giáo ngoại quốc góp phần nhồi vào óc dân bản xứ ý tưởng là họ nghèo và ngu dốt là do ý muốn của Thần Gia-tô. Như Tổng giám mục ở Lima bảo các thổ dân rằng: "Nghèo khổ là con đường chắc chắn nhất đi tới hạnh phúc." Người thổ dân nào hay dân Phi Châu nào mà liều lĩnh nghi ngờ điều dạy khôn ngoan đó bằng cách chống lại hệ thống đều bị giết ngay… Giáo hội Gia-tô phải gánh rất nhiều trách nhiệm về tình trạng này. Giống như những kẻ chiến thắng Tây Ban Nha trong thế kỷ 16, hầu hết các nhà truyền giáo Âu Châu tới Châu Mỹ La Tinh tự coi như là những kẻ mang những văn hóa cao hơn nền văn hóa của dân tộc bản xứ nhiều. Những nhà truyền giáo ít quan tâm đến việc hòa nhập với các thổ dân Phi Châu mà chỉ muốn thuần phục họ vào những cấu trúc của tôn giáo Âu Châu".

(From the beginning, Latin-American society was constructed like a pyramid, with a few Europeans settlers enjoying all the privileges of empire and a mass of Indians, blacks, and half-castes having no rights at all. The pyramid survived because the mass at the bottom was repeatedly told that it was stupid, lazy, and inferior. Foreign missionaries helped drum these ideas into the native's heads by claiming that it was God's will that they should be poor and ignorant. As the Archbishop of Lima told his Indians: "Poverty is the most certain road to felicity." Any Indian or African who had the temerity to doubt such wisdom by rebelling against the system was promtly put to death… The Catholic Church must accept a lot of the blame for this situation. Like the conquistadors, most of the European missionaries who came to Latin – America saw themselves as bearers of cultures vastly superior to those of the natives. The missionaries were less interested in integrating the Indians and Africans than on subjugating them to the European religious structures.)

Đọc đoạn trên không biết có đọc giả nào thấy nó khá quen thuộc với những việc đã xảy ra trong một giai đoạn lịch sử Việt Nam không nhỉ?

Và, sau đây là nhận xét của một số học giả và linh mục Gia-tô về cùng vấn đề: Trong cuốn Freedom's Foe – The Vatican (Vatican: Thù nghịch Của Tự Do), Adrian Pigott viết như sau:

"Những người theo đạo Giatô La Mã thực tình ngạc nhiên khi họ thấy rằng đồng bào của họ thường nghi ngờ họ. Có vẻ như họ không ý thức được rằng, nếu họ chọn để bước trong đoàn quân của Giáo Hoàng, họ phải chấp nhận những hậu quả. Những tướng lãnh của họ (các giám mục) và vị chỉ huy tối cao của họ (Giáo Hoàng), quan tâm thiết yếu đến sự an sinh của Vatican hơn là sự an sinh của nhân loại. Chẳng trách là những giáo dân Giatô La Mã không được biết đến trong số người thông minh và tiến bộ; họ không thể trở thành những công dân hạng nhất vì sự trung thành nước đôi này. Thật là không được công bằng khi ta trách cứ cá nhân Giatô La Mã là vô tình họ đã làm hại tới sự tiến bộ của nhân loại. Họ được nuôi nấng trong cái mà Tiến Sĩ Barnado gọi là "Bóng tối dày đặc của Ý thức hệ La Mã"… Thất học luôn luôn thịnh hành trong các nước theo Giatô La Mã giáo - nhờ đó mà tập đoàn Giáo sĩ có thể nảy nở."

(Roman Catholics are often genuinely surprised to find that they are frequently regarded with suspicion by their fellow citizens. They do not seem to realize that, if they elect to march in the papal army, they must expect to receive the consequences. Their Generals (the bishops) and their Commander-in-Chief (the pope), concentrate upon the welfare of the Vatican rather upon the welfare of mankind. No wonder that Romanists are unpopular with progressive and intelligent people; they cannot become first-class citizens owing to their dual allegiance… It is unfair to blame individual Roman Catholic for being (unconsciously) detrimental to human progress. They have been brought up in what Dr. Barnado called "The thick darkness of Romanism" .. Illiteracy is always prevalent in Romanist countries – to enable Priestcraft to flourish.)

Cha Joseph McCabe, trong cuốn Rome Puts a Blight on Culture (La Mã ủy hoại Văn Hóa) đã viết như sau:

"Nếu chúng ta đồng ý dân chủ là một dạng chính trị lý tưởng thì chúng ta cũng phải đồng ý là giáo dục quần chúng để họ suy nghĩ với óc phê phán và tìm hiểu một cách không hạn chế là con đường duy nhất để cho họ có những hành động thỏa đáng. Luật lệ của Giáo Hội Giatô trái ngược hẳn lại. Giáo dân không được tìm hiểu ngoài tín ngưỡng của mình và không được có đầu óc phê phán ngay cả trong phạm vi tín ngưỡng của họ".

(If we are agreed that democracy is the ideal political form, we agree also to teach all people to think critically and inquire without restriction is the only way to get it to work satisfactorily. The law of the Catholic Church is just the opposite. You must not inquire outside your own creed and you must not think critically even within its range.)

Cha McCabe đã để ra nguyên một chương để phân tích ảnh hưởng của Giatô Giáo La Mã trên các nền văn hóa, đưa ra rất nhiều thống kê ở nhiều nơi trên hoàn cầu và kết luận: "La Mã chỉ khoái những kẻ thất học. Họ bị thuyết phục quá dễ dàng để đi thiêu sống các kẻ "tà đạo" và hôn hít những thánh tích giả tạo." (Rome loves the illiterate. They are so easily persuaded to burn "heretics" and kiss bogus relics.)

Trong cuốn Crime and Immorality in the Catholic Church (Tội Ác và Vô Luân trong Giáo Hội Gia-tô) Cha Emmett McLoughlin cũng viết như sau:

"Với kinh nghiệm của tôi trong hệ thống giáo dục Giatô, với 15 năm làm linh mục, và 13 năm thường xuyên quan sát và tích cực nghiên cứu sau khi rời khỏi Giáo hội, lòng xác tín thành thật và quan niệm vững chắc của tôi là, ảnh hưởng của Giatô trên mọi nền văn minh thật quá nhiều xấu hơn là tốt. Về phương diện trí thức, Giáo Hội La Mã đã làm hết sức để bóp nghẹt đầu óc con người và làm nghẹt mọi sáng kiến. Giáo hội phải làm như vậy nếu muốn sống còn. Không một người nào có đầu óc suy nghĩ, thông minh, biết rõ về những sự kiện lịch sử, đặc biệt là một người Mỹ yêu tự do, lại có thể trở thành hoặc vẫn còn là tín đồ của Giatô La Mã."

(It is my contention and my sincere conviction, from my experience in the Catholic educational system, my life of 15 years in the pries thood, and 13 years of constant observation and intense study since leaving the Church, that its influence on all civilization has been far more evil than of good. Intellectually the Church of Rome has done its best to strangle the human mind and stiffle mental initiative. It must do this if it is to survive. No thinking, intelligent, historically studious person, especially a freedom-loving American, can become or remain a Roman Catholic.)

Cùng một ý tưởng, trong bài “Phật giáo và Người Việt Nam Hiện Đại”, Như Hạnh chuyển ngữ, Tiến Sĩ J.C.Cleary, tốt nghiệp đại học Harvard về Ngôn Ngữ  và Văn Minh Đông Phương, cũng viết như sau:

Người Việt Nam hẳn sẽ ngạc nhiên khi khám phá ra rằng đối với những người Tây Phương có đầu óc tiến bộ, chính Thiên Chúa Giáo mới là một mớ huyền thoại lỗi thời, mê tín dị đoan, và những nghi lễ vô nghĩa lý. Người Tây Phương thừa hiểu rằng, chẳng có mấy người đầu óc tiến bộ mà lại tin nơi Thiên Chúa Giáo. Những ai có kiến thức về lịch sử Âu Châu đều biết rằng, Giáo Hội Giatô La Mã đã làm đủ cách trong quyền lực của họ để ngăn chặn sự phát triển của khoa học cũng như lối sống và suy nghĩ mới. Ở Mỹ hiện nay, những tín đồ Thiên Chúa Giáo cực đoan là những kẻ đứng đầu trên giới tuyến chống lại các tạp quán mới và thế giới khoa học. Do đó trong tâm thức Tây Phương, Thiên Chúa Giáo được gắn liền với một thứ chủ nghĩa truyền thống lạc hậu, một thứ nuối tiếc thời đã qua. Ở Tây Phương, phần đông các tín đồ Thiên Chúa sùng tín thường là những kẻ ít học nhất, những thành phần thấp, kém kinh tế trong quần chúng, những kẻ chẳng còn có gì để trông ngóng nữa cả”.

Và, cách đây gần 100 năm, Toàn Quyền Đông Dương J.L.de Lanessan, trong cuốn Les Missions et leur Protectorat, trích dẫn bởi Patrick J.N.Tuck, cũng viết về thực trạng truyền giáo tại Á Đông như sau:

Thật ra, trong hơn 2 thế kỷ mà các hội truyền giáo Giatô hoạt động ở Trung Hoa và bán đảo Đông Dương có lẽ họ không cải tạo được quá 10 học giả. Toàn thể giới cầm quyền có học của dân chúng đã tránh né sự truyền đạo của họ. Đại cương thì các nhà truyền giáo chỉ tuyển mộ được tín đồ trong những giai cấp thấp nhất, và phần lớn là những kẻ, vì lý do này hay lý do khác, đã bị xã hội An - Nam ruồng bỏ.

(In fact during the two centuries and more that the Catholic Missions have been operating in China and the Indochinese peninsula they have probably not converted more than ten scholars   in  all. The entire educated and governing class of the population has evaded their proselytism. In general Catholic missionaries only recruit from among the lowest classes, and mainly among those who, for various reasons have been rejected by Annamese society.)

Trên đây chỉ là vài tài liệu để chứng minh rằng, nhận xét của nhà thần học Giatô lỗi lạc Malachi Martin không sai. Và bây giờ chúng ta đã hiểu là tại sao Tòa Thánh Vatican lại chống Hội Nghị về Dân Số vừa qua ở Ai Cập. Động cơ chống không nằm nơi đạo đức mà nằm nơi số con chiên ở các nước trong thế giới thứ ba và quyền lực áp đặt trên số này. Những người sống trên nhung lụa, ăn sung mặc sướng ở Vatican, làm sao có thể thông cảm được với những kẻ khốn cùng trong các xã hội nghèo khổ. Trong cuốn Vicars of Christ (Đại diện của Kitô), Peter de Rosa đã viết:

Những người mặc quần áo lụa tía, sống trong lâu đài, ngồi trên ngai - thật khó có thể hành động như là những kẻ phục vụ cho những kẻ phục vụ Thần Giatô hoặc đại diện cho cái Người Nghèo ở Nazareth đối với những người nghèo đói trong thế giới.

(Those who dress in purple silk, live in palaces, sit on thrones – it is not easy for them to act as servants of the servants of God or to represent the Poor Man of Nazareth to the poor and starving of the world.)

Những kẻ phục vụ Thần Giatô là tín đồ, và Người Nghèo ở Nazareth chính là Giêsu. Trong các xã hội này, sinh đẻ bừa bãi không hạn chế sẽ đưa đến cảnh cả triệu trẻ em chết về thiếu dinh dưỡng, bệnh tật v.v... Cái tội này ai ra đó mà gánh vác? Hay là quy cho ý muốn của Thần Giatô vì Thần có những hành động bí hiểm mà con người không thể hiểu được (God acts in a mysterious way that man cannot possibly understand) theo như niềm tin của một số người khuyết tật, trong óc thiếu hẳn một số lớn tế bào thần kinh (neurons)?

2. Nguyên nhân thứ nhì là, phong trào tranh đấu của các giáo hội Giatô địa phương để được độc lập, không chịu quyền thống trị tư tưởng cũng như vật chất của Vatican càng ngày càng lên cao. Phong trào này đã bắt đầu từ nhiều thế kỷ và bộc phát trong thập niên 1960 với phong trào “Thần Học Giải Phóng” xuất phát từ Châu Mỹ La Tinh và lan sang Phi Châu cùng Á Châu. Trong lịch sử Giáo Hội Giatô, ngay từ  thế kỷ thứ 17 nhiều giáo hội Giatô địa phương đã phủ nhận quyền lực của Giáo Hoàng. Phong trào Ga-Li-can (Gallicanism) ở Pháp là một phong trào của những giáo sĩ Giatô Pháp đòi hỏi giới hạn quyền hành của Giáo Hoàng và các giáo hội địa phương được tự trị về hành chánh. Giáo hội Ga-Li-can Pháp là một giáo hội quốc gia (hay quốc doanh?) công nhận Giáo Hoàng nhưng phủ nhận tín điều “Giáo Hoàng không thể sai lầm” và quyền lực trung ương của Giatô La Mã. (French Gallicanism was a national church which acknow-ledged the pope but denied papal infallibility and central authority.)

Năm 1790, quốc hội Pháp bác bỏ đề nghị coi Giatô Giáo là Quốc Giáo dù hơn 80% dân Pháp theo Giatô Giáo. Trong cuốn The Papacy and the Modern World (Giáo Hoàng Triều và Thế Giới Hiện Đại), Karl Otmar von Aretin viết rằng: “Sự nổi lên  của các giáo hội quốc gia là vấn đề đe dọa quyền lãnh đạo tinh thần tối cao của các Giáo Hoàng trong thế kỷ thứ 18. Ở La Mã không có gì bị chống đối một cách quyết liệt như là những khuynh hướng thành lập giáo hội quốc gia trong thế kỷ thứ 19, ngay cả tới ngày nay, La Mã coi khuynh hướng tự do như là kẻ thù lớn nhất của Giáo hội La Mã.” (The emergence of national churches was the problem threatening the spiritual of the popes in the eightenth century. In Rome nothing met with such relentlessly thorough opposition as the 19th century national church tendencies, while to this day liberalism is seen by Rome as the greatest enemy of the Catholic Church.)

