Đời Sống Phóng Đãng Dâm Loàn Của Giới Lãnh Đạo Trong Nhà Thờ Vatican
Chương này được trình bày qua 7 mục như sau: Định nghĩa văn hóa- Đối chiếu qui tắc hành xử trong đạo ca tô và truyền thống á đông - Những thuật ngữ ngạo mạn- Các nhà lãnh đạo sống đời phóng đãng, lọan luân, dâm loàn - Tu sĩ Ca-tô người việt lừng danh - Tín đồ Ca-tô nhận xét về tội ác của các linh mục và đưa ra trước công luận – Một số tín đồ ca tô can đảm đưa ra trước công luận - Kết luận
I.- ĐỊNH NGHĨA VĂN HÓA
Từ “văn hóa” dùng trong tiểu mục này được hiểu theo hai định nghĩa sau đây.
- Theo Việt Nam Tự Điển của ông Lê Văn Đức:
“Văn hóa là văn học và giáo hóa tức là sự học hỏi bằng chữ nghĩa và văn chương.”
- Tự điển tiếng Anh, The American Heritage Dictionary of The English Language, đưa ra tới 7 định nghĩa của từ “văn hóa”, trong đó có 1 định nghĩa thích hợp với chủ đề của tiểu mục này, dịch như sau:
"Văn hóa là tòan bộ những tiêu chuẩn về cách cư xử, nghệ thuật, tín ngưỡng, định chế, và tất cả những đặc sản khác về tư tưởng và công nghiệp của con người được lưu truyền trong một cộng đồng của một nhóm dân hay một dân tộc.” [Culture: The totality of socially transmitted behavior patterns, arts, beliefs, instituions, and all other products of human work and thought characteristic of a community or population.]
II.- ĐỐI CHIẾU QUI TẮC HÀNH XỬ TRONG ĐẠO CA TÔ VÀ TRUYỀN THỐNG Á ĐÔNG.
Qui tắc hành xử trong đạo Ca Tô trái ngược với công lý và quy tắc đạo lý đông phương. Vì có chủ trương khơi động lòng ích kỷ, tham danh, hám lợi, háo thắng và háo sát, Giáo Hội La Mã đã phải đặt ra:
1.- Những qui luật đặc biệt coi như là những qui tắc đạo lý hoàn toàn trái ngược với công lý hay qui tắc đạo lý của nền tam giáo cổ truyền của các dân tộc Đông Phương và đòi hỏi tín đồ phải triệt để tuân hành.
2.- Những tước vị với những lễ nghi và cung cách xưng hô như "Đức Thánh Cha", "Đức Cha", "Đức Ông", khiến cho người ngoài cuộc cảm thấy vừa sặc mùi phong kiến vừa bất bình thường đến độ coi như là quái đản.
Để có thể giúp cho độc giả nhìn thấy rõ sự tương phản, chúng tôi xin nêu lên một số những quy tắc hành xử trong đạo Ca-tô (phần A,) đối chiếu với nền đạo lý Đông Phương (phần B.)
A.- Một Số Những Quy Tắc Hành Xử Trong Đạo Ca-Tô
Xã hội Ca-tô là một xã hội đóng kín. Các tín đồ được qui tụ sống biệt lập trong các xóm đạo. Sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi nhận như sau:
“Ngoại trừ các cụm nhà thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người công giáo thường được tập trung lại thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi lũy tre. Bị đóng khung và được đoàn ngũ hóa bởi hành giáo sĩ, họ trở thành một lực lượng quần chúng đáng ghê sợ khi cha xứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội chính thức phê chuẩn, chẳng hạn sách Truyện Kiều, hoặc các tài liệu cách mạng đều bị cho là ngược với đạo. Các sách của Voltaire, Montesquieu, khỏi nói tới Các Mác, vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai trừ, nhưng ngay cuốn sách đã dịch ra tiếng bản xứ mà cũng chẳng ai được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng La-tinh và Việt ngữa, khổ lớn, nằm trong thư viện các chủng viện và vài cha xứ, còn giáo dân thì không thể sờ tới.”(5)
Ngoài ra, Giáo Hội còn đòi hỏi tín đồ:
1.- Phải tuyệt đối không được có “tình ý riêng”, nghĩa là tín đồ không được phép suy tư và hành động khác với tín lý Kitô, khác với giáo luật và khác với lời dạy đỗ của Giáo Hội. Điều này làm cho tín đồ bị mất hẳn quyền tự do tư tưởng.
2.- Phải tuyệt đối vâng lời và tin tưởng vào những tín lý Kitô. Do vậy tín đồ trở nên bảo thủ và ngoan cố để bảo vệ tất cả những gì thuộc về giáo hội cũng như bảo vệ "niềm tin bị bắt buộc" của họ.
Các đòi hỏi trên đây được Giáo-sư Lý Chánh Trung trình bày như sau:
"Trong Giáo Hội Công Giáo thì trái lại, khuynh hướng đóng kín và tự mãn hiện diện ngay trên bình diện tập thể, vì Giáo Hội đã tự ý thức mình như một dân tộc được Thiên Chúa chọn lựa và giao cho sứ mạng cứu rỗi nhân loại. Giáo Hội là con đường độc nhất đưa tới Thiên Chúa: "Ngòai Giáo Hội không thể có sự cứu rỗi" (hors de l' Église, point de salut).
Hậu quả của quan niệm ấy là tính cách bất khoan dung của Giáo Hội Công Giáo: Giáo Hội đã được Thiên Chúa ban truyền toàn bộ sự thật cần thiết cho sự cứu rỗi và chỉ Giáo Hội mới có quyền giải thích hoặc khai triển sự thật đó. Tất cả những gì ở ngòai sự thật nói trên hoặc trái với lời giải thích chánh thức của Giáo Hội chỉ có thể sai lầm. Mà Giáo Hội có quyền và có bổn phận tiêu diệt sự sai lầm để bảo vệ sự thật hầu hòan thành sứ mạng cứu rỗi của mình. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Giáo Hội đã không ngần ngại dùng bạo lực để tiêu diệt những tôn giáo khác, đập phá các đền thờ "tà thần", đốt sách vở ngọai đạo và đốt luôn bọn người bị xem là "lạc đạo", nếu không chịu sửa sai.
Những hành động nói trên không phải bắt nguồn từ một khuynh hướng đế quốc mà từ cái ý thức rất chân thành và nghiêm chỉnh của Giáo Hội về sứ mạng cao cả của mình. Thật là cảm động khi nhìn lại cái ý chí sắt đá mà Giáo Hội đã giữ được nguyên vẹn qua bao cuộc thăng trầm trong gần hai ngàn năm lịch sử, để thi hành mạng lịnh cuối cùng của Đức Kitô: "Các con hãy ra đi dạy dỗ các dân tộc". Điều đáng buồn là một số phương pháp mà Giáo Hội đã dùng đến để dạy dỗ các dân tộc có tính cách phản giáo khoa.
Sự bất khoan dung khiến cho, trong quá khứ, Giáo Hội không bao giờ chấp nhận tự do trong nội bộ của mình cũng như trong xã hội loài người nói chung. Trong nội bộ Giáo Hội, người Công Giáo không có quyền có ý kiến riêng mà luôn luôn phải theo lời dạy của giáo quyền. Có một ý kiến riêng là đã "lạc đạo" rồi như Giám-mục Bossuet viết: "Người lạc đạo" (hétérique) là người có một ý kiến theo nguyên nghĩa. Mà có một ý kiến là gì? Là một tư tưởng riêng, một tình cảm riêng. Nhưng người Kitô hữu là người Công Giáo nghĩa là con người phổ biến (universel), con người không có tình ý riêng tư mà luôn luôn phải tuân theo tình ý của Giáo Hội không một chút do dự. ” Trong xã hội loài người, Giáo Hội không bao giờ công nhận cho các tôn giáo khác hoặc cho những người không công giáo cái quyền ăn nói ngang hàng với mình, bởi các lý do giản dị là chỉ có Giáo Hội mới có sự thật mà chỉ có sự thật mới có quyền ăn nói. Người sai lầm thì chỉ có mỗi một quyền sửa sai.
Trong thông điệp ngày 29-4-1814 gửi Đức Giám-mục địa phận Troyes, Đức Giáo Hoàng Pie VII viết “Người ta lẫn lộn sự thật với sự sai lầm, người ta đặt Hiền thê thánh thiện và tinh tuyền của Đức Kitô (tức Giáo Hội Công Giáo) ngang hàng với những giáo phái lạc đạo và ngay cả với bọn Do Thái bất tín”. Đức Giáo Hoàng Grégoire XVI đã gọi tự do báo chí là “thứ tự do tai hại nhất, đáng ghét nhất, kinh tởm nhất mà một số người dám đòi hỏi một cách ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá khắp nơi...”.
Tóm lại, ít nữa là trước Công Đồng Vatican II, lý tưởng của Giáo Hội vẫn là thời vàng son Trung Cổ trong đó Giáo hội có đủ thế lực để giành độc quyền dạy dỗ các dân tộc.
Tôi nghĩ rằng chính sự bất khoan dung nói trên (ngòai những lý do khác) đã khiến cho Giáo Hội va chạm nặng nề với các dân tộc Á Đông và đã không thành công mỹ mãn trong việc rao giảng tin mừng tại vùng này. Sau bốn thế kỷ giảng đạo với những phương tiện hùng hậu, những hy sinh lớn lao, phải nhận rằng số người Á Đông theo đạo thật là ít oi, ngoại trừ xứ Phi Luật Tân. Lý do căn bản của kết quả khiêm tốn ấy phải chăng là người Á Đông, khi theo đạo phải ly cách với cộng đồng dân tộc chính vì Giáo Hội đã xem các nền văn hóa Á Đông là vô giá trị, sai lầm, tội lỗi, do đó gần như bắt buộc người Á Đông phải lựa chọn giữa dân tộc và Giáo Hội.
Ngày nay hầu hết mọi người đều đồng ý rằng việc cấm đạo, giết đạo dưới các nhà vua triều Nguyễn là một hành động bất nhân và sai lầm. Nhưng nếu chúng ta tự đặt mình vào địa vị các nhà vua ấy, vào cái khung cảnh tâm lý thời đó, thì có lẽ chúng ta khó có thể làm khác hơn.” (6)
Ngoài việc nhốt giam tín đồ trong các xóm đạo và trong hàng rào văn hóa đặc biệt như trên, Giáo Hội còn đưa ra một số ngôn từ (sẽ đề cập sau) và những “phán quyết” điển hình cho tính cách trịch thượng trong đạo Ca-tô. Dưới đây là một số thí dụ điển hình.
