TTL: Ngay từ nhỏ, chúng ta đã được giáo dục nhồi sọ một chiều nên
không có cơ hội đọc những điều nghịch với những gì chúng ta được chỉ
dạy. Chỉ duy nhất biết tới quan điểm mà mọi người đang chấp nhận không
phải là một lối học đầy đủ, đáng khuyến khích. Muốn có một cái nhìn đúng
đắn về một vấn đề gì thì phải nhìn nó từ mọi góc cạnh, kể cả cái góc
cạnh mà chúng ta không ưa thích.
Chúng ta là những hành giả đang trên đường tìm chân lý. Thế giới
đa dạng và luôn luôn năng động nên chân lý của ngày hôm nay chưa chắc
vẫn còn là chân lý cho ngày mai. Thái độ tự mãn, khinh khi, hay coi
thường những quan điểm khác sẽ là những cản trở cho việc học hỏi và tìm
kiếm. Đức tin không có thử thách là đức tin chưa trưởng thành. Chỉ một
mình đức tin thì chưa đủ thuyết phục con người thời đại. Cần phải có
bằng chứng xác đáng và lý luận biện minh vững chắc mới có thể thuyết
phục con người ngày hôm nay.
Khoa học càng ngày càng có những khám phá mới về chân lý, chiếu
rọi ánh sáng, vén lên bức màn vô minh. Cứ nhắm mắt tin bằng một đức tin
không lay chuyển thì đó là cuồng tín, giáo điều; và còn là bất nhân vì
đi nghịch lại bản chất của con người, một sinh vật có trí tuệ. Giáo
điều, cuồng tín làm con người trở thành nô lệ tâm linh và là cha đẻ của
kỳ thị, chia rẽ, thành kiến, bất công, bạo động, chiến tranh, v/v… Đức
tin có lý trí hướng dẫn là điều mà ai cũng mong đợi.
Trong chiều hướng đó, người dịch chỉ muốn chia sẻ cùng bạn đọc
những góc cạnh mới lạ trong vườn tư tưởng của nhân loại. Chấp nhận hay
không là tùy nhận định sáng suốt của mỗi người.
Quentin Smith là một học giả, triết gia, giáo sư triết trường đại
học University of Western Michigan. Ông đã viết 5 cuốn sách xuất bản qua
hệ thống thông tin báo chí của các trường đại học Oxford University và
Yale University, và trên 80 bài khảo cứu đăng trong các tạp chí chuyên
nghiệp. Ông đã từng tranh luận nhiều lần trong các khuôn viên đại học về
sự tồn tại của Thượng đế. Bài diễn văn sau đây được đọc trong dịp đại
hội những nhà vô thần ở thành phố Minneapolis, tiểu bang Minnesota, Hoa
Kỳ, ngày 6 tháng 4 năm 1996.
Ở lần diễn thuyết này, trong khi Smith dùng lý thuyết về hàm số
sóng của nhiều khoa học gia hiện đại, mà người đứng đầu là Stephen W.
Hawking, để chứng minh không thể có Thượng đế, thì chính Hawking vẫn
chưa có một quan điểm dứt khoát. Ở thời điểm đó, Hawking còn phân vân
tin rằng hình như vũ trụ vẫn cần một tác nhân kích hoạt cho vụ nổ lớn.
Đó là lý do tại sao Thiên Chúa giáo đã một thời ca tụng Hawking và
thường hay dùng lý thuyết Big Bang để chứng minh rằng, chính Thiên Chúa
đã sáng tạo vũ trụ bằng một “cú đá” như là nguyên nhân đầu tiên làm vũ
trụ khởi động.
