Trong
khi trao đổi với các đọc giả trên diễn đàn công cộng và các bạn cùng
trường về niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên chúa, tôi rất ngạc nhiên vì
nhiều người vẫn thường hay nêu ra lập luận đánh cuộc của Blaise Pascal
để biện minh cho niềm tin của mình. Đây là lối lập luận mà chúng tôi
được nhồi sọ khi còn học chung với nhau ở một tiểu chủng viện hơn ba
thập niên trước. Mặc dù lập luận của Pascal không quá khó bị đánh đổ,
nhưng sự phổ biến rộng rãi đủ bảo đảm việc bàn về nó là điều cần thiết.
Thực vậy, Pascal chỉ nêu ra mối lợi như là lý do để tin, đặt trên những
tiền đề giả định hoang tưởng: có một Thiên chúa lo cho phúc lợi của con
người; có thiên đàng và địa ngục, những nơi chốn thưởng phạt con người
sau khi chết; và con người thì bất tử vì còn linh hồn vẫn tiếp tục sống
ngoài thân xác. Đó là ba trong vô số những giả định căn bản mà người tín
hữu Thiên chúa giáo phải xem như là hiển nhiên bằng một đức tin không
lay chuyển.
Vậy mối
lợi Pascal nêu ra có phải là lý do chính đáng để chúng ta theo đuổi bằng
bất cứ giá nào không, kể cả mạng sống? Chúng ta sẽ tìm hiểu lập luận của
Pascal và những tiền đề giả định hoang tưởng, rồi tuần tự xét đến những
trường hợp có thể xảy ra để nhận thấy rằng việc đánh cuộc theo Pascal sẽ
dẫn đến nhiều bất lợi hơn cả.
Blaise Pascal (1623-1662)
Nội
dung đánh cuộc
Blaise
Pascal (1623-1662) là một nhà toán học và triết học người Pháp. Trong
chương có tựa đề Infinirien của cuốn
Pensées,
ông khẳng định rằng tất cả các lập luận chứng minh sự hiện hữu của Thiên
chúa đều vô giá trị. Không ai có thể chứng minh có hoặc không có Thiên
chúa. Ông so sánh hệ quả khác nhau từ quyết định tin hay không và đi đến
kết luận rằng thái độ và hành xử của người cẩn trọng và khôn ngoan nhất
là cứ tin có Thiên chúa, vì sau khi chết, nếu có Thiên chúa thì người
tin sẽ được phần thưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, người không
tin sẽ bị đày xuống địa ngục đời đời kiếp kiếp; còn nếu không có Thiên
chúa thì người tin cũng như người không tin sẽ chẳng mất mát khác nhau.
Chúng ta có thể tóm tắt lập luận của Pascal vào những luận điểm chính
yếu như sau:
·
Thiên
chúa chỉ có thể hoặc hiện hữu hoặc không hiện hữu, nghĩa là xác
suất cho mỗi bên là 50%.
·
Nếu chúng ta tin Thiên chúa và nếu Ngài hiện hữu, chúng ta sẽ nhận được
phần thưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng; còn nếu Ngài không hiện
hữu, chúng ta sẽ chẳng thiệt thòi hay mất mát gì.
·
Nếu chúng ta không tin Thiên chúa mà Ngài lại hiện hữu, chúng ta sẽ bị
phạt đời đời kiếp kiếp trong địa ngục; còn nếu đúng Ngài không hiện hữu
như chúng ta tin, chúng ta sẽ chẳng được gì hơn.
·
Thà chúng ta có cơ may nhận phần thưởng hạnh phúc vĩnh cửu thiên đàng
hơn là rủi ro bị phạt đời đời kiếp kiếp trong địa ngục.
·
Nếu đem so sánh các điều lợi hại của việc tin hay không tin thì người
khôn ngoan, cẩn trọng, biết hành xử theo lý trí đương nhiên chấp nhận
tin Thiên chúa hiện hữu.
