Phong Thánh, Bán Thánh, Tình Trạng Tham Nhũng và Loạn Dâm trong Giới Lãnh Đạo và Tu Sĩ
Độc giả sẽ thấy trong bộ sách Lịch Sử Và Tội Ác Của Giáo Hội La Mã, sẽ có một Chương 90 có nhan đề là “Vấn Nạn Tham Nhũng với rất nhiều chi tiết trong trong đạo Ca-tô và các chương 16 và 17 nói về tình trang loạn luân và loạn dâm của giới tu sĩ áo đen trong Giáo Hội La Mã." Tuy nhiên trong chương 12 này, chúng tôi muốn nói về tình tham nhũng (kinh tài bất chính) của Giáo Hội La Mã bằng kế sách “phong thánh” cũng như “bán thánh” và những hành động loạn luân, dâm tặc của giới người mà xã hội con chiên “đại diện Chúa” hay “Chúa Thứ Hai” cùng với con số nạn nhân bị các ông “Chúa Thứ Hai” này hãm hiếp.
Chương 90 với nhan đề là “Vấn Nạn Tham Nhũng”, hiểu ngầm là tham nhũng từ giáo triều Vatican lan tràn tới các cộng đồng con chiên ở bất kỳ nơi nào và khắp mọi tầng lớp xã hội trong các quốc gia nằm dưới ách thống trị trực tiếp của giáo triều Vatican như các “papal states” ở Ý Đại Lợi trước ngày nước Ý được thống nhất vào ngày 20/9/1870 hay bán trực trị như các dân tộc Âu Châu trong thời Trung Cổ, các dân tộc ở các thuộc địa của các đế quốc Âu Mỹ liên minh với Vatican như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và Bỉ ở các châu lục Phi Châu, Mỹ Châu và Á Châu. Chương 12 này chỉ nói đến vấn đề tham nhũng bằng thủ đoạn “phong thánh”, “bán thánh” và con số nạn nhân bị bọn “hắc y dâm tặc” mang danh nghĩa là “Chúa Thứ Hai” hãm hiếp mà thôi.
Giáo Hội La Mã sáng chế ra chính sách tham nhũng và kinh tài bất chính bằng cách bịa đặt ra những tín lý quái đản để mê hoặc, lừa dối và móc túi tín đồ. Đồng thời, giáo hội còn cho thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ để vừa cấy vào đầu óc tín đồ những thứ tín lý phi nhân bản, phản khoa học với dã tâm kìm hãm tín đồ và nhân dân dưới quyền mãi mãi ở trong tình trạng ngu dốt giống như con người ở vào thời đại bán khai cách đây mấy ngàn năm như thời ông Moses vì rằng chỉ những người ngu dốt mới tin được những tín lý quái đản của giáo hội. Song song với những việc làm bất chính và bất nhân trên đây, giáo hội còn tiến hành chủ thuyết "thần quyền chỉ đạo thế quyền" với dã tâm sử dụng quyền lực nhà nước để cưỡng bách nhân dưới quyền phải khuất phục, phải tin tưởng, phải tuân thủ và tuân hành những tín lý bịp bợm cùng những giáo luật chuyên chế nặng tính cách ăn cướp (mà giáo hội gọi là thánh luật). Tất cả những việc làm bất chính, đại gian, đại ác trên đây của giáo hội đều có chủ tâm củng cố quyền lực chính trị và thu vơ tiền bạc, tích lũy của cải để thỏa mãn tham vọng "tình, tiền, quyền thế và danh vọng" của giáo hội. Tất cả những việc làm tội ác trên đây đều khởi đầu từ các ông giáo hoàng và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican rồi lan tỏa xuống hàng giáo phẩm và giai cấp tu sĩ trong các giáo phận, giáo khu, và giáo xứ tại các địa phương. Những việc làm gian manh như vậy của các giáo hoàng cũng như của giáo triều Vatican và giới tu sĩ các cấp đều được sách sử ghi lại đầy đủ. Trong các thư viện tại các quốc gia dân chủ tự do ở khắp nơi trên thế giới đều có những sách sử hay tài liệu nói về vấn đề này, ngọai trừ các nước bị áp đặt phải theo chế độ đạo phiệt Ca-tô như miền Nam Việt Nam thời 1954-1975.