Trong chương “What Catholicism Has Done To Catholics” (Giatô Giáo Đã Làm Những Gì Cho Người Giatô), Cha Emmett McLoughlin viết như sau:

Trào lưu Cải Cách của Luther trong thế kỷ 16 chỉ là cao điểm thắng lợi của nhiều thế kỷ tranh đấu của hàng triệu người thực tình bất đồng ý với những đạo đức cũng như giáo lý của La Mã. Nếu hoàn cảnh chưa chín mùi để nổi dậy, phong trào cải cách của Luther và nhiều người khác không thể lan rộng một cách nhanh chóng như vậy trong các quốc gia cấp tiến ở Âu Châu. Tất cả các dân tộc này đều theo Giatô La Mã nhưng họ không chấp nhận tội ác và vô luân của La Mã, của Giáo Hoàng và giáo sĩ đoàn.
Không phải chỉ vì ngẫu nhiên mà những dân tộc Kitô Giáo đó, sau khi đã phủ nhận La Mã, đã trở thành và vẫn còn là những dân tộc đạo đức và tôn trọng luật pháp nhất trên thế giới: Na Uy, Thụy Điển, Ái Nhỉ Lan, Đan Mạch, Phần Lan, Anh Quốc, Tô Cách Lan và Thụy Sĩ, họ đã hiểu được là, hãy tin tưởng vào Thần Giatô, vào ý chí của chính họ, chứ không phải là tin tưởng vào sự xưng tội, luyện ngục, xá tội, tràng hạt, mề đay và các thứ   tương tự
”.

(Luther’s Reformation in the 16th century was merely the successful climax of centuries of struggle of sincere millions who disagreed as much with the morals of Rome as they did with its doctrine. If the soil were not ripe for revolt, the Reformation movement of Lutherans... and others could not have spread so rapidly through the most progressive nations of Europe. All of these peoples were Roman Catholics rejecting the crime and immorality of Rome, its pope and its clergy. It is more than a coincidence that the Christian peoples that rejected Rome became and still are the most moral and lawabiding in the world. Norway, Sweden, Iceland, Denmark, Finland, England, Scotland and Switzerland... They have learned to rely on God and their own will power, and not on confession, purgatory, indulgences, rosaries, medals and the like.)

Và, trong cuốn American Freedom and Catholic Power (Tự  Do Của Hoa Kỳ và Quyền Lực Giatô), Paul Blanshard cũng cổ súy việc Giáo hội Giatô Mỹ độc lập với Vatican như sau:

Điều quan trọng là phải phân biệt giữa những tín đồ Giatô Mỹ và những linh mục của họ bị La Mã kiểm soát. Người Giatô Mỹ chiến đấu và chết cho cùng một quan niệm về tự do như những người Mỹ khác; họ tin vào cùng những lý tưởng căn bản về dân chủ. Nếu họ có thể kiểm soát được giáo hội của họ, thì vấn đề Giatô sẽ biến đi ngay vì, trong bầu không khí tự do của Mỹ, họ sẽ điều chỉnh những đường lối của Giáo hội theo những thực tế của Mỹ. Bất hạnh thay, dân Giatô ở Hiệp Chủng Quốc không phải là những công dân mà là những “thuộc hạ” trong đoàn thể giáo dân của chính họ. Đường lối sống đạo và sống đời của giáo hội họ đều được quy định ở La Mã, một tổ chức xa lạ với họ về tinh thần và sự điều khiển. Người Giatô Mỹ không được quyền chọn lựa đại diện của họ, ở địa phương của chính họ hay là ở cấp lãnh đạo tại La Mã; và vì cấu trúc độc đoán của giáo hội, họ bị bắt buộc chấp nhận những chính sách về đạo cũng như đời áp đặt trên họ từ nước ngoài.

(It is important, therefore, to distinguish between the American Catholic people and their Roman-controlled priests. The Catholic people of the United States fight and die for the same concept of freedom as do other true Americans; they believe in the same fundamental ideals of democracy. If they controlled their own Church, the Catholic problem would soon disappear because, in the atmosphere of American freedom, they would adjust their Church’s policies to American realities. Unfortunately, the Catholic people of the United States are not citizens but “subjects” in their own religious commonwealth. The secular as well as the religious policies of their Church are made in Rome by an organization that is alien in spirit and control. The American Catholic people themselves have no representatives of their own choosing either in their own local hierarchy or in the Roman high command; and thy are compelled by the very nature of their Church’s authoritarian structure to accept nonreligious as well as religious policies that have been imposed upon them from abroad.)

Paul Blanshard xuất bản cuốn sách trên năm 1949 và từ đó ý thức về một giáo hội quốc gia tại Mỹ càng ngày càng lên cao, và trong thực tế thì dân chúng Mỹ càng ngày càng bất chấp những lệnh của Vatican, công khai chống đối Vatican trên nhiều địa hạt. Điều này thể hiện trên những thống kê về phản ứng của dân Giatô Mỹ trước những giáo điều xuất phát từ Vatican và trước những biện pháp độc tài của Vatican đối với những vị lãnh đạo Giatô Mỹ. Điển hình là vụ Vatican trừng phạt Tổng Giám Mục Raymond Hunthausen ở giáo phận Seattle năm 1985 vì không đồng ý với Vatican, đã khiến trong số những giáo dân bày tỏ ý kiến về vụ này thì 99% ủng hộ Tổng Giám Mục Hunthausen, với 13.000 chữ ký phản đối sự bất công của  Vatican, và 90% trong số 280 linh mục trong giáo phận Seattle làm kiến nghị phản đối Vatican làm cho Vatican phải phục quyền cho Tổng Giám Mục Hunthausen.

Vụ điển hình thứ hai là trường hợp Linh Mục Charles E. Curran, giáo sư thần học tại Đại Học Giatô Hoa Kỳ (Catholic University of American) đã bị Vatican cất chức năm 1967 vì không đồng ý với những giáo điều liên hệ tới vấn đề ngừa thai và nhiều vấn đề xã hội khác của Vatican. Sinh viên phản đối, và 400 trong số 418 đồng nghiệp của cha Curran bỏ phiếu đồng ý bãi khóa cho tới khi Cha Curran được phục chức. Cuộc bãi khóa kéo dài 3 ngày, nhà trường phải không những phục hồi mà còn hứa sẽ thăng chức cho Cha Curran lên giáo sư diễn giảng. Nhưng Vatican thù dai, tháng 8 năm 1976, nghĩa là 9 năm sau, Cha Curran không được phép dạy môn “thần học về đạo đức” (moral theology) tuy vẫn ở chức vụ giáo sư và được phép dạy môn khác nếu thích hợp. (Xin đọc cuốn The Pope and the Mavericks (Giáo Hoàng và những người lạc đạo) của Louis Baldwin). Có lẽ người Giatô Việt Nam nên học kinh nghiệm của các nước ở Bắc Âu và các nước tân tiến như Anh, Pháp, Mỹ về tinh thần quốc gia và độc lập, nếu muốn có một chỗ đứng vững vàng trong lòng đại khối dân tộc Việt Nam.

Bây giờ chúng ta hãy trở lại đề tài “Thần Học Giải Phóng”. Cụm từ này làm cho nhiều người Giatô cũng như phi Giatô ngỡ ngàng. Người ta thường nói tới giải phóng nô lệ, giải phóng con người khỏi ách thống trị, khỏi cảnh áp bức độc tài, v.v... chứ  ít ai nghe tới Thần Học Giải Phóng.

Trong Giatô Giáo La Mã, Thần Học là một môn học đặc thù thâu tóm một cách có hệ thống những suy tư, diễn giải về đức tin Thần Giatô và những uẩn hàm (implications) của đức tin này. Những người chuyên về ngành học này, thường là ở Âu Châu, được huấn luyện để trở thành những nhà thần học, những cán bộ chỉ đạo của Giatô giáo để luận về những chủ đề đặc thù của Giatô Giáo như Thần, Sự Sáng Tạo, Giêsu, Giáo Hội, Ân Sủng, Bí Tích, Tín Lý, v.v... Và theo truyền thống dân chủ tự do đặc biệt của Vatican thì bất cứ   một sự diễn giải thần học nào mà không phù hợp 100% với sự diễn giải của Vatican thì đều bị cấm phổ biến, và tác giả sẽ phải chịu những biện pháp trừng phạt của Vatican để kéo họ trở lại “chánh đạo”. Vì vậy mới có thành ngữ “Roma locuta, causa finita” (La Mã đã nói lên ý kiến, vấn đề đã giải quyết). Nhưng thành ngữ cổ lỗ này đã trở thành lạc hậu và ngày nay không còn áp dụng được nữa. Vì ngày nay thần học không còn là đặc quyền của La Mã mà người ta thấy xuất hiện nào là “thần học giải phóng”, “thần học của phái nữ”, “thần học của dân da đen”, “thần học của Á Châu”, v.v...

Nhung cụm từ “thần học giải phóng” có một ý nghĩa đặc biệt vì đó là một phong trào giải phóng con người khỏi những sự áp đặt một chiều và vô nghĩa lý của Vatican. Từ đâu nảy sinh ra phong trào “thần học giải phóng”? Như trên đã nói, thần học giải phóng phát xuất từ châu Mỹ La Tinh trong thập niên 1960 và lan sang Phi Châu và Á Châu. Có vài lý do chính như sau:

1. Từ khi bắt đầu xuất hiện ở Tân Thế Giới, Giáo hội Giatô La Mã đã giúp một phần trong việc chinh phục các thổ dân bằng nỗ lực của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, và áp đặt nên thuộc địa trên vùng đất này.

2. Giáo hội Giatô nói một đàng, làm một nẻo. Thánh kinh dạy phải phục vụ người nghèo nhưng giáo hội luôn luôn thi hành chính sách giành dân chiếm đất, vơ vét của cải. Điều này thật rõ ràng qua lời than vô cùng ý nhị của Mục sư Desmond Tutu, người đã đoạt giải Nobel về Hòa bình năm 1984:

Chúng tôi có đất đai và họ tới với cuốn Thánh Kinh của họ. Chúng tôi tin họ, cầm cuốn Thánh Kinh trên tay, nhắm mắt cầu nguyện. Khi chúng tôi mở mắt ra thì chúng tôi có cuốn Thánh Kinh và họ có đất đai của chúng tôi.” (We have our lands and they came with their Bible. We believed in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes closed. When we open our eyes, we have the Bible and they have our lands.)

3. Giáo hội Giatô là một tổ chức dựa vào luật lệ tôn giáo, chuyên chế, độc quyền giải thích Thánh Kinh, đặt ra những luật lệ không phù hợp với dân tộc tính địa phương và áp đặt những luật lệ này trên khối tín đồ thiếu hiểu biết.

Vì những lý do chính yếu trên mà phong trào thần học giải phóng ra đời. Danh từ giải phóng nói lên ý nghĩa của mục đích giải phóng con người khỏi những bất công của xã hội, khỏi những áp bức của khối thống trị, về tư tưởng cũng như về vật chất, khỏi những ảnh hưởng của ngoại lai. Cho nên, thần học giải phóng là cách diễn giải đức tin Thần Giatô theo kinh nghiệm của dân nghèo, tìm hiểu Thánh Kinh và các giáo lý Giatô theo quan điểm của dân nghèo. Con người sinh ra không phải ngẫu nhiên nghèo hay vì thần Giatô muốn vậy, mà phần lớn vì tổ chức xã hội. Do đó thần học giải phóng lên án cái cấu trúc kinh tế ở Châu Mỹ La Tinh dung dưỡng một thiểu số đi máy bay sang Miami hay Luân Đôn sắm đồ trong khi đa số dân chúng không có đủ nước lành để uống. “Đặc biệt là những nhà thần học giải phóng lên án ý thức hệ tôn giáo dung dưỡng những sự bất công biểu hiện bởi những hành động khủng bố, tra tấn dân lành của các nhà độc tài quân phiệt với lý do bảo vệ cái mà họ thường ưa thích gọi là “ Nền Văn Minh Kitô Giáo Tây phương”.

Những dân nghèo, không phải là da trắng, và phái nữ đang tìm thấy ý nghĩa mới trong niềm tin Kitô và cùng lúc phơi bày những sự thiếu sót trong cách trình bày đức tin này của những người da trắng Tây phương. Thần học giải phóng là một tuyên ngôn khẳng định sự độc lập về văn hóa và tri thức”. (The poor, nonwhites, and women are finding new meaning in Christian faith as revealing the short comings of interpretation made by Western males. Liberation theology is a kind of declaration of Cultural and Intellectual Independence. ‘Ibid.’)

Tương tự trong cuốn A Vision of Hope: The Churches and Change in Latin America (Một Viễn Tượng của Hy Vọng: Giáo hội và Sự thay đổi ở Châu Mỹ - La Tinh), Trevor Beeson & Jenny Pearce cũng viết như sau:

Đó không phải là một môn thần học mới, mà là cách mới để khảo sát về thần học trong phạm trù Châu Mỹ La Tinh – nghĩa là trong phạm trù tranh đấu giải phóng. Sự kiện chính yếu là trong phạm trù tranh đấu giải phóng. Sự kiện chính yếu là trên khắp lục địa ngày càng có nhiều người Kitô Giáo tham gia cuộc đấu tranh cho sự giải phóng chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá và tinh thần dân tộc họ.”(It is not “a new theology” which has been discovered, but “a new way of doing theology” in the Latin America context – in the context, that is, of the struggle for liberation. The primary fact is growing number in the struggle for the political, social, economic, cultural and spiritual liberation of their people).