Những
tiền đề giả định hoang tưởng
Có một
sự khác biệt căn bản giữa hai phạm trù Thượng đế và Thiên chúa, mặc dù
cả hai đều được dịch từ một danh từ “God”. Từ Thượng đế thường được dùng
trong các bộ môn khoa học, trong khi từ Thiên chúa được dùng trong tôn
giáo. Đối với những nhà khoa học, Thượng đế được hiểu như nguyên nhân
đầu tiên sáng tạo vũ trụ. Sau khi sáng tạo, Ngài không cai quản và can
thiệp vào bất cứ hiện tượng nào trong vũ trụ. Mọi sự xảy ra trong trời
đất đều tuyệt đối tuân theo những định luật máy móc, tự nhiên, chẳng có
chủ ý. Còn Thiên Chúa là một siêu sinh vật nhưng lại có nhân tính
(personal God). Sau khi sáng tạo, Ngài luôn luôn thương yêu, chăm sóc,
và lo cho phúc lợi của con người bằng cách can thiệp thường xuyên vào
các công việc trần thế. Người tín hữu Thiên chúa giáo tin rằng cho dù
một sợi tóc trên đầu rụng xuống cũng không ngoài thánh ý Chúa.
Đối với
Pascal, Thiên chúa có thể hiện hữu bởi vì ông đã sống rất lâu trước khi
có thuyết Tiến hoá khoa học đánh đổ thuyết Sáng tạo duy thần. Ngày nay,
giả định về sự hiện hữu của Thiên chúa không còn cần thiết trong Nhận
thức luận để giải thích bất cứ hiện tượng nào trong vũ trụ. Các khoa học
thực nghiệm đã xác định rằng ngay cả sự hiện hữu của Thượng đế, tác giả
của nguyên nhân đầu tiên, cũng có một xác suất không thể có
(improbable). [1] Vũ trụ có thể tự tạo, chẳng cần phải có một
sinh vật siêu tự nhiên nào tác động khởi đầu. Mang Thượng đế ra để gán
ghép cho nguyên nhân đầu tiên đã trở thành thừa thãi. Nhờ có định luật
hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ còn tự sinh từ hư không. Sự tự sinh là lý
do tại sao cần có một thứ gì đó, hơn là không có gì, là lý do tại sao vũ
trụ lại hiện hữu, tại sao chúng ta tồn tại. Không cần phải mang Thượng
đế ra để làm vũ trụ khởi động. [2]
Xác định
có một đấng Sáng tạo hay không là vấn đề khoa học, không phải là vấn đề
tôn giáo như chúng ta vẫn thường lầm tưởng. Mọi xác định của khoa học
đều có tính xác suất, không bao giờ là một khẳng định tuyệt đối. Bằng
chứng của khoa học không mang ý nghĩa tuyệt đối như bằng chứng của Luận
lý học. Trong Luận lý học, điều gì cũng có thể xảy ra (possible) nếu
chưa được chứng minh chắc chắn không thể xảy ra, nghĩa là việc không có
bằng chứng không phải là bằng chứng để khẳng định Thượng đế không hiện
hữu. Ngày mai mặt trời sẽ mọc đàng Tây là một điều có thể xảy ra theo
Luận lý học, nhưng có một xác suất không thể xảy ra theo khoa học. Khoa
học chỉ bàn đến chứng cớ đủ để có sự nghi ngờ hợp lý (reasonable doubt),
và khoa học đã xác định rằng không có chứng cớ đủ để nghi ngờ có Thượng
đế, cũng như chẳng có chứng cớ đủ để nghi ngờ ngày mai mặt trời sẽ mọc
đàng Tây. Nếu chúng ta cho rằng mặc dù vậy vẫn còn có sự hoài nghi thì
chúng ta sẽ chẳng có thể tin tưởng vào bất cứ điều gì của khoa học.