NGHIỆP VỤ PHONG THÁNH VÀ BÁN THÁNH
“Phong Thánh” và “Bán Thánh” chỉ là một trong muôn vàn thủ đọan làm tiền của bọn lưu anh buôn thần bán thánh đội lốt thày tu hay thày cúng để móc túi những người nhẹ dạ, dễ tin và nặng đầu óc mê tín. Những người có nhược điểm nhẹ dạ, dễ tin và nặng đầu óc mê tín thường thường là những người ngu dốt hay ít học nhưng lại hay mơ tưởng đến những chuyện được thần thánh cứu giúp, được ơn trên phù hộ hay sẽ có Chúa lo cho tất cả vì họ không biết sử dụng lý trí để lý luận và phân tách sự việc hay sự vật. Vì vậy mà Giáo Hội La Mã mới tìm cách làm cho tín đồ và người dân dưới quyền mãi mãi ở trong tình trạng vừa dốt vừa ngu. Có như vậy, thì giáo hội mới dễ dàng phỉnh gạt và lừa bịp họ bằng (1) những tín lý Ki-tô hoang đường, láo toét (2) những giáo luật nặng tính cách độc đoán, chuyên chế, bóc lột, và (3) những loài phán dạy hết sức lưu manh của các đấng bề trên trong hệ thống quyền lực trong giáo hội.
Vì thế các con chiên không biết gì về dã tâm vô cùng lưu manh trong nghiệp vụ kinh tài “bán thánh” và “phong thánh” giáo triều Vatican.
A. Chuyện phong thánh trong Giáo Hội La Mã:
Một trong những cách kinh tài một cách hết sức tinh xảo là “dịch vụ phong thánh” cho các tín đồ tội đồ đã bị chính quyền bản địa của họ xử tử vì đã phạm tội phản quốc. Những người được giáo hội gọi là nhưng người “tử đạo” nhưng đối với nước nhà thì gây bạo loạn theo lệnh truyền của các đấng bề trên của họ. “Phong thánh” trong giáo Hội La Mã do đó chỉ là một chi là một “xảo ngôn” mà thôi. Điển hình là vào ngày 19/6/1988, giáo triều Vatican phong thánh cho 117 tên tội đồ chống lại dân tộc và đất nước Việt Nam trong hai thế kỷ 18 và 19 .
Sách Merchants In The Temple (New York: Hanry Holt And Company, 2015) nói rõ là giá tiền bán một “tước hiệu thánh” vào khoảng “500 ngàn Euros (550 ngàn Mỹ kim) tới 750 ngàn Euros (822 ngàn Mỹ kim)” Xem các đoạn liên quan như sau:
"Tuy nhiên, những khoản tiền khổng lồ để cho giáo triều Vatican điều hành đòi hỏi phải có việc kế toán thích đáng. Mở một hồ sơ để phong chân phước tốn phỉ tới 50 ngàn tiền euros, cộng thêm 15 ngàn tiền cho các phí khoản điều hành. Số tiền này chi phí cho các quyền của giáo hoàng và những khoản tiền đền bù sung mãn cho các nhà thần học chuyên nghiệp, y sĩ và các giám mục cứu xét hồ sơ. Sau khi cộng thêm vào những khoàn tiền tốn phí cho các nhà biên khảo trong việc soạn thảo lý lịch của người được đề nghị phong chân phước, và cuối cùng là công việc của người được trao cho đảm trách công việc hoàn thành hồ sơ, số tiền tốn phi này tăng vọt như hỏa tiễn.