GH. Gregory VII - GH. Boniface VIII - GH. Nicholas V
1.- Ban hành bản tuyên ngôn "Dictatus papae" trong thời Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085). Tuyên ngôn này có với 27 câu tự tôn, tự đại như: Giáo hội La Mã được thành lập chỉ bởi Thiên Chúa, Chỉ có Đức Giáo Hoàng mới có quyền được gọi là "toàn cầu"... .
2.- Ban hành sắc lệnh "Unam Sanctam" (Giáo Hội duy nhất thánh thiện) trong thời Giáo Hoàng Boniface VIII (1295-1303) phán rằng:
"về tính duy nhất và độc nhất này, Giáo Hội chỉ có một thân thể và một đầu - không có hai đầu như quái vật - là Đức Kitô, đại diện của Đức Kitô là Phêrô, và các đấng kế vị Phêrô... Truyền rằng Giáo Hội này và trong quyền lực của Giáo Hội có hai thanh gươm, một cho giáo quyền và một cho thế quyền."(7)
3.- Ban hành sắc chỉ Romanus Pontifex vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hòang Nicholas V (1447-1455) phán rằng:
“Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa Thánh, Giáo Hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo Hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn".(8)
4.- Dạy dỗ tín đồ Ca-tô Việt Nam rằng:
“Người Công Giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực của Nhà Vua và luật pháp của nước họ. Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ, họ chỉ phải tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican mà thôi." (9)
5.- Luật bất thành văn, đòi hỏi những người muốn thành hôn với tín đồ của Giáo Hội phải từ bỏ tôn giáo cổ truyền của gia đình họ, phải học giáo lý Kitô và rửa tội theo đạo rồi mới được tiến hành làm lễ thành hôn.
6.- “Phải có bổn phận giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngọai đạo biết.”(11) , “Cha là đại diện của Chúa. Do đó Giáo dân phải coi Cha như Chúa. Nếu cha có làm gì sai quấy thì đã có Chúa phán xét; giáo dân không có quyền phán xét hay nói hành tỏi, vì rằng làm như vậy là nói xấu Chúa và sẽ có tội với Chúa."
7.- Khi viết sử thì phải tôn trọng lời khuyên của các bậc tiền bối (các đáng bề trên trong Giáo Hội) răn dạy “Tốt khoe ra, xấu xa đậy lại.” (12)
vân vân...
Những gì được trình bày trên đây cho chúng ta thấy rằng những qui tắc đạo lý Kitô La Mã (nếu được gọi là đạo lý) hoàn toàn trái ngược với những qui tắc của nền đạo lý cổ truyền của các dân tộc Á Đông.
B.- Một Số Những Quy Tắc Hành Xử Trong Nền Đạo Lý Đông Phương
Xã hội Đông phương là một xã hội cởi mở trong khuôn khổ đạo lý vị tha. Tùy theo mối tương quan của cá nhân mình đối những người khác trong gia đình, xã hội và quốc gia, người dân phải ứng xử cho đúng với cái đạo làm người trong vị thế của mình. Trong dân gian, người ta lưu truyền những câu tục ngữ, ca dao để dạy con người cách hành xử trong xã hội, điển hình như:
1.- "Vừa mắt ta ra mắt người" (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân), "biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe” (Tri chi vi tri, bất tri vi bất tri, thị tri dã).
2.- Nhún nhường mà học hỏi cả những người có thể thua kém mình về tuổi tác cũng như địa vị trong xã hội (bất sỉ hạ vấn) vì rằng trong số những người mình tiếp xúc, rất có thể có người có một khả năng hay kiến thức nào đó mà mình cần phải học hỏi. (Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư).
3.- Không được tự kiêu, tự đại, huênh hoang khoe khoang khoác lác để rồi coi đời bằng nửa con mắt (mục hạ vô nhân). Không nên cho mình là số 1 ở trên đời này "duy ngã độc tôn" mà mang họa và chuốc lấy sự khinh bỉ của người đời, vì rằng "Nhân hữu ngoại nhân, thiên hữu ngoại thiên”, và “Cao nhân tất hữu cao nhân trị".
4.- Xem mọi người trong thiên hạ như anh em trong một nhà, không phân biệt màu da, sắc tộc, địa phương, chính kiến hay tôn giáo (Tứ hải giai huynh đệ).
5.- Lấy lòng thẳng thắn và cương trực để ứng xử với người có ân oán với mình. (dĩ trực báo oán).
6.- Khoan dung và tha thứ đối với những người cấp dưới (lượng cả bao dong, có dong kẻ dưới mới là người trên).
7.- Vâng lời và chăm sóc cha mẹ khi đau khi yếu và lúc tuổi già sao cho tròn chữ hiếu của đạo làm con.
8.- Đối với các đấng thần linh hay ma quỷ, nếu cần, thì chỉ nên cúng lễ với lòng thành thực mà cung kính (Phù tế giả, phi vật tự ngoại chi giả giã, tự trung xuất, sinh ư tâm giã); tỏ lòng kính và chẳng nên bàn tới (kính nhi viễn chi).
Không nên bàn tới chuyện thần linh hay ma quỷ vì trong thực tế, không ai có kinh nghiệm từ thế giới thần linh trở về để có thể biết rõ các đấng thần linh hay hồn ma bóng quỷ như thế nào cả. Vì thế cho nên Nho giáo chủ trương không bao giờ được đem chuyện trên trời nói cho người ở dưới đất nghe.
Dù vậy, trong dân gian đã có một số người bịa ra những chuyện "lạ" trong thế giới thần linh, yêu quái mà dụ dỗ những người yếu lòng. Thực ra, bọn người này nhân danh các thầy cúng, các nhà tu hành, mượn danh tôn giáo liên kết với bọn cường hào ác bá hay bạo chúa địa phương với dã tâm hù dọa người đời để họ thờ lạy thần linh nào đó qua sự trung gian của họ. Mục đích cuối cùng là thủ lợi. Chuyện "Hà Bá Cưới Vợ" trong lịch sử Trung Hoa trong thời Đông Châu Liệt Quốc là một thí dụ.
Nhưng chính quyền có ông Tây Môn Báo đã trừng trị những tên thầy pháp này thẳng tay và quyết liệt.
9.- Về phương diện chính trị, đối với các nhà lãnh đạo đất nước và chính quyền đương thời thì phải biết sáng suốt tỏ lòng trung thành với đất nước, làm tròn bổn phận của người dân, chứ không phải trung thành với cá nhân người lãnh đạo, dù cho là người lãnh đạo đó là một ông vua hay hoàng đế với những uy quyền tuyệt đối. (1)
III.- NHỮNG THUẬT NGỮ NGẠO MẠN
Ngòai những qui tắc "đạo lý trịch thượng" như được kể trong phần II A trên đây, Giáo Hội La Mã còn chủ trương sử dụng những thuật ngữ ngạo mạn, tự phong, phơi bày ra cho mọi người thấy cái bản chất lố bịch, trịch thượng, cao ngạo, hợm hĩnh, phản ảnh một tâm hồn thiển cận, hẹp hòi.
1. Những danh xưng đảo lộn luân thường:
Trong ngôn ngữ Việt Nam, "ông" là bố của "cha" tức là người đẻ ra "cha". Do đó, những người mang tước hiệu "Đức Ông" phải có địa vị cao hơn hay lớn hơn của những người mang tước hiệu "Đức Cha". Ấy thế mà trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã, những người mang tước hiệu "Đức Ông" lại có địa vị và quyền lực nhỏ hơn địa vị và quyền lực của những người mang tước hiệu "Đức Cha". Khôi hài hơn nữa, trong ngôn ngữ loài người, "Đức Cha" tương ứng với "Đức Mẹ". Từ đó, người ta có thể nghĩ rằng "Đức Mẹ" là vợ của "Đức Cha" và là "con dâu" hay con gái của "Đức Ông". Nhưng trong đạo Gia-tô, những từ ngữ được sử dụng để xưng hô trên đây hoàn toàn không thuận lý, khiến cho người ta có cảm tưởng là luân thường bị đảo lộn, loạn luân đối với truyền thống văn hóa Đông Phương.
Ấy là chưa nói đến niềm tin nói lên sự loạn luân như "Chúa Ba Ngôi", và vô lý như "Đức Mẹ Đồng Trinh," "Hồn xác lên trời."
2. Những cụm từ cưỡng từ đoạt lý, những ngôn từ trịch thượng, loạn ngôn, xảo ngôn, áp đặt, hay ngược đời:
- Dùng từ "công giáo" (catholic) cho đạo Ca-tô lic ở Việt Nam. Trong các bài kinh, người ta nghe các cụm từ "Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền", gọi giáo hội là "Hiền Thê của Thiên Chúa", "Giáo Hội là Mẹ",....
- Tự phong là “dân được Chúa chọn”, “dân văn minh” và miệt thị những nhóm dân thuộc các tôn giáo khác là “tà giáo”, là “mọi rợ”, là “dã man”.
Trường hợp vừa "ngược đời" vừa trịch thượng có thể kể là cụm từ "trở lại đạo". Trước năm 1533, ở Việt Nam làm gì có đạo Chúa? Tổ tiên ta làm gì theo đạo Chúa. Thế mà mỗi khi có người Việt nào bị họ dụ theo đạo thì họ đều dùng cụm từ "trở lại đạo".
Những tín đồ Ca-tô cuồng tín người Việt ở hải ngọai còn xảo ngôn khi họ sử dụng những từ ngữ như "nhà ái quốc", "nhân sĩ," "chiến sĩ" cho những người viết bài hoặc xuống đường la lối, chưởi rủa chính quyền Cộng Sản ở Việt Nam. Họ gọi những tên Việt gian cuồng nô vô tổ quốc suốt cả đời bán nước và làm tay sai cho quân cướp ngoại thù là Đế Quốc Vatican và Đế Quốc Pháp như Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Khôi, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, v.v... thì được họ "kính cẩn" gọi là "chí sĩ", "anh hùng", "danh nhân", ....
Tiếu lâm hơn nữa là Việt Nam ngày nay đã hoàn toàn độc lập, đã được cả thế giới công nhận và có chỗ ngồi, có thế đứng, có tiếng nói ở trong tổ chức Liên Hiệp Quốc, ấy thế mà họ vẫn kêu là "mất nước". Đúng ra họ muốn nói nước tổ Vatican của họ đã mất thế đứng ở Việt Nam.
Trong khi đó những người yêu nước chân chính của dân tộc đã hy sinh cả đời vào cuộc chiến đánh đuổi quân cướp xâm lăng Vatican và Pháp trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1858 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại bị họ gọi là những tên "Việt gian", "phản lọan", "phản quốc", "bán nước", ... cho những người có công đánh đuổi thực dân Pháp, Mỹ để giành lại độc lập cho nước nhà.