Còn
Thiên chúa của Thiên chúa giáo thì tuyệt đối không thể có do lập luận về
những thuộc tính mâu thuẫn loại trừ nhau trong Luận lý học. Parmenides
đã dạy chúng ta biết điều này từ hơn 2.500 năm trước, rằng không thể có
một vật có những thuộc tính mâu thuẫn loại trừ nhau. Những thuộc tính
của Thiên chúa như toàn năng, toàn trí, toàn thiện, hay thương xót, công
bình vô cùng v.v… tự chúng loại trừ nhau. Làm sao mà một hữu thể toàn
năng, toàn trí, biết cả tương lai lại có thể thay đổi ý định của mình?
Nếu có thể thay đổi ý định thì đã không toàn trí, nghĩa là không thông
biết hết mọi sự; còn nếu không thể thay đổi thì đã không toàn năng. Và
làm sao mà một hữu thể công bình vô cùng lại có thể thay đổi ý định của
mình bằng các phép lạ để thương xót theo lời van xin của một giống người
hèn mọn? Nếu phải thay đổi ý định để thương xót thì đã không công bình
vô cùng và cũng không toàn trí. Thiên chúa vô nghĩa giống như một hình
tròn lại vừa có các cạnh vuông (square sphere). Bởi vậy, từ xưa nay
chẳng có một bộ môn khoa học nào bỏ công sức tìm hiểu về Thiên chúa, một
ý niệm tưởng tượng vô nghĩa. Có bao nhiêu nhà thần học thì sẽ có bấy
nhiêu định nghĩa khác nhau về Thiên chúa. Vẽ ma quỉ là thứ dễ vẽ nhất vì
chẳng có tiêu chuẩn nào để định được vẽ đúng hay vẽ sai.
Như vậy,
sự hiện hữu của Thượng đế là điều có thể theo Luận lý học, nhưng có xác
suất không thể theo các khoa học thực nghiệm. Còn sự hiện hữu của Thiên
chúa có nhân tính trong Thiên chúa giáo là điều không thể theo các khoa
học thực nghiệm và càng tuyệt đối chắc chắn không thể theo Luận lý học.
Mặc dù vậy, Pascal vẫn cứ khăng khăng cho rằng Thiên chúa của Thiên chúa
giáo có thể hiện hữu hoặc không hiện hữu, cũng giống như hai mặt của một
đồng xu, chỉ có thể xảy ra hoặc xấp hoặc ngửa, mặc nhiên chấp nhận 50%
xác suất cho mỗi bên. Nhưng hiện nay có ít nhất 2.500 thần linh khác
nhau. Vậy lấy lý do gì để bảo đảm rằng Thiên chúa của Thiên chúa giáo
chân thật hơn các thần linh của các tôn giáo khác? Bởi vì chân lý chỉ có
một nên không thể tất cả cùng đúng. Như vậy, xác suất chỉ là 0,04% và
cũng có thể là 0%, chứ không phải là 50% nữa. Cũng vậy, bạn mua một vé
số độc đắc, không phải bạn có xác suất 50% trúng hoặc không trúng. Xác
suất trúng thì rất nhỏ, gần như 0%; và xác suất không trúng thì rất lớn,
gần như 100%. Ít nhất cũng đã có những người từng trúng số, còn thiên
đàng cho đến nay vẫn chỉ là một bánh vẽ chưa ai nhìn thấy.
