Giáo Hoàng Và Luật Cấm Thờ Cúng Tổ Tiên

Giáo Hoàng Và Luật Cấm Thờ Cúng Tổ Tiên

Charlie Nguyễn

http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_TTDTG/Luatcam_ThocungTotien.php

24 Jan 2023

[Trích Tuyển Tập Độc Thần Giáo, Con Đường Cụt Của Vatican]

Từ ngày Matteo Ricci đặt chân lên đất Trung Hoa năm 1583 cho đến 160 năm sau, số tín đồ Công giáo Trung Hoa đã tăng lên con số khoảng 3 triệu người. Nhưng một biến cố nghiêm trọng xẩy ra là việc Giáo hoàng Benoit XIV công bố đạo luật Bulle Ex Quo Singularnăm 1742 cấm người Á châu không đựợc thờ cúng tổ tiên.

Đạo luật này đã làm cho các tín đồ Công giáo Trung Hoa bất mãn tức giận nên họ đã bỏ đạo gần hết. Chỉ còn lại một số rất ít tiếp tục theo Công giáo La mã mà thôi.

Bản chất của người Trung Hoa rất tôn trọng đạo Hiếu. Giáo hoàng Benoit đã hành động một cách hết sức dại dột là cấm họ thờ cúng tổ tiên, chẳng khác nào xối một thùng nước lạnh lên đầu họ. Họ nhìn đạo Công giáo La mã như một thứ đạo dành riêng cho những kẻ bất hiếu đáng khinh bỉ và họ đã bỏ đạo không luyến tiếc.

Theo thống kê năm 1980 thì dân số Trung quốc trên 1 tỉ người, số tín đồ Công giáo La mã cũng vẫn là 3 triệu người, tức là chưa đến 3 phần ngàn (0.3%). Trong khi đó số tín đồ Tin Lành là 7 triệu, mặc dầu Tin Lành mới được truyền vào Trung quốc từ đầu thế kỷ 20. (Theo nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 22, tháng 10/1996).

Tỉ lệ Công giáo La mã Việt Nam là khoảng 7% dân số toàn quốc, so với Trung quốc chỉ có 0.3% thì tổng số Công giáo La mã Việt Nam rất cao. Tuy nhiên, tỉ lệ cao này không phải là kết quả của sách lược “Hòa để Hóa” mà là kết quả của 80 năm Pháp cai trị Việt Nam và 21 năm nhà Ngô cai trị miền Nam Việt Nam.

Dưới hai chế độ Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) bọn gián điệp văn hóa mặc áo thầy tu đã ra sức tung hoành và xuyên tạc phá hoại văn hóa nước nhà để quảng bá nền văn hóa phi nhân và nô dịch của đạo Công giáo La mã.

....

Giáo hội La mã là một dị vật không thể hoà nhập vào văn hóa Á châu.

Ba tôn giáo quan trọng tại Trung quốc, Nhật Bản và Việt Nam là đạo Phật, đạo Lão và đạo Khổng. Cả ba đạo đều xuất phát từ những nhu cầu của xã hội và của con người. Cả ba đạo đều nhằm một mục đích chung là phục vụ lợi ích thiết thực của con người trong đời sống này. Cả ba tôn giáo đã tạo nên nét đặc thù của văn hóa Việt Nam.

Đạo Phật: Phát sinh từ nhận thức cuộc đời đau khổ như một giòng sông, bên này sông là “bến mê”, bên kia sông là “bờ giác”. Phật giáo vạch ra một ‘con đường’ để đưa con người đến giác ngộ, hay nói cụ thể hơn là cung cấp cho con người một cái bè qua sông không phải là ‘đức tin’ mà là trí tuệ và tinh thần tự giác để tự cứu. Đạo Phật không bắt buộc con người phải tôn thờ hoặc phải sợ hãi một thần linh nào, không hăm dọa đầy đọa con người đời đời trong hỏa ngục và không xiềng xích tín đồ vào những tín điều vô lí, phản lý trí và phản khoa học như đạo Kitô.

Đạo Khổng: Xuất hiện tại Trung quốc trong thế kỷ 5 TCN. mục tiêu chính của đạo Khổng là dạy con người cách xử thế:

- Hiếu: tỏ lòng thành kính biết ơn cha mẹ, tổ tiên.