Nhưng từ khi Stephen W. Hawking trình làng cuốn Sự Thiết Kế Lớn -
The Grand Design, viết chung với nhà vật lý Leonard Mlodinow, xuất bản
bởi Bantam Press ngày 9 tháng 9 năm 2010, ông đã khẳng định một quan
điểm dứt khoát, đồng thuận với Quentin Smith. Bằng những dữ kiện thu
thập được qua nhiều năm làm việc trong chương trình vệ tinh COBE,
Hawking khẳng định vũ trụ có thể tự tạo, chẳng cần phải có một sinh vật
siêu nhiên nào tác động khởi đầu. Mang Thượng đế ra để gán ghép cho
nguyên nhân đầu tiên đã trở nên thừa thãi. Cũng giống như bao biến cố
khác trong thiên nhiên như mưa bão, động đất, núi lửa, sóng thần...
không phải là do một vị thần nào cả. Tất cả mọi sự xảy ra đều do những
định luật tự nhiên. Nhờ có định luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ còn tự
tạo từ hư không. Sự tự sinh là lý do tại sao cần có một thứ gì đó, hơn
là không có gì, là lý do tại sao vũ trụ lại hiện hữu, tại sao chúng ta
tồn tại. Không cần phải mang Thượng đế ra để làm vũ trụ khởi động.
Điều khôi hài là kể từ ngày xuất bản cuốn Sự Thiết Kế Lớn, Thiên
Chúa giáo đã quay lại chỉ trích và nguyền rủa Hawking một cách thậm tệ.
Đã có nhiều bài viết phản bác quan điểm của của ông, nhưng chưa có một
bài nào dựa trên những dữ kiện khoa học khả tín để có thể đánh đổ được
những bằng chứng ông đã đưa ra.
Bài diễn văn của Smith đã được dịch và đăng ở talawas.org ngày
06/01/2005, dưới bút danh Thích Bình Thường. Đây là một bút danh mà bạn
bè thân quen đã đặt cho tôi khi trao đổi với họ về vấn đề Thượng đế. Nó
chẳng có một dụng ý nào khác, ngoài hàm ý rằng tôi chỉ muốn được làm một
người bình thường, không muốn làm người được Chúa chọn và yêu thương
cách riêng. Vì đó là một bài dịch đầu tay với nhiều câu văn luộm thuộm,
vậy nay tôi biên tập lại để được hoàn thiện hơn.
Quentin Smith giáo sư triết tại University of Western Michigan
nhà hữu thần
William Lane Graig
Ngày hôm nay, tôi sẽ nói chuyện về hai lối
chứng minh không có Thượng đế: Vũ trụ học chứng minh không có Thượng đế,
và sự hiện hữu vô vàn những sự dữ cũng chứng minh không có Thượng đế.
Vũ trụ học:
Từ giữa thập niên 1960, những nhà hữu thần có kiến thức khoa học rất
bằng lòng về lý thuyết Big Bang trong Vũ trụ học. Họ tin rằng bằng chứng
khoa học tốt nhất về sự hiện hữu của Thượng đế là việc vũ trụ đã bắt đầu
hình thành từ một vụ nổ lớn khoảng 15 tỉ năm về trước. Vụ nổ lớn này
được gọi là Big Bang. Họ cho rằng hiển nhiên vũ trụ không thể hiện hữu
nếu không có một nguyên nhân đầu tiên. Họ lý luận rằng giả thuyết về một
Thượng đế như nguyên nhân đầu tiên tạo dựng nên toàn thể vũ trụ là hợp
lý nhất. Giả thuyết này hàm ẩn một giả thuyết khác rằng mọi vật hiện hữu
đều phải có một nguyên nhân để hiện hữu. Đó cũng là giả thuyết hữu thần
được viết trong cuốn Đức tin hữu lý (Reasonable Faith)
[1] năm 1994 của
William Lane Graig.
Một đoạn lý thú trong sách mà tôi cần phải nêu ra,
bởi vì ở cuối đoạn, Craig đã nhắc đến tên tôi như một trong những nhà vô
thần cứng đầu từ chối sự hiển nhiên của nguyên tắc hữu thần. Tôi xin lập
lại lý luận của Graig như sau [2] :
Lý luận này đặt trên tam đoạn luận gồm 3 điểm đơn giản sau đây:
(1). Mọi sự có khởi đầu hiện hữu đều phải có một nguyên nhân.