Cưỡng từ đoạt lý đã đành, họ còn trơ trẽn ghi tênnhững người phục vụ cho ngoại bang, không có công trạng gì đối với đất nước vào những tên đường trường học, sách vở,... Trong những năm 1954-1963, ở Vĩnh Long có Đại Lộ Ngô Đình Thục (chạy ngang qua trường Sư Phạm Vĩnh Long), dù rằng ông Giám-mục Ngô Đình Thục, chẳng có công trạng gì cho dân tộc Việt Nam, (nếu không muốn nói là Việt gian bán nước cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp -Thập Ác Vatican) và lúc đó ông ta vẫn còn sống sờ sờ ở Vĩnh Long. Mãi đến năm 1960 thì ông ta được Tòa Thánh Vatican thuyên chuyển ra Huế, và tới tháng 9 năm 1963, ông ta xuất ngoại đi Ý, rồi cuối cùng sang Hoa Kỳ dưỡng lão và chết ở Missouri vào giữa thập niên 1980.
3. Lề lối làm việc độc tài, cực đoan.
Trên đây là nghi lễ, phong tục và nếp sống văn hóa trong các cộng đồng Gia-tô. Còn về cung cách hành xử từ suy tư cho đến hành động đối với nhau trong hàng chức sắc và tu sĩ, chúng ta hãy nghe nhà trí thức Ca-tô Nguyễn Văn Trung mô tả:
"Ai có dịp gần gũi các GMVN (Giám Mục Việt Nam) đều có chung nhận xét rằng về mặt cá nhân, các ngài có vẻ đạo mạo, cởi mở, dễ mến, trừ một ít vị tỏ ra cao ngạo, khép kín, quan liêu. Nhưng trong lề lối làm việc của các Giám Mục thường rất độc tài, độc đóan. Trong đối xử thường tỏ ra kỳ thị, ban phát ân huệ, coi thường bề dưới, ganh tị và kèn cựa với các đồng liêu để lập công với Tòa Thánh. Những điểm nổi bật là tiền hậu bất nhất, việc làm không đi đôi với lời rao giảng, trọng ngoại khinh nội, tham phú, phụ bần, vô cùng khiếp sợ Tòa Thánh, đến nỗi có những linh mục nói rằng, "Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm", và "tuân giữ tín điều chống Cộng đến cùng", vì Cộng Sản Việt Nam nó không chịu "làm cánh tay đời" cho các Ngài để trị giáo dân và mở mang nước Chúa."(13) .
4. Tín đồ làm nô lệ cho một hệ thống phong kiến.
Các ông linh mục bản địa mỗi khi đến thăm các nhà truyền giáo Âu Châu thì phải quỳ mọp xuống sụp lạy họ, rồi ôm giầy của họ mà hôn hít để tỏ lòng tôn kính đối với họ. Sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại như sau:
"Tại Bùi Chu, ngày lễ Thánh Đa Minh, tất cả các linh mục người Việt, bất kể hạng tuổi nào, phải tới sụp lạy trước mặt các thừa sai, kể cả đối với một người còn trẻ măng, hoặc chỉ là thày phó tế thôi, và phải hôn kính giầy các thừa sai đó, để giúp mình nhớ lại lời thánh Phao-lồ: "Phúc đức thay bàn chân của các nhà truyền giáo!". (14)
Trong thời kỳ từ năm 314 cho đến giữa thế kỷ 11, Giáo Hội còn trong tình trạng phải làm Giáo Hội Quốc Doanh cho các chính quyền Đế Quốc La Mã, rồi tới chính quyền Đế Quốc Byzantine và các chính quyền Pháp, Ý và Đức. Ở vào tình trạng này, hẳn là các ông giáo hoàng và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican luôn luôn ở trong tình trạng "lo sợ không được lòng" các nhà lãnh đạo các chính quyền thế tục bảo trợ, "lo sợ có thể bị truất bỏ", cho nên mới có thái độ khúm núm hèn hạ, và lâu ngày thành thói quen.
Đến khi có quyền lực trong tay, vì quen với những tục lệ hèn hạ trên đây, các ngài cũng tạo nên cái tục lệ này để bắt những dưới quyền cũng phải khúm núm trước mặt các ngài giống như các ngài ngày xưa đã từng khúm núm trước mặt các ông hoàng đế khác. Vì thế cho nên trong đạo Kitô La Mã mới có những tục lệ quái đản như:
a.- Giáo hoàng đưa bàn chân cho tín đồ nguyên thủ quốc gia hôn hít khi đên bệ kiến ông ta.(15)
b.- Tu sĩ bản địa khi đến thăm các nhà truyền giáo Âu Châu thì quỳ mọp xuống hôn hít giầy dép của họ để tỏ lòng kính mến. (Đã nói ở trên, chú thich 1).
c.- Tín đồ đến thăm các ông giám mục thì mong mỏi được quỳ mọp xuống trước chỗ ông ta ngồi chờ ông ta chìa bàn tay ra để hôn hít cái nhẫn giám mục của ông ta. (16)
d.- hành xử theo thói quen "Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm".
Chính vì những quy tắc đạo lý ngược ngạo trên đây, cho nên tín hữu Ca-tô thường có thái độ và hành động lố bịch, trịch thượng, và sống sượng đối với người khác đạo, nhưng đối với những người đồng đạo thì “trên đội, dưới đạp" . Chính nhà trí thức Ca-tô Nguyễn Văn Trung đã ghi nhận:
“Trong Giáo Hội, người giáo dân ở địa vị thấp nhất, nữ giáo dân luôn luôn nằm dưới… Người giáo dân chỉ có quyền vâng lời, đóng góp và hầu hạ các đấng bề trên. Ai vâng lời dưới 100% có thể bị coi là rối đạo và bị loại trừ dưới mọi hình thức, nhất là không vâng lời về chính trị và tiền bạc thì xem như lúa đời, phạm tội cực trọng, đáng sa hỏa ngục đời đời chẳng cùng Amen.”
IV.- CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO SỐNG ĐỜI PHÓNG ĐÃNG, LỌAN LUÂN, DÂM LOÀN
Tuy rằng, trong thực tế, các Ngài không phải là vua, cũng không phải là Chúa Jehovah hay Chúa Con Jesus, nhưng các ngài vẫn mượn oai vua, tiếm danh Chúa (do chính các Ngài bịa đặt ra) rồi "cáo đội lốt hùm" để dễ bề lừa bịp người đời. Nhờ vậy mà các ngài cũng làm ra vẻ có oai phong và quyền uy như những tên bạo chúa và ăn chơi, hoang đàng, sống đời phóng đãng lọan luân, dâm loàn còn tệ hơn cả những tên "bạo chúa" "hôn quân" trong các triều đại suy đồi trong thời Chiến Quốc ở bên Trung Hoa.
Sách Babylon Mystery Religion dành hẳn Chương 12 với tựa đề là Papal Immorality, trong đó tác giả kể ra những màn kịch của hơn 20 giáo hoàng đại diện Chúa Kitô "ăn no rửng mỡ", rồi "ấm cật dậm dật phao câu", rồi thanh toán lẫn nhau bằng những thủ đoạn "kinh khủng độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người." Xin mời quý vị theo dõi những sự kiện này qua các tài liệu và sách sử với những đoạn văn nguyên bản như sau:
"Những ai đã thấu hiểu lịch sử của chế độ giáo hoàng và Giáo Hội La Mã đều biết rõ hơn ai hết, rằng không phải tất cả các ông giáo hoàng đều thánh thiện cả."(17) .
Sách The Decline And Fall of the Roman Church viết:
"Một năm sau đó, Giáo Hoàng Agapitus II (946-955) qua đời vào mùa thu năm 955 và một tháng sau, ngày 16 tháng 12 cậu bé Octavian được đưa lên làm giáo hoàng, lấy đế hiệu là John XII. Giáo Hoàng John XII (955-963) là thời kỳ mà tình trạng bê bối thối tha trong Giáo triều Vatican xuống tới mức tồi tệ nhất. Trở thành giáo hoàng rồi, John XII cũng không chịu thay đổi nếp sống phóng đãng của hắn. Suốt ngày đêm, hắn chỉ biết ăn uống linh đình hoang phí, vui chơi nơi bàn tiệc cùng săn bắn và miệt mài trong các cuộc truy hoan. Dinh của Giáo Hoàng trở thành nơi cho đủ mọi loại bọn gái điếm lui tới."](18)
Trong lịch sử Giáo Hội La Mã, không phải chỉ có John XII (955-963) mới có những hành động bạo ngược, dã man, loạn luân và dâm loàn như vậy. Các nhà viết sử tính ra gần như hầu hết 232 giáo hoàng thời Giáo Hội La Mã (tính từ năm 325 trở về sau) đều phạm những trọng tội bạo ngược chống lại nhân quyền, tham lam, gian ác vượt lên trên tất cả những tên bạo chúa lừng danh trong lịch sử nhân loại. Dưới đây là chuyện có thật đã xẩy ra trong lịch sử của Giáo Hội La Mã được sách Gia Tô Thực Dân Sử Liệu (The Documented History of Catholic Colonialism) viết ra như sau:
"Giáo Hoàng Felix III (483-492) trong thời gian là giáo hoàng có tới 3 người con (3 người con này đều chết cả…)" "Giáo Hoàng Hormidas (514-523) đã kết hôn với bà Marouzia và có một nguời con trai với bà này…"
"Giáo Hoàng Adrian II (867-872) sống chung với vợ và con gái ở điện Lateran."
"Giáo Hoàng Sergius III (904-911) vốn là một giám-mục có người vợ, tên là Mazouzia và đã có một người con trai với bà này. Tới năm 904, khi lên ngôi Giáo Hoàng, ông ta mới lấy hiệu là Sergius III. Nhờ sẵn có thế lực của cha mẹ, mấy chục năm sau, người con trai này trở thành Giáo Hoàng John XI (931-936)".
"Giáo Hoàng John XII (955-963) đã từng loạn luân với em gái và bị chết vào ngày 14-5-964 khi đang … với một cô nhân tình..."
"Giáo Hoàng Leo VIII (963-964) chết đột ngột vì bị máu xâm trong lúc đang phạm tội thông dâm."
"Giáo Hoàng Benedict IX (1033-1044) lên ngôi lúc 12 tuổi, đã từng giết người, thông dâm ngay giữa ban ngày, cướp bóc tiền bạc của những người hành hương mộ thánh tử đạo… bị dân La Mã tống xuất khỏi La Mã…"
"Giáo Hoàng Pius II (1458-1464) có hai người con hoang, từng công khai nói chuyện về các phương pháp dụ dỗ đàn bà."
"Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) loạn luân với bà chị ruột và có một người con trai với bà này..."
"Giáo Hoàng Innocent VIII (1484-1492) có tới bẩy hay tám người con trai với nhiều bà khác nhau. Nhiều vợ và nhiều con quá, ông phải tìm cách tăng thêm 26 chức vụ thư ký trong giáo triều để bán với giá mỗi chức là 62,400 đồng duca."
"Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) tên thật là Borgia, một con quỷ đã công khai loạn luân với hai người em gái và loạn luân luôn với cả con gái ruột tên là Lucretia (that monster who lived in public incest with his two sisters and his own daughter from whom he got a child). Đặc biệt hơn nữa, ngày 31-10-1501, ông cho tổ chức một bữa tiệc cực kỳ dâm loạn ở ngay trong điện Vatican với 50 cô gái trẻ đẹp khiêu vũ khỏa thân để mua vui cho thực khách.." (19).
Giáo Hoàng John XII
▪ Riêng về đời sống phóng đãng và loạn luân của Giáo Hoàng John XII (955-963), cuốn sách trên đây (trang 108-110) ghi lại như sau:
"Giáo Hoàng La Mã thứ 131 John XII (955-963). Tên thật là Octavian con của Alberic, cháu nội bà Marozia. Năm 955, đứa cháu trai của cô gái điếm Marozia, sau vài trận đổ máu với các đối thủ, hắn lên kế nghiệp ngôi Giáo Hoàng dưới tên là John XII."
John XII lên ngôi Giáo Hoàng khi mới 18 tuổi, được mô tả như một kẻ vô đạo thất học. "... ông đã từng loạn luân với em gái ông."
Hành vi dâm loạn của Giáo Hoàng John XII đã được Giám-mục Luitprand mô tả như sau:
"Không có cô gái lương thiện nào dám xuất hiện nơi công cộng vì Giáo Hoàng John (XII) không từ bất cứ một ai, kể cả các cô gái độc thân, những bà có chồng hay các góa phụ, chắc chắn đều bị Giáo Hoàng cưỡng hiếp ngay trên mộ các Thánh Tông Đồ, Peter và Paul." Vì thế nên người đương thời đã "kết án Giáo Hoàng John (XII) can các tội bất kính với Thánh Thần, buôn bán chức Thánh, lời thề giả đối, giết người, thông dâm và loạn luân..."
Sách Catholic Encyclpedia miêu tả Giáo Hoàng John XII như là: "Một người đàn ông lỗ mãng, vô đạo đức, sống trong tòa lâu đài Lateran được dư luận xem như một nhà thổ. Ông là loại ký sinh trùng trong hành vi thông dâm."
Cũng vì trác táng nên Giáo Hoàng John XII chỉ ở ngôi được có 8 năm 4 tháng (lên ngôi ngày 16/12/955, chết ngày 14/5/964) "... Giáo Hoàng John (XII) bị chết, người ta nói ông bị cảm liệt trong khi viếng thăm cô nhân tình của ông. Ông chết vào ngày 14/5/964, không xưng tội, không chịu phép bí tích.”
Cái chết của Giáo Hoàng John XII sau này được minh bạch: Trong lúc Giáo Hoàng John đang thông dâm với một con chiên nữ ngoan đạo bị ông chồng bà ta bắt quả tang tại trận:
"Chính Giáo Hoàng John XII đã bị một đàn ông quý tộc giết ngay lập tức khi ông ta khám phá ra Giáo Hoàng thông dâm với vợ ông ta."
Sách Liber Pontificalis viết về Giáo Hoàng John XII: "Suốt đời ông toàn sống trong cảnh thông dâm.": (20)
Trong bài viết "Hôn Nhân Và Tôn Giáo" đăng trong www.giaodiem.com tháng 1 năm 2004 của tác giả Nguyễn Hữu Ba, có một đọan nói về đời sống loạn luân dâm loàn bê bối thối tha của một số khá nhiều giáo hòang, và nhận xét như sau:
"Thật là tức cười! Người bình thường như chúng ta mà loạn dâm thì bị chê bai, khinh bỉ, nhốt tù có khi bị tử hình. Còn những người trong gia phả của Jésus mà loạn dâm thì coi đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa ? Họ bị nhồi sọ, mù quáng đến mức đó thì hết chỗ nói. Họ chỉ nói lấy được, bất chấp lẽ phải.."(21)
Không biết bao nhiêu triệu người ở trên thế giới này không hề biết rõ bộ mặt thật của những Đức Thánh Cha của họ ghê tởm đến như vây! Thế mà các đại diện Chúa ở dưới trần gian này buộc các giáo dân phải tin rằng các ngài " không hề lẫm lẫn, và thánh thiện".
▪ Nói về các giáo hoàng phóng đãng, dâm loàn thì phải biết đến Giáo Hòang Alexander VI (1492-1503), hàng ngàn trang cũng không nói hết chuyện con qủy râu xanh này. Chuyện rằng Rodrigo Borgia tức là Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) và người con trai ruột của ông ta tên là Césare Borgia cùng làm tình và ăn ở với người con gái ruột của ông ta là Lucrezia Borgia (em ruột của Cesare Borgia). Kết quả Lucrezia Borgia sinh ra một đứa con mà người ta không biết bố đứa nhỏ này là Giáo Hoàng Alexander VI (bố) hay là của Cesare Borgia (con). Chuyện này được ông Nguyễn Hữu Nguyên ghi lại trong bài viết "Cuộc Đời Tình Ái Thầm Kín Của Các Danh Nhân Thế Giới" và được Tờ Văn Nghệ Tiền Phóng Số 432, hạ tuần tháng 1 năm 1994 đăng lại. (22) .
GH Alexander VI - con trai Césare Borgia - và con gái Lucrezia Borgia
Chúng ta sẽ thấy con số các ông giáo hoàng sống đời phóng đãng, loạn luân, dâm loàn và bạo ngược như các giáo hoàng trên đây không phải là ít trong các sách sử nói về Giáo Hội La Mã và về các ông Giáo Hoàng như: Babylon Mystery Religion của Ralph Woodrow (Riverside, California, 1981), Vicars of Christ của Peter de Rosa (New York, Crown Publishers, Inc., 1988), The Bad Popes của E. R Chamberlin (New York, Barnes & Noble Books, Inc., 1969), Lives of the Popes của Richard P. Mcbrien (New York, HarperCollins, 1997), The Pope Encyclpedia của Mathew Bunson (New York, Crown Trade Paperbacks, 1995), Catholicism Against Itself - Volume I của O. C. Lambert (Florence, Alabama" Lambert Book House, Onc., 1994), v.v..., .
Giáo Hoàng John Paul II
Hầu hết các ông giáo hoàng đều mắc phải những ác tính xấu xa ghê tởm trên đây. Ngay cả Giáo Hoàng John Paul II (1978 -2005) cũng chiếm kỷ lục về thành tích lươn lẹo, lật lọng và bạo ngược (trong vụ cưỡng bách ông Giám-muc Emmanuel Milingo từ bỏ bà vợ mới cưới là bà Maria Sung).
Đúng là nhà dột từ nóc dột xuống. Những cuộc sống bê bối thối tha, lọan luân, dâm loàn và bao ngược của các Đức Thánh Cha trên đây là bằng chứng cho chúng ta thấy rõ bộ mặt thật khốn nạn của giai cấp lãnh đạo trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã. Sách sử và báo chí cũng thường nói đến những chuyện bế bối thối tha và những tác phong cùng những hành vi bất chính, phi luân, bất nhân và bất nghĩa của giai cấp tu sĩ Gia-tô mà điển hình nhất là những vụ loạn dâm của giới người này được loan truyền qua các báo chí và các phương tiện truyền thông khác ở Hoa Kỳ từ đầu năm 2002 khởi đầu từ thành phố Boston. Tất cả là những bằng chứng không ai có thể chối cãi hay phủ nhận được thực trạng này.
V.- VÀI TU SĨ CA-TÔ NGƯỜI VIỆT LỪNG DANH
Nhiều ông linh-mục cũng biết rõ tất cả những điều nói trong Cựu Ứớc, trong Tân Ước và tất cả những phép lạ, và các phép bí tích chỉ là những sản phẩm bịa đặt của bọn thày tu từ thời ông Moses cho đến ngày nay, nhưng họ vẫn làm ra vẻ tuyệt đối tin tưởng vào những thứ này làm như chúng có giá trị thiêng liêng và linh nghiệm, còn thâm tâm họ thì không hề tin. Tức là họ phải đóng kịch, để có thể tiếp tục làm nghề hái tiền cho giáo hội. Hơn nữa, ở vị trí đó, họ có thể theo đuổi "quyền thế, danh vọng, tiền bạc và tình dục".
Trong phần này, người viết chỉ trình bày một số tu sĩ Gia-tô người Việt ở Hoa Kỳ đã trở thành lừng danh trong cuộc sống phóng đáng, dâm loàn, đàng điếm và lưu manh đã được phổ biến trên các phương tiện truyền thông. Dưới đây là một vài trường hợp.
1.- Trường hợp Linh-mục Cao Văn Luận.- Khi ông Ngô Đình Diệm được Tòa Thánh Vatican và Hoa Kỳ đưa về Việt Nam cầm quyền vào tháng 7 năm 1954, thì Giáo Hội La Mã cũng đưa các ông linh mục và giáo dân có bằng cấp đại học ở ngọai quốc cũng như ở trong nước vào nắm giữ vai trò chỉ huy và giảng sư trong các đại học và trong một số cơ sở quan trọng khác trong Bộ Giáo Dục. Đa số những người này theo học ngành thần học hay triết học Tây phương. Trong số những người này, có các ông Linh mục Cao Văn Luận (Viện Trưởng Đại Học Huế cho đến mùa hè năm 1963) , Linh mục Bửu Dưỡng, Linh-muc Nguyễn Văn Lập (Viện Trưởng Đại Học Đà Lạt) Linh-mục Lê Văn Lý (tiếp nối Linh-muc Nguyễn Văn Lập giữ chức Viện Trưởng Đại Học Đà Lạt), Linh-mục Thanh Lãng, các ông Nguyễn Văn Trung (Ca-tô), Đỗ Hữu Mục (Ca-tô), Phạm Việt Tuyền, v.v..
Sau khi trường Đại Học Đà Lạt được thành lập vào cuối thập niên 1950, từ viện trưởng cho đến các khoa trưởng và hầu hết các giáo sư gỉang huấn đều là các ông tu sĩ và tín đồ Gia-tô. Linh-mục Cao Văn Luận được đưa lên giữ chức vụ Viện Trưởng Việt Đại Học Huế. Nhiều người trên đây được điều động dạy cả trường Đại Học Đà Lạt và Huế, và được cho đặc quyền di chuyển bằng đường hàng không.