Trong phong trào THGP có những bộ óc thượng thặng Giatô như Gustavo Gutíerrez, Juan Luis Segundo, Leonardo Boff … và những thần học nổi tiếng đã góp phần tích cực trong Cộng Đồng Vatican II như Karl Rahner, Edward Schilebeeckx, Hans Kung … Trong số này thì Hans Kung và Leonardo Boff nổi tiếng hơn cả, nổi tiếng vì Vatican đã dùng mọi quyền lực để tìm cách “khoá miệng” hai vị này. Đại cương thì luận cứ của Hans Kung, một giáo sư thần học người Đức nổi tiếng ở Châu Âu, như sau:

Đọc Tân Ước, người ta thấy rõ ràng là chính Giêsu không có thành lập một giáo hội, nhưng đời sống và cái chết của Người đã đưa tới một phong trào mà theo thời gian đã trở thành một tổ chức đầy luật lệ (giáo hội). Nếu sự tổ chức giáo hội ngày nay, với những chức sắc như giám mục và linh mục, không được dẫn xuất từ chính ý của chúa Giêsu, thì có thể có nhiều hình thức khác nhau. Thí dụ, việc loại phái nữ ra khỏi những chức quyền trong giáo hội không có một căn bản nào từ Thánh Kinh. Ngoài ra, Hans Kung và nhiều nhà thần học khác, thí dụ như Edward Schillebeeckx, đã chỉ trích giáo điều “bất khả sai lầm” (infaillibility) của Giáo Hoàng, cho rằng giáo điều này không dựa trên bất cứ căn bản nào ở trong Thánh Kinh và chỉ được xây dựng trên một sự hiểu biết thiếu sót về chân lý. Hans Kung đặt vấn đề: “ngừa thai có phải là một chủ đề thích hợp để đưa ra một giáo điều không? Giáo Hoàng có đủ tư cách xứng đáng (competent) để diễn giải một định luật thiên nhiên (natural law) hay không? GH thật sự có quyền đơn phương đưa ra một giáo điều mà không cần sự đồng ý của hội đồng giám mục không?” và Kung đưa ra kết luận “Giáo hội càng tỏ ra quyền hành bao nhiêu thì càng đưa tới sự chia rẽ nội bộ bấy nhiêu”.

Những tư tưởng này dĩ nhiên đe dọa quyền của toàn thể hệ thống giáo hội La Mã, ít nhất là trên quan điểm của La Mã. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi Vantican tuyên bố là Hans Kung không được dạy giáo lý Giatô nữa và cấm các trường Giatô mời ông làm giáo sư. Tuy nhiên, rất nhiều nhà thần học thần học đang dạy trong các đại học Giatô đồng ý với Hans Kung. (Xin đọc Liberation Theology của Philip Berryman và The Pope and the Maverichkas của Louis Baldwin).

Nhà thần học Ba Tây, Leonardo Boff, có viết về một cuốn sách nhan đề “Church: Charisma and Power” nổi tiếng hoàn cầu. Nổi tiếng vì không những Cha Boff quan niệm giáo hội phải là giáo hội của dân nghèo, mà ngài còn chỉ trích cái cấu trúc độc đoán của Vatican, và nhất là, ngài đưa ra vấn đề nhân quyền ngay trong nội bộ giáo hội. Boff đã viết một đoạn dài để so sánh từng điểm một giữa kiểu cai trị của điện Cẩm Linh (Kremlin) và Vatican, so sánh GH với Tổng Thư Ký đảng Cộng sản, cơ quan hành chánh Trung Ương La Mã với bộ chính trị của Liên Bang Sô Viết. Lẽ dĩ nhiên, Vatican cũng tìm cách khoá miệng Leonardo Boff và cấm Cha Boff không được phát biểu ý kiến, không được viết sách …. Nhưng trứơc sự đồng lòng phản đối của giới lãnh đạo Giatô trên thế giới, nhất là ở  Ba Tây, sau một thời gian ngắn Vatican đành phải huỷ bỏ cái lệnh mang tính chất Trung Cổ kia đi (Xin đọc The Silencing of Leonardo Boff (Bịt miệng Leonardo Boff) của Harvey Cox).

Có lẽ chúng ta cũng nên biết tổ chức quyền hành của giáo hội Giatô La Mã ra sao. Tổ chức này được Cha Leonardo Boff mô tả khá kỹ như sau:

Cấu trúc quyền lực trong giáo hội ngày nay là vay mượn từ những khuôn mẫu của nhiều thế kỷ trước, và có hai khuôn mẫu đặc biệt đáng nói tới: kinh nghiệm đối với quyền lực La Mã và cấu trúc phong kiến. Tuy nhiên quyền lực La Mã trong giáo hội ngày nay là một trong những nguồn xung đột chính với sự thức tỉnh của tâm thức con người về vấn đề nhân quyền.
Đặc tính quyền lực phong kiến La Mã là, thứ nhất, một hệ thống bao cấp riêng biệt; thứ nhì, bản chất hệ thống này là phục vụ cá nhân. Người nào ở trong địa vị quyền hành thì ở đó suốt đời; ý muốn của họ là luật trong cấp của họ nhưng luôn luôn bị ràng buộc bởi sự tuân phục của cấp trên. Thứ ba, đó là một hệ thống thiêng liêng mênh mông. Nói cách khác, tính hợp pháp của hệ thống này không do từ dưới mà là từ trên xuống, từ ý muốn của Thần Giatô. Trong hệ thống này, người nào càng ở cấp cao bao nhiêu thì càng gần Thần Giatô bấy nhiêu và càng được Thần chia xẻ cho nhiều Thần quyền bấy nhiêu. Tuân phục cấp trên có nghĩa là tuân phục Thần, do đó sự tuân phục là một giáo luật. Thứ tư, chế độ quyền lực này bất khả xâm phạm và không cho phép một sự chỉ trích nội bộ nào. Chỉ có cấp trên mới có quyền chỉ trích. Một thắc mắt của cấp dưới được coi như là tương đương với một   cuộc cách mạng trong vũ trụ. Do đó, bất cứ ý kiến đề nghị thay đổi nào cũng được coi như là một hình thức đả phá Thần Giatô, tác giả của hệ thống và của cấu trúc quyền lực thiêng liêng.

Trong khi ở các nước văn minh tiến bộ, hệ thống quyền lực mô tả ở trên không còn đất dụng võ, thì bất hạnh thay ở một số quốc gia chậm tiến thề giới thứ ba, hệ thống quyền lực trên vẫn đươc duy trì vì dân trí nơi đây chưa được phát triển, vẫn còn tin ở chuyện hoang đường, thí dụ như chỉ có GH và Tòa thánh Vatican mới có quyền cho phép con người hiệp thông thần với Thần Giatô, vì đó là những người ở gần Thần nhất, được sự mặc khải của Thần, và được quyền thay Thần để quyết định ai được lên Thiêng Đàng, ai không.

Nói tóm lại, phong trào giáo hội quốc gia độc lập và phong trào THGP đã nói lên điểm chính yếu: không có lý do nào mà  các dân tộc ở Châu Mỹ La Tinh, ở Trung Mỹ, ở Châu Phi và ở Á Châu phải chấp nhận giáo quyền của Vatican có thực sự thông minh và đạo đức hơn những người ở trong thế giới thứ ba không, nếu chúng ta xét tới lịch sử của giáo hội Giatô, của các Giáo Hoàng, với những cuộc thánh chiến, với những Tòa án xử dị giáo, và với sự kiện là sự kiện Tòa Thánh phải mất 359 năm để thú nhận sai lầm về vụ xử oan Galileo? Mỗi nền văn hoá đều khá nhau. Không có một lý do nào mà các nền văn hoá Châu Mỹ La Tinh, Châu Phi và Á Châu phải rập theo khuôn của nền văn hoá Tây phương (Aⵠchâu). Chấp nhận sự lệ thuộc vào văn hoá Tây Phương, bất kể dưới hình thức nào, cũng là biểu lộ óc nô lệ, thiếu tự tin của những người bản xứ thiếu tinh thần quốc gia nếu không muốn nói là phản bội quốc gia. Ý thức  dân chủ càng ngày càng lên cao ở các quốc gia trong thế giới thứ ba, và ý thức dân chủ này cũng được áp dụng trong lãnh vực tôn giáo, không chỉ thu hẹp trong phạm vi xã hội. Những ý thức hợp lý này đã đe doạ hệ thống quyền lực tôn giáo ở Vatican, nên Giáo Hoàng cần phải có phản ứng.

3. Nguyên nhân thứ ba là ngày càng có nhiều linh mục và giáo dân rời giáo hội Giatô La Mã. Nhìn vào số thống kê giáo dân của giáo hội thì người ta không thấy gì vì giáo hội chỉ tính những người rửa tội mà không tính những người bỏ đạo. Giáo hội quan niệm rằng “một khi đã là dân Giatô thì sẽ mãi mãi là dân Giatô” (One a Catholic, always a Catholic). Tuy nhiên, kết quả khảo cứu của các nhà xã hội học Giatô qua phương pháp thâu thập dữ kiện, phân tích và dự phóng khoa học, đã đưa ra những con số rất đáng lo ngại đối với Vatican.

Một thí dụ điển hình là trong cuốn Full Pews and Empty Altars ( Nhà thờ đầy bục giảng và trống trơn), kết quả công trình nghiên cứu trong 6 năm của hai học giả xã hội học Richard Schonherr và Lawrence Young của đại học Wisconsin Madison, tác giả khuyến cáo đạo Giatô là: “Sự thiếu hụt linh mục ở Mỹ đang làm cho nền tảng của giáo hội Giatô La Mã sụp đổ” (The shortage of priests in the US is crumbling the foundation of the Roman Catholic Church) và đưa con số dự phóng: “từ năm 1966  tới năm 2005, con  số linh mục sẽ giảm 40%, từ 35.000 xuống còn 21.000 trong khi GH vẫn giữ vững lập trường không cho phái nữ làm linh mục.

Điểm đặc biệt trong vụ này là, nguồn tài trợ cuộc nghiên cứu từ năm 1984 này lại do chính một cơ sở Giatô đài thọ, hãng dược phẩm Lilly. Nhưng năm 1990 khi các tác giả đưa ra kết quả của cuộc nghiên cứu thì lập tức phần tài trợ cuối cùng bị cắt. Lý do?

Hồng y Tổng giám mục Los Angeles tuyên bố: “Chúng ta là đệ tử của Giêsu Kitô, chúng ta  sống do ân huệ của Thần Giatô, và tương lai của chúng ta được xếp đặt bởi sự chỉ định của Thần cho giáo hội, chứ không bởi các nhà xã hội học”. Cardinal Archbishop Roger Mahony of Los Angeles said at the time: “we are disciples of Giêsu Christ, we live by God’s grace, and our furute is shaped by God’s design for his Church – not by sociologists”. Đó là tâm cảnh của một vị Hồng Y Giatô Mỹ, và đó cũng là thái độ của Giatô đối với khoa học hiện nay, trứơc ngưỡng cửa thế kỷ 21.

Thật ra vì kết quả nghiên cứu trên cũng không có gì đặc biệt vì sự kiện các linh mục bỏ đạo đã trở nên trầm trọng từ lâu. Giáo Hoàng đã biết vậy và đang tìm cách lật ngược chiều hướng này bằng sự tuyển mộ và cầu nguyện (Pope JP II is trying to reverse thies trend primarily through recruitment and prayer). Trong cuốn Shattered Vows: Priests Who Leave (Lời nguyện bị tan vỡ: Những linh mục Mỹ bỏ đi). Tác giả David Rice là một ông Cha dòng Đô – MI – Níc và ngài đã đi khắp nơi tổng cộng 38.000 miles để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục sau khi bỏ giáo hội, đã viết như sau:

100.000 linh mục Giatô đã rời bỏ giáo hội trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn 1 linh mục ra đi. Hầu như phân nữa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đi – thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong. Vatican không nói tới cuộc di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách Tin Lành
(100.000 Roman Catholic Priests have walked out in the last 20 year – more than one than one every two hours. Almost half of all American priests will leave – most often, to marry – before the 25th anniversary of their ordination. The Vatican won’t told about this exodus, yet it is the most grievous crisis to face the Church since the Protestant Reformation.)

4. Nguyên nhân thứ tư là hình ảnh xì – căng – đan vang dội thế giới. Từ sự ký kết những thoả hiệp với Hitler và Mussolini trong thế chiến II cho tới những vụ tiền bạc thâm lạm ở nhà băng dính líu với Mafia, bao che tội phạm trong Vatican, làm thông hành giả cho tội phạm trong Vatican, làm thông hành giả cho tội phạm chiến tranh dùng đường dây chuột (ratlines) qua ngã Caritas ..v..v.. tất cả đã làm cho Giáo hội Giatô mất đi tính cách tôn giáo mà nặng nề về chính trị hoạt đầu. (Xin đọc The Vatican’s Holocaust (Lò Sát Sinh của Vatican) của Avro Manhattan. Genocide in Satellite Croatia, 1941- 1945 (Chính Sách Diệt Chủng ở Chư Hầu Croatia) của Edmond Paris. The Vatican Empire (Đế Quốc Vatican) của Nino Lo Bello, The Vatican Connection (Sự Dính Líu Của Vatican) của Richard Hammer, và Priests and Politicians (Linh Mục và Chính Trị Gia) của B.S.Rajneesh.)

Với chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện”, chỉ lo sự tồn vong của Vatican bất kể đạo đức và sự an sinh của nhân loại, giáo hội Giatô đang đi trên con đường tự hủy diệt. Trong thế giới tự do, với quyền báo chí hiện nay, với các phương tiện truyền thông tân kỳ, giáo hội Giatô không có cách gì che đậy hay dấu diếm những hoạt động của giáo hội. Ngoài ra, về phương diện đạo đức, vụ kiện 1,2 tỷ đô la (1.2 billion dollar lawsuit) liên hệ đến những lạm dụng phi luân trong một cô nhi viện ở Canada, trong đó các “sơ mặc áo xám” (graynuns) hành hạ trẻ em cho đến chết, và cố ý làm cho một số em bị tật nguyền (disabled), thí dụ như chọc thủng màng tai, để lãnh của chính phủ $2.50 thay vì 75 xu một ngày cho mỗi em khỏe mạnh bình thường, được phanh phui trong chương trình Prime Time trên TV, và mới đây cuốn phim “The Boys of St.Vincent” (Những Em Nhỏ ở Cô Nhi Viện St. Vincent) nói về các vụ hành hạ và hiếp dâm các trẻ em trong cô nhi viện St. Vincent ở Newfoundland bên Canada đã làm cho quần chúng ghê tởm những hành động phi luân của các giáo sĩ và nhất là sự bao che của giáo hội cho những kẻ phạm pháp.