Có một
đấng Sáng tạo hiện hữu không nhất thiết là phải có thiên đàng và địa
ngục. Thiên chúa giáo quan niệm rằng thiên đàng hay địa ngục là những
nơi chốn để thưởng phạt con người tùy theo đức tin của họ. Ngày nay,
Thiên chúa giáo tránh nhắc đến hai phạm trù này, và giáo hoàng John Paul
II cũng đã công khai phủ nhận vì nó chỉ gợi lên nỗi sợ hãi có mục đích
kềm chế đầu óc người tín hữu. Không thể có một hình phạt tàn nhẫn vô hạn
cho một lỗi lầm hữu hạn. Bertrand Russell cho rằng nỗi sợ hãi là nguồn
gốc của đức tin tôn giáo hữu thần. Những hình ảnh khóc lóc và nghiến
răng trong biển lửa đời đời kiếp kiếp thì đối nghịch với lòng nhân từ
của Thiên chúa, điều mà Thiên chúa giáo đang cố gắng rao giảng. Kinh
sách Công giáo trong hai ngàn năm qua cũng từng dạy chúng ta về sự hiện
hữu của lâm bô (limbo), một nơi chốn tối tăm dành cho những em bé qua
đời khi chưa kịp rửa tội và những người tốt lành sống trước khi đức
Giê-su nhập thế. Ngày nay, Vatican đã công khai bác bỏ giáo lý về sự
hiện hữu của lâm bô.
[3]
Triết gia Bertrand Russell
(1872-1970)
Giáo hoàng John Paul II
(1920-2005)
Việc con
người có phần linh hồn bất tử hay không để hưởng phước thiên đàng lại
còn là một vấn đề khác nữa. Các bộ môn khác nhau của khoa học đã xác
nhận rằng không có ý thức hay cái phần tinh thần độc lập với thân xác.
Một khi thân xác đã nằm xuống và rữa nát thì không còn ý thức và ký ức
nữa. Chúng ta đến từ hư vô rồi sẽ trở về với hư vô. Ý thức và tư duy đều
là hệ quả của những dòng điện sinh vật lý thuộc não bộ. Bằng chứng rõ
rệt nhất là khi đầu óc của chúng ta bị thương tích thì sẽ có ảnh hưởng
trực tiếp đến các sinh hoạt của tri thức. Trí tuệ hay khả năng tri thức
mà Thiên chúa giáo gọi là linh hồn, một thực thể thiêng liêng, độc lập
với thân xác, có cá tính riêng biệt, nối tiếp, và vĩnh cửu thì hoàn toàn
tùy thuộc vào sự lành mạnh của thân xác. Con người trong bản chất là một
con vật xã hội không ngừng tiến hoá, chỉ khác nhau về mức độ thông minh
được đo bằng lượng chất xám nằm trong não bộ.
Người ta
có thể kết án một cách khinh bỉ rằng đây là một quan điểm duy vật. Nhưng
thử hỏi chúng ta đã hiểu về vật chất đến mức độ nào? Liệu chúng ta có
thể nêu ra một hữu thể nào mà không có phần căn bản vật chất được không?
Những tác nhân không có phần thân xác vật chất như thần thánh hay ma quỉ
mà tổ tiên chúng ta thường dùng để “giải thích” những hiện tượng dị
thường càng ngày càng trở nên không cần thiết trong việc giải thích mọi
hiện tượng. Chân lý mọi người đều phải chết, nghĩa là không có sự bất
tử, mãi mãi vẫn đúng.
Nếu
Thiên chúa hiện hữu
Cho dù
giả định Thiên chúa hiện hữu, hoàn toàn nghịch với Luận lý học và các
khoa học thực nghiệm, thì mối lợi của người tin hay mối hại của người
không tin cũng không được xác định.