Giáo Sư Nguyễn Văn Trung khi đến thăm người viết tại tư gia vào ngày 12/11/2001, nói rằng có một thời gian ông dạy cả ba trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn, Đại Học Huế và Đại Học Đà Lạt. Sau đó, không biết vì lý do gì, Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục không cho ông dạy ở Đại Học Huế và Đại Học Đà Lạt nữa. Vì phần này nói về mấy ông tu sĩ người Việt lừng danh ở hải ngoại, người viết không bàn đến chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ do chính quyền đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm cho thi hành ở miền Nam vào lúc bấy giờ.
Ngòai chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, Linh mục Cao Văn Lụân còn được chính quyền Ngô Đình Diệm giao cho chức vụ giám đốc ẩn danh. Nha Du Học nắm tòan quyền quyết định cho sinh viên xuất ngoại du học và nắm toàn quyền phân phát học bổng cho sinh viên du học. Nhờ có nhiều quyền hành và danh vọng lớn như vậy, Linh-mục Cao Văn Luận cũng sống đời du dương cho phỉ chí cuộc đời, theo gương các Đức Thánh Cha trong giáo triều Vatican (mà chúng tôi đã trình bày ở trên). Chuyện tình đầy thơ và mộng của ông linh mục này được sách Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị kể lại như sau:
"Muốn biết "thày tu" Cao Văn Luận đạo hạnh ra sao, xin bạn đọc theo dõi đọan viết dưới đây của tạp chí VĂN SỬ ĐỊA phát hành tại Florida năm 1990:
"Linh-mục Cao Văn Luận đã dụ dỗ nữ sinh trường Đồng Khánh tên là N.T.D.H. đến mang thai 3 tháng, rồi đưa cô này sang Mỹ, mua nhà tại Chicago. Sau đó, cô này sinh một bé gái đặt tên là N.T.D.L. (họ mẹ). Sau đó, Linh-mục Luận lại có thêm người tình thứ hai cũng là nữ sinh Đồng Khánh, ông đã mua nhà và bí mật ăn ở với người đẹp tại Đà Nẵng" (VSD trang 65)
Cũng chưa hết, trong mục Vĩnh Biệt Quê Hương "Bên Giòng Lịch Sử 1940-1975", trang 379, Cao Văn Luận có kể lại việc ông ta di tản được là nhờ một học trò cũ của ông là Ngô Thị Nh. H.. Bà H. đã thu xếp cho Linh-mục Cao Văn Luận vào được nhà của Đại Tá Th., người Quảng Bình cùng quê với Ngô Thị Nh. H. và cũng là học trò cũ của Linh-mục Luận.
Khi đó, trong nhà Đại Tá Th. có hai gia đình đến tá túc để chờ giờ ra khơi. Trong khi chờ đợi, Đại Tá Th. thu xếp dành riêng cho Linh-mục Luận một phòng riêng. Sau đó gia đình bà Đ.T.M.T cũng người Quảng Bình đến sau, không ai dặn và cũng vì vô ý không biết đã mở cửa căn phòng dành riêng cho Linh-mục Luận thì bắt gặp Linh-mục Luận và người đẹp Ngô Thị Th. H.. Vì Linh-mục Luận quá nổi tiếng nên tin đó đã được loan truyền rất là rộng rãi.
Những vị lớn tuổi quãng 45 trở lên chắc không quên câu chuyện tình tay ba HÀ - LÃNG - HỔ. Trong thời gian ông Hổ phải đi làm việc ở xa thì ở nhà bà H. ngọai tình với Trung Tá Lãng. Câu chuyện tình đó đã được báo chí thời đó khai thác cả mấy tháng trời. Báo chí cũng úp mở cho biết sau lưng Ngô Thị Nh. H. có bóng dáng của Linh-mục Cao Văn Luận bao bọc che chở. Vì Cao Văn Luận đang là cố vấn của ông Thiệu nên báo chí không dám gọi hẳn là cuộc tình tay tư HÀ - LÃNG - HỔ - LỤÂN. Trong cuốn "Bốn Mươi Năm Nói Láo", nơi trang 221, nhà văn Vũ Bằng viết" Mối tình Lãng - Hồ còn nhiều bí ẩn, phải làm thế nào cho bật được được ra cái nhân vật thứ ba nổi tiếng là đạo đức một thời mới thực ăn khách đấy, bồ ạ". Một người cùng quê với bà H. cho biết bà H. người Quảng Bình nhà ở gần cổng Bình Quan, thị xã Đồng Hới, di cư vào Nam học trường Đồng Khánh. Bà H. nước da ngăm ngăm đen, không đẹp lắm, nhưng rất có duyên và mắt rất đa tình. Bà H. là học trò của Linh-mục Luận nên họ đã có dịp gặp nhau và cuộc tình của họ xẩy ra đã là đề tài hấp dẫn ở Huế trước đây. Rồi sau đó, Ngô Thị Nh. H. đi lấy chồng và lẽ tất nhiên họ vẫn còn liên lạc với nhau mãi mãi.
Nói tóm lại, Linh-mục Cao Văn Luận sinh ra đời gặp số đỏ, nên dù là nhà tu hành, đáng lẽ phải sống đời khổ hạnh, nhưng ông lại được hưởng thụ trọng vẹn danh, lợi, tiền, tài, con gái đàn bà..." (24)
2.- Trường hợp Linh-mục Nguyễn Hữu D..- Riêng về trường hợp ông Linh-mục Nguyên Hữu D. ở Houston, người viết không rõ phương cách kinh tài của ông ta ra sao. Nhưng ông có dư thừa tiền bạc để quyến rũ một tín đồ phụ nữ phục vụ cho nhu cầu sinh lý của ông. Một lần, hai người làm việc lộ thiên thế nào để cảnh sát chộp được, lập biên bản và đưa ra tòa án Harris County, Texas. Xin tóm lược như sau:
"Ngày 14 tháng 12 năm 1994 nhà tu hành Ca-tô này sinh ngày 20 tháng 3 năm 1920 (74 tuổi) cùng bà V. Nguyễn (sinh ngày làm tình ở tạo bãi đậu xe công cộng bằng cách "để của quí của ngài vào miệng bà V." (unlawfully knowingly engage in an of deviate sexual intercourse, to-wit: by allowing vui nguyen to put her mouth on his genitals in a public place, namely a parking lot.) bị cảnh sát Harris County bắt được và đưa ra tòa hồ sơ số 9450613. (Case No. 0450613 - First setting date 21/12/1994.) Tiền ký qũy tại ngọai hầu tra là 500 Mỹ kim."
Căn cứ vào chi tiết ghi trong bản văn của tòa án Harris County này, chúng ta thấy rằng khi có hành động dâm ô vô cùng độc đáo như trên thì Linh-mục Nguyễn Hữu D. đã ở vào tuổi 75 tính theo tuổi Việt Nam.
3.- Trường hợp Linh-mục Cao Đ.M.- (xin gọi tắt là linh mục M.) Chuyện này xẩy ra ở thành phố Portland thuộc tiểu bang Oregon.
Năm 1975, ngay khi vừa mới tới định cư ở Portland vào năm 1975, không biết làm thế nào mà Linh Mục M. đã vận động được chính quyền Hoa Kỳ và Giáo Hội Gia-tô tại giáo phận Oregon phong cho chức vụ Giám Đốc Trung Tâm Mục Vụ với một ngân khoản khoảng mấy trăm ngàn Mỹ kim một năm để giúp đỡ người Đông Dương đến vùng này định cư.
Đồng thời, cũng ngay khi vừa đến định cư tại đây, Linh Mục M. lập tức bỏ thì giờ đi thám sát phong cảnh và dân tình ở Portland. Với kinh nghiệm lão luyện trong nghề moi tiền giáo dân, nhà tu hành áo đen này đã nhìn ra ngôi nhà thờ Đức Mẹ Sầu Bi trên hang núi Grotto có thể biến hóa thành nơi đắc địa để thu tiền các tín đồ từ các tiểu bang gần đó kéo đến hành hương. Với sáng kiến Hành Hương mỗi năm tại Đền Núi Đức Mẹ Sầu Bi này, chỉ trong một thời gian ngắn, Linh Mục M. đã có tiền mua môt dẫy chung cư cho những người Việt mới tới Portland mướn.
Vừa là Giám Đốc Trung Tâm Mục Vụ, vừa là linh mục quản nhiệm nhà thờ Việt Nam, Linh Mục M. trở thành một thứ lãnh chúa nắm luôn cả thần quyền và thế quyền. Quyền hành sinh tội ác, sinh hủ hóa. Đầu thập niên 1980 có nhiều người nói rằng Linh Mục M. có một bà vợ và đã có một đứa con trai giấu kín ở một nơi khác. Chuyện này được bảo vệ bằng bức tường thành kiên cố được dựng nên bằng lòng tin, cậy, mến của tín đồ.
Vì có nhiều nhu cầu để cung cấp cho vợ con trong bí mật, Linh Mục M. tìm ra được phương pháp moi tiền giáo dân một cách vô cùng tân tiến. Đó là việc đặt ra quy luật “mỗi gia đình loại “nuclear family” phải đóng cho nhà thờ hàng năm 2400 Mỹ kim gọi là tiền niên liễm của hội viên nhà thờ.” Công việc kiếm tiền đi đôi với việc tiếp xúc nhiều người và linh mục này chẳng mấy chốc nổi tiếng, nhất là ở miền Tây Bắc Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1980 trở đi.
Quyền lực, danh vọng và tiền bạc càng nhiều, Linh Mục M càng có nhiều hấp lực đối với đàn bà con gái. Vào khoảng giữa thập niên 1990, một gia đình Gia-tô ngoan đạo tới Portland định cư theo diện HO, tìm đến trình diện Linh Mục M. xin được giúp đỡ. Liếc nhìn thấy Tr, người con gái của gia đình H.O. này đang tuổi xuân thì, duyên dáng mặn mà, Linh Mục M. bỗng nhiên bị thêm tiếng sét ái tình nữa. Thế là kể từ đó, Linh Mục M trở thành “thiên sứ” dồn dập mang đến cho Gia đình HO. này không biết bao nhiêu là “Hồng Ân Thiên Chúa”. Ngoài những giúp đỡ đặc biệt về vật chất cho gia đình, riêng cô Tr được thuyết phục nên theo gương Linh Mục M xả thân hiến mình phụng vụ Chúa. Được sự đồng ý của gia đình, Tr khăn gói ra đi vào nhà Dòng học tu để làm "dì phước" như lời Linh Mục M. mong muốn. Mấy tháng sau, Tr nghiễm nhiên trở thành một dì phước và được “bề trên” cho về phục vụ ở ngay trong giáo khu Portland để được Linh Mục M. hướng dẫn cho phương cách tu sao cho ngoan. Thế là "kế hoạch dài hạn” của Linh Mục M đã thành công.