Nhưng mang tiếng hơn cả là hơn 400 linh mục phạm tội hiếp dâm nữ tín đồ và trẻ em được giáo hội bỏ ra hơn 400 triệu đô la để dàn xếp ngoài tòa cho mọi sự được ếm nhẹm, và dùng tiền bạc thuê luật sư để tố ngược lại cha mẹ nạn nhân với lý do không săn sóc con cái. Về những vụ này, trong cuốn A Gospel of Shame: Children, Sex Abuse and the Catholic Church (Một phúc âm nhục nhã: Vấn đề lạm dụng tình dục và trẻ em trong Giáo Hội Giatô) Elinor Burkett và Frank Bruni, mô tả như sau:

Cuốn sách dùng những cuộc phỏng vấn các nạn nhân để khảo sát vị trí dễ bị lạm dụng duy nhất của trẻ em trước các linh mục, và các linh mục phạm pháp để tìm hiểu về đời sống cô độc nguy hiểm của họ. Cuốn sách đưa ra những tài liệu về sự bất lực của công tố viên, quan tòa, tâm lý gia và ký giả trong việc theo dõi kiểm soát các giám mục, những người đã dùng cả triệu đô la để bảo vệ tiếng tăm của giáo hội hơn là bảo vệ các tín đồ.
(The book uses interviews with victims to examine children’s unique vulnerability to priests and with priests abusers to explore their dangerous isolation. It documents the failure of prosecutors, judges, psychologists and reporters to monitor bishops, who spend million of dollars to protect the church’s image rather than its believers.)

Cùng một đề tài nghiên cứu, trong cuốn Lead Us Not into Temptation: Catholic Priests and the Sexual Abuse of Children (Xin Đừng Dẫn Chúng Con Vào Sự Cám Dỗ: Các Linh Mục Công Giáo và Vấn Đề Hiếp Dâm các Em Nhỏ), Jason Berry đã đưa ra kết quả của 1 cuộc nghiên cứu là:

Ở Bắc Mỹ, từ 1984 tới 1992, 400 linh mục Giatô đã bị tố cáo là hiếp dâm trẻ con. Cho tới nay (1992) Berry ước tính là Giáo Hội đã bỏ ra 400 triệu đô la để giải quyết những vụ trên. Một sự nghiên cứu dự phòng là Giáo hội sẽ phải tiêu 1 tỷ đô la trước khi thế kỷ này chấm dứt.
(In fact, between 1984 and 1992, 400 Catholic priests in North America have been reported for molesting children. To date, Berry estimates, $400 million has been paid by the Church to resolve these cases. One source projects that $1 billion may be paid by century’s end).

Nhận định về cuốn sách này, Cha Andrew M. Greeley, giáo sự tại đại học Chicago, viết rằng:

Tôi biết nhiều vụ và tình trạng mà Jason Berry viết. Tôi có thể bảo đảm với độc giả là, theo sự hiểu biết của tôi, những gì Berry đưa ra là chính xác và dè dặt, nếu không muốn nói là quá thận trọng. Ấn tượng vững chắc của tôi là tình trạng thực sự tệ hơn là những điều viết trong sách. Tôi cho rằng, khi đọc qua những trang sách này, chúng ta sẽ cảm thấy thật là giận, không hẳn chỉ là giận những kẻ gây ra tội lỗi vì chính họ cũng thường, nếu không muốn nói là luôn luôn, là nạn nhân khi còn nhỏ tuổi, mà là giai cấp lãnh đạo Giatô. Các Giám Mục có vẻ như được đào luyện giống nhau để cùng dấu diếm, che chở, hối lộ, lạnh lùng, và thường là lại bổ nhiệm trở lại giáo phận những người mà họ biết là mối nguy hại cho đám tín đồ.
(I am familiar with many of the cases and situations about which Jason Berrt writes. I can assure the reader that to the best of my knowledge his reporting is accurate and restrained, indeed if anything almost too conservative. It is my strong impression that the situation is actually much worse than it appears in this book. One will become very angry, I suspect, as one reads through its pages, not so much at the victimizers, who themselves were often, if not always, victims when thay were children, but at Catholic leadership. Bishops have with that seems like programmed consistency tried to hide, cover up, bribe, stonewall, often they have sent back into parishes men whom they knew to be a danger of the faithful.)

Bốn nguyên nhân chính ở trên đã tạo nên đà suy sụp bất khả nghịch chiều (irreversible) của giáo hội La mã trên thế giới và đó cũng là lý do chính thúc đẩy John Paul II viết cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng.

* * *

B. LÝ DO THỨ NHÌsự bành trướng của Phật giáo và Hồi Giáo ở Âu Châu và Mỹ Châu. Tôi không biết gì về Hồi Giáo, nhưng về Phật giáo thì tôi thấy rõ sự phát triển của tôn giáo này ở Âu Mỹ. Cách đây 25 năm, khi còn đang học ở Mỹ, tôi chỉ thấy lơ thơ vài cuốn sách về Phật giáo như bộ Thiền Luận của Daisetz T. Suzuki, cuốn A Buddhist Bidle của Dwight Goddard, cuốn Zen Keys của Thích Nhất Hạnh, và một số sách của vài tác giả quen thuộc như Edward Conze, Christmas Humpfreys, Sir Edwin Arnold, Theodore Stcherbatsky, Alan Watts, Charles Luk, Sangharakshita, John Blofeld và Philip Kapleau. Nhưng ngày nay, ra 1 tiệm sách lớn thì ta thấy cả một rừng sách về Phật giáo. Năm 1993, cuốn The Miracle of Mindfulness (Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức) của Thích Nhất Hạnh là một trong những cuốn bán chạy nhất (best sellers). Sách về Phật giáo Tây Tạng ra cũng nhiều và càng ngày càng có nhiều người đọc, nhất là từ sau khi Đức Dalai Lama được trao tặng giải thưởng Nobel về Hòa Bình.

Ảnh hưởng của Phật giáo và những xã hội Âu Mỹ đã được phát triển trên ba phương diện bởi ba nhân vật điển hình có tên tuổi: Daisetz T. Suzuki với Thiền Tông, Đức Dalai Lama với Mật Tông, và Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh với quan niệm “Phật giáo Nhập Thế” và dòng “Tiếp Hiện”, lẽ dĩ nhiên với sự góp sức của rất nhiều Tăng Sĩ và Cư sĩ Phật giáo khác. Gần đây chương trình “60 Minutes” của đài truyền hình CBS có cho biết là hiện nay ở Hoa Kỳ có hơn 2 triệu người Mỹ theo Phật giáo hay chịu ảnh hưởng của Phật giáo, chưa kể tới những người gốc Á Châu như Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn ..v..v.. Đài truyền hình NBC cũng cho biết riêng ở Los Angeles có khoảng 300 trung tâm Phật giáo (Buddhist Centers), Boston có khoảng 50, v.v... Trong cuốn How The Swans Came To The Lake, Rick Fields viết về lịch sử phát triển Phật giáo ở Hoa Kỳ với những sự đóng góp của Đức Dalai Lama, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh trong nhiều cộng đồng. Muốn biết sự phát triển của Phật giáo ở Âu Châu, xin đọc Buddhism in Europe của Kosho Yamamoto, Zen Comes West  của Christmas Humphreys.

Ảnh hưởng của Đức Dalai Lama càng ngày càng lên cao, nhất là từ ngày Ngài được giải thưởng Nobel về hòa bình, đã khiến cho Giáo Hoàng John Paul II phải lo ngại và viết như sau, trang 104: “Ngài đem Phật giáo đến với những người Kitô Giáo Tây phương, “khuấy động” (stirring up) sự quan thiết (interest) về cả đường hướng tu đức lẫn những phương páp cầu nguyện của Phật giáo” và sau đó “lưu ý các Kitô Hữu phải thận trọng trong việc nồng nhiệt đón nhận một vài tư tưởng đến từ những truyền thống truyền giáo của Viễn Đông” (trang 108). Ở đây, chúng ta nên nhận rõ hai điều: thứ nhất, sự phát triển của Phật giáo trên thế giới từ xưa tới nay luôn luôn nằm trong tinh thần từ bi bác ái và hòa bình, chưa hề làm đổ một giọt máu, cho nên dù có “khuấy độﮧ” thì cũng chẳng có phương hại gì tới bất cứ ai; thứ nhì, lịch sử Giatô trong 2000 năm qua đã chứng minh rằng, bất cứ nơi nào mà Giatô Giáo đến “khuấy động” là nơi đó có máu đổ, có sự chia rẽ, có sự đối nghịch với nền văn hóa địa phương, và thường các giáo sĩ thừa sai Giatô là đoàn quân tiên phong đến lập một đoàn quân thứ năm của người bản xứ để hỗ trợ cho đoàn quân thực dân kéo tới sau.

Và, để cho tín đồ Giatô khỏi bị khuấy động bởi Phật giáo, John Paul II đã phê bình Phật giáo là một hệ thống “vô thần”. Chính câu này đã làm cho Tỳ Kheo Nalin de Silva cho rằng đó là những lời nhận xét lắt léo với ác ý (malicious remarks). Lý do? Trong nhiều năm qua, Giatô Giáo đối nghịch với Cộng Sản và luôn luôn kết hợp CS với vô thần để khích động lòng căm thù của giáo dân đối với CS. Tín đồ Kitô và những người phi Cộng Sản không hiểu rằng, CS là một ý thức hệ chính trị, kinh tế, và xã hội; trong khi Vô Thần là một lập trường tâm linh đối với tôn giáo.

Vô thần đã có từ cả mấy ngàn năm nay, trong khi CS mới xuất hiện chưa đầy 100 năm. Tuyệt đại đa số dân Nga theo Chính Thống Giáo, cũng như tuyệt đại đa số dân các nước Âu Châu theo Giatô La Mã. Chủ nghĩa CS được phát động và phát triển ở những nơi này chính vì sự liên kết của tôn giáo và chính quyền để bóc lột dân nghèo, và những người CS chống tôn giáo là vì tôn giáo đã hiệp với quyền hành thế gian, dung dưỡng những bất công trong xã hội.

Ý Đại Lợi là nước ngoan đạo nhất và đoàn quân của Garibaldi tiến vào La Mã tước bỏ các lãnh thổ của Giáo Hoàng, thu hẹp lãnh thổ này trong phạm vi thị trấn nhỏ Vatican, đều là tín đồ Giatô. Cuộc cách mạng 1789 của Pháp tước đoạt quyền hành của các giám mục, đưa một số linh mục lên máy chém cũng là do dân Giatô thực hiện. Các thể chế CS ở Đông Âu cũng do dân Giatô lãnh đạo, họ tin ở Thần Giatô và Giêsu Kitô nhưng không chấp nhận những lạm dụng quyền hành của tôn giáo. Vậy họ chống những kẻ lợi dụng tôn giáo để mưu đồ quyền lợi cá nhân nhưng không phải họ là vô thần.

Cộng Sản Việt Nam không nhìn ra điều này, nhắm mắt nhắm mũi áp dụng chính sách chống tôn giáo của Nga Sô và các nước Cộng Sản Đông Âu mà không hiểu rằng suốt trong dòng lịch sử  Việt Nam, các tôn giáo dân tộc, nhất là Phật giáo, là linh hồn của dân tộc mà chưa bao giờ Phật giáo đứng về phe chính quyền để bóc lột dân nghèo. Chỉ có giai cấp có quyền hành, thực dân Pháp và tay sai mới bóc lột giai cấp công nông, chứ  Phật giáo không chủ trương bám víu vào của cải quyền lực thế gian thì làm sao có thể bóc lột bất cứ ai. Ngoài ra, ở các nước Giatô, giáo dân được ru ngủ để cho giới giáo sĩ được nảy nở, nắm giữ  quyền hành, nhất là ở các thuộc địa, chứ  ở Việt Nam Phật giáo luôn luôn đứng đầu trong việc xây dựng nước và chống ngoại xâm, cho nên bảo rằng Phật giáo là thuốc phiện ru ngủ dân chúng để mà đàn áp cũng lại là một kiểu nhắm mắt nhắm mũi theo một ý thức hệ ngoại lai mà không biết đến những bối cảnh lịch của dân tộc. Đó là chính sách sai lầm nghiêm trọng của Cộng Sản Việt Nam và của giới lãnh đạo già nua trong óc đã hao hụt nhiều tế bào thần kinh (neurons).

Trở lại câu phê bình của GH John Paul II mà Tỳ Kheo de Silva gọi là lắt léo. Thật vậy, John Paul II là người đã tham dự  và tích cực đóng góp cho cộng đoàn Vatican II. Trong bản tuyên ngôn về liên hệ giữa Giáo Hội và các tôn giáo phi Kitô (Declaration on the Relationship of the Church to Non-Christian Religions) có một đoạn nói về Phật giáo như sau:

Phật giáo, trong những dạng khác nhau, nhận biết sự  thiếu sót của thế giới hằng chuyển này. Phật giáo dạy một con đường theo đó con người, với một tinh thần tin tưởng và nhiệt tâm, có thể hoặc đạt tới một trạng thái tự do tuyệt dối hoặc hoàn toàn giác ngộ, do chính sự tinh tấn của mình hay với trợ lực của đấng cao hơn.
(Buddhism in its multiple forms acknowledges the radical insufficiency of this shifting world. It teaches a path by which men, in a devout and confident spirit, can either reach a state of absolute freedom or attain supreme enlightenment by their own efforts or by higher assistance.) (The Documents of Vatican II by Walter M. Abbott, General Editor).