- Đễ: thuận thảo với anh em.

- Trung: trung thành với quốc gia dân tộc.

- Thứ: cư xử với mọi người cho hợp lẽ.

Đạo Khổng đã góp phần quan trọng trong việc tạo thành một nếp sống văn hóa lành mạnh trong xã hội Việt Nam, nhờ đó mọi người biết dùng lễ nghĩa cư xử với nhau, tạo thành một thứ xã hội an bình, trên thuận dười hòa.

Đạo Khổng đề cao tinh thần thực tế, khiến cho mọi người chú tâm xây dựng cuộc sống hiện tại. Khổng Tử nói: “vị tri sinh, an tri tử”, có nghĩa là ‘chúng ta chưa biết hết mọi chuyện của cuộc sống này thì đừng nên bận tâm về những gì xảy ra sau khi chết.’ Chúng ta không cần phải lo sau khi chết sẽ đi về đâu, thiên đàng hay hỏa ngục? Cũng chẳng cần thắc mắc là ở trên có Thiên Chúa hay không? Thiên Chúa có mấy ngôi? Chúa Cha có mấy con? Chúa sai đứa nào xuống thế làm người hay làm con bò (Emmanu-el = the bull EL with us)? Tinh thần thực tiễn của đạo Khổng đã tránh cho chúng ta khỏi rơi vào cái bẫy của thần học hoang tưởng Kitô giáo, một môn học chuyên đoán mò những chuyện huyền hoặc nhảm nhí và phản khoa học. Đạo Khổng hoàn toàn không có một tín điều nào và không dùng “đức tin” để cải tạo xã hội, đạo Khổng chỉ tin tưởng vào kết quả của sự giáo dục : Các công phu giáo huấn sẽ làm thay đổi tư cách con người, từ đó xã hội sẽ được cải thiện để phục vụ con người. Con người là cứu cánh phục vụ của đạo Khổng vậy.

Đạo Lão: Lão tử cùng thời với Khổng tử, tức là vào thế kỷ thứ 5 TCN. Tinh thần của Lão tử rất cao siêu, tuy nhiên phần đông người Việt cũng thấm nhuần được cái tinh thần thanh thoát bình thản của đạo Lão qua hơn hai ngàn năm đạo này tồn tại trên đất nước ta. Cái tinh thần bình thản đó là do hiểu được nguyên lý tương đối trong vũ trụ: Trong âm có dương, trong dương có âm. Khi gặp điều may không vội mừng vì trong phúc có họa. Khi gặp điều dữ không buồn lo vì trong họa có phúc. Lẽ tương đối trong vũ trụ giúp ta hiểu được cả những điều siêu hình: trong âm có dương và trong dương có âm, trong thiện có ác. Vậy không thể có Đấng Toàn Thiện (Thiên Chúa). Ngược lại, trong ác có thiện, vậy cũng không thể có kẻ chỉ ác (Quỉ Satan). Thiên Chúa và Satan chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng.

Lão tử giải thích căn nguyên vũ trụ là Đạo: Đó chính là nguyên lý của thiên nhiên vô hình vô sắc đã sinh ra âm dương tương khắc tương sinh tạo thành vũ trụ vạn vật.

Dân tộc Việt Nam không đón nhận ba đạo Phật, Khổng, Lão bằng niềm tin mù quáng nhưng đã dùng lý trí chắt lọc tinh tuý chung của cả ba đạo (tam giáo) để phục vụ đời sống của toàn dân. Cả ba đạo cùng sống trong lòng dân tộc như một dòng chảy văn hóa duy nhất, đó chính là Tam giáo Đồng lưu.

....

Tam giáo đã tạo nên tinh thần gắn bó giữa tổ tiên và chúng ta, sau đó là mối liên kết kế tục giữa chúng ta và con cháu đời sau. Dòng chảy thiêng liêng từ tổ tiên đến con cháu muôn đời là Đức. Đức được tạo thành do sự ăn ở hiền lành ngay thẳng hợp với đạo làm người một cách tự nhiên theo lương tâm hoặc theo Phật tính sẵn có trong lòng mỗi người. Tam giáo đã đem đến cho dân tộc ta một triết lý sống rất thực tiễn nhưng cũng rất cao đẹp. Điều mà dân tộc ta tôn quí nhất là Đức hiền lành (hiền đức)!

Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây Đức cho đời mai sau!

Trong khi đó thì Giêsu trắng trợn dạy tín đồ “đạo bất hiếu” có ghi rành rành trong Phúc âm Luke 14:20: “Bất cứ ai đến với ta mà không thù ghét cha mẹ, vợ con và anh chị em mình thì không thể là tín đồ của ta.

Do lời dạy khốn nạn đó của Giêsu nên Giáo hoàng Clément XI đã ban hành sắc luật ngày 20/11/1704 cấm tín đồ Công giáo La mã không được thờ cúng tổ tiên, cấm đặt bài vị hoặc hình ảnh của người quá cố trên bàn thờ.

Giáo hoàng Benoit XIV nhắc lại luật cấm thờ tổ tiên năm 1742. Do luật cấm thờ tổ tiên ngu xuẩn của các giáo hoàng La mã mà hầu hết giáo dân Trung Hoa đã bỏ đạo trong thế kỷ 18.

Mãi đến năm 1939, giáo hoàng Piô XII mới ban hành đạo luật ‘Plane Compertum Est’ cho phép giáo dân Trung Hoa thờ cúng tổ tiên như xưa. Sau Công đồng Vatican II năm 1964, bãi bỏ lệnh cấm thờ tổ tiên nên giáo dân Việt Nam mới được phép tiến hành dâng hương trước bàn thờ gia tiên trong dịp cưới hỏi hoặc ngày giỗ v.v...

[Ghi chú của SH: trích "Vatican’s Appeasement of China Goes a Long Way Back":

What is surprising is that Pope Pius XII, shortly after his election, asked the Propaganda Fidei (CDF) to relax Clement XI’s decrees in the face of pressure from the current Chinese government, who insisted that such Confucian rites were merely social activities. Their previous ecclesial rejection, as the Holy Father saw it, were unnecessary impediments to evangelizing and converting the Chinese people. A new decree in 1939, Plane Compertum, stated:

- Catholics are permitted to be present at ceremonies in honor of Confucius in Confucian temples or in schools;

- Erection of an image of Confucius or tablet with his name on it is permitted in Catholic schools.

- Catholic magistrates and students are permitted to passively attend public ceremonies which have the appearance of superstition.

- It is licit and unobjectionable for head inclinations and other manifestations of civil observance before the deceased or their images.]

Mục đích chính của Vatican khi ra lệnh cấm thờ cúng tổ tiên cốt ý dành sự tôn thờ cho một Thiên Chúa mà thôi. Ngoài Thiên Chúa ra, các tín đồ không được tôn thờ một ai khác, dù người đó là cha mẹ tổ tiên của mình.

Qua những sự việc trên chúng ta thấy các tín đồ Công giáo La mã thật tội nghiệp đáng thương. Họ là một bầy nô lệ đã bị Vatican tước đoạt hết quyền tự do và nhân phẩm do sự ngu dốt của họ. Bọn lưu manh khốn nạn ở Vatican đã dành toàn quyền quyết định hoặc tước đoạt hoặc cho phép họ được thờ cúng tổ tiên của mình. Thật ra sự thờ cúng tổ tiên chẳng phải là một tôn giáo, ta quen gọi là đạo ông bà, chỉ là một cách biểu lộ tình cảm gia đình đối với người thân đã khuất mà chúng ta vẫn tha thiết chẳng muốn xa lìa quên lãng.

Việc cúng giỗ là một hình thức kỷ niệm để tỏ lòng biết ơn theo tinh thần “uống nước nhớ nguồn”. Bọn giáo hoàng ở Vatican cấm người Á châu thờ cúng tổ tiên là bọn chúng đã ngang nhiên nhục mạ văn hóa Á châu và xúc phạm nặng nề đến tâm tư tình cảm của người châu Á. Bọn lãnh đạo giáo hội Công giáo La mã sẽ phải trả những giá rất đắt cho những hành động láo xược và ngu xuẩn của chúng.