(2). Vũ trụ hiện hữu.
(3). Do đó, vũ trụ phải có một nguyên nhân.
Craig viết:
“Tiền đề (1) thì quá hiển nhiên đến nỗi tôi có thể tin rằng không còn
ai dám thành thật cho đó là một sai lầm. Do đó, tôi nghĩ là thiếu khôn
ngoan nếu phải cố gắng lý luận biện minh cho tiền đề (1), vì những bằng
chứng để chứng minh cho nguyên tắc này thì không thể hiển nhiên hơn
chính bản thân nguyên tắc. Cũng giống như Aristotle đã nhận rằng không
cần phải chứng minh điều hiển nhiên bằng những chứng cớ ít hiển nhiên
hơn. Câu ngạn ngữ xưa rằng “không thể có cái gì đến từ hư không” vẫn còn
hiển nhiên hơn bao giờ ở thời đại ngày nay. Khi tôi viết Lý luận có
Thượng đế trong Vũ trụ học (The Kalam Cosmological Argument), tôi đã
nhận xét rằng tam đoạn luận trên vẫn còn dành lối thoát cho người vô
thần, vì họ có thể từ chối tiền đề (1) để cho rằng vũ trụ hiện hữu từ hư
không, chẳng cần phải có một nguyên nhân đầu tiên. Lúc đó tôi nghĩ chỉ
có một ít người lý luận kiểu như vậy vì tôi tin họ là những người thích
tranh luận ở học đường hơn là tìm hiểu chân lý về vũ trụ một cách thực
tiễn. Tuy nhiên, tôi rất lấy làm ngạc nhiên vì những nhà vô thần càng
ngày càng có vẻ thích theo đường lối lý luận đó. Chẳng hạn như Quentin
Smith phê bình rằng, các triết gia thường hay bị ảnh hưởng quá đáng bởi
nỗi sợ hãi của Heidegger về điều “hư không”, và ông ta đã kết luận rằng,
“điều tin tưởng hợp lý nhất là chúng ta đến từ hư không, bởi hư không,
và cho hư không.” Đó là lời kết luận tử tế cho một lối nói chuyện ở
Gettysburg về chủ nghĩa vô thần.” [3]
Tôi xin bắt đầu phản bác lập luận này dựa vào Vũ trụ học, vì đó là
lập luận mà những nhà hữu thần có kiến thức khoa học hiện đang sử dụng
để chứng minh có Thượng đế.
Hãy bắt đầu bằng nhận xét về tiền đề (1) trong tam đoạn luận trên.
Tiền đề là "mọi sự có khởi đầu hiện hữu đều phải có một nguyên nhân." Có
lý do gì để phải chấp nhận nguyên lý nhân quả này như là một chân lý
không? Thực ra nguyên lý này tự nó không có gì là hiển nhiên. Một điều
là hiển nhiên chỉ khi nào mọi người hiểu và tự động tin theo. Nhưng có
rất nhiều người, kể cả những nhà hữu thần lừng danh như Richard
Swinburne, hiểu biết rất rõ ràng về nguyên lý này nhưng vẫn cho nó là
sai lầm. Rất nhiều triết gia, khoa học gia, và cả số đông sinh viên bậc
cử nhân và cao học trong lớp tôi dạy đều nghĩ rằng tiền đề này là sai
lầm. Tiền đề này tự nó không hiển nhiên và cũng không xuất phát từ một
mệnh đề hiển nhiên nào khác. Do đó, không có lý gì cho đó là một chân
lý. Vậy tiền đề này hoặc sai lầm, hoặc chỉ có giá trị của một nhận xét
có thể đúng và cũng có thể sai. Ít nhất thì cũng đã rõ ràng là chúng ta
không hề biết tiền đề trên có đúng hay không?