Trung bình giá cả tốn phí cho một hồ sơ lên đến khoảng 500 ngàn euros. Rồi còn phải tính đến tất cả tiền phí tổn cho những quà tặng bắt buộc để “cám ơn” các vị giáo phẩm (giám mục, tổng giám mục hay hồng) được mời đến tham dự các buổi lễ trong thời gian tiến hành thủ tục, để họ nói vài lời về những việc làm và phép lạ của người được đề nghị phong chân phước. Trong lịch sử, sô tiền chi phí cho mỗi hồ sơ như vậy có thể lên tới 750 ngàn euros như trong vụ phong chân phước cho Antonio Rosmini năm 2007.
Trong thời Giáo Hoàng John Paul II (19978-205), “Xương Sản Xuất Thánh” đã ban phép lành cho 1,338 vị trong 147 buổi lễ phong chân phước, và 482 ông/ bà thánh trong 51 buổi lễ phong thánh- Những con số ngoài sức tưởng tượng này vượt xa mức độ trước đó trong lịch sử giáo hội.” Gianluigi Nuzzi, Merchants In The Temple (New York: Hanry Holt And Company, 2015), p. 33.
Nguyên văn: “Yet these are huge sums of money for which Vatican regulations demand proper bookkeeping.. To simply open a cause for beatification cost 50,000 euros, supplemented by the 15,000 euros in actual operating costs. This amount covers the rights of the Holy See and the hefty compensation of the expert theologians, physicians and bishops who examine the cause. After adding the costs of the researchers’ time, the drafting of the candidates’ positio – a kind of résumé of all his or her works – and finally, the work of the postulator, the amount skyrockets.
The average price tag comes to about 500,000 euros. We then have to consider the cost of all thank you gifts required for the prelateswho are invited to festivities and celebrations held at crucial moments in the process, to say a few words about the acts and miracles of the future saints or blessed. Record spending on these causes has reached as high as 750,000 euros, such as the process that led to the beatification in 2007 of Antonio Rosmini.
Under John Paul II the “saints’ factory” anointed 1,338 blesseds in 147 rites of beatification and 482 saints in 51 celebrations - astronomical figures that far surpass previous levels in Church history.”
Thứ hai: Vì nhu cầu cần phải có thánh tích để bán cho nên Vatican lại phải ra công phong thánh cho càng nhiều người càng tốt. Hồng Y Silvio Oddi đã nhận xét "Vatican đã trở thành một xưởng chế tạo thánh" (The Vatican has become a saint factory) (1) .
B. Chuyện bán thánh Trong Giáo Hội La Mã:
Bán thánh là bán các chức vụ trong hàng giáo phẩm, như giám mục cai quản một giáo phận, hay chánh xứ quản nhiệm một họ đạo, và bán những hàng "mạo hóa" (đồ giả) được Giáo Hội biến thành "thánh tích" (relic). Cũng như trong chính quyền bán tước vị hay tước hiệu giống như cấp bậc trong quân đội, như chức vụ đại đội trưởng, tiểu đoàn trường (trong quân đội). Những gì liên hệ đến Chúa Jesus, Đức Bà Maria hay các đệ tử của Chúa Jesus còn được xem là những thánh tích cao quý hơn nữa.
Đền của Bà Maria, chứa đựng các di tích, vải quấn Chúa Giêsu Hài Đồng, miếng vải được Chúa Kitô đeo trên Thập Tự Giá, và tấm vải lót trên đầu nằm. Ảnh pilgrimagemedievalireland.com
Ttừ cái khăn quấn tả Jesus hài đồng, đến cái răng, cái da của dương vật, cái vải nằm kê đầu (đựng trong hộp như trong hình trên), cái đinh đóng trên thập giá, vải liệm xác Chúa Jesus, hang đá nơi Jesus sinh ra, nơi sinh trưởng của Jesus, đến cái hộp gọi là quà của ba Vua (nhà thiên văn),... tất cả đều trở thành "thánh tích" thu hút khách hành hương đến viếng thăm, dâng cúng tiền bạc cho giáo hội.