Tổng kết lại, chúng ta thấy Kitô giáo (gồm cả Công giáo và Tin lành) không thể hòa nhập vào văn hóa Á châu, nhất là văn hóa Trung quốc, Nhật bản và Việt Nam, do hai mặt đối lập chính yếu sau đây:

1.Tam giáo được xây dựng trên nền tảng nhân bản, trong khi đó Kitô giáo là một tôn giáo hoàn toàn phi nhân (inhuman).

...

2. Cả ba đạo Phật, Khổng, Lão thật sự là ba triết thuyết được xây dựng trên căn bản lý trí, trái với Kitô giáo là một tôn giáo thần bí dựa trên những tín điều do kẻ lập đạo tự ý đặt ra để bắt các tín đồ phải tin theo. Các tín dồ không có quyền dùng lý trí để phê phán các tín diều dù cho họ nhận thức được các tín điều đó là vô lý.

Họ chỉ có một con đường duy nhất để trở thành tín đồ Kitô giáo là hoàn toàn chấp nhận vô điều kiện toàn bộ các tín điều của đạo Kitô theo đúng lời dạy ngu xuẩn của Giêsu : “Phúc cho những ai không thấy mà tin”!

Kitô giáo là một tôn giáo hoàn toàn xây dựng trên niềm tin và phủ nhận lý trí. Điều đó đủ cho thấy mọi tín đồ Kitô giáo (Công giáo, Tin lành) đều là những kẻ vô minh mê muội. Kitô giáo chẳng khác nào bóng tối, khi nó đến gần Tam giáo nó sẽ bị ánh sáng trí tuệ của Tam giáo làm cho nó tiêu tan. Kitô giáo chẳng bao giờ có khả năng hòa nhập vào Tam giáo vì nó đã bị hoàn toàn tiêu tan trước khi nó có thể hoà nhập. Chính vì vậy, trong hai ngàn năm qua, trong lòng dân tộc Việt Nam luôn luôn tồn tại Tam giáo Đồng lưu, nhưng sẽ không bao giờ có sự hòa nhập của Kitô giáo để biến thành “tứ giáo đồng nguyên”. Điều quái đản này sẽ chẳng xẩy ra trên đất nước Việt Nam.

Thái độ kiêu căng láo xược của Vatican đã đẩy các dân tộc Á châu vào thế đối đầu và dẫn đến sự thất bại nhục nhã của đạo Công giáo La mã.

Đã hai ngàn năm qua, ba đạo Phật-Khổng-Lão sống chung hòa bình trong lòng dân tộc Việt Nam, không một lần gây xáo trộn xã hội và cũng không một lần đưa dân tộc vào vòng nô lệ ngoại bang. Cả ba đạo đều tỏ thái độ tương thân tương kính, hòa nhã khiêm cung đúng như tư cách của người quân tử. Thái độ này hoàn toàn phù hợp với tinh thần hòa nhã nhún nhường cố hữu của người Việt Nam:

Ai nhất thì tôi thứ nhì

Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba.

Trái lại, thái độ của Công giáo La mã (mà đại diện của nó là Vatican) luôn luôn trịch thượng, hung hăng, láo xược. Công giáo luôn kiêu hãnh tự cho mình ngôi vị độc tôn và lên mặt coi thường tất cả các tôn giáo khác trên thế giới.

Trong bản tông huấn “Giáo hội Á châu”, giáo hoàng Gioan Phaolồ II viết: “Đức Giêsu Kitô là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Ngài đã là Đấng Cứu độ duy nhất cho toàn thể loài người.... khác hẳn với các vị sáng lập các tôn giáo khác.” Giáo hoàng Goan Phaolồ II muốn đề cao Giêsu trên các giáo chủ khác vì hai lý do hoàn toàn giả tạo.

Thiên Chúa là sản phẩm của tưởng tượng nên hoàn toàn không có thật, do đó chẳng làm gì có chuyện Giêsu là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Dân Á châu đi tìm sự cứu độ tự bản thân mình, chứ không tìm sự cứu độ từ bên ngoài, do đó cái huyền thoại cứu độ của Giêsu chỉ là một món hàng thừa thãi vô dụng chỉ đáng vứt xuống hố rác mà thôi. Cũng vì thế, mặc dầu Giêsu đã sinh ra trên lục địa Á châu từ hai ngàn năm qua nhưng y vẫn là kẻ vô danh trên lục địa này.

