Có một nguyên tắc rất phổ biến rằng, không ai có thể
chứng minh được một điều phủ định. Chẳng hạn, việc chứng
minh Thượng Đế không hiện hữu là một việc làm vô phương.
Bởi vì chúng ta đang ở trong một hành tinh rất bé nhỏ và
có giới hạn trong vũ trụ vô biên, nên không thể nào
chúng ta có thể kiểm chứng được toàn cõi vũ trụ này để
có thể kết luận được rằng Thượng Đế không hiện hữu.
Thực ra, chính nguyên tắc này tự nó lại mâu thuẩn với
chính nó. Khi khẳng định “không ai có thể chứng minh một
phủ định” thì lại chính nó đang là một chứng minh phủ
định nhưng chưa hề có kiểm chứng. Có nghĩa là không ai
có thể chứng minh được nguyên tắc này hiển nhiên đúng;
do đó, người ta có đủ lý do để tin tưởng rằng việc chứng
minh một phủ định không phải là điều vô phương.
Có rất nhiều thứ mà người ta cần phải tưởng tượng ra
sự hiện hữu của chúng như là những hữu thể có thật để
giải thích những hiện tượng dị thường trong vũ trụ.
Nhưng với thời gian và những khám phá mới, người ta loại
bỏ dần những hữu thể đó và không bao giờ còn phải sử
dụng đến chúng trong những giải thích khác.
Thực vậy, thí dụ, khoa học đã chứng minh cho chúng ta
biết những hữu thể tưởng tượng như “phlogiston”,
“ether”, và hành tinh “Vulcan” không bao giờ hiện hữu
như những thực thể. Đã có một thời gian dài người ta
phải đưa vào các định đề khoa học những hữu thể tưởng
tượng như “phlogiston” để giải thích hơi nóng, “ether”
để giải thích sự di chuyển của ánh sáng trong chân
không, và hành tinh “Vulcan” để giải thích những xáo
trộn trong quỉ đạo của hành tinh Mercury. Ngày nay,
những thứ đó không còn cần thiết nữa để giải thích bất
cứ một hiện tượng nào trong vũ trụ. Chúng đã lần lượt đi
vào quên lãng vì không phải là những thực thể có thực.
Cũng vậy, Thượng Đế là một ý niệm tưởng tượng được
đưa ra để giải thích những gì mà con người chưa biết
tường tận. Người ta đã dùng ý niệm này để khỏa lấp mọi
khoảng trống của kiến thức con người. Ngày xưa, người ta
mang Thượng Đế để giải thích mưa bão, động đất, núi lửa,
sóng thần, v/v… Và ngày nay, không ai còn phải mang
Thượng Đế để giải thích những hiện tượng như vậy. Những
khẳng định của khoa học thực nghiệm không bao giờ mang
một ý nghĩa tuyệt đối như trong luận lý học thuần lý,
nhưng thường là rất khả tín, nằm bên ngoài sự nghi nghờ
có lý lẽ (beyond reasonable doubt). Nếu chúng ta đòi hỏi
tính tuyệt đối trong những khẳng định của khoa học thực
nghiệm thì chúng ta không thể tin được bất cứ điều gì
của khoa học.
Chẳng có nhà vô thần nào bỏ công đi tìm bằng chứng cố
gắng chứng minh một phủ định về Thượng Đế, bởi vì họ đều
biết rõ ràng về nguyên tắc ai là người phải trưng bằng
chứng (burden of proof). Nguyên tắc này sẽ dẫn đến một
kết luận ngụy biện, sai lầm khi đặt trách nhiệm trưng
bằng chứng không đúng bên.