Sách Men And Nations - A World History viết:
"Bán thánh có nghĩa là bán những chức vụ trong Giáo Hội, một việc làm rất là phổ quát và thông dụng trong thời phong kiến. Người mua chức vụ do Giáo Hội bán ra hy vọng sẽ kiếm tiền bù lại từ lợi tức của Giáo Hội chu cấp hay bằng cách tính tiền các lễ phí khi họ hành lễ." (Simony meant the buying and selling Church positions, a widespread practice in feudal times. The purchaser expectect to get his money back from Church income or by charging high fees for religious services he performed.") (2) .
Theo quy luật "tội ác sinh ra tôi ác", khi đã phạm tội "bán thánh", theo sau đó, Giáo Hội lại phạm thêm nhiều tội ác khác. Sách Story of Mankind cho biết rõ tội ác "bán thánh" chỉ là một trong 6 tội ác thông thường có liên hệ với nhau mà Giáo Hội La Mã thường sử dụng giống như một chính sách để củng cố quyền lực và moi tiền nhân dân một cách hết sức là độc đáo và lưu manh đến cùng mức của lưu manh.. Sáu tội ác thông thường này là:
1.- "Gia đình trị, dành riêng các chức vụ trong giáo hội cho bà con. Việc làm này làm cho gia đình những người cầm quyền càng trở nên giầu có và làm cho Giáo Hội yên trí tin rằng những người mua những chức vụ sẽ trung thành với Giáo Hội."
2.- "Cho một người có thể nắm giữ nhiều chức vụ cùng một lúc như vậy có nghĩa là người đó phải nắm giữ hai hay ba hoặc bốn chức vu thuộc các cơ quan khác nhau, tất nhiên không thể nào cùng một lúc người đó lại có thể có mặt ở hai hay ba hoặc bốn cơ quan khác nhau được. Vì thế mà Giáo Hội phải hợp thức hoá sự vắng mặt của họ tức là cấp giấy miễn trừ cho họ ở các sở làm khác."
3.-/ " Sự được phép miễn trừ này phải do chính Toà Thánh Vatican ban cấp với một khoản tiền lệ phí. Làm như vậy là làm tăng thêm tệ trạng gia đình trị và tăng thêm tệ trạng cho một người kiêm nhiệm nhiều chức vụ."
4.-/ "Việc cho phép một người kiêm nhiệm nhiều chức vụ tạo nên sự vắng mặt thường xuyên của viên chức ở các chức vụ khác khi người đó có mặt ở một trong các nhiệm sở họ kiêm nhiệm, vì rằng, như đã nói ở trên, một người không thể nào cùng một lúc mà có thể có mặt tại hai hay ba hoặc bốn cơ quan toạ lạc ở những nơi khác nhau. Như vậy, nhiều giáo phận không có giám mục cư trú, và nhiều giáo khu không có linh-mục ở ngay tại chỗ."
5./- "Những lạm dụng về tiền bạc rất thường xuyên và rất trầm trọng. Giá cả được gắn liền với những sự miễn trừ cho các vị chức sắc vắng mặt tại nhiệm sở. Lệ phí thường thường tính được vào các lễ vụ; và sự thương lượng giá cả vể việc này quả thật là sặc mùi "buôn thần bán thánh"
6.-/ "Sự ngu dốt rất là phổ biến trong giới tu sĩ. Nói cho rõ hơn phần lớn các ông tu sĩ đều là những người ngu dốt, đặc biệt là các ông linh-mục ở các giáo xứ. Họ hiểu biết rất ít hay không được huấn luyện về giáo lý hay thần học."
Ngoài những tội ác trên đây, còn phải nói đến sự bất mãn rất phổ quát trong đại khối nhân dân đối với chủ thuyết thần học Da-tô và đối với đời tư của giới tu sĩ. Thời Phục Hưng đã khơi động cho giới trí thúc mối hoài nghi đối với Giáo Hội và giới tu sĩ Da-tô,…."
Nguyên văn: [Six abuses were most common:
1.- Napotism, securring positions for one's relatives, developed as a way of ncreasing family fortunes and securring appointees who would be loyal."