Ngày tháng trôi qua, "Hồng ân Thiên Chúa" lại đến khi cái bụng của Sơ Tr. bắt đầu nở nang. Tin tức loan truyền khắp trong giáo xứ làm cho nàng M (người tình xưa của Linh Mục M) cũng phải nổi tam bành:
Lửa tâm càng giập càng nồng,
Giận người đen bạc ra lòng trăng hoa. (Nguyễn Du)
Cũng vì vậy mà cậu “công tử” nối dòng họ Cao lên tiếng mong được Linh Mục M nhìn nhận. Thế là cái gì đã xẩy ra mà thiên hạ chưa biết thì bây giờ mọi người hầu như đều được biết cả. Vào thời điểm đầu năm 2001, cả giáo xứ người Việt ở thành phố Portland (Oregon) đều xôn xao cùng một lúc về hai cái tin động trời. Trong khi đó cái bụng Sơ Tr. cứ lớn dần theo ngày tháng khiến cho nàng phải ầm thầm khăn gói ra đi. Sơ Tr đi rồi, Linh Mục M cũng mất dạng. Kể từ đó, người ta không còn thấy ông lãnh chúa áo đen Cao Đ M, ở nhà thờ của người Việt Nam trong thành phố Portland nữa.
Chuyện vỡ lở ra, có lẽ Linh Mục M bị tòa Giám Mục xếp đặt thế nào đó. Vào khoảng giữa năm năm 2001, Cha M. bị thuyên chuyển đi một nơi nào không ai biết. Linh Mục M. đi rồi, giáo dân mới vào phòng sổ sách lục lọi tìm xem số tiền đóng tiền xây cất nhà thờ có được ghi chép rõ ràng hay không và mới phát giác ra qũy của Hội Bà Mẹ Công Giáo không còn một đồng nào. Những số tiến của những người đóng góp hàng mấy chục ngàn để xây cất nhà thờ đều không thấy ghi vào trong sổ sách. Người ta ước lượng số tiền Linh Mục M cuỗm đi lên đến hàng triệu đô la.
4.- Trường hợp Linh-mục Trịnh Thế H.- Chuyện này xẩy ra trong năm 2001 ở thành phố Chicago thuộc tiểu bang Illinois. Bà H. có chồng là cựu Trung Úy Hải Quân Nguyễn Văn Th. Con cọp đói áo chùng thâm họ Tr này tha "con nai tơ" H. đi vacation với danh nghĩa là "cấm phòng" và "cấm ngoại thủy không ai được biết". Sau đó, ông cựu Trung Úy Hải Quân Ng. V. Th., đau khổ đến cực độ, nhưng quyết tâm dâng luôn vợ cho Cha.
Khi trở về Chicago, và khi mở cửa bước vào trong nhà, bà H. mới bật ngửa người ra. Hỡi ôi ông chồng khốn khổ chỉ còn là cái xác đã có mùi hôi rồi. Lúc được làm phép cưới ở nhà thờ, linh mục thường đọc lời phán "Việc gì Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không thể phân ly". Ấy thế mà hạnh phúc của cặp vợ chồng H. T. lại bị người đại diện Chúa phân ly, phá nát tan tành không còn có cách nào có thể cứu vãn được, khiến cho người chồng khốn khổ phải tìm cái chết để quên đi mối hận lòng.
5.- Trường hợp Linh-mục Trần Công Ngh.- Trên diễn đàn thư tín, người ta thấy những bài sau đây:
"Hoang Dominic" dominic.hoang@eds.com wrote:
Kính gởi quý vị..
Những chi tiết về vụ kiện Lm Tran Cong Ngh. - Giám đốc VietCatholic Network: Những chi tiết này là PUBLIC INFORMATION mà ai cũng có thể hỏi tại Tòa Án tại tiểu bang California, County of Orange USA): Superior Court Of The State Of California: Count Of Orange - Central Justice Center
Case number: 03CC00034 Judge Department: Judge Ronald L. Bauer, Dept. CX103 Date Of Filling: January 29, 2003 Defendant: JOHN TRAN aka Father TRAN CONG NGHI, an Ordained Priest of the Roman Catholic Church, THE ROMAN CATHOLIC CHURCH, Corporation Sole: THE ARCHDIOCESE OF LOS ANGELES; THE DIOCESE OF ORANGE; DOES 1 THROUGH 35,
Complaint for:
1.- Sexual assault, battery; rape; sexual harassement: emotional distress; extortion; fraud; violation of law and public policy. 2.- Constructive trust, violation of fiduciary duty, fraud and deceit, embezzlement request for injunctive relief." (26)
Nói về ông linh mục này, tờ Góp Gió số 128 ra ngày 6 tháng 4 năm 2004, nơi trang 18, loan bản tin với tựa đề "Linh Mục Trần Công Ng. - Tên ác quỷ thời đại" với nguyên văn như sau:
"Nhân vụ lm Trần Công Ng, chủ trương VietCatholic, Cali, mới đây bị kiện về tội "sách nhiễu tình dục" phụ nữ tại Quận cam, Cali. Luật sư đại diện cho vụ kiện này là ông E. Day Carman (New Port beach). Chúng tôi xin ghi ra đây một số thành tích của con quạ đen ác quỷ này.
Trên bàn tin TẬN THẾ số 2, ngày 15/7/2002, trang 31, trong bài "Bàn Tay của Thiên Chúa" có đọan viết"
"Ác quỷ TRẦN CÔNG NGH, kẻ dâm thú đã "ăn nằm" với hàng trăm đàn bà hư đốn trên 35 năm qua, từ Việt Nam, sang Roma, qua Mỹ, trong số đó có 2 "ma nữ" lõa lồ: Cao Thị M.L. (từ năm 1975 tại Portland, Oregon), con gái của Cao Đăng Tường, cháu của Lm Cao Đ.M., DCCT (tên này cũng đã có con trai khôn lớn), và Diamond B.N."
Có điều, nghe đâu người đứng đơn kiện Lm Trần Công Ng. lại chính là cô Diamond B.N. Cô này cũng đã từng "tằng tịu" với Lm Trần Công Ng., cùng thực hiện chương trình "Sống Tin Giữa Dòng Đời" trên đài Little Saigòn Radio.
Bạn đọc muốn có bản tin TẬN THẾ xin liên lạc địa chỉ: P.O. Box 8394, Fountain Valley, CA 92728, USA. Ngoài ra, trên mạng lưới Internet ngày 19 tháng 2 năm 2004, ông "Matthiew Tran 1"cdefvn@yahoo.com cũng có tiết lộ một số tin tức khác như sau:
"Chúng tôi nghe nói Lm Trần Công Ng. là người duy nhất chủ trương VietCatholic, đã lấy một cái tin rất dễ hiểu lầm là "Thông Tấn Xã Công Giáo Việt Nam", ai cũng lầm tưởng là của Giáo Hội Việt Nam do Tòa Giám Mục Los Angeles kiểm sóat, nhưng thực ra chỉ là riêng của một mình Lm Trần Công Ng., lợi dụng vào sự thiện nguyện của rất nhiều người trên thế giới đăng bài gửi về trang màng lưới này.
"Linh-mục Trần Công Ng. đã dùng màng lưới VietCatholic để bán những sản phẩm Thánh Kinh (CD) băng nhạc Công Giáo và video cũng như kêu gọi lòng từ tâm của mọi người trên thế giới quyên tiền để giúp người nghèo bên Việt Nam, nhưng thực ra Lm Trần Công Ng. lấy tiền bỏ túi và xây Hotel ở bên Việt Nam cho mướn, mua đất đai cùng làm ăn kinh tài với Việt Cộng.
"Lm TCN cũng lợi dụng vào sự nhẹ dạ của những tín hữu Công Giáo hiện nay, cấu kết với ông Vũ Quang N., Giám đốc đài Little Saigon (băng tần 1480 AM tại Cali) để làm chương trình CĐCGVN nên bảo trợ, trung bình mỗi tuần nửa tiếng trên đài phát thanh. Lm TCN bỏ túi tiền bảo trợ khỏang $2000 US, một tháng Lm TCN thâu vào khoảng $10.000 US (Ô. Trần D Nhã ở TTCG Orange County là người đi lấy tiền bảo trợ và ăn commission từ 15% đến 20% cho một bảo trợ).
Lm TCN lấy người em gái của Bác-sĩ Nguyễn Văn H. (Rosemead, CA). Người em gái của bác sĩ này là một cán bộ cao cấp tại Biên Hòa (Saigon), là người đỡ đầu cho những công việc làm ăn của Lm TCN ở Việt Nam..
Lm TCN đi đi về về Việt Nam với cái tên là Mr. JOHN TRAN. Ông đã thay tên đổi họ rất nhiều lần trên giấy tờ...(27)
(Bản văn này nhận được ngày 18/4/2005 from diễn đàn [SGHN_9]
VI.- MỘT SỐ TÍN ĐỒ CA TÔ CAN ĐẢM ĐƯA RA TRƯỚC CÔNG LUẬN
Trên đây chỉ là những chuyện mới xẩy ra ở hải ngọai. Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Những chuyện nhơ nhớp xấu xa, dâm ô, đểu cáng của các nhà tu hành Gia-tô đã phơi bày ra trước công luận đều do giáo dân trong hòan cảnh ...chẳng đặng đừng mới nói lên. Dưới đây là những bằng chứng:
Thứ nhất, ông Charlie Nguyễn, môt tín đồ nhiều đời của Giáo Hội, viết kể ra thành tích nhơ nhớp của Giáo Hội và các nhà tu hành của Giáo Hội ở trong cuốn Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm như sau:
"Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội của quỷ đã quậy phá nhân loại trong gần hai ngàn năm qua và nó đang đi tới gần ngày tận thế của nó....