Trong một đoạn khác của bản tông huấn, Gioan Phaolồ II còn nhục mạ các tôn giáo Á châu một cách nặng nề hơn nữa : “Các tôn giáo Á châu như Do thái giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo, Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Hỏa giáo, đạo Sikh và Thần đạo... các giá trị tôn giáo mà các đạo ấy giảng dạy đang chờ được hoàn thành trong đức Giêsu Kitô.” Đây là một luận điệu láo xược đến độ trâng tráo lố bịch ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Gioan Phaolồ II tuyên bố như trên nhằm xuyên tạc và hạ bệ tất cả các giáo chủ khác xuống thành những “công cụ dọn đường” cho Giêsu vì Giêsu là giáo chủ cuối cùng và cao nhất có sứ mạng hoàn thành chân lý?

Chúng ta hãy tự hỏi Giêsu thật sự là ai? Và đạo Công giáo La mã thật sự là đạo gì? Lịch sử và khoa học khảo cổ đã chứng minh Công giáo chỉ là đạo thờ bò cải biến. Giáo lý Kitô giáo chứng minh Giêsu là một đứa con mất dạy loạn luân với mẹ. Sách Tân ước Mathew 1:23 ghi nhận Giêsu là một con bò: “Này, trinh nữ sẽ mang thai và sinh ra một đứa con trai, nó sẽ được đặt tên là Emmanu-EL.” (Behold, a virgin shall be with child and shall bring forth a son and they shall call his name Emmanu-EL). Theo nguyên nghĩa tiếng Hebrew, Emmanu-EL có nghĩa là con bò EL ở cùng chúng ta. (The bull EL among us).

Phải chăng các giáo thuyết mà đức Phật Thích Ca, đức Khổng tử, Lão tử giảng dạy đều thiếu sót và cần phải đợi con bò Giêsu hoặc đứa con loạn luân với mẹ để hoàn thành hay sao?

Thái độ trịch thượng và láo xược của Gioan Phaolồ II và Vatican đã đẩy các tôn giáo và các dân tộc Á châu vào thế đối đầu. Bọn chúng quên rằng các tôn giáo và các dân tộc Á châu có dư khả năng khai tử Công giáo La mã trên lục địa này. Với thái độ kiêu căng ngạo mạn, khinh thường các tôn giáo Á châu, bọn tu sĩ Công giáo La mã đang tự đào hố chôn mình.

Bản chất phi nhân và phản lý trí của Kitô giáo (gồm cả Công giáo và Tin lành) không cho phép Kitô giáo có thể hòa đồng với thực tại văn hóa tam giáo của Việt Nam nói riêng và của các nước Trung Hoa-Nhật Bản-Việt Nam nói chung. Kitô giáo sẽ mãi mãi là một dị vật văn hóa và sẽ bị đào thải. Với thái độ trịch thượng láo xược của đại đa số tu sĩ Công giáo La mã, bọn chúng không chỉ đưa Giáo hội Công giáo tới ngõ cụt mà là tới tử địa trên mảnh đất quê hương Việt Nam của chúng ta.

Charlie Nguyễn

Tháng 7-2003


Các chương khác trong sách:

Alexandre De Rhodes và Chữ Quốc Ngữ

Con Đường Cụt của Vatican (Charlie Nguyễn)

Các Hoạt Động Chính Trị của Đạo Quân Thứ 5

Hồ Sơ Tội Ác của Hội Thừa Sai ...

In God We Trust

Màn Kịch Lộ Đức

Một Vấn Đề về Huyền Thoại Giáng Sinh

Nhận Xét về Thư của Phan Dình Diệm

Quan Niệm Ông Trời của Người Việt

Từ Thái Độ Khinh Miệt ...

Việt Nam cần thực hiện ...

Đòi Lại Đất bị Nhà Thờ Chiếm Đoạt

Độc Thần Giáo ...

 

Trang Charlie Nguyễn