Việc ban
thưởng hay luận phạt theo tiêu chuẩn đức tin thì hoàn toàn vô lý. Tại
sao vất bỏ lý trí để tin điều vô lý lại là một nhân đức lớn trong Thiên
chúa giáo, cao trọng hơn cả lòng bác ái và tính ngay thẳng lương thiện
trí thức; trong khi lòng hoài nghi, một phẩm hạnh thiết yếu và đứng đầu
trong khoa học, thì lại bị dèm pha là kiêu ngạo? Rất có thể Thiên chúa
chỉ ban phần thưởng thiên đàng cho những kẻ ngay thẳng với lương tâm,
can đảm và hành động theo lý trí, chứ không cho những kẻ mù quáng, chỉ
vì mối lợi mà hèn nhát đến nỗi bất chấp mọi lý lẽ. Hành động tốt hay xấu
của chúng ta quan trọng hơn việc tin hay không tin. Người tốt lành là
người ăn ở ngay thẳng, không màng đến kết quả của phần thưởng hay hình
phạt. Nếu chúng ta làm điều tốt lành để mong được phần thưởng thiên đàng
hay để khỏi chịu hình phạt ở địa ngục thì đó là sự buôn bán đổi chác,
đầu tư sòng phẳng không hơn không kém. Điều này cho chúng ta thấy đạo
đức và luân lý của người không tin có tiêu chuẩn cao hơn đạo đức và luân
lý của người tin.
Richard
Dawkins viết, khi Bertrand Russell đối diện với Thiên chúa và được hỏi:
“Tại sao ngươi đã không tin Ta hiện hữu?” Russell thành thật ngay thẳng
trả lời: “Thưa Ngài, tại vì không có bằng chứng để tôi tin Ngài hiện
hữu”. Nếu Thiên chúa có tinh thần của một nhà khoa học – Thiên chúa dĩ
nhiên phải có tinh thần khoa học vì chính Ngài được xem như đã thiết kế
và tạo dựng vũ trụ – thì Thiên chúa phải biết thưởng thức tính lương
thiện trí thức của người hoài nghi như Russell và khinh thường sự hèn
nhát của những người chỉ vì lợi mà tin vào điều vô lý. Và khi không biết
chắc chắn kết quả thắng cuộc sẽ được ban thưởng hay bị luận phạt nặng nề
hơn thì sự đánh cuộc là một việc làm vô nghĩa lý.
Ngoài
ra, không phải muốn tin là có thể tin. Tin tưởng không phải là một quyết
định của ý chí mà là trạng thái của trí tuệ khi chấp nhận một mệnh đề
nào đó. Trạng thái chấp nhận này chỉ đến với chúng ta qua lý luận hợp lý
hay khi có các chứng cớ khách quan hỗ trợ. Lý trí nhận thấy điều gì vô
lý thì tự động làm mình không tin. Người ta không thể tin tưởng điều vô
lý chỉ vì lợi. Người tin vào điều vô lý thực ra chỉ hy vọng và ao ước
điều hắn tin là đúng, do động cơ mối lợi, chứ không phải hắn đang tin
tưởng thực sự. Niềm hy vọng và ao ước của hắn không làm điều hắn tin
chân thật hơn. Hắn có thể đi nhà thờ, lần chuỗi Mân côi, đọc kinh Tin
kính, tuyên xưng đức tin, đặt tay lên Kinh thánh để thề v.v… nhưng những
thứ đó không làm đức tin của hắn mạnh mẽ hơn nếu hắn đã không tin. Trong
trường hợp đó, một dụng cụ điện tử như máy ghi âm lặp đi lặp lại vô hạn
lời kinh chắc chắn tốt và có giá trị hơn người đọc kinh.
Đó cũng
là lý do tại sao Thiên chúa giáo hay quanh co bàn về niềm hy vọng thay
vì bàn thẳng vào đức tin. Hiểu được điều này sẽ làm chúng ta không còn
ngạc nhiên và thắc mắc tại sao vẫn thường hay xảy ra những vụ xì căng
đan lớn của những giáo sĩ quyền cao chức trọng. Spinoza, triết gia người
Đức, cho rằng tin và hiểu thì hoàn toàn giống nhau; trong khi không tin
còn phải đòi hỏi một động tác tiếp theo là từ khước, chối bỏ.
Như vậy,
nếu không có thể tin tưởng, nắm chắc và thấu hiểu thực sự những điều phi
lý thì làm thế nào Thiên chúa thưởng phạt con người dựa theo tiêu chuẩn
đức tin? Điều Thiên chúa giáo dạy rằng đức tin là một ân huệ hay tặng
phẩm Thiên chúa ban riêng cho mỗi người càng làm sự thưởng phạt trở nên
vô nghĩa hơn nữa. Vậy đức tin do giáo dục, không phải là ân huệ hay tặng
phẩm.