Bây giờ thử thí dụ những nhà hữu thần sửa đổi tiền đề trên cho nhẹ
nhàng hơn đôi chút. Thí dụ họ bảo rằng, “mọi sự có khởi đầu hiện hữu thì
có một nguyên nhân”. Như vậy không còn bảo mọi sự có khởi đầu hiện hữu
đều phải có một nguyên nhân nữa. Nó cho phép có những điều xảy ra không
cần có một nguyên nhân đầu tiên nào. Do đó, chúng ta không cần phải xem
tiền đề trên có giá trị chân lý hiển nhiên. Đúng hơn, chúng ta chỉ xem
tiền đề trên như là một phát biểu thông thường dựa trên sự quan sát của
những nhà hữu thần. Nhưng lại có vấn đề trong lối suy luận này.
Tuyệt
đối không có chứng cớ để có thể xem tiền đề trên là đúng. Những điều mà
chúng ta quan sát chỉ là những thay đổi của sự vật. Mọi vật chuyển đổi
từ trạng thái này qua trạng thái khác. Vật chuyển động, dừng lại, lớn
hơn, bé đi, nhập vào với vật khác, chia đôi, v/v... Nhưng chúng ta không
có được sự quan sát của những vật đang trở thành hiện hữu. Chẳng hạn như
chúng ta không quan sát được con người đang trở thành hiện hữu. Ở đây
chỉ là thay đổi nơi những sự vật. Một con tinh trùng hợp với cái trứng
làm thay đổi trạng thái. Sự phối hợp, chia cắt, làm lớn ra, và phát
triển thành một con người trưởng thành. Do đó, tôi có thể kết luận rằng,
chúng ta không có bằng chứng hiển nhiên cho tiền đề của Craig “mọi sự có
khởi đầu để hiện hữu thì đều phải có một nguyên nhân” là đúng. Những
nguyên nhân mà chúng ta biết được chỉ là những thay đổi trạng thái nơi
vật chất đã hiện hữu trước. Trong tiền đề về nhân quả của Graig và những
nhà hữu thần, chữ “nguyên nhân” đây có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn.
Nó có nghĩa là sáng tạo ra phần vật chất từ hư không. Thậm chí cho rằng
có thể có loại nguyên nhân lạ lùng này cũng đã hoàn toàn chỉ mang tính
suy đoán đơn thuần, chưa nói đến việc tuyên bố lập luận ấy được hỗ trợ
bằng những quan sát của chúng ta trong đời sống hằng ngày.
Nhưng cái điểm quan trọng hơn là ở chỗ này: Không những không có bằng
chứng hiển nhiên cho một quan điểm hữu thần mà lại có bằng chứng đối
nghịch với quan điểm này. Lập luận vũ trụ phải có một nguyên nhân khởi
đầu thì lại nghịch với lý thuyết khoa học ngày nay. Hàm số sóng (wave
function) là một lý thuyết khoa học về vũ trụ. Hàm số sóng này đã được
phát minh trong khoảng chừng một thập niên qua bởi những khoa học gia
như Stephen Hawking, Andre Vilenkin, Alex Linde, và nhiều khoa học gia
khác. Lý thuyết của họ là có một định luật khoa học thiên nhiên về vũ
trụ được gọi là hàm số sóng. Hàm số sóng này khẳng định rằng có một xác
suất cao là vũ trụ và những đặc tính của nó tự hiện hữu mà không cần một
nguyên nhân đầu tiên nào. Lý thuyết của Hawking dựa trên những con số
thiết lập cho mỗi vũ trụ khác nhau có thể có, rồi lần lượt tự loại dần
để sau cùng còn lại một vũ trụ với những đặc tính mà vũ trụ chúng ta
đang có. Cái vũ trụ còn lại này có một xác suất rất cao, gần như là
100%, đã tự hiện hữu mà không cần một nguyên nhân nào.