2.- Pluralities allowed a person to be dispensed from the prohibition of church law against holding more than one high ecclesiastical office."
3.- "Dispensations were granted by the papacy, for a fee, thus increasing and perpetuating nepotism and pluralism."
4.- "Absenteeism accompanied pluralism, for a person holding several benefices could be only one place. Thus many sees were without resident bishops and many parishes without resident priests."
5.-" Monetary abuses were frequent and serious. A price was attached to clerical exemptions and dispensations; fees were frequently charged for spiritual benefits; and many transactions smacked of simony, or the selling of spiritual benefits."
6.- "Ignorance prevailed among many of the clergy, especially the diocesan priests, who had little or no formal training in dogma or maral theology."
"To these abuses must be added a wide-spread disatisfaction with Catholic doctrine and with the personal lives of the clergy. The Renaissance had created a skeptical frame of mind among the educated people,... " ](3)
Thực ra, mấy bản văn sử trên đây chỉ nói một cách tổng quát rất sơ lược về tệ nạn tham nhũng do giáo triều Vatican chủ mưu. Đi vào chi tiết, sách The Decline And Fall Of The Roman Church ghi lại một số những mánh mung làm tiền của Giáo Hội La Mã hết sức là thần sầu quỷ khốc trong kiểu "bán thánh". Sử gia Malachi Martin diễn tả như sau:
▪ 'Tiền, tiền, tiền. Với Giáo Hoàng Leo X (1513-1521), luôn luôn là tiền. Năm này tiền thâu nhập của ông tính bằng tiền ducats thật là đáng kể. Tiền trực thu là 420 ngàn ducats; thuế sông 60 ngàn, thuế ruộng đất là 37 ngàn, thuế rượu và giấm là 8 ngàn, tiền các vùng Spoleto, Romagna và vùng ven biển là 60 ngàn, thuế bán do các vùng Cervia và Ravena nộp vào khoàng từ 70 ngàn tới 100 ngàn; lợi nhuận về phèn là 40 ngàn.
Ngòai các khỏan tiền thâu nhập trên đây, lại còn có những khoản tiền thâu nhập từ tu viện, các bất động sản ở Ý, Pháp và Scicily nữa... Mặc dầu tín đồ đã tăng lên nhiều, Giáo Hoàng Leo vẫn có thể tăng gíá các chức vụ hồng y lên tới mức không tiền khoáng hậu. Vào một ngày, hai năm trước đây, các ông Hồng Y Conti, Valle và Colonna mỗi người phải trả với cái giá 25 ngàn ducats cho cái Mũ Đỏ của họ; Hồng Y Poncetta đã trả tới 30 ngàn, Hồng Y Campeggi trả 24 ngàn, và Hồng Y Armellini trả 40 ngàn. Các ông linh mục tổng quản các Dòng Đa Minh, Francisco và Augustin mỗi người phải trả tới 70 ngàn, hai người con trai của bà chị của ông ta và người con của Lorenzo the Magnificient, mỗi người cũng phải trả 35 ngàn. Tổng cộng tất cả là trên 500 ngàn tiền ducat. Tiền này đã đi về đâu?..."