Đó là một sự mô tả Phật giáo tương đối đúng, và John Paul II chắc chắn đã đọc đoạn này. Nhưng ngài vẫn cố ý viết về một “thuyết cứu rỗi” tưởng tượng của Phật giáo, phê bình Đức Phất sai lầm vì phủ nhận giá trị của việc  “tạo dựng”, và Phật giáo là một hệ thống “vô thần”, ngầm kết hợp Phật giáo với Cộng Sản để khai thác lòng thù hận CS mà giáo hội đã reo rắc vào tâm hồn giáo dân từ bao lâu nay. Nếu chúng ta theo dõi tình hình hải ngoại thì đây cũng là luận điệu của nhóm Giatô Cần Lao bấy lâu nay trên diễn đàn báo chí và điện tử ở ngoại quốc. Trên những diễn đàn hải ngoại, bất cứ người nào viết về Giatô Giáo, tuy là sự thực, cũng bị chụp lên đầu cái mũ thân Cộng, hay nằm trong chính sách phá Giatô Giáo, gây chia rẽ tôn giáo của Cộng Sản Việt Nam. Những kẻ buôn nón cối này (hat dealers) không chịu đọc sách nên không hiểu rằng những tác giả viết về Giatô Giáo đều là những học giả, giáo sư đại học, và những ông Cha Giatô, những nhà thần học Giatô, hoàn toàn không dính dáng gì tới Cộng Sản.

Người Việt Nam, sau hơn 80 năm dưới sự đô hộ của người Pháp, không nhiều thì ít cũng quen thuộc với sử Pháp. Chúng ta khó có thể quên Léon Gambetta, một chính trị gia lỗi lạc của Pháp, trong cuộc hô hào đoàn kết quốc gia, đã hét lên “một lời tuyên chiến: Giáo Sĩ đoàn đặc quyền, đó chính là kẻ thù” (Un cri de guerre: Le Cléricalisme, voilà l’ennemi!), và Emile Combes, một nghị sĩ đã phát biểu giữa nghị trường Pháp như sau:

Không phải là chúng ta tấn công tôn giáo mà là những giáo sĩ, những người muốn dùng tôn giáo làm một công cụ thống trị.” (Ce n’est pas à la religion que nous nous attaquons, c’est à ses ministres, qui veulent s’en faire un instrument de domination.)

Chúng ta cũng khó có thể quên Jean Bossu, khi tranh đấu cho nền dân chủ của Pháp đã tuyên bố : “Chống giáo sĩ đoàn đặc quyền là nền tảng căn bản của tinh thần dân chủ. Đối với chúng ta, giáo sĩ đoàn đặc quyền, chính là Giáo hội, chính là Giatô Giáo mà từ trước tới nay luôn luôn là kẻ đối nghịch của mọi thứ  tự do.” (L’anticléricalisme est la base fondamentale de l’esprit démocratique... Pour nous, le cléricalisme, c’est l’Église, c’est la Catholicisme, qui a toujours été l’adversaire de toute liberté.)

Các nhà trí trức Pháp đã nhận thấy sự quan trọng của một nền giáo dục Giatô trên nhiều phương diện, và họ đã thành công trong việc giật con em họ ra khỏi vòng tay “giáo dục” của các giáo sĩ Giatô, và vạch trần những đạo đức giả của Giáo hội (Arraché l’enfant au moine, dévoilé les hypocrisies de l’Église.) So với nền giáo dục khai phóng, Giáo dục Giatô là loại giáo dục mà những nhà trí thức Pháp coi như là chống lại tổ quốc và tiến bộ, như Bộ Trưởng Giáo Dục Pháp Charles Dupuy đã phát biểu:

"Chúng ta xác quyết rất thẳng thắn là, đối với chúng ta thật là điều không thể nhân nhượng được trong chiều hướng giáo dục tự do, bất cứ người nào lại có thể dạy dỗ trẻ con để chống lại tổ quốc của chúng và cản sự tiến bộ của chúng."
(Nous le déclerons très franchement, il nous parait intolérable qu’à la faveur de la liberté d’enseignement, qui que ce soit puisse élever des enfants contre leur pays et contre leur temps.)

Và, Gustave Tery, sáng lập viên nhật báo L’Oeuvre cũng đưa ra một đường lối hành động như sau : "Tôi đã hiểu rằng không chiến đấu chống Giáo hội Giatô chính là phục vụ cho Giáo hội, và rằng im lặng là hèn nhát. Tôi hiểu rằng chỉ không để cho bị lừa bịp thì chẳng đủ chút nào, mà còn phải luôn luôn tố cáo sự dối trá." (J’ai compris que ne pas combattre l’Église, c’est la servir, et que le silence est lâche. J’ai compris qu’il ne suffit point de ne pas être dupe, mais qu’il faut à toute heure dénoncer le mensonge.)

Nhưng rõ ràng hơn cả là 2 nhận định sau đây của đại văn hào Victor Hugo :

1. "Chỉ có hai tội phạm, Xê-Da và Phê-Rô ; Xê-Da thì giết người (hủy diệt thân xác), Phê-Rô thì nói láo (hủy diệt tinh thần)... Người linh mục đã, hoặc có thể, bị thuyết phục và thành thật. Chúng ta có nên trách họ không? Không. Chúng ta có nên chống họ không? Nên." (Il n’y a que deux coupables, César et Pierre ; César qui tue, Pierre qui ment... Le prêtre est, ou peut être, convaincu et sincère. Doit-on le blâmer? Non. Doit-on le combattre? Oui.)
2. "Nền văn minh, ánh sáng này, có thể bị tắt đị bởi hai cách bị chìm đắm; hai sự xâm lăng nguy hiểm đối với nền văn minh, sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các linh mục Giatô. Sự xâm lăng của các linh mục đe dọa con chúng ta, tương lai." (Le civilisstion, cette lumière, peut être éteinte par deux modes de submersion ; deux invasions lui sont dangereuses, l’invasion des soldats et l’invasion des prêtres. L’une menace notre mère, la patrie ; l’autre menace nos enfants, l’avenir).

Không phải là bây giờ hay gần đây con người mới ý thức được những sự dối trá của giáo đoàn đặc quyền Giatô và ý thức được sự cần thiết của tự do tư tưởng, song song với sự tiến bộ của văn minh nhân loại, mà trong suốt bao nhiêu thế kỷ, cái khát vọng tự do này của con người đã phát lộ khắp nơi trên thế giới. Tìm hiều về những nhân vật nổi danh trên thế giới như: Asimov, Beethoven, Berthelot, Charles Bradlaugh, Brahms, Einstein, Anatole France, Jules Ferry, Sigmund Freud, Galileo, Victor Hugo, Thomas Huxley, Robert Ingersoll, Thomas Jefferson, Lafayette, Mozart, Lincoln, Nietzche, Thomas Paine, Bertrand Russel, Sir Walter Scott, Mark Twain, Voltaire, H.G.Wells v.v... chúng ta sẽ thấy họ đều là những nhà tự do tư   tưởng (freethinkers) và cùng chung một hướng đi: tranh đấu cho tự do tư tưởng của con người và chống đối những huyền thoại dối trá phản tiến hóa của Giáo hội Giatô mà biểu tượng là Vatican. Cho nên, chụp mũ những người viết về sự thực của Giatô Giáo hay Vatican là thân Cộng, là tay sai của Cộng Sản, là dùng sách lược chống Giatô của Cộng sản, là chia rẽ tôn giáo để giảm tiềm năng chống Cộng v.v... là luận điệu của những người không chịu tìm hiểu, không đọc sách, không đọc lịch sử khách quan của Giáo hội Công giáo cũng như lịch sử thế giới, mang Cộng sản ra làm cái bung xung để khai thác lòng thù hận của những người đối nghịch với Cộng sản, bẻ quẹo vấn đề, không đủ khả năng thảo luận, không đủ can đảm để nhận những sự thực lịch sử, và thiếu tính lương thiện và sĩ khí của những người trí thức.

* * *

BÌNH LUẬN

Sau đây, tôi xin sang phần bình luận về vài điểm trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của GH John Paul II. Thật tình thì tôi chẳng muốn đi vào tín ngưỡng của bất cứ ai, vì tín ngưỡng là quyền tự do của con người, kể cả niềm tin thuộc loại mê tín dị đoan. Nhưng Giáo Hoàng, với cương vị của lãnh tụ tối cao một tôn giáo lớn mà lại dựa vào niềm tin của mình để phê bình sai lầm về một tôn giáo khác hay về Giáo Chủ của một tôn giáo khác là một điều khó có thể chấp nhận. Do đó sau đây tôi sẽ luận về lời phê bình Đức Phật của John Paul II: "Đức Phật đúng khi Ngài không thấy sự cứu rỗi trong việc tạo dựng, nhưng Ngài đã lầm khi, vì lý do đó mà Ngài phủ nhận sự tạo dựng có một giá trị nào cho nhân loại."

Điểm then chốt ở đây là thuyết "tạo dựng" trong Giatô Giáo, một thuyết mà Phật giáo chưa bao giờ để ý tới. Hơn nữa, quan niệm về "thế giới thành tựu" trong Kinh Hoa Nghiêm khác hẳn với thuyết tạo dựng của Giatô. Thật vậy, trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm "Thế Giới Thành Tựu", Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới như  Nhân duyên khởi, hình trạng v.v... không có chỗ nào nói về việc tạo dựng thế giới do một siêu nhân. Đặc biệt là Phật giáo quan niệm có hằng hà sa số thế giới có hình trạng khác nhau như trong đoạn kinh văn sau đây:

"Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát bảo đại chúng rằng: Chư  Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn hoặc như nước xoáy.. hoặc hình như hoa... có vi trần số hình sai khác như vậy", khác hẳn Giatô Giáo quan niệm thế giới chúng ta đang sống là thế giới duy nhất do Thần Giatô tạo ra, và trái đất là trung tâm của thế giới này, mặt trời và các hành tinh khác đều do các thiên thần xoay vần xung quanh trái đất. Quan niệm Giatô này, dựa trên Thánh Kinh được coi như là những lời của Thần Giatô nên không thể sai lầm, đã đưa Giordano Bruno lên dàn hỏa thiêu sống, và biệt giam Galileo tại gia nhiều năm cho đến khi chết, chỉ vì những khoa học gia này, dựa vào thực nghiệm, đưa ra thuyết trái đất và các hành tinh xoay xung quanh mặt trời, và ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có nhiều thế giới khác nữa.

Chúng ta cũng không nên quên là phải mất 359 năm, tới năm 1992, tòa Thánh Vatican mới công nhận là sai lầm về vụ xử Galileo. Cho nên, người ta đã đặt câu hỏi: nếu Thánh Kinh đã có những điều sai lầm thì có gì bảo đảm là thuyết tạo dựng trong Thánh Kinh không sai lầm? Và nếu phải mất hơn 3 thế kỷ rưỡi mới công khai nhận lầm về một sự   thật hiển nhiên, thì làm sao bây giờ họ có thể nhận ra được những tội ác cũng rất hiển nhiên của họ trong gần 100 năm vừa qua trên các dân tộc Á-Phi-Mỹ La Tinh?

Chúng ta biết rằng thuyết tạo dựng của Giatô Giáo dẫn đến quan niệm Adam và Eve là tổ tông của loài người, rồi vì cưỡng lời Thần ăn đại một trái táo nên Adam sa ngã và kết quả là đời đời kiếp kiếp con cháu về sau phải bị đày ải với tất cả những khổ đau ở trên đời vì mang tội tổ tông, rồi đến Thần Giatô sai người con duy nhất của ngài xuống trần để chuộc tội tổ tông cho thế gian, và con người muốn giữ  một chỗ trên Thiên Đàng sau khi chết chỉ cần đặt hết lòng tin vào Thần Giatô thì sẽ được cứu rỗi.

Và sau đây là vài điểm trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng liên hệ tới việc "tạo dựng" mà tôi muốn phân tích, hoàn toàn dựa vào những lý luận thông thường mà tôi cho rằng bất cứ   người nào có một trình độ học vấn tối thiểu cũng có thể hiểu được:

1.) "Khi đức KiTô nói về tình yêu mà Chúa Cha đã ban cho nhân loại, ngài muốn làm vang vọng lời xác quyết đầu tiên trong sách Sáng Thế Kỷ nói về việc tạo dựng "Chúa thấy nó tuyệt hảo – Ngài thấy nó rất tốt đẹp, Gen: 1:12-31" (Trang 77). Câu trên nói về việc tạo dựng mà Thần Giatô cho là "tuyệt hảo", "rất tốt đẹp" và tình yêu Thần đã ban cho nhân loại.

Chúng ta hãy đi thẳng vào chương Sáng Thế Kỷ (Genesis) trong Cựu Ước trong "The New King James Version":

1. Thoạt kỳ thủy Thần Giatô tạo dựng nên trời đất.

2. Trái đất thì không có hình dạng và trống không; và bóng tối ở trên mặt vũng sâu. Và Thần thức lơ lửng trên mặt các vùng nước.

3. Và Thần nói: “Hãy có ánh sáng”, và ánh sáng có liền.

4. Thần trông thấy ánh sáng và thấy nó tốt đẹp; và Thần chia ánh sáng ra khỏi bóng tối.

5. Thần gọi ánh sáng là Ngày, và bóng tối là Đêm. Đó là ngày thứ  nhất với buổi chiều và buổi sáng.

(1. In the beginning God created the heavens and earth. 2. The earth was without form, and void; and darkness was on the face of the deep. And the Spirit of God was hovering the face of the waters. 3. The God said, “Let there be light”; and there was light. 4. And God saw the light, that it was good; and God divided the light from the darkness. 5. God called the light Day, and the darkness He called Night. So the evening and the morning were the first day.)