Lý thuyết của Hawking đã được khẳng định bằng những bằng chứng khi
quan sát. Lý thuyết này định được vũ trụ chúng ta có vật chất phân phối
đồng đều rất đại qui mô, qui mô ở mức độ của những dãy thiên hà khổng lồ
trong vũ trụ. Nó định được gia tốc bành trướng của vũ trụ chúng ta. Vũ
trụ chúng ta vẫn còn đang bành trướng, và gia tốc bành trướng hiện đang
nằm gần ngay khoảng giữa của gia tốc khi vũ trụ luôn mãi bành trướng và
gia tốc khi vũ trụ bành trướng rồi sụp đổ. Nó định được diện tích bành
trướng khởi thủy rất nhanh gần lúc vũ trụ mới bắt đầu thành hình. Giai
đoạn ban đầu này được gọi là sự lạm phát. Lý thuyết của Hawking định
được một cách chính xác những điều bất thường mà vệ tinh COBE đã khám
phá liên quan đến những tia phóng xạ trong vũ trụ. Như vậy, một lý
thuyết khoa học đã được khẳng định bằng những bằng chứng khi quan sát
cho ta biết được rằng vũ trụ đã tự hiện hữu mà không cần một nguyên nhân
đầu tiên nào. Vậy nếu bạn muốn là một người có trí tuệ và chấp nhận
những kết quả có lý lẽ khi tìm hiểu về vũ trụ thì chúng ta phải chấp
nhận một sự kiện hiển nhiên rằng không có Thượng đế nào tạo dựng vũ trụ
cả. Vũ trụ đã tự hiện hữu vì định luật về hàm số sóng này.
Ngày nay, lý thuyết của Hawking đã giải tỏa mọi thắc mắc làm sao mà
vũ trụ có thể hiện hữu không cần một nguyên nhân. Ông giả thuyết có một
không gian vô thời gian (timeless space), một khối hình cầu bốn chiều
lúc vũ trụ mới bắt đầu thành hình. Không gian này còn nhỏ hơn hạt nhân
của một nguyên tử có đường bán kính nhỏ hơn 10-33 centimeter. Bởi vì vô
thời gian nên chẳng cần tác động của một Thượng đế vô thời gian của các
nhà hữu thần. Khối hình cầu vô thời gian này có liên hệ tới vũ trụ đang
bành trướng của chúng ta. Vũ trụ chúng ta khởi đầu nhỏ hơn một nguyên tử
và nổ ra như một Big Bang, và ngày nay, chúng ta đang ở trong một vũ trụ
vẫn còn đang bành trướng. Có thể Thượng đế đã tạo vụ nổ này không? Thưa
không, vì hàm số sóng về vũ trụ xác quyết với một xác suất 95% rằng vũ
trụ đã tự hiện hữu không cần một nguyên nhân đầu tiên.
Nếu có Thượng đế
tạo dựng vũ trụ thì Thượng đế đã đi nghịch lại với định luật khoa học
này bằng hai cách.
Thứ nhất, định luật khoa học này định rằng, vũ trụ tự
hiện hữu vì những định luật toán học tự nhiên chứ không phải vì những
quyền lực siêu nhiên. Thứ hai, định luật khoa học này chỉ xác định một
xác suất 95% là vũ trụ hiện hữu. Nhưng nếu Thượng đế tạo dựng vũ trụ thì
phải có một xác suất 100%, bởi vì Thượng đế thì toàn năng. Nếu Thượng đế
muốn vũ trụ hiện hữu thì 100% vũ trụ phải hiện hữu.
Để kết luận, khoa Vũ trụ học ngày nay không những đã không hỗ trợ lập
luận của những nhà hữu thần mà còn đi nghịch lại với quan điểm hữu thần.
Như vậy, theo tôi nghĩ, đây là lý lẽ khoa học mạnh nhất để phản bác chủ
nghĩa hữu thần. Tôi nghĩ nó còn mạnh hơn cả lý thuyết tiến hóa của
Darwin.