Tiền Ducats bằng hình Giáo Hoàng Leo X
Nguyên văn: ("Money, money, money. With Leo X (1513-1521), it was always money. This year his revenue in ducats are considerable: direct revenue, 420,000; rivers dues, 60,000; land dues, 37,000, wine and vinegar taxes, 8,000; taxes from Spoleto, the Romagna, and the Coast, 60,000 each; sale dues from Cervia and Ravena, 70,000-100,000; alum revenues, 40,000. All this over and above his personal benefices, abbeys, and estates in Italy, France, and Scicily...." "Despite inflating the membership, Leo was still able to raise the price of a cardinalate to unprecedented levels. On one day, two years before, cardinals Conti, Valle, and Colonna all paid 25,000 ducats apiece for the Red Hat; Poncetta had paid 30,000, Campeggi 24,000, and Armellini 40,000. The fathers general of Dominicans, Franciscans, Augustinians each paid 70,000, and the two young sons of his sister and one son of Lorenzo the Magnificient put up 35,000 each. In all, over 500,000 ducats. Where has it all gone? ...." (4)
▪ "Ngoài vấn đề tiền bạc, còn vấn đề khác nữa làm cho Giáo Hoàng Leo X bận tâm. Đó là Hồng Y Petrucci. Chẳng bao giờ Giáo Hoàng Leo X quên được cái tên Petrucci. Trước kia, vị hồng y này và những vị hồng y khác trong âm mưu ám hại ông dù rằng ông vẫn yêu thương họ. Những người âm mưu ám hại ông đã không hiểu điều này; những biến cố như việc phát vãng người anh em của Hồng Y Petrucci ra khỏi Siena, việc đẩy người anh em của Hồng Y Piera ra khỏi Florence, việc được tuyển chọn lên ngôi giáo hoàng trước sự thảm bại của Hồng Y Riario và việc từ chối không bổ nhậm Hồng Y Di Saudi nắm giữ chức vụ cai quản Tổng Giáo Phận Marseille giầu có đã khiến cho những vị chức sắc cao cấp này bất mãn, rồi họ âm mưu với nhau để sắp đặt một kế hoạch ám hại ông. Đây là một kế hoạch ngu xuẩn: Họ sử dụng một chuyên viên giải phẫu có tên là Basttista Vercelli. Hắn giả vờ đem đồ nghề đến trị bệnh trĩ cho Giáo Hoàng Leo X rồi chích thuốc độc vào ruột cùng của ông... " "Hồng Y Petrucci bị xử tử, rồi lại còn bị bêu riếu và nguyền rủa... Suốt hai năm sau vụ này, Giáo Hoàng Leo X vẫn còn sống trong lo sợ. Ông hạ lệnh thanh toán mọi người trong gia đình và bạn bè của Hồng Y Petrucci. Tất cả những người có liên hệ xa gần với những người trong âm mưu này đều bị theo dõi và kiểm soát thường trực.... Những khi ông làm lễ đều có một toán quân vệ sĩ tuốt gươm bao quanh để bảo vệ và có những cung thủ mai phục ở thế nạp tên sẵn sàng nhắm bắn..."
Giáo Hoàng Leo X
Nguyên văn: ("One matter also troubles Leo besides money - Petrucci. Petrucci is a name Leo never forgets. He used to love that cardinal - and the other conspirators. But they did not understand; and when Leo banished Cardinal Petrucci's brother from Siena, drove Cardinal Piera's brother from Florence, defeated Cardinal Riario in the conclave, and refused the rich archbishopric of Marseilles to Cardinal di Saulis, they plotted against his life. A stupid plan: they employed a surgeon, Basttista Vercelli, who pretending to operate on Leo's hemorrhoids, was supposed to poison him through the rectum...." ... "Cardinal Petrucci was condemned to death and receive his sentence with a stream of blasphemies and curses... For two years after this, Leo lived with fear of assassination; he sought out and liquidated the family and firends of Petrucci; all others remotely connected with any the conspirators were under constant surveillance. ...Leo himself said mass daily surrounded by men with drawn swords and hidden archers with arrows at the ready... ") (5)
Một thí dụ về những cái gọi là thánh tích gây mê tín đến độ bất cần vệ sinh có thể kể thêm chuyện xảy ra ở Việt Nam như sau. Mới đầu năm nay, trên mạng Facebook có lan truyền một video: "Bộ xương của Linh mục đã trở thành món ăn béo bở về tinh thần của các con chiên." Hình ảnh sau đây trích từ video đã phổ biến ngày 28 tháng 3, 2018:
C. NHẬN XÉT VỀ TỘI BÁN THÁNH
Các bản văn trên đây giúp cho chúng ta nhìn thấy ba vấn đề:
Thứ nhất: Những tước vị hay các phẩm trật như hồng y, giám mục, linh mục... trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã được đặt ra đều có giá tiền cả. Khi còn ở miền Bắc, trong những năm 1945-1954, người viết được biết bọn “tu sĩ Ca-tô” đều là những quân lưu manh buôn thần bán thánh đội lốt thày tu." Sau đó vào sinh sống ở miền Nam, tôi lại được chứng kiến những cung cách hành sử cực kỳ ghê tởm của họ trong những năm 1955-1975. Rồi từ khi sang định cư ở Hoa Kỳ, tôi lại được chứng kiến những cung cách hành xử của họ ở hải ngọai từ tháng 5 năm 1975 cho đến nay.