Trái đất không có hình dạng và trống không thì nước được giữ ở đâu mà Thần thức lơ lửng trên các vùng nước. Khi đó chỉ có mình Thần vậy thì ai ở đó mà nghe “Thần nói” để mà viết lại trong Thánh Kinh là “Và Thần nói:” như vậy? Ánh sáng là các sóng điện từ, có màu sắc khác nhau là do tần số dao động khác nhau, và bóng tối là không có ánh sáng chứ làm sao có thể chia ánh sáng ra thành sáng và tối được. Một trẻ em tiểu học ngày nay cũng hiểu rằng có ngày có đêm là do sự chuyển vận của trái đất xung quanh mặt trời.“Ngày thứ nhất” chưa tạo ra mặt trời thì lấy đâu ra ngày và đêm?

Bỏ qua những đoạn nói về lịch sử  tạo dựng mà nhiều khoa học gia ngày nay đã chứng minh rằng thứ tự tạo dựng các sinh vật hoàn toàn trái ngược với thực tế, ta hãy đi vào chuyện của Adam và Eve:

Sau khi bất tuân thượng lệnh ăn đại một trái trên “cây hiểu biết” (để khỏi bị vĩnh viễn ngu đần) Adam và Eve bị đày ra khỏi vườn Eden và sinh được 2 người con trai là Cain và Abel. Cain chuyên về trồng trọt và Abel chuyên về chăn nuôi. Cain mang phần hoa mầu dâng lên Thần nhưng Thần chê, ngược lại Thần tán thưởng phần thịt mỡ béo bổ mà Abel dâng lên Thần. Cain bực mình vì bị đối xử không công bằng, rủ em vào rừng rồi giết tốt người em ruột. Sau đó Cain ngủ với vợ và sinh ra Enoch. Rồi Adam và Eve lại sanh ra một đứa con trai là Seth, quà của Thần tặng để thay thế Abel. Con của Seth là Enosh...” (Gen. 3: -4:)

Đọc Kinh Thánh tôi vẫn nghĩ không ra ai là vợ của Cain và Seth? Lúc bấy giờ trên thế gian chỉ có người đàn bà duy nhất là Eve. Chẳng có lẻ Cain và Seth ngủ với mẹ? Cũng có thể lắm vì trong Cựu Ước còn có chuyện 2 người con gái của Lot phục rượu cho cha say và ngủ với cha và sau đó sinh con (Gen. 19:30 -38).

Tạo dựng ra một thế giới gồm những sinh vật cắn xé nhau để ăn thịt lẫn nhau, những cảnh cá lớn nuốt cá bé, những con rắn rết, những vi trùng và siêu vi trùng có tác dụng làm cả ngàn người chết trong những trận dịch tả, dịch hạch, v.v... , và riêng về loài người thì thế hệ đầu tiên đã không tuân lời (Adam), thế hệ thứ hai là sát nhân (Cain) và loạn luân (Cain, Seth) mà Thần Giatô thấy nó “tuyệt hảo” và “rất tốt đẹp” thì quả thật quan niệm về tốt đẹp và tuyệt hảo của Giatô Giáo phải khác thường. Nhưng phiền một cái là hơn 4 phần 5 dân số trên thế giới, nghĩa là vào khoảng 4 tỷ rưỡi người, lại nhất định không cho là việc tạo dựng trên là tuyệt hảo, là tốt đẹp và vẫn bướng bỉnh không chịu tin là Thần Giatô đã tạo dựng ra thế giới này, dù bị tra tấn, thiêu sống hay giết hại như lịch sử 8 cuộc Thánh Chiến và 400 năm xử dị giáo của Giatô đã chứng minh. Vậy mà John Paul II lại phê bình Đức Phật là sai lầm vì phủ nhận giá trị của sự “tạo dựng”. Đức Phật đâu có để ý đến thuyết “tạo dựng”, cho nên làm gì có chuyện công nhận hay phủ nhận giá trị của thuyết này?

2.) “Thế gian mà con người tìm thấy khi mặc lấy xác phàm, xứng đáng với sự trừng phạt, vì tội lỗi đã thống trị toàn bộ lịch sử, bắt nguồn từ sự sa ngã của nguyên tổ” (trang 78).

Đây là nói về tội tổ tông: chỉ vì một trái táo mà nhân loại bị đày ải với tất cả những khổ đau ở trên đời. Thế mới biết tình yêu của Chúa Cha đã ban cho nhân loại là như thế nào. Luận về tổ tông thì có vài vấn đề cần được sáng tỏ: Thứ nhất, theo di truyền học thì các giống người khác nhau là do di truyền. Không ai có thể thấy một cặp vợ chồng người da trắng lại sinh ra một đứa con đen kịt. Dù ông chồng xấu số có ông hàng xóm đen kịt đi chăng nữa thì đứa con sinh ra cũng lờ lờ chứ không thể đen kịt. Vậy thì, Adam và Eve là tổ tông của giống người nào? Da trắng? Da đen? Da vàng? Da đỏ v.v... ? Nếu có là tổ tông thì chỉ có thể là tổ tông của một giống người chứ không thể là tổ tông của cả loài người.

Thứ nhì, chúng ta đã biết Giêsu là người Do Thái, và trong Tân Ước (Luke 3: 23-38) tất cả những thế hệ tiếp nối Adam cho tới Giêsu toàn là tên Do Thái, không hề thấy một tên Congo hay tên Việt nào, vậy thì nếu Adam là tổ tông thì chỉ có thể là tổ tông của dân Do Thái, hay cùng lắm là tổ tông của các sắc dân quanh vùng Do Thái chứ không thể là tổ tông của cả nhân loại. Đã không phải là tổ tông của loài người thì làm gì có tội tổ tông. Không có tội tổ tông thì cần gì ai chuộc tội hay cứu tội? Vai trò của Giêsu trở thành thừa thãi và khôi hài. Nói tóm lại, điều chắc là Adam không thể là tổ tông của người Việt, vậy thì có lý do gì người Việt phải chịu tội của một người mà không phải là tổ tông của nòi giống Việt. Cho nên, chuyện tổ tông, nếu có, của những dân da trắng mũi lõ tóc quăn thì cứ để họ lo với nhau, người Việt chẳng nên dính dáng vào những huyền hoặc hoang đường mà nên quay về với Tổ Hùng Vương, vừa đẹp, vừa hợp dân tộc tính, hợp tình, hợp cảnh, hợp lý hợp với đại khối dân tộc, khỏi phải sống trong khu riêng (ghetto) như người ngoại quốc trên đất nước của mình.

3.) “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nổi ban con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.” (trang 76)

Chúng ta đã biết Thần Giatô thương yêu thế gian như thế nào qua việc đầy ải loài người, nhất là khi Ngài trừng phạt đàn bà phải chịu sự đau đẻ và làm nô lệ cho đàn ông (Khoa học và sự văn minh tiến bộ của loài người ngày nay đã phủ quyết lời nguyền rủa (curse) của Thần Giatô đối với phái nữ: khi sinh đẻ có thuốc chích cho khỏi đau và đàn bà thường lại ở địa vị “nhất vợ nhì Trời”, Trời ở đây cần hiểu là theo nghĩa rộng), và tạo nên lụt cả để giết vô số chúng sinh, vậy tôi xin miễn bàn thêm.

Nhưng không biết John Paul II có đọc Thánh Kinh hay không chứ thực tình tôi không hiểu ngài nói con duy nhất là con nào, vì trong Thánh Kinh có tới hai Giêsu khác hẳn nhau, một Giêsu trong Matthew và một Giêsu trong Luke. Matthew và Luke đều nói Giêsu là giòng dõi Vua David (thực sự không cần thiết vì Giêsu là con của Thánh Ma (Holy Ghost) thì đâu cần phải kể giòng họ cao sang làm chi). Tuy Matthew kể ngược 42 thế hệ tới Abraham và Luke kể ngược 76 thế hệ tới tận Thần Giatô, người tạo ra Adam, nhưng chúng ta chỉ cần đi ngược lại tới Vua David tới Giêsu như sau:

David Solomon, Rehoboam, Abijah, Asa, Jehoshaphat, Jehoram, Uzziah, Jotham, Ahaz, Hezekiah, Manasseh, Amon, Josiah, Jeconiah, Shealtiel, Zerubbabel, Abiud, Eliakim, Azor, Zadok, Akim, Eliud, Eleazar, Matthan, Jacob, Joseph, Giêsu”. Tất cả là 27 thế hệ. Nhưng theo Luke 3:23-38 thì các thế hệ tiếp nối từ Vua David tới Giêsu như sau:

David, Nathan, Matthata, Menna, Melea, Eliakim, Jonam, Joseph, Judah, Simeon, Levi, Matthat, Jorim, Eliezer, Joshua, Er, Elmadam, Cosam, Addi, Melki, Neri, Shealtiel, Zerubbabel, Rhesa, Joanan, Joda, Josech, Semein, Matthathias, Maath, Naggai, Esli, Nahum, Amos, Matthathias, Joses, Jannai, Melki, Leci, Matthat, Eli, Joseph, Giêsu”. Tất cả là 42 thế hệ.

Trong 2 danh sách trên nói về nguồn gốc gia phả Giêsu chỉ có vài tên giống nhau còn hoàn toàn khác nhau, vậy thì khi John Paul II nói tới đứa con duy nhất của Thần Giatô sai xuống trần thì ngài muốn nói đứa con nào? Con trong Matthew hay con trong Luke. Và, vấn đề được đặt ra là, Matthew đúng hay là Luke đúng, hay là cả Matthew và Luke đều sai, hay là cả Matthew và Luke đều đúng? Cái gì bảo đảm là ai đúng ai sai và nếu vấn đề này sai thì có gì bảo đảm là những chuyện khác trong Kinh Thánh không sai?

Trên đây tôi chỉ bình luận vài điểm trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Giáo Hoàng John Paul II liên hệ tới lời phê bình của ngài về Đức Phật. Thật ra, muốn phê bình cả cuốn sách trên chúng ta cần ít ra là một cuốn dày gấp ba cuốn đó, nhưng tôi nghĩ không có ai dại dột đi làm cái chuyện điên rồ tốn thời giờ vô ích này. Có một điều là, không hiểu Giáo Hoàng John Paul II viết cuốn sách trên để cho ai đọc, vì tôi không nghĩ giới tín đồ thông thường và ngay cả giới trí thức Giatô có thể hiểu đuợc những điều Giáo Hoàng viết trong cuốn sách đó, ngoài những điều Giáo Hoàng nhắc lại những tín lý Giatô. Nhưng đây lại không phải là chuyện hiểu mà chỉ là chuyện tin, tin mà không cần hiểu. Vì trong cuốn sách này, Giáo Hoàng đã tránh né không trả lời trực tiếp những câu hỏi của nhà báo Vittorio Messori như: “Nếu Thiên Chúa là tình yêu, tại sao lại có quá nhiều sự dữ trong thế giới”, “Tại sao Thiên Chúa lại dung túng đau khổ”, “Tại sao nhân loại cần được cứu rỗi”, v.v...

Mỗi câu trả lời là một khẳng định dựa trên một niềm tin, và như vậy bặt hết lý luận. Thí dụ như: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban con duy nhất của ngài, để những người tin vào người sẽ không bị luận phạt, được sống đời đời, ”“Thánh Phao Lồ ý thức thâm sâu rằng Chúa KiTô là căn nguyên, là tuyệt đối” và “Chúa Kitô là bí tích của Thiên Chúa vô hình”, “Giáo Hoàng là một bí nhiệm”, “Điều mặc khải này dứt khoát, con người chỉ còn có thể hoặc chấp nhận, hoặc chối bỏ”. Một khi đã khẳng định những điều không thể giải thích được thế nào cho suông sẻ là bí tích và bí nhiệm và dứt khoát thì vấn đề hiểu trở nên thừa thãi. Đó chính là “Phúc cho những kẻ nào không thấy (hiểu) mà tin”.

Ngoài những điều khẳng dịnh mà tín đồ phải tin, không cần hiểu, Giáo Hoàng còn nhắc tới, chỉ nhắc qua thôi, thần học và triết lý của các thánh Augustine, Aquina và các triết như Descartes, Kant, Hegel, Aristote, Plato, Pascal, Husserl, Heidegger v.v... (lẽ dĩ nhiên là không nhắc tới thánh Francis, người chủ trương phục vụ dân nghèo, hay Voltaire, Diderot, Nietzche, Khổng tử, Lão Tử v.v... ) nhưng không hiểu có bao nhiêu linh mục và tín đồ nắm vững được các môn thần học và triết lý của các nhân vật kể trên.

Thật vậy, Cha James Kavanaugh, trong cuốn A Modern Priest Looks at His Outdated Church (Một linh mục hiện đại nhận xét về Giáo hội lỗi thời) có kể về sự huấn luyện các linh mục như sau:

Trong học trình của tôi, rất hiếm khi bàn đến những nghi vấn hay quan niệm mà thường là hoặc trắng hoặc đen. Thí dụ như, trong môn triết học, chúng tôi học qua Berkeley, Hume, và Kant chỉ trong vòng 1 tuần lễ... Đó là một nền giáo dục không có sự đồng tình, một sự huấn luyện không có sự giúp đỡ. Tôi nghe những gì họ muốn tôi nghe, và nói những gì ban giám đốc mong muốn tôi nói như vậy. Người nào chống đối thì bị gạt ra ngoài. Chỉ có những người phục tùng luật lệ, hay những kẻ ngây thơ, tiêu cực mới tồn tại. Sáng kiến không được khuyến khích trừ phi đi theo đường lối đã được chấp nhận. “Tà đạo” là danh từ để chấm dứt mọi luận cứ, và “Giáo hội dạy rằng” là nghị trình nhỏ hẹp của mọi tranh luận. Tôi không được giáo dục mà được nặn thành. Tôi không được khuyến khích suy nghĩ mà chỉ được huấn luyện để chống đỡ. Người ta không muốn tôi suy tư  mà chỉ muốn tôi học thuộc lòng
 (My studies spoke seldom of doubts or opinions and most frequently of blacks and whites... In philosophy, for example, we could handle Berkeley, Hume, and Kant in a single week... It was an education without sympathy, a training without recourse. I heard what I was supposed to hear, and said what the administration expected me to say. Rebels were weeded out. Only the strong and legal-minded, or the naive and passive, could last. Creativity was discouraged unless it pursued the accepted patterns wich cautious minds approved. “Heresy” was a word which ended every argument, and “the Church teaches” was the narrow outline of every debate. I was not educated, I was formed. I was not encouraged to think, but trained to defend. I was not asked to reflect, but to memorize.)