Vô vàn sự dữ:
Tôi nghĩ còn có một lối lý luận thứ hai, riêng biệt, để phản bác chủ
nghĩa hữu thần dựa trên những lý lẽ thông thường mà chúng ta sử dụng
trong cuộc sống hằng ngày. John Mackie, một triết gia có tiếng tăm người
Anh, đã nói rằng nếu trong thế giới này có phép lạ thì phép lạ đó chính
là việc có nhiều người ngày nay vẫn còn tin có Thượng đế. Một trong
những lý do mà Mackie xác quyết như vậy là vì ông nhìn thấy vô vàn sự dữ
trong thế giới mà một Thượng đế toàn năng toàn thiện không thể tạo dựng
như vậy. Thí dụ hãy nhìn vào dịch cúm Spanish (Spanish influenza). Trong
thế chiến 1914-1918, có 10 triệu người chết; nhưng chỉ trong vòng 3
tháng, từ tháng 9 tới tháng 11 năm 1919, có tới 20 triệu người đã chết
do dịch cúm Spanish, tương đương với số người chết vì bệnh dịch hạch ở
thế kỷ 14. Rồi lại thình lình vi khuẩn này biến mất và không ai còn thấy
chúng xuất hiện. Như vậy, nếu có Thượng đế hiện hữu thì tại sao thiên
tai này lại xảy ra? Hay tại Thượng đế không đủ toàn năng để có thể giết
chết hết những con vi khuẩn, hay không đủ toàn năng để làm chúng không
phát sinh thêm? Vậy Thượng đế không toàn năng không phải là Thượng đế
theo nghĩa truyền thống Ki Tô giáo và Do Thái giáo. Đó chỉ là một sinh
vật thông minh ngoài không gian. Thượng đế chỉ có khả năng hơn chúng ta
ở mức độ nào, cũng như chúng ta có khả năng hơn những con kiến ở mức độ
nào đó. Nhưng đó không phải là Thượng đế nữa. Đó chỉ là một sinh vật hữu
hạn. Bạn không cần phải tôn thờ sinh vật này hơn tôn thờ ET [4] .
Thí dụ Thượng đế toàn năng và ngài có thể giết chết hết những con vi
khuẩn tạo dịch cúm Spanish trước khi chúng giết 20 triệu người. Tại sao
Thượng đế không làm vậy? Có phải bởi vì Thượng đế không toàn thiện? Bởi
vì Thượng đế không quan tâm đủ đến loài người? Điều đó giống như không
phải Thượng đế nhưng chính là sự dữ đang cai quản vũ trụ. Đó chỉ là một
thí dụ trong muôn vàn thí dụ về sự dữ trong vũ trụ.
Làm sao những nhà hữu thần có thể trả lời những lý luận kiểu này? Họ
trả lời rằng có lý do cho sự dữ xuất hiện, nhưng đó là một bí ẩn. Vậy
thì, hãy để tôi nói với bạn như thế này: Hiện tại tôi cao 100 bộ, mặc dù
tôi chỉ trông như cao có 6 bộ. Bạn bảo tôi chứng minh điều này thì tôi
sẽ trả lời đơn giản rằng: đó là một bí ẩn. Bạn hãy chấp nhận lời tôi nói
dựa vào đức tin. Và đó là lối lý luận của những nhà hữu thần đang dùng
khi bàn về sự dữ.
Thật vậy, có sự nghịch lý rõ rệt trong quan điểm hữu thần khi dùng
những lý lẽ thông thường mà chúng ta sử dụng trong đời sống hằng ngày.
Nếu chúng ta có bằng chứng về một sự vật hiện hữu thì chúng ta bảo rằng
rất có thể (probable) [5] vật đó hiện hữu. Nếu chúng ta thấy đám mây đen
đang bay đến, chúng ta bảo rất có thể trời sẽ mưa. Còn nếu chúng ta
không có bằng chứng về một sự vật, chúng ta chấp nhận rằng có lẽ
(possible) [6] sự hiện hữu của vật ấy chỉ là có lẽ, mặc dù rất có thể
(probable) là nó không hiện hữu.