Nếu
Thiên chúa không hiện hữu
Giả định
Thiên chúa của Thiên chúa giáo không hiện hữu, và điều này tuyệt đối
chắc chắn đúng theo Luận lý học và các khoa học thực nghiệm, thì có phải
người tin và người không tin đều không mất mát như nhau? Chúng ta hãy
thử xem xét thời gian và công sức một người phải bỏ ra để lo việc tôn
thờ và vinh danh Thiên chúa.
Đời
người chỉ có trung bình chừng 70-80 năm. Nếu phải dành một ngày trong
mỗi tuần cho việc tôn thờ và vinh danh Thiên chúa thì mỗi người phải bỏ
phí mất 10 năm. Cho dù có tính toán một cách dè dặt hơn thì cũng phải
7-8 năm của tuổi thọ, hơn cả thời gian học đại học để lấy bằng tiến sĩ.
Đó là chưa kể thời gian làm ra tiền bạc để hỗ trợ cho các công việc tôn
giáo như xây dựng nhà thờ, nhà xứ, nuôi các giáo sĩ và tu sĩ v.v... Thời
gian phí phạm 7-10 năm là một quãng thời gian quá dài nếu biết rằng con
người rất bận rộn vật lộn với một đời sống khó khăn, hữu hạn và duy
nhất. Nếu huy động thời gian và nguồn lợi tức này để chú tâm lo cho các
công việc bác ái thì sẽ hữu ích cho xã hội và con người hơn.
Luận
điểm hấp dẫn nhất của Pascal nằm ở chỗ so sánh một bên là “một đời” hiện
tại với sinh, lão, bệnh, tử; và một bên là “muôn muôn đời” với hạnh phúc
vĩnh cửu. Nếu bạn chỉ cần bỏ ra một đồng VN để có cơ hội 50% thắng “muôn
muôn” lần đồng Euro thì sự đánh cuộc quá hấp dẫn, không thể không đặt
cuộc. Điều này có nghĩa là ngoài cuộc đời khổ luỵ này, chúng ta còn có
vô số cuộc đời tiếp nối khác để hưởng thụ. Hệ quả hai bên không cân bằng
của việc đánh cuộc là người ta xem thường mạng sống của mình. Cuộc sống
kiếp này chỉ là một cuộc du hành phù du để đi về nhà Chúa, và ở đó,
người ta sẽ gặp lại những người thân yêu đã đi trước. Sinh ký tử qui là
vậy! Do đó, người ta không lạ lùng gì khi người tín hữu Thiên chúa giáo
đã từng hô hào rằng chúng tôi thà vâng lời Thiên chúa hơn là vâng lời
người thế gian, hoặc thà mất nước hơn là mất Chúa. Lề luật của tôn giáo
được đặt lên trên lề luật của quốc gia, nhất là khi có sự mâu thuẫn giữa
hai lề luật. (Ðó là chưa kể đến việc còn có nhiều tôn giáo với những lề
luật đối nghịch nhau trong cùng một quốc gia.)
Vụ những
người có đức tin tôn giáo hữu thần ám sát các bác sĩ và đặt bom nhà
thương có dịch vụ phá thai hợp pháp, vụ cướp hai phi cơ đâm vào hai toà
nhà ở World Trade Center thuộc bang New York ngày 11 tháng 9 năm 2001,
vụ các khủng bố quân ôm bom nổ ở khắp nơi v.v… tất cả đều có nguồn gốc
từ đức tin của những tôn giáo hữu thần trong nhóm độc thần giáo. Những
tác nhân của các thảm trạng này đều có niềm tin tưởng không lay chuyển
rằng đó là con đường ngắn nhất để đi đến thiên đàng, nơi có các cô trinh
nữ đang chờ đợi mà Thiên chúa đã hứa ban thưởng cho họ, những người chết
cho đạo giáo. Không có một phản lực nào có thể chống đỡ nỗi sức mạnh của
niềm tin tưởng cuồng tín vào tôn giáo.