Linh Mục Alonso cho biết thêm: Kẻ giết Giáo Hội Công Giáo không phải là Cộng Sản, cũng chẳng phải là Judas tái sinh mà là các tu sĩ hư hỏng. Ngày nay, rất nhiều linh mục đã mất đức tin nhưng vẫn giả vờ đạo đức để đóng vai lãnh đạo tinh thần của Giáo Hội, không có mục đích gì khác hơn là để bòn rút tiền bạc của giáo dân để sống và thỏa mãn những dục vọng thấp hèn của họ. Nhiều linh mục giả vờ nghiêm trang làm lễ ở nhà thờ, sau đó họ gian dâm với vợ con của đám giáo dân khờ khạo của mình."(28) ]
Thứ hai, Khi đang viết đến phần này thì một độc giả gửi cho người viết hai số báo "Tận Thế", Số Ra Mắtphát hành vào ngày 15/6/2002 và Số 2 phát hành vào ngày 15/7/2002 mà chủ biên là Linh-mục Joseph Nguyễn Thanh Sơn, địa chỉ giao dịch với tòa soạn của tờ báo này là P.O. Box 8394, Fountain Valley, CA 92728 USA. Xin ghi lại dưới đây sơ lược trang 27 như sau:
"Những ai đã biết, đọc và nghe về những ác quỉ dưới đây mà còn cố tình bênh vực, bao che, ủng hộ, ca tụng và đi xem lễ do chúng làm, sẽ bị Đức Mẹ nghiêm khắc trừng phạt:...
A.- Nhóm ác quỉ thuộc Phụ tỉnh DCCT/VN (Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam hải ngoại): Nguyễn Đức M, Châu Xuân B, Vũ Minh Ngh, Đinh Ngọc Q, Nguyễn Văn Ph, Phạm Quốc H, Nguyễn Tất H, Đinh Minh H, Phan Phát H, Nguyễn Trường L, Trần Ngọc B, Nguyễn Đức Th, Bùi Quang T, và thầy bẩn moi và qụit Nguyễn Văn M.
B.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Los Angeles: Trần Công Ngh, Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Quang Hòa, Lê Sơn Hà, Chu Quang Minh, Vũ Thế Toàn, v.v...
C.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Orange County: ...[16 linh mục].
D.- Những ác quỉ ở nhiều nơi: [...22 linh mục...] (Còn tiếp với vô vàn vố số ác quỉ nằm trong Chi Dòng Đồng Công ở Carthage, MO, đã lợi dụng Đức Mẹ để làm tiền trắng trợn từ 24 Đại Hội Thờ Quỷ Mammon, đã qua, và Đại Hội thứ 25 sắp tới...)"(29)
Trong tờ Tận Thế Số 2, nơi trang 31, Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn viết:
"2.- Thật không ngờ một linh mục bệnh hoạn có thể trở thành một con người viết những điều mạnh mẽ như vậy, đó là chửi thẳng vào mặt ác quỷ Nguyễn Đức M, kẻ dơ bẩn đã ăn nằm với không dưới 100 đàn bà mất nết từ Việt Nam sang tới Hoa Kỳ và ác quỷ Trần Công Ngh., kẻ dâm thú cũng đã "ăn nằm" với hàng trăm đàn bà hư đốn trên 35 năm qua, từ Việt Nam sang Roma, tới Hoa Kỳ, trong số đó có hai (2) ma nữ lõa lồ: [....] " (30)
Thứ ba.- Nếu không quá "ngoan đạo", có lẽ ai ở hải ngoại này cũng đều biết các vụ ấu dâm bùng nổ từ đầu năm 2002. Tờ Báo Giao Điểm số 45 Mùa Hè 2002 có đăng một bài viết của ông Charlie Nguyễn với tựa đề là "Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo Công Giáo". Bài viết này trích trong quyển "Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Chúa" cùng tác giả, nói về tình trạng lọan dâm của các ngài mang chức thánh cùng những hành động dung dưỡng, bao che và bưng bít của các đấng bề trên trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã. Trong bài viết này, có một phần tóm lược mấy chương sách quan trọng của một tác phẩm có tựa đề là "A Gospel of Shame, Children Sexual Abuse and the Catholics" của hai tác giả Elinor Burkett và Frank Bruni.
Bài viết khá dài, chúng tôi xin ghi lại đây những phần quan trong nhất để cống hiến quý vị một vài tia sáng chiếu rọi vào cái bóng tối dầy đặc đầy tội ác của Giáo Hội. Xin mời quý vị theo dõi:
"Tuần báo Newsweek, số ra ngày 6 tháng 5 năm 2002, có in trên trang bìa một câu hỏi lớn: "What would Jesus do?" (Jesus nên làm gì?). Bên trong là 10 trang báo viết về tình trạng lạm dụng tình dục của các tu sĩ (các ngài mang chức thánh) Công Giáo. Nơi trang 28 có in hình một bức tranh sơn dầu vẽ gia đình Giáo Hoàng Alexander VI Borgia vào cuối thế kỷ 15. Giáo hoàng này có nhiều vợ, nhiều con, loạn luân với cả chị ruột và con gái ruột. Cô con gái này có một đứa con với Giáo Hoàng (bố ruột). Vào giữa thế kỷ 16, Giáo Hoàng Julius III (1550-1555) dụ dỗ một thiếu niên 15 tuổi để làm tình theo kiểu sodomy. Giáo Hoàng này được đứa nhỏ chiều ý nên đã phong cho nó chức hồng y. Chẳng những thế, Giáo Hoàng Julius III còn bổ nhiệm thằng nhỏ giữ chức quốc vụ khanh trong Tòa Thánh! (trang 28).
Nơi trang 29, tờ Newsweek còn cho biết: Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, ít nhất có 3 trường hợp giáo hoàng La Mã truyền ngôi cho con ruột giống như kiểu thế tập của các vua chúa thế gian.
Trong lịch sử Công Giáo không thiếu gì những tên khốn nạn dùng những thủ đọan lưu manh như giết người, lừa gạt, hối lộ... để chiếm đọat ngôi vị giáo hoàng. Trong khi đó thì luận điệu của Giáo Hội luôn luôn dạy giáo dân rằng: Các giáo hoàng đều đã được Hội Đồng Hồng Y bầu chọn theo ơn soi sáng của Đức Chúa Thánh Thần. Nếu như vậy thì tại sao Giáo Hội La Mã lại có quá nhiều những tên giáo hoàng khốn nạn? Phải chăng cặp mắt của Đức Chúa Thánh Thần là cặp mắt heo luộc nên đã không thấy được điều đó.?"..
....
Cuốn Thánh Kinh của các người và ngay cả gia phả tổ tiên của "Đấng Messiah đầy dẫy những chuyện dâm đãng, loạn luân của một lũ mất dạy! Kinh Thánh đó chỉ đáng là "Kinh Thánh Ô Nhục" (Gospel of Shame) mà thôi! "
Thời nay, chúng ta lại có thêm một cuốn Thánh Kinh Ô Nhục khác. Thật sự tựa đề cuốn sách này rất dài: "A Gospel of Shame, Children Sexual Abuse the Catholic Church" (Kinh Thánh Ô Nhục Về Trẻ Em Bị Sách Nhiễu Tình Dục Và Giáo Hội Công Giáo La Mã) của hai tác giả Elinor Burkett, tiến sĩ sử học... và Frank Bruni, ký giả 28 năm chuyên nghiệp... Vì cuốn sách khổ lớn và khá dầy về tình dục của các tu sĩ Công Giáo Mỹ đã bị truy tố từ thập niên 1960 đến 1993, chúng tôi không thể thuật lại đầy đủ ở đây, nên chỉ xin nêu lên một số nét tiêu biểu mà thôi:
- Vụ đầu tiên được kể trong sách là vụ phạm pháp liên tục của Linh-mục James Porter, chánh xứ Saint Mary thuộc giáo phận Massachusetts, từ năm 1960. Cứ sau một thời gian trông coi một giáo xứ nào đó, ông linh mục này lại dở trò rờ mó con nít, làm tình theo kiểu sodomy với các bé trai giúp lễ (alter boy). Đến khi bị mang tiếng trong giáo xứ thì y lại được tòa giám mục thuyên chuyển đến một giáo xứ khác. Cứ như thế trên 30 năm, Linh-mục Porter đã được các giám-mục thuyên chuyển qua nhiều tiểu bang Massachusetts, New Mexico và Minnesota. Tổng số nạn nhân cả nam lẫn nữ của Linh-mục Porter lên đến nhiều trăm người. Trong phiên tòa xử Porter vào tháng 9/1992, một trăm nạn nhân từ các nơi kéo về tham dự. Linh-mục Porter bị tòa tuyên phạt 317 năm.
Điều chính yếu trong vụ án này cho thấy các tòa giám mục không quan tâm đến sự thiệt hại của các nạn nhân mà chỉ lo bưng bít che giấu tội phạm hầu bảo vệ uy tín của Giáo Hội mà thôi. Các tòa giám-mục đều biết rất rõ các hành vi bỉ ổi của Linh-mục James Porter trong hơn 30 năm, nhưng không hề có một biện pháp kỷ luật nào với y. Y vẫn ngang nhiên thực hiện các phép bí tích rửa tội, làm lễ Misa, truyền pháp Mình Thánh, v.v... Như vậy là tất cả các nghi lễ do y thực hiện đều là các trò bịp và các giám mục bao che cho y đều là những kẻ đồng lõa. Cái vẻ nghiêm trang từ tốn của các tu sĩ Công Giáo chỉ là những trò đóng kịch, thực chất chúng chỉ là một đám đạo đức giả.
Trong chương 5, dưới tựa đề "False Idols" (Nhận Lầm Thần Tượng), các tác giả phỏng vấn một tu sĩ dòng Tên và được ông thổ lộ bí mật:
Trong mấy chục năm làm linh mục, ông đã sờ mó và làm tình (sodomize) với 50 đứa nhỏ trai từ 7 đến 17 tuổi và sờ mó nhiều cô gái khác. Nhưng ông may mắn không bị ai tố cáo nên ông vẫn được bình an vô sự. Tuy nhiên, ông muốn các tác giả nêu lên ý kiến của ông là những chuyện dâm ô trong kinh thánh đã gây ảnh hưởng xấu xa về tâm lý của ông. Thậm chí Kinh Kính Mừng cũng làm cho ông bị ám ảnh rất nhiều. Trong Kinh Kính Mừng có câu: "Blessed is the fruit of thy womb, Jesus". Cái tiếng "womb" (tử cung) trong Kinh Kính Mừng làm cho ông liên tưởng đến bộ phận sinh dục của đàn bà. Vị linh-mục này tự hỏi: "Tại sao người ta lại đem cái danh từ tử cung vào một bài kinh cầu nguyện như vậy?"
Xin nói thêm ở đây là trong Kinh Kính Mừng bằng Việt ngữ không có danh từ "tử cung". Nguyên văn câu "Blessed is the fruit of thy womb, Jesus." được dịch thành "và Jesus con lòng bà gồm phước lạ".