Nếu Thượng đế hiện hữu như một sinh vật toàn năng toàn thiện thì
Thượng đế phải làm thế nào để thế giới hoàn toàn tốt lành. Chỉ có mỗi
một cách Thượng đế thực hiện điều này là tạo mọi sự dữ mà chúng ta thấy
rõ ràng trong thế giới như là phương tiện để làm thế giới tốt lành hơn.
Chẳng hạn như cơn đau của việc chích ngừa tự nó rõ rệt là xấu, nhưng đó
là phương tiện cho ta điều tốt lành hơn. Như vậy, nếu có Thượng đế thì
chúng ta phải có bằng chứng rằng mọi sự dữ mà chúng ta thấy chỉ là
phương tiện đưa đến những điều tốt lành hơn. Nhưng ngay cả những nhà hữu
thần cũng phải công nhận không có chứng cớ về những điều tốt lành hơn
này. Đó là lý do tại sao họ phải nói về những đường lối mầu nhiệm mà
Thượng đế làm. Chẳng hạn như trong việc 20 triệu người chết vì dịch cúm
Spanish, chẳng có tí bằng chứng nào để thấy thế giới được tốt lành hơn.
Do đó, kết luận là rất có thể (probable) không có Thượng đế.
Bây giờ có lẽ những nhà hữu thần sẽ trả lời rằng, có lẽ (may be) thế
giới được tốt lành hơn nhưng chúng ta không biết. Nhưng bạn hãy để ý kỹ
câu họ nói: “có lẽ (may be) có điều tốt lành hơn mà chúng ta không
biết”. Hiển nhiên là có lẽ có sự tốt hơn mà chúng ta không biết. Mọi sự
đều có lẽ. Cũng có lẽ có một con voi đạp đổ nhà tôi. Cũng có lẽ Elvis
Presley vẫn còn đang sống và đang nhảy tuýt ở phía bên kia mặt trăng.
Nhưng sự kiện mọi sự đều có lẽ (possible) không có nghĩa là rất có thể
(probable) xảy ra. Như vậy sự kiện có lẽ (possible) có Thượng đế không
chứng minh được chút gì điều rất có thể (probable) có một Thượng đế đã
tạo điều tốt lành hơn qua những sự dữ mà không ai biết. Vậy nếu có ai
bảo tôi hãy chấp nhận bằng đức tin rằng đang có những điều tốt lành hơn
để giải thích mọi sự dữ trên thế giới, nên do đó có một Thượng đế hiện
hữu, thì tôi trả lời rằng tôi sẽ chấp nhận điều đó bằng đức tin nếu bạn
cũng chấp nhận bằng đức tin rằng Elvis Presley hiện đang lắc hông trên
mặt trăng.
Kết luận
Để kết luận, tôi xin khẳng định rằng, thứ nhất khoa học hiện nay
không chấp nhận có Thượng đế hiện hữu. Và thứ hai, lý luận thông thường
mà chúng ta sử dụng hằng ngày khi áp dụng vào mọi sự dữ chúng ta trông
thấy cũng tự nó không chấp nhận có Thượng đế. Do đó, tôi nghĩ quan điểm
hữu thần rất là vô lý, còn quan điểm vô thần thì hữu lý hơn.
[4] TTL: ET là tên một cuốn phim khoa học giả tưởng, đề tài nói về
người ở ngoài không gian lạc vào địa cầu và có những quyền năng đặc
biệt.
[5] TTL: Tôi dịch từ “possible” và từ “maybe” là có lẽ; còn từ
“probable” là rất có thể. Bất cứ điều gì cũng có lẽ (possible) xảy ra
được khi chưa có chứng minh chắc chắn không thể. Có lẽ được hiểu theo
mức độ xác suất có thể xảy ra thấp nhất; còn rất có thể được hiểu ở mức
độ xác suất cao nhất, nghĩa là có nhiều cơ hội xảy ra nhất. Cũng vậy,
ngày mai mặt trời có lẽ sẽ mọc đàng Tây nhưng rất có thể không xảy ra
như vậy vì điều đó có một xác suất không đáng tin.