Để dễ hiểu hơn, chúng ta chỉ cần đưa ra một nguyên
tắc căn bản trong luật học, rằng một người được xem là
vô tội cho tới khi được chứng minh là có tội. Vậy trách
nhiệm chứng minh nằm ở luật sư công tố, không phải nơi
bị can. Nếu luật sư công tố không chứng minh được bị can
phạm tội thì bị can không cần phải chứng minh rằng mình
không có tội mà vẫn vô tội. Trong một cuộc tranh luận,
bên có trách nhiệm trưng bằng chứng là bên tuyên bố một
vật gì hiện hữu, chẳng hạn như có Thượng Đế, có ma quỉ,
có người hành tinh, có ông già Noel, hoặc có những quyền
lực siêu nhiên. Nếu người hữu thần không thể chứng minh
có Thượng Đế bằng những bằng chứng hẳn hoi thì phải kết
luận là không có Thượng Đế, thế là xong; người vô thần
không cần phải chứng minh một điều gì khác. Khi người
hữu thần đòi hỏi người vô thần phải trưng bằng chứng
chứng minh không có Thượng Đế là họ đang sử dụng ngụy
biện “burden of proof” để hòng đi đến kết luận là có một
Thượng Đế hiện hữu; dĩ nhiên nếu người vô thần không
chứng minh được, vì họ dư biết rằng sẽ là rất khó chứng
minh hơn cho một phủ định. Lối lý luận như vậy rõ ràng
đã đi đến một kết luận sai lầm, ngụy biện vì đã đặt
trách nhiệm trưng bằng chứng không đúng bên.
Điều các nhà khoa học muốn chứng minh là không cần
phải mang Thượng Đế ra để giải thích bất cứ hiện tượng
nào trong vũ trụ như các nhà hữu thần đang làm, và đó
chính là công việc của các nhà khoa học. Mang Thượng Đế
ra để giải thích chỉ đơn giản là cái cớ để từ chối giải
thích, vì phải xây dựng thêm một giả định mới, phức tạp
và còn khó giải thích hơn điều đang cố gắng giải thích.
Đó là lối giải thích thụt lùi, làm điều muốn giải thích
rắc rối và tối tăm thêm.
Những giải thích của các nhà khoa học dựa trên những
quan sát và các dữ kiện thâu thập được luôn luôn là
những giải thích khả tín hơn cả. Loại trừ Thượng Đế để
cố gắng đi tìm những nguyên nhân tự nhiên thì cũng giống
như việc các nhà khoa học đã từng làm để loại trừ
“phlogiston” trong việc giải thích hơi nóng, “ether”
trong việc giải thích sự di chuyển của ánh sáng trong
chân không, và hành tinh Vulcan trong việc giải thích
những xáo trộn trong quỉ đạo của hành tinh Mercury.
Những hữu thể tưởng tượng đó đương nhiên đều là những
thứ phi vật chất, cũng hoàn toàn giống như ý niệm Thượng
Đế, vì chúng không phải là những thực thể có thực.
Khi tôi đưa bài dịch “Hai Lối Chứng Minh Không Có
Thượng Đế” của Quentin Smith vào các diễn đàn thì đã
có một số ý kiến cho rằng: “Đối tượng của khoa học là
vật chất, mà vật chất là những gì có thể
cân đo đong đếm. Thượng Đế đâu có phải là vật chất. Khi
được hỏi có Thượng Đế hay không thì nhà khoa học chân
chính sẽ trả lời. Tôi không thể trả lời được vì Thượng
Đế không phải là đối tượng nghiên cứu của tôi. Ngài là
phi vật chất. Người ta không thể chứng minh có TĐ hay
không, mà chỉ là cảm nhận” (van hanh phung). Đó cũng
là ý kiến chung của nhiều đọc giả, kể cả những quí vị có
học vị cao như tiến sĩ, giáo sư, kỹ sư, hay bác sĩ.
Có lẽ cái tựa của bài viết đã làm nhiều người hiểu
lầm nếu không đọc kỹ toàn bài. Rõ ràng ở phần kết luận,
Smith đã viết:
“Để kết luận, tôi xin khẳng định rằng, thứ nhất
khoa học hiện nay không chấp nhận có Thượng Đế hiện hữu.
Và thứ hai, lý luận thông thường mà chúng ta sử dụng
hằng ngày khi áp dụng vào mọi sự dữ chúng ta trông thấy
cũng tự nó không chấp nhận có Thượng Đế. Do đó, tôi
nghĩ quan điểm hữu thần rất là vô lý, còn quan điểm vô
thần thì hữu lý hơn.”