Người ta
có thể lập luận rằng đó là những người theo chủ nghĩa cực đoan, cuồng
tín, giáo điều vì tin tưởng sai lầm, không phải là những người có đức
tin đúng đắn. Nhưng làm thế nào để có thể bào chữa được rằng đức tin của
bạn đúng đắn hơn đức tin của họ nếu không có một tiêu chuẩn nào để so
sánh? Một khi lý trí đã bị vứt bỏ để tin vào điều vô lý thì người ta
không còn có thể nói chuyện theo lý lẽ. Và hậu quả của một quốc gia
không thượng tôn pháp luật tất nhiên sẽ dẫn đến bất ổn, loạn lạc và
chiến tranh, nguồn gốc của biết bao sự dữ.
Sự
thực dụng của niềm tin hữu thần:
Như vậy,
những điều bất lợi do niềm tin tôn giáo hữu thần mang lại rõ rệt nhiều
và nghiêm trọng hơn những điều lợi. Bằng chứng ngày 23.12.2006, báo
The Guardian đã đăng kết quả một cuộc nghiên cứu thăm dò về các tôn
giáo ở Anh quốc, một quốc gia có một thời nhận Anh giáo Tin lành là quốc
giáo nhưng ngày nay có tới 2/3 dân chúng tự nhận mình là người không tin
(non-believers), ghi nhận rằng 82% dân chúng được phỏng vấn trên 18 tuổi
đều tin rằng tôn giáo làm hại hơn làm lợi (religion does more harm than
good), là duyên cớ gây chia rẽ và căng thẳng giữa con người với nhau
(they see religion as a cause of division and tension between people).
Chỉ có 16% dân chúng nghĩ tôn giáo có lợi cho con người và
xã hội. [4]
Còn một
cuộc nghiên cứu thăm dò khác trên trang báo điện tử About.com đặt câu
hỏi rằng nếu bạn phải đánh cuộc theo Pascal, bạn sẽ đặt đời bạn ở tôn
giáo nào? Có 30% trả lời rằng họ không thiết tha đặt đời mình đánh cuộc
theo bất kỳ tôn giáo nào; 34% chọn một tôn giáo vô thần có lẽ như Phật
giáo (atheistic religion like maybe Buddism); chỉ có 17% chọn Thiên chúa
giáo.
[5]
Tôn giáo vô thần ở đây phải hiểu là tôn giáo trong đó không có chỗ đứng
của một Thượng đế sáng tạo, đối nghịch với các tôn giáo hữu thần trong
hệ thống độc thần giáo.
Nhưng cho dù niềm tin hữu thần, bất kể đúng hay sai, có thể mang đến
những điều tốt lành cho xã hội, đó vẫn không phải là lý do chính đáng để
áp đặt lên đầu lên cổ mọi người dân. Nhân danh giá trị lợi ích thực dụng
của nó, chính quyền sẽ không ngần ngại thực hiện mọi biện pháp trấn áp,
vi phạm những quyền căn bản của con người, miễn sao mang lại điều tốt
lành cho xã hội. Đó là một chính sách sai lầm lớn mà chúng ta đã nhận
thấy trong suốt chiều dài của lịch sử qua những việc như kiểm duyệt, đốt
sách vở, trù dập, bắt bớ, thủ tiêu, nướng sống các phù thủy và khoa học
gia, thánh chiến, v.v... Những thủ đoạn áp bức hay dụ dỗ cải đạo thiên
hạ, hay nhẹ nhàng hơn, những phương cách truyền giáo của Thiên chúa giáo
chính là những cố gắng áp đặt niềm tin dựa trên lý do hiệu quả tốt, bất
chấp niềm tin đó có chân thật hay không. Chúng ta không thể lấy cứu cánh
để biện minh cho phương tiện, huống hồ cái cứu cánh tốt lành mơ hồ của
niềm tin tôn giáo hữu thần lại đang là một câu hỏi lớn bên cạnh 7 núi
tội mà Thiên chúa giáo đã công khai xin lỗi với toàn thể nhân loại.