Chương 6, dưới tựa đề là "The Silencing Of The Lambs" (Sự Bịt Miệng Con Chiên), các tác giả cho thấy các nạn nhân bị lạm dụng đều là bị bịt miệng bởi cha mẹ, thầy giáo và các thủ đoạn hăm dọa, khủng bố của các tu sĩ phạm pháp.
Đối với những thiếu niên của những gia đình ngoan đạo thì các tu sĩ Công Giáo luôn luôn được chúng coi là những người thánh thiện và có uy tín hơn cả cha mẹ của chúng. Khi bị các tu sĩ lạm dụng tình dục, chúng không dám về mách cha mẹ vì sợ bị cha mẹ la mắng hay trừng phạt. Năm 1992, một số nhà tâm lý học đã phỏng vấn 15 em nhỏ ở Lafayette, Louisiana bị tu sĩ lạm dụng tình dục. Các em cho biết đã không dám tố cáo vì bị các linh mục hăm dọa: "Nếu tố cáo sẽ bị Chúa đầy xuống hỏa ngục" hoặc "mày phải câm miệng, nếu không, quỷ sẽ bắt mày!" Mấy bé gái bị linh mục sờ mó đã khai: "Cha nói Chúa đã chọn con để giúp cha biết cái đó thế nào!"
Trong chương này có một chuyện đáng chú ý. Đó là chuyện của Cristine Clark thuộc giáo phận Joliet, Illinois.
Lúc cô lên 7 tuổi, đi học lớp giáo lý để rước lễ lần đầu thì cô đã bị cha xứ là Ed Stephanie dụ dỗ hôn hít sờ mó. Năm cô 14 tuổi, cô bị cha xứ dạy cách thủ dâm cho ông ta. Năm 18 tuổi, cha xứ giao cấu với cô. Lúc này cô tỏ ra rất lo lắng vì sợ tội. Cha khẳng định giao cấu với cha không có tội vì đó là ý Chúa. Sau đó, Cristine không thể chịu đựng được nữa nên nói với cha mẹ ý định tố cáo nội vụ trước cảnh sát. Linh-mục Ed Stephanie thấy nguy nên trình sự việc với Tòa Giám Mục Joliet. Tòa giám mục này cho người đến trao cho gia đình Cristine số tiền 450 ngàn đô-la để mua sự im lặng.
Ngày 15/4/1988, Cristine ký giấy cam kết không tố cáo. Tuy nhiên, Linh-mục Ed Stephanie bị nhiều người khác tố cáo nên y bị cảnh sát bắt vào mùa thu năm 1992.
...
Tội phạm lạm dụng tình dục nơi trẻ em là tội phạm chung của giới tu sĩ Công Giáo ở khắp mọi nơi và từ lâu đời chứ không phải chỉ ở Hoa Kỳ thời nay mới có. Vì các nhà thờ Công Giáo là những "tiệm buôn thần bán thánh" đạt được kỷ lục thành công về mặt tài chánh cho nên họ luôn luôn có sẵn tiền để thương lượng mua sự im lặng của các nạn nhân. Do đó, tất cả những vụ phạm pháp bỉ ổi của giới tu sĩ Công Giáo bị lộ ra ngoài chỉ là cái ngọn của tảng băng trôi trên mặt biển.
Hiện nay, mọi mũi dùi dư luận đều tập trung vào Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ bởi lẽ giáo hội này là một định chế phi chính phủ (non-governmental institution) giầu nhất thế giới và có ảnh hưởng lớn nhất về mọi phương diện.
Vụ tai tiếng về tình dục của giới tu sĩ Công Giáo Mỹ hiện nay chẳng những đã lột mặt nạ đạo đức giả của họ mà còn vén lên bức màn bí mật về tài chánh của Giáo Hội Công Giáo Mỹ. Chuyên gia tài chánh Richard Sipe, nguyên là một linh mục, tuyên bố với một ký giả tuần báo Business ngày 15/4/2002 rằng: “Giáo Hội Công Giáo luôn luôn tìm cách bưng bít hai điều bí mật: Đó là bí mật về lạm dụng tình dục và bí mật về tài chánh. Hai bí mật này có liên quan với nhau. Từ năm 1985 đến nay, Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã phải chi ra một tỉ đô-la cho việc giàn xếp với các nạn nhân để họ không tố cáo các vụ phạm pháp – Giáo Hội đã tốn rất nhiều tiền để bảo vệ thanh danh giả tạo.” (31)
Gần đây nhất, ngày 14/8/2018, (link) bồi thẩm đoàn bang Pennsylvania, Mỹ, công bố thông tin từ 6 giáo phận Công giáo tại địa phương cho thấy hơn 300 linh mục bị cáo buộc xâm hại tình dục hơn 1.000 trẻ em. Tờ CNN trích dẫn báo cáo "Chúng tôi tin rằng số hồ sơ nạn nhân bị thất lạc hoặc số trẻ không dám tố cáo có thể lên đến hàng nghìn trường hợp".
VII.-KẾT LUẬN
Để kết luận, xin trích ra hai trong nhiều câu hỏi thú vị của bài viết Sputnik phỏng vấn ông Francesco Zanardi, chủ tịch Hiệp hội nạn nhân bị đại diện Giáo hội Công giáo La Mã quấy rối tình dục “L'Abuso”, đăng ngày 03.09.2018. Hai câu hỏi cuối cùng nói lên tình trạng lẩn quẩn không hề giải quyết được của giáo hội La Mã.
1. Chúng ta thấy điều gì xảy ra khi trường hợp hãm hiếp tiếp theo trong nhà thờ được tiết lộ: linh mục thường không bị bắt, rất khó tố cáo với cảnh sát… Nhưng điều gì xảy ra ở Ý trong những trường hợp như vậy?
- Tóm tắt câu trả lời: "Lần nào cũng lặp đi lặp lại điều tương tự: vụ hãm hiếp chỉ bị phát lộ khi báo chí lên tiếng, nhưng hễ chuyện ồn ào trong giới truyền thông chấm dứt, mọi người giả vờ như không có chuyện gì xảy ra. Ở Malta, có một người tên là Don Felix Cini. Ông ta đã bị xét xử rất nhiều vì quấy rối trẻ vị thành niên, nhưng vẫn là linh mục và vẫn làm việc với trẻ em. Thật đáng tiếc, chế độ Giáo hội là như vậy...
Mặc dù đã hứa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô vẫn không bãi bỏ nghị định bí mật năm 1962, điều này giải thích những hành động mà Giáo Hội thực hiện trong các vụ bạo lực tình dục.
Giáo hoàng cần phải bắt đầu quá trình bãi bỏ nghị định này, khi đó sẽ có giải pháp đơn giản cho vấn đề: ông có thể ra lệnh cho các giám mục chuyển các vụ tương tự cho cơ quan dân sự ở nơi xảy ra vụ việc. Nếu không, họ sẽ tiếp tục bị điều tra ở cấp Giáo Hội địa phương. Nếu linh mục phạm tội bạo lực tình dục, ông ta có nguy cơ bị rút phép thông công hoặc bị trục xuất khỏi nhà thờ, nhưng điều đó không thay đổi bất cứ điều gì. Vì ngay cả khi không còn là linh mục-ấu dâm, ông ta vẫn sẽ là một kẻ dâm dục, nhưng được tự do."
2. Ấu dâm trong nhà thờ là một vấn đề mà mọi người đều biết, nhưng không ai dám nói. Tại sao vòng luẩn quẩn này không thể bị phá vỡ, tại sao không thể làm được gì sau nhiều năm?
- Trả lời: Lý do rất đơn giản: nếu Giáo hội cho phép các nhà chức trách thế tục điều tra các vụ ấu dâm trong nhà thờ, các nạn nhân quấy rối sẽ được bồi thường. Và điều này sẽ lặp lại tình hình ở Mỹ, khi hàng chục giáo xứ bị phá sản. Ở những nơi chính phủ giải quyết vấn đề này, nhà thờ cũng bắt đầu giải quyết. Ví dụ, ở Úc, Mỹ, Argentina. Nhưng ở Ý, chính phủ không làm gì cả. Theo đó, Giáo hội cũng sẽ không làm gì.
__________
CHÚ THÍCH:
(1) Trần Trọng Kim, Nho Giáo – Q1 (Sàigòn: Bộ Giáo Dục, 1971), tr. 130.
(2) Mộng Bình Son, Đông Châu Liệt Quốc - T?p 3, tr 748.
(3) Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc - Tập 1 (Hà Nội: Văn Hóa, 1996), tr 190-191.
(12) Bùi Hoàng Thư. “Bạn đọc góp ý.” Văn Nghệ Tiền Phong số 548. 15/11/1998: 44-45.
(13) Nguyễn Văn Trung, "Một Số Tình Hình Ðặc Biệt Của Giáo Hội Việt Nam". Bài này do chính Giáo sư Nguyễn Văn Trung gửi kèm theo với lá thư đề ngày 21/ 5/2001 gửi cho người viết.
(14) Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978), tr 53
(15) Malachi Martin, The Decline And Fall Of The Roman Church (New York: G.P. Putnam's Sons, 1981) p.140.
(16) Vương Hồng Sển, Hơn Nửa Đời Hư (Wesmonster, CA: Văn Nghe, 1996), tr 484.
(17) Ralph Woodrow, Babylon Mystery Religion (Riverside, CA: Ralph Woodrow Evangelistic Assoc.n, Inc., 1981), p 91: "In addition to the conclusive evidence that has been given, the very character and morals of many of the popes would tend to identify them as successors of pegan priests, rather than representatives of Christ or Peter. Some of the popes were so depraved and base in their actions, even people who professed no religion at all were ashamed of them. Such sins as adultuery, sodomy, simony, rape, murder. and drunkeness are among the sins that have committed by popes. To link such sins with men who have claimed to be the "Holy Father", "The Vicar of Christ", and “Bishop of bishops", may sound shocking, but those acquainted with the history of the papacy well know that not all popes were holy men."
(18) Malachi Martin. The Decline and Fall of The Roman Church (New York: G.P. Putnam's Sons, 1981), p.126: "Pope Agapitus II (946-955) died one year later in autumn of 955, and a month later, on Decembet 16, the youthful Octavian was consecrated pope and took the name of John XII. Octavian as Pope John XII (955-963) was the absolute nadir. Becoming pope, he did not change his way of life, he spent his days and nights eating sumptuously, playing at the tables, hunting, and in love affairs. The pope's palace was frequented by courtesans and prostitutes."
(19) Chu Văn Trinh, Gia Tô Thực Dân Sử Liệu [The Documented History of Catholic Colonialism] Tập 1 (Mt. Dora, Florida: Ban Tu Thư Tự Lực, 1990), tr 103-113 và 139-174.