Và hơn nữa, ngay khi mới vào đề, Smith cũng đã thẳng
thừng tuyên bố rõ ràng rằng ông muốn phản bác những lập
luận của những nhà hữu thần có kiến thức khoa học đã
từng sử dụng thuyết Big Bang để cố chứng minh sự hiện
hữu của Thượng Đế. Điều còn rõ ràng hơn nữa là tất cả
các luận chứng của các nhà hữu thần trong suốt tiến
trình lịch sử đã thất bại trong việc chứng minh có
Thượng Đế. Thuyết Big Bang là cái phao cuối cùng để cho
những nhà hữu thần bám víu, bởi vì thuyết này đã bị
khựng lại ở một điểm dị thường (singularity), ở đó tất
cả mọi sự đều biến mất, và người ta đã đi đến kết luận
rằng đó là cái điểm bắt đầu của vũ trụ phải cần có một
tác nhân kích hoạt làm vũ trụ khởi động. Chính đó là
Thượng Đế toàn năng đã hiện hữu trước khi vũ trụ được
thành hình. Như vậy, thuyết này hoàn toàn đối nghịch với
câu chuyện tạo dựng trong kinh Sáng Thế Ký, nhưng ít ra
cũng còn vớt vát ở điều cần thiết phải có một đấng Sáng
Tạo như là nguyên nhân đầu tiên.
Smith dùng hàm số sóng của các nhà khoa học hiện đại
để phản biện lại lối lập luận như vậy, vì hàm số này cho
xác quyết có một xác suất 95% vũ trụ có thể tự tạo,
không cần phải có một ai đó khởi động lúc ban đầu. Mãi
gần 15 năm sau, khi xuất bản cuốn Sự Thiết Kế Lớn / The
Grand Design, tác giả Stephen W Hawking mới xác nhận
quan điểm của Smith nhờ những dữ kiện ông thu thập được
khi quan sát. Như vậy, ở điểm này, triết học đã đi trước
khoa học. Khoa học chỉ làm công việc kiểm chứng những
suy tư của triết học.
Khoa học nào cũng vậy. Ban đầu chỉ là giả thuyết. Nếu
những dữ kiện thu thập trái nghịch với giả thuyết thì
người ta sẽ điều chỉnh giả thuyết sao cho phù hợp, hoặc
có khi phải từ bỏ vĩnh viễn giả thuyết đó. Khoa học
không thể đi nghịch với các dữ kiện thâu thập. Cũng như
thuyết tiến hóa, ban đầu nó chỉ là một giả thuyết, nhưng
càng ngày càng nhiều khám phá mới của các ngành khoa học
khác nhau đã xác nhận giả thuyết này. Ngày nay, tiến hóa
đã trở thành sự kiện, và người ta đã có thể chứng minh
được ở lĩnh vực vi mô. Có bàn cãi về tiến hóa thì chỉ là
bàn cãi về cơ chế tiến hóa như thế nào. Và thuyết tiến
hóa đã hoàn toàn thay thế thuyết sáng tạo ở trong các bộ
môn khoa học. Chính giáo hoàng John Paul II cũng đã công
khai công nhận thuyết tiến hóa, cho dù Vatican đã chi
phí rất nhiều tiền bạc và công sức để cố gắng phản bác
thuyết khoa học này hơn 100 năm qua.
Như vậy, thuyết Big Bang là một giả thuyết khoa học
được các nhà hữu thần, không phải các nhà vô thần, sử
dụng trong suốt mấy thập niên qua để cố gắng chứng minh
sự cần thiết phải có một Thượng Đế. Chúng ta dèm pha
thuyết này, phỉ báng và mạ lị các nhà khoa học, thực ra
là chúng ta đang mạ lị và phỉ báng những nhà hữu thần mà
chúng ta đang cố gắng bênh vực. Quentin Smith và Stephen
W Hawking dùng hàm số sóng chỉ để chứng minh cho chúng
ta biết một điều, rằng việc các nhà hữu thần mang thuyết
Big Bang ra để gán cho Thượng Đế như là nguyên nhân đầu
tiên khởi động vũ trụ đã trở thành thừa thãi, không còn
cần thiết nữa. Vũ trụ có thể tự sinh. Đó là một khám phá
mới của khoa học để trả lời cho câu hỏi từ ngàn xưa: vũ
trụ đến từ đâu?