Kết
luận
Tóm lại,
nếu theo Pascal đặt cuộc thì chúng ta sẽ chịu nhiều thiệt thòi hơn ở đời
này và còn thê thảm hơn ở đời sau, nếu có, bởi phần thưởng thiên đàng sẽ
thuộc về người lương thiện, ngay thẳng, không tin; còn địa ngục thì dành
cho kẻ mù quáng, những người chỉ vì lợi mà bất chấp mọi lý lẽ. Một khi
không biết chắc chắn kết quả thắng cuộc sẽ được ban thưởng hay bị trừng
phạt nặng nề hơn thì sự đánh cuộc là một việc làm hoàn toàn vô nghĩa.
Hơn nữa, sự hiện hữu của Thiên chúa với những thuộc tính mâu thuẫn loại
trừ nhau là điều tuyệt đối không thể có theo Luận lý học, và do đó, cũng
chắc chắn không thể có theo các bộ môn khoa học thực nghiệm. Mối lợi mà
Pascal tin tưởng đã được dựa trên những tiền đề giả định hoang tưởng.
Việc nêu
ra mối lợi để tin tưởng mà không cần bằng chứng cũng giống như việc tin
tưởng rằng có một viên kim cương to lớn bằng cái tủ nằm rất sâu trong
vườn để rồi bỏ công sức cả đời ra đào xới, tìm kiếm. Nếu tìm được viên
kim cương đúng như mình luôn luôn hy vọng và tin tưởng bằng một đức tin
không lay chuyển thì đời mình chắc chắn sẽ được sung sướng và hạnh phúc
lắm. Phải chăng đó cũng là mối lợi lớn chúng ta nên theo đuổi với bất cứ
giá nào?
Như vậy,
chúng ta có thể khẳng định được rằng không cần phải tin có Thiên chúa,
cũng chẳng cần phải sợ hình phạt địa ngục, hay phải ham muốn mối lợi
phần thưởng thiên đàng, chúng ta vẫn có thể sống tử tế và tốt lành như
những con người cao quí có phẩm giá. Chúng ta chỉ có một cuộc đời hiện
tại để sống thật trọn vẹn với nó, chẳng cần mơ ước một cuộc đời nào khác
để rồi phải chạy theo, sống với những ảo tưởng trong suốt cuộc đời này.
Quá khứ cũng giống như món tiền đã xài rồi, còn tương lai là những giấy
nợ chưa chắc có thể thanh toán. Chỉ có hiện tại mới là món tiền tươi mà
mình có thể sử dụng ngay bây giờ.
Và mục
đích của chúng ta nhắm tới là hạnh phúc ở ngay cõi đời này, nó gắn bó
mật thiết với hạnh phúc của những người xung quanh chúng ta; chứ chẳng
phải là làm vinh danh Thiên chúa để mong có được phần thưởng bánh vẽ
thiên đàng. Đối tượng phục vụ của chúng ta là con người và cuộc đời cụ
thể này, không phải là ý niệm Thiên chúa, chỉ có trong tưởng tượng.
Chúng ta
là những ký sinh trùng li ti bám víu vào một hành tinh vô nghĩa, trôi lơ
lững như hạt bụi trong không gian vô tận. Bạn nghĩ bạn là ai mà có thể
làm “vinh danh Thiên chúa trên các tầng trời”, hay làm “rạng danh Cha cả
sáng”, đấng toàn năng, toàn trí, đã tạo dựng vũ trụ và muôn loài?