Cho nên, đã có một ký giả phê bình như sau:

Cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng của Giáo Hoàng John Paul II chắc chắn sẽ là một cuốn sách bán chạy nhất (best seller) vì tín đồ sẽ được khuyến khích để mua. Có thể mỗi nhà tín đồ Giatô đều có cuốn sách này. Nhưng cũng như cuốn Thánh Kinh mà nhà nào cũng có, nó sẽ chỉ được dùng như là một vật trang trí để hứng bụi (dust collector) vì rằng không có ai đọc nó cả.”

Về cuốn Thánh Kinh thì Ira Cardiff đã viết như sau : “Hầu như là không có ai thực sự đọc cuốn Thánh Kinh. Họ chắc chắn là có một cuốn Thánh Kinh, có lẽ là cuốn sách duy nhất mà họ có, nhưng họ không bao giờ đọc nó – đừng nói là đọc cả cuốn. Một người có nhiệt tâm tôn giáo sẽ đọc đầy đủ các lời cầu nguyện trong Thánh Kinh, không đọc với óc phê phán, chỉ hiểu theo tất cả những gì mà các cha xứ muốn họ hiểu. Nếu một người thông minh đọc cả cuốn Thánh Kinh với một óc phê phán thì chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi.” (Virtually no one really reads the Bible. The above mentioned individual doubtless has a Bible, perhaps the only book he owns, but he never reads  it – much less reads  all of it. A devout religious individual will read his Bible prayer-fully, not critically, and it will mean whatever he has heard the cleric say it shoud mean. If an intelligent man should critically read it all, he would certainly reject it.)

Và Robert Ingersoll, một nhà hùng biện Mỹ nổi danh ở cuối thế kỷ 19, sau khi đọc hết và đọc kỹ cuốn Thánh Kinh, đã đưa ra một lời thách thức: ông ta sẽ tặng $1,000 (năm 1890) cho bất cứ vị linh mục nào dám lên bục giảng ở nhà thờ để giảng những đoạn trong Thánh Kinh mà chính Ingersoll chọn lựa. Trong nhiều năm, không có một người nào dám nhận lời. Có lẽ chúng ta đã đoán ra trong Thánh Kinh có những đoạn như thế nào.

Tuy nhiên, Giáo Hoàng John Paul II đã trích dẫn những đoạn chọn lọc trong Thánh Kinh, những đoạn đòi hỏi một niềm tin không cần suy luận. Lẽ dĩ nhiên, điều này cần thiết cho một số người yếu đuối, không thể tự mình bước đi những bước vững vàng trên mặt đất, không thể tự mình suy nghĩ, chỉ còn có thể trông ngóng vào những quyền lực siêu nhiên cũng như những quyền lực giả tạo trên thế gian.

Con người thường sống trong ảo tưởng, các ảo tưởng cứ chồng chất lên nhau bất tận. Nguồn gốc của mọi ảo tưởng chính là vô minh, cho giả làm thật. Bị bao phủ bởi bức màn vô minh nhưng con người lại xây dựng hi vọng trên ảo tưởng là có thể bước qua ngưỡng cửa hi vọng bằng một niềm tin không suy luận. Làm người ai cũng có hi vọng, nhưng nếu đã đựơc đào luyện và đang sống trong bóng tối dầy đặc của vô minh thì trước hết con người cần phải bước qua ngưỡng cửa vô minh trước khi tiến tới ngưỡng cửa hi vọng.

Chưa bước qua được ngưỡng cửa vô hình thì bước qua ngưỡng cửa hy vọng chỉ là chuyện “mò trăng đáy nước” hay “hái hoa trong kính”. Chân lý giản dị như vậy nhưng bởi căn trí bất đồng cho nên không phải ai cũng hiểu được điều này. Do đó có người quả là đáng thương hơn là đáng trách.     

TỪ TRONG NHÀ, RA NGOÀI CHỢ

Phan Tấn Hùng

I. MỘT GIA ĐÌNH TAN NÁT

Từ thế hệ của ông nội của ông nội tôi, họ tôi chia thành ba nhánh :

- Người anh cả của ông tôi theo đạo tiên, chuyên tu luyện bùa phép. Nhánh này không còn người thừa kế.

- Người anh thứ hai, bỏ hẳn đạo nhà để theo Thánh giáo (Catô giáo). Nhánh còn lại khá đông.

- Ông tôi là em út, tiếp tục giữ đạo gia tiên, và ba tôi là người thừa kế chịu trách nhiệm gìn giữ từ đường kể từ khi ông nội tôi già yếu.

Hằng năm ba tôi ra thư thông báo mời tất cả các chi nhánh khác về tham dự lễ giỗ ông bà tại nhà thờ họ. Ba tôi đích thân đi mời các trưởng chi. Anh tôi và tôi, từ khi còn niên thiếu đã phụ ba tôi chia nhau đi mời các gia đình Catô giáo. Mỗi năm mỗi mời, nhưng không thấy ai về cả. Tuy không dám nói ra nhưng bực mình lắm và tôi đã thầm trách rằng: "Theo đạo nào thì theo nhưng cũng phải biết quý trọng ông bà mình chứ. Tôn giáo nào lại dạy bỏ ông bỏ bà bao giờ. Nếu có thứ tôn giáo như vậy thì chắc chắn đây không phải là tôn giáo tốt, không nên gần gũi với nó.v.v...".

Mãi đến mấy năm cuối thập niên 60 mới thấy có một vị lão trượng của nhánh này về, nhưng chỉ để chào hỏi chứ không vào đảnh lễ trước bàn thờ tổ tiên. Lúc đầu chỉ một vị, năm sau có thêm vài vị nữa. Tôi cảm thấy có phần được khích lệ và vui thầm với kết quả khiêm tốn đó. Nhưng lại bị thất vọng ngay khi được nghe một lão trượng nói rằng : "Thật ra chúng tôi đâu có quên ông bà, đâu có muốn từ bỏ bà con, nhưng chúng tôi không được phép thờ cúng ông bà tổ tiên. Mấy năm gần đây, từ sau Công Đồng Vatican II, sự cấm đoán có phần nhẹ bớt, nên chúng tôi về với bà con".

Tại sao những người bà con của tôi chấp nhận nổi những cấm đoán như vậy? Và bằng cách nào Giáo Quyền Catô giáo đã làm được điều này, nếu không phải là đã mê hoặc hay ngu muội bà con tôi? Lòng tín ngưỡng của bà con tôi nhiệt thành đến độ mà tôi không thể hiểu nổi. Chẳng hạn như, làm sao họ có thể tin được chuyện Đức Maria đã di cư vào Nam hồi năm 1954. Và làm sao Giáo Quyền Catô giáo có thể dám nghĩ và dám bịa ra được loại tin như vậy nhỉ? (Chính thống giáo - Orthodoxe - và Phản Thệ giáo - Protestant - không tin tính đồng trinh mãi của Maria vì họ tin rằng Maria có những người con khác với Joseph).

Tại sao những người bà con của tôi phải đợi đến năm 1974, sau quyết  định chính thức của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho phép người Catô hữu lập bàn thờ tổ tiên và lễ lạy ông bà, trong khi người Catô giáo Trung Hoa đã luôn luôn giữ việc thờ cúng tổ tiên và đã được phép làm việc đó từ năm 1938, mới dám biểu lộ tín ngưỡng của mình đối với ông bà tổ tiên? Tại sao người ta nhân danh một tôn giáo, nhân danh một tín ngưỡng, để cấm cản tín ngưỡng của người Việt đối với ông bà tổ tiên? Tự do tín ngưỡng là chỗ nào?

Biết bao nhiêu câu hỏi tại sao đã nói đến với tôi từ thời niên thiếu, và vì thế tôi đã sớm bắt đầu tìm hiểu về Catô giáo, trước nhất là để hiểu những người bà con của tôi, với ước mong sẽ có ngày đưa họ trở về với giòng họ và với dân tộc. Thật vậy, nếu không có gì can hệ đến giòng họ và với dân tộc thì chắc chắn tôi đã không bỏ mất thì giờ tìm hiểu Catô giáo làm gì. Từ đó tôi tìm hiểu thêm các tôn giáo khác bằng cách so sánh, mỗi ngày thêm một chút. Việc nghiên cứu trở nên thật sự bổ ích cho chính bản thân tôi, và chỉ tiếc rằng phải chi những người bà con tôi được giáo dục để có được một trình độ suy nghĩ tối thiểu thì giòng họ tôi, và dân tộc tôi nữa, đã không bị phân chia.

Chiêu sách "chia để trị" nào có mới mẻ gì. Mọi thế lực ngoại bang, và mọi chính quyền phục vụ cho các thế lực ngoại bang đều làm như vậy. Người ta dựng nên trong nội bộ mọi dân tộc đủ loại "Bức Tường" : bức tường tôn giáo, bức tường giai cấp, bức tường sắc tộc, bức tường địa phương... Người Ái Nhĩ Lan giết hại nhau vì một bên Catô giáo và một bên theo Phản Thệ giáo (Protestant) ; ở Ru-ăng-đa, hai sắc dân Tutsi và Utu vốn cùng một văn hóa, cùng một tiếng nói, nay đã trở thành kẻ thù không đội trời chung; ở Ca-mơ-run, ai không có "Giấy chứng nhận đã rửa tội" (carte baptême) phải đóng một số tiền mới được cảnh binh cho phép vào thành phố. Tưởng Giới Thạch đã phải cải đạo theo Phản Thệ giáo để được làm rễ trong gia đình họ Tống; và chính quyền Tưởng, được mệnh danh là "chính quyền quốc gia", đã ban hành sắc lịnh năm 1937 cấm nghiên cứu Dịch lý, cấm thực hành môn châm cứu và môn phong thủy, vốn là di sản truyền thống của văn minh Trung Hoa. Rồi nhìn lại những gì đã xảy ra ở Việt Nam, dưới một bên là "chính quyền quốc gia" chống cộng (lý lẽ hiện hữu của chính quyền này) và một bên là "chính quyền cộng sản" chống "đế quốc tư bản chủ nghĩa" dân tộc Việt Nam bị kéo về hai phía, giết nhau tận tình. Để làm gì? Để xây dựng cái gì cho dân tộc Việt Nam? Câu hỏi này được đặt ra cho cả hai bên, nhưng có lẽ câu trả lời chỉ tìm thấy ở nơi khác.

II. QUANH VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

Có nhiều điều làm tôi ngưỡng mộ Giêsu. Hằng mấy trăm năm trước khi Giêsu ra đời, người Do Thái chờ đợi một "Đấng được ban xuống" để giải cứu dân tộc này. Họ đã nghĩ tưởng rằng "Đấng cứu thế" của họ phải là một sức mạnh không gì chống nổi: vung tay một cái là Đế Quốc Rô Ma tan tành ; búng tay một cái là Do Thái thành giàu mạnh; v.v... Giêsu không là và đã không làm như họ mơ đợi, ngược lại Giêsu kêu gọi hãy từ bỏ thế giới mộng tưởng đó đi, thế giới đầy những giáo điều và lũng đoạn của Giáo Quyền Do Thái giáo. Chẳng những thế, Giêsu còn chống lại khái niệm thần quyền cực đoan của tôn giáo này. Theo Cựu Ước, Abraham đã sẵn sàng giết chết Issac, người con duy nhất của ông để thỏa mãn yêu cầu của Daquê, một Thiên Chúa hung dữ. Với Giêsu, Thiên Chúa chẳng những đã được thể hiện qua hình ảnh một người Cha nhân từ mà còn đã hiện hóa thành người, nơi con người và là người. Lời nói và việc làm Giêsu bị lên án, ngay cả Thánh Pie, đệ tử trung thành nhất của ngài, cũng không tin chính ngài là “đấng cứu thế”, và người ta đã quyết định đóng đinh ngài trên thập giá.

Muôn đời con người đi tìm hay chờ đợi “sự thật”, nhưng khi “sự thật” hiện hữu trước mặt thì không thừa nhận, chỉ vì “sự thật” không giống ước mơ của con người, trần truồng quá, bình dị quá. Hãy từ bỏ thế giới ảo tưởng được tiêm nhiễm trong mỗi người, nó đầy tiên kiến, qui định, giáo điều, đầy lo sợ, phiền não... để trở về sống với thế giới của thực tại. Mà thực tại là vô thường, là vần chuyển mãi, là mãi mãi trở thành, và mọi sự mọi vật đều liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Khi đã trở về với thực tại, mỗi người sẽ thấy rõ đâu là con đường của chính mình để tiến đạt dần đến trạng thái tự do và thanh tịnh hoàn toàn (tự tại). Trạng thái này Đức Phật gọi là niết bàn, nó là thành quả của quá trình quán chiếu và thẩm thấu thực tại, chứ không phải là cứu cánh của Phật pháp (hay phương pháp giúp giải trừ mộng tưởng).

Giêsu đã chống sự toàn trị của Đế Quốc Rôma và cũng đã dạy “Đừng gọi ai là cha vì các ngươi chỉ có một Cha duy nhất trên trời, đừng tôn ai làm thầy vì các ngươi chỉ có một người Thầy là ta”. Ôi, còn biết bao nhiêu điều Giêsu đã làm, đã dạy, không được những người nhân danh ông, nhân danh Giáo Hội của ông, tôn trọng kế thừa!