Khi các nhà khoa học dùng vũ trụ học để bàn về Thượng
Đế, chính là họ chỉ muốn bàn về Thượng Đế của các nhà
khoa học như là nguyên nhân khởi đầu của vũ trụ, không
phải là Thượng Đế hữu ngã, có nhân tính của Thiên Chúa
giáo. Thượng Đế của Thiên Chúa giáo được gọi là Thiên
Chúa và là một hữu thể toàn năng, toàn thiện, toàn trí,
công bình vô cùng, hay thương xót, và thường can thiệp
vào công việc của loài người. Chỉ cần đơn giản dùng lý
luận thuần lý của Parmenides, một triết gia cổ Hy lạp,
cũng đủ đánh đổ ý niệm Thiên Chúa, bởi vì không thể có
sự hiện hữu của bất cứ thứ gì có những thuộc tính mâu
thuẩn loại trừ nhau. Epicurus lý luận như sau từ mấy
ngàn năm trước:
● Có phải Thiên Chúa muốn ngăn ngừa sự dữ
nhưng lại không thể? Vậy thì Ngài không phải toàn năng.
● Có phải Ngài có thể ngăn ngừa sự dữ nhưng
lại không muốn? Vậy thì Ngài độc ác.
● Có phải Ngài có thể và cũng muốn ngăn ngừa
sự dữ? Vậy tại sao lại có sự dữ?
● Phải chăng Ngài không có thể và cũng không
muốn ngăn ngừa sự dữ? Vậy thì tại sao lại gọi Ngài là
Thiên Chúa?
Và
Quentin Smith, một triết gia, cũng đã dùng lối lý
luận thuần lý này, điều mà ông gọi là lối lý luận trong
đời sống hằng ngày, để loại trừ ý niệm Thượng Đế của
Thiên Chúa giáo khi ông bàn về vô vàn sự dữ.
Tóm lại, khoa vũ trụ học, một bộ môn thuộc khoa học
thực nghiệm, chỉ có thể đi đến kết luận rằng không cần
phải mang Thượng Đế để gán cho một nguyên nhân đầu tiên
làm vũ trụ khởi động. Thượng Đế ngày nay đã trở thành
thứ thừa thãi trong tất cả mọi giải thích của khoa vũ
trụ học. Mọi hiện tượng trong trời đất đều có những
nguyên nhân tự nhiên. Vai trò của Thượng Đế cũng giống
như những hữu thể tưởng tượng “phlogiston”, “ether”, và
hành tinh “Vulcan” một thời cần thiết để giải thích
những gì khi khoa học chưa giải thích được.
Và Thiên Chúa của Thiên Chúa giáo thì tuyệt đối không
thể hiện hữu, bởi vì luận lý học không chấp nhận một hữu
thể có những thuộc tính mâu thuẩn loại trừ nhau. Ý niệm
Thiên Chúa cũng vô lý giống như một hình tròn nhưng lại
có những góc cạnh vuông, hay con kỳ lân màu tím nhưng
lại vô hình. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa giáo dạy
chúng ta cần phải có một đức tin mới có thể tin được
những điều vô lý.
Còn việc “cảm nhận Thượng Đế” theo nghĩa thông
thường, đại chúng, như ông Trời, Đạo… thì hoàn toàn có
tính chủ quan, rất là con người. Giống như khi chúng ta
đi trong đêm tối, có người cảm thấy như có ma đang theo
dõi mọi cử động của họ, có người lại không cảm nhận được
điều đó. Và khi họ nói cho chúng ta biết về ma, mỗi
người sẽ nói mỗi cách khác nhau, nhiều khi còn mâu thuẩn
với nhau. Tâm lý học về ý thức, vô thức, hay tiềm thức
có thể giải thích được những điều này. Ngày nay, có rất
nhiều người không còn tìm Thượng Đế trong các giáo điều
tôn giáo, nhưng tìm Thượng Đế ở tại con tim hay tại
lương tâm của mình. Đó là ý niệm về Thượng Đế nội tại
thường có trong những thực hành thiền hay yoga.