Vấn đề tôn giáo, dù muốn hay không đây cũng là vấn đề lớn của xã hội, và việc giáo dục người dân là trách nhiệm của nhà cầm quyền. Ước gì môn tôn giáo học được giảng dạy trong chương trình trung học, được nghiên cứu và thảo bàn rộng rãi ở cấp đại học, kèm với việc chuyển dịch các tài liệu Âu Mỹ sang tiếng Việt, để cho tuổi trẻ Việt Nam có dịp mở mang kiến thức, có dịp làm quen với các tôn giáo, kể cả các tôn giáo chưa có mặt tại Việt Nam. Nhưng vì khi kiến thức của người dân được mở mang thì ngôi vị của tầng lớp cầm quyền sẽ bị đe dọa, nên có lẽ ước mơ này chỉ có thể được thực hiện cách tốt đẹp khi nào tại Việt Nam có một Nhà Nước thật sự hiểu và biết coi trọng hai chữ “dân tộc” mà thôi.

Phong trào đòi các quyền tự do, trong đó có tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo, nổ ra ở Âu Châu từ Thời Đại Ánh Sáng (thế kỷ thứ 16), bắt nguồn từ phản ứng của người Âu Châu, khi đạt đến một trình độ tri thức nào đó, chống lại sự độc tôn tôn giáo, độc quyền tín ngưỡng và tư tưởng, áp đặt bởi Giáo Hội Catô giáo La Mã (trong cuộc đấu tranh này phải kể đến sự đóng góp to lớn của các nhóm di dân người Do Thái, họ bị thảm sát không biết bao nhiêu lần nhưng vẫn cương quyết giữ lấy tôn giáo gốc của mình). Chính nhờ thế mà Âu Châu mới được như ngày hôm nay. Song song, cấu trúc Nhà Nước - Quốc Gia (Etat-Nation) được thành lập, và tự do tín ngưỡng của người dân, nhất là khi người đó chưa đến tuổi trưởng thành để có thể tự lựa chọn, được bảo vệ, cùng với việc bảo vệ sự thống nhất quốc gia và sự sống yên ổn của người dân.

Luật pháp của các nước tiên tiến cho ta nhiều thí dụ. Tại Pháp, chẳng hạn, trong Bộ Nội Vụ có một cơ quan lo về các vấn đề tôn giáo; cấm nhà thờ rung chuông trước 10 giờ sáng, kể cả ngày nghỉ và ngày chủ nhật; cấm mọi tập tục tôn giáo làm cản trở việc hôn nhân dị giáo; Jules Ferry hồi đầu thế kỷ này đã đuổi các tu sĩ ra khỏi trường...; và mới đây (1995) Bộ Trưởng Nội Vụ mong rằng tại Pháp có một tổ chức Hồi giáo vững chắc trong khuôn khổ của luật pháp quốc gia và được luật pháp này bảo vệ, chứ không để phụ thuộc vào bất kỳ một uy quyền nào nằm ngoài quốc gia.

Có sự lẫn lộn giữa các chức vụ chính thức của Giáo Hoàng:

1/ Evêque de Rome - Giám Mục giáo phận Rôma; 2/ Souverain Pontife de l’Eglise Catholique de Rome - Giáo Hoàng của Giáo hội Catô giáo Rôma; và 3/ Chef d’ Etat du Vatican - Nguyên thủ Quốc gia Vatican, nhưng quan hệ giữa một Nguyên thủ Quốc gia với Giáo Hoàng là quan hệ trên căn bản giữa  quốc gia với quốc gia. Và khi một người công dân Việt Nam chẳng hạn nhận lãnh một tước vị (cardinal, hồng y, monseigneur, mông xây nhơ), một chức vụ (giám mục địa phận) và một sứ mạng (bành trướng nước Chúa tại Việt Nam chẳng hạn), thì quốc gia Việt Nam phải thể theo công pháp quốc tế mà hành xử: toàn quyền xét quyết, đồng ý hay không đồng ý, sự bổ nhiệm đó, và trong thời hạn nào; nhưng khi đồng ý thì phải đối xử với đương sự như công dân của Vaitican, và cấp cho người đó một giấy chứng minh thường trú (carte de résidence). Tại vì người “Việt Nam” đó bây giờ đã là một công chức ngoại quốc chứ không còn là một công dân Việt Nam nữa.

III. SÁCH CỦA GIOAN PHAO LỒ II

Không phải những câu trả lời của Giáo Hoàng, trong quyển Entrez Dans L’ Espérance (Hãy vào với hy vọng), là quan trọng, vì ai có nghiên cứu về Giáo Hoàng Quyền (La Papauté) đều có thể đoán trước được hướng tư tưởng và việc phải làm của ông, nhưng chính những câu hỏi được nêu ra trong sách mới là đề tài đáng được nghĩ bàn và thảo luận rộng rãi, vì trong đó một số câu hỏi được đặt ra cho mọi người, mọi tôn giáo (cả “duy vật giáo”), chứ không phải chỉ dành riêng cho Giáo Hoàng và Giáo Hội Catô giáo. Câu hỏi “Phải chăng Phật giáo là giải pháp thay thế cho Thiên Chúa giáo ?” (trg. 139) đâu phải chỉ nêu ra cho Giáo Hoàng; đâu phải tự nhiên mà nó được nêu ra; và câu hỏi, tự nó, đã thể hiện như một thông điệp của hy vọng.

Thật ra Giáo Hoàng đâu có trả lời câu hỏi này, ông chỉ lên lời cảnh giác giáo hữu của ông mà thôi, với những lời phán xét chủ quan quen thuộc, đã từng thấy trong các tài liệu của Giáo Hội hay trong những phúc trình của các nhà truyền giáo hồi thế kỷ 17 hoặc 18, như nào là: Phật giáo không phải là một tôn giáo, là vô thần, là xuất thế, là thấp kém (“suy tư của Đức Phật chỉ dừng lại chính là ở chỗ khoa thần bí Camêlô bắt đầu” - trg. 143), hoặc như Allah của Hồi Giáo (Allah không phải là Thượng Đế thật - trg. 153).

Mượn lời của Đức Giêsu Kitô “Các con đừng sợ”, tôi xin đệ lời: “Thưa Giáo Hoàng, thưa các Catô hữu, xin quý ngài đừng sợ; đừng sợ Phật giáo, đừng sợ Hồi giáo, đừng nên hạ thấp các tôn giáo khác; đó không phải là cách để tôn vinh tôn giáo của quý ngài”. Đâu phải vì Phật giáo hay vì Hồi giáo mà ngày nay Catô giáo phải gặp khủng hoảng Đức Tin và Giáo Hội của quý ngài đang gặp khủng hoảng quyền lực, và đâu phải các khủng hoảng này chỉ dành riêng cho Catô giáo và Giáo hội của quý ngài.

Mọi cơ cấu tổ chức trong xã hội con người đều phải dựa trên một cấu trúc tư tưởng (hay đức tin), và mọi tổ chức nếu không tự cải sửa cơ cấu và tư tưởng để theo kịp trình độ phát triển kiến thức của thời đại đều phải gặp khủng hoảng.

IV. GẶP GỠ ĐÔNG TÂY

Toàn bộ hệ thống tư tưởng của truyền thống Âu Tây đặt trên hai chữ “Sáng tạo” (création), và dĩ nhiên khái niệm “sáng tạo” phải đi đôi với khái niệm “đấng sáng tạo”, với một thời điểm “sáng thế” và một ngày “tận thế”. Nhưng với đà phát triển vùn vụt của kiến thức khoa học hiện nay, khái niệm “tiến trình” (processus) thay thế nhanh chóng khái niệm “sáng tạo”: Con người không còn được xem là tạo phẩm đã hoàn thành của Thiên chúa nữa, mà là một “tiến trình”, “tiến trình trở thành”, mãi mãi trở thành, không điểm khởi đầu, không ngày chấm dứt. “ Sự bùng nổ (big bang) cũng thế, là một bước trong “tiến trình trở thành” toàn diện và dài dẳng của vũ trụ. Vũ trụ cũng là một tiến trình. Và để đạt được trình độ kiến thức hiện nay, khoa học cũng phải trải qua một tiến trình.

Ở trình độ phát triển kiến thức này, Đức Tin nền tảng thứ hai của Thiên Chúa giáo (sau Đức Tin thứ nhất về sự sống lại của Giêsu Kitô) bị phủ nhận hay bị hoài nghi, và khoa học hiện đại bắt gặp nền tảng tư tưởng của truyền thống Á Đông, trong đó có tư tưởng của Phật giáo. Nhưng không phải vì thế mà các hệ tư tưởng Á Đông, nói chung, và Phật giáo nói riêng, không gặp phải khủng hoảng ở mặt tổ chức và quyền lực.

Mượn lời của Đức Giêsu Kitô một lần nữa, tôi xin thưa với quý vị Phật tử rằng: “Xin quý ngài đừng sợ; đừng sợ Catô giáo; và cũng đừng ngạc nhiên khi thấy Catô giáo Việt Nam trưng lên ngọn cờ quốc gia dân tộc, chống việc tây phương hóa Việt Nam”. Vì ngày nay tây phương hóa đồng nghĩa với khoa học hóa (dù khoa học hóa không hẳn là tây phương hóa) và đồng nghĩa với thế tục hóa, thuốc giải trừ mọi thứ đức tin không kiểm nghiệm được.

Nhân loại không thể dừng lại ở thời đại “hậu thế chiến 2”, thời đại mác-cạt tít (Mc Carthy, Mỹ): “Với bom nguyên tử chúng ta sẽ Thiên Chúa giáo hóa toàn thế giới”. Đạo học Đông Phương và khoa học Tây Phương đang tìm gặp nhau, như đang tìm phân nửa khác của chính mình. Cả hai đều thấy rõ mối quan hệ hỗ tương liên lập giữa mọi sự mọi vật (nhân duyên sinh Phật giáo), và mỗi bên đang nỗ lực tìm một tổng hợp đề cho nhân loại ngày mai.

Nếu người Âu Châu không từ bỏ thế giới của họ, không tự giải thoát khỏi những ràng buộc của thế giới Âu Châu thời trung cổ, thế giới bị ngự trị bởi những đức tin, tín điều, tiên kiến, qui định phải trái tốt xấu, thế giới xây nền trên hai chữ “sáng tạo”, ngắn gọn “thế giới sáng tạo”, thì Âu Châu đã không được như ngày nay, và kiến thức khoa học cũng không thể phát triển nhanh, để bước sang “thế giới tiến trình và liên lập” như hiện nay.

Thế giới sáng tạo” là thế giới cứng chết (chẳng hạn như: con người là tạo phẩm đã hoàn thành của Thiên Chúa). “Thế giới tiến trình” là thế giới sinh động và mãi mãi trở thành, tức là nó bao hàm chiều kích thời gian. “Tiến trình trở thành” là tiến trình cải tiến mãi hiện tại để tiến tới tương lai, mà hiện tại cũng là một bước cải tiến từ và trên căn bản của quá khứ. Ở đây có đặt vấn đề làm mới mãi quá khứ và hiện tại chứ không đặt vấn đề phủ nhận hay xóa bỏ nó. Tức là khỏi phải làm “cách mạng”!

Chính vì thấm nhuần quan niệm “tiến trình” này mà người Nhật đã tạo nên được quốc sách “cải thiện” (kaizen), áp dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội Nhật Bản. Và như nhiều người đã biết, nếu không có quốc sách kaizen thì cũng không có nước Nhật của quá khứ và không ngừng tiến đến tương lai.

Con người trở thành” là “con người phi tôn giáo” (theo nghĩa Tây Phương), không phải chống tôn giáo. Nhưng không phải chỉ các tôn giáo sẽ bị vượt qua, mà tất cả những gì xây nền trên quan niệm “con người là tạo phẩm của Thiên Chúa” đều bị xét lại. “Quyền con người” cũng là một tiến trình, cũng trải qua nhiều thế hệ trước khi nó ra đời, và từ 1791 đến nay nó đã trải qua nhiều lần điều chỉnh cho hợp với cách nhìn mở rộng về con người (mãi đến sau thế chiến thứ 2, người ta mới bắt đầu thừa nhận các dân da màu cũng là người). Nhưng nay nó không còn có thể điều chỉnh được nữa, vì chính quan niệm nền tảng cũ về con người đã không còn giá trị. Và dĩ nhiên 3 nguyên lý nền tảng: tính hợp lý, tính cá nhân và tính giao kèo, của cấu trúc và sinh hoạt chính trị, xã hội và luật pháp của các thể chế dân chủ Âu Mỹ, vì cũng xây nền trên “Quyền con người” này, nên cũng bị mất chân đứng và khủng hoảng trầm trọng.

V. HÃY VÀO VỚI THỜI ĐẠI

Nhà nghiên cứu chính trị của trường Harvard, S.Huntington, qua bài viết của ông “The Clash of Civilisation?” đăng trong Foreign Affairs số mùa hè năm 1993, cho rằng những tranh chấp quốc tế trong tương lai sẽ năng màu sắc văn hóa hơn là ý hệ và kinh tế; hẳn nhiên là còn nhiều chỗ cần được thảo bàn thêm, nhưng luận đề này cũng lưu ý chúng ta rằng “muốn có mặt trong thế giới ngày mai, Việt Nam cần phải có cái văn hóa của mình”. Hoặc nói rằng Việt Nam cần làm một tổng hợp, Đông và Tây, Hoa và Ấn, hơn là đối thoại hay đối đầu, thì công việc cũng phải bắt đầu từ chỗ biết mình là ai, đang ở đâu và muốn gì cho ngày mai. Hoặc như nói rằng “thời đại này là thời đại của đối thoại”, nhưng nếu không biết ta là gì thì Việt Nam lấy gì để đối thoại?

Nói cách khác, người Việt cần phải bắt đầu ngay từ bây giờ và mãi mãi cuộc hành trình tìm lại chính mình, tìm lại dân tộc tính Việt. Đây mới thật là vấn đề sống còn của dân tộc. Không thế, người Việt và nước Việt có thể trở thành bất cứ cái gì nhưng chắc chắn không phải là Việt Nam.

nhiều tác giả

Nguồn Bản electronic do HQ gửi cho SH

Nhận xét

________________________

Trở về đầu sách đối thoại hoặc các tác giả khác:

 1   2   3   4   5

Trang Thời Sự