Tất cả những kinh nghiệm này đã khiến cho tôi dồn nỗ lực vào việc tìm hiểu những tài liệu lịch sử nói về những rặng núi tội ác của giới tu sĩ áo đen cũng như của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua. Qua những kinh nghiệm bản thân trên đây và công việc tìm hiểu này, chúng tôi nhận thấy rằng những gì mà chúng tôi được nghe nói về giới tu sĩ áo đen đều là sự thật cả. Nhưng những gì tôi nghe đó cũng chỉ nói lên hết được một phần ngàn sự thật khủng khiếp và hết sức ghê tởm đến nỗi văn hào Voltaire đã phải gọi nó là “cái tôn giáo ác ôn” do một giới người mà người Pháp đã phải gọi là “lũ quạ đen” điều khiển.
Những mánh mung mà Giáo Hội La Mã sử dụng để móc túi con chiên của họ quả thật là thần sầu qủy khốc. Những quái chiêu móc túi tín đồ của giới lãnh đạo của Giáo Hội La Mã và giới tu sĩ càng về sau càng tinh vi hơn.
Tìm hiểu lịch sử của Giáo Hội La Mã, các nhà viết sử thấy rằng dịch vụ "bán thánh" không phải chỉ giới hạn trong việc bán các chức vụ trong giáo hội và bán giấy xá tội cho tín đồ để lấy tiền, mà còn mở rộng sang những dịch vụ sản xuất thánh và bán những thánh tích cho tín đồ nữa. Khách hàng tiêu thụ sản phẩm quái đản này là các con chiên Ki-tô cuồng tín. Đây là động lực khiến cho giáo triều Vatican, một mặt, phải triệt để thì hành chính sách ngu dân, mặt khác tích cực cho sản xuất càng nhiều thánh tích càng tốt để có đủ những sản phẩm mê tín, đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ của khối tín đồ mà giáo hội đã dầy công biến họ thành những hạng người ngu xuẩn như bày cừu.
Dịch vụ "bán thánh" càng phát đạt thì giáo hội lại càng phải tích cực sản xuất "thánh". Sản xuất thánh, có nghĩa là giáo hội phải tìm danh sách những con chiên hết lòng hết dạ làm lợi cho giáo hội như mở mang nước Chúa, hoặc chết vì lòng trung thành với giáo hội. Trường hợp 117 tên tội đồ gồm các con chiên Việt gian làm tay sai bán nước cho Đế Quốc Thập Ác Vatican và cán bộ truyền giáo đã chống lại tổ quốc Việt Nam được phong thánh vào ngày 19/6/1988 là một thí dụ điển hình. Thánh tích cũng có nhiều loại và nhiều giá. Theo luật cung cầu, cái gì càng hiếm thì càng quý, càng đắt giá; và người buôn bán càng kiếm được nhiều lời. Càng kiếm được nhiều lời thì người ta càng có khuynh hướng chế tạo đồ mạo hóa (làm đồ giả giống như đồ hiếm đó) đem ra bán cho khách hàng tiêu thụ. Loại thánh tích vừa quý giá vừa hiếm hoi nói trên của Giáo Hộ La Mã đem ra bán cho tín đồ Ca-tô cuồng tín ở vào trường hợp này và được sách Công Giáo Huyền Thoại Và Tội Ác ghi lại như sau:
"Giáo Hội Công Giáo La Mã chẳng những là một tổ chức tội ác vô tiền khoáng hậu với quy mô rộng lớn khắp thế giới mà nó còn là một trung tâm sản xuất đồ giả lớn nhất thế giới để thu lợi. Đồ giả phổ biến nhất của Tòa Thánh là cá "Thánh Tích" (relics). Chúng lấy răng chó con hay răng súc vật và nói đó là những chiếc răng sữa của Chúa Jesus, lấy mảnh da loài vật để giả miếng da cắt được từ lỗ rốn của Ngôi Hai Thiên Chúa, hoặc là miếng da cắt từ đầu chím của Ngài khi cha mẹ đưa Ngài đến Đền Thánh để cắt bì (The Circumcision). Chúa chỉ chịu phép cắt bì một lần duy nhất, nhưng Tòa Thánh có tới ba miếng da quy đầu của Ngài. Chúa cũng bị đóng đinh trên thập giá một lần duy nhất với một cây thập giá duy nhất làm bằng hai khúc gỗ và ba cái đinh, nhưng tổng số gỗ và đinh mà Vatican đem bán làm bằng cớ "Ơn Cứu Chuộc thiêng liêng vô cùng của Chúa" nếu thâu gom lại có thể đóng được một chiếc tàu lớn để vượt Thái Bình Dương." (6)
CÁC GIÁO HÒANG NÊU GƯƠNG
Giáo triều Vatican đã chủ trương công khai hóa chính sách tham nhũng hay làm tiền bất chính, thì tại sao các ông giáo hòang không theo đó mà nêu gương sáng chế thêm ra những phương pháp tinh vi hơn để mọi tiền thiên hạ? Theo quy luật "sóng sau dồn sóng trước", những phương pháp và thủ đọan mê hoặc và lừa gạt tín đồ và người đời để làm tiền của giáo hội càng về sau càng thần sầu quỷ khốc. Tất cả đều được sách sử ghi lại đầy đủ. Sách The Decline And Fall Of The Roman Church ghi lại chuyện làm tiền của Giáo Hòang Alexander VI (1492-1503) như sau:
"Nhưng luôn luôn có cậu Solimendo là nguồn an ủi cho Giáo Hoàng Leo X (1513-1521) . Cậu nam ca sĩ này là một trong những phần thưởng của ông. Cậu này vốn là cháu nội của Hoàng Đế Mehmet của nước Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1493, người Thổ Nhĩ Kỳ chiếm được Constantinople. Thân phụ của câu Splimendo là Hoàng Đế Djem bị Hoàng Đế Bajuzet đánh bại và chạy sang lánh nạn ở Vatican dưới sự che chở của Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503). Bajuzet gửi cho Giáo Hoàng Alexander VI 40 ngàn ducats và yêu cầu Ngài giết Djem. Giáo Hoàng Alexander VI nhận tiền nhưng bất động và ngồi chờ. Khi Bajuzet gửi thêm 200 ngàn ducats nữa, Giáo Hoàng Alexander VI lặng lẽ ra lệnh đầu độc Djem cho chết. Sau khi Giáo Hoàng Alexander VI qua đời, Giáo Hoàng Julius (1503-1513) tố cáo Giáo Hoàng Alexander VI là hạng người "đạơ đức giả" và cấm không được nói đến làm lễ cho ông ta...."
GH Alexander VI
Nguyên văn: "But there is always Solimando to comfort Leo. The boy singer is one one of Leo's prize possessions: The grandson of Sultan Mehmet, the Turk who took Constantinople in 1493. Little Solimando's father, Sultan Djem was driven from Constantinople by Sultan Bajuzet and took refuge in the Vatican of Pope Alexander VI (1492-1503). Bajuzet had sent 40,000 ducats to Pope Alexander, asking him to kill Djem, Alexander waited. When Bajuzet sent another 200,000 ducats, Alexander had Djem quietly poisoned. Pope Julius II (1503-1513) had denounced Alexander after his death as "a rapacious hypocrite," and had forbidden any masses to be said to for him...") (7)
Sách Vicars of Christ viết về chuyện làm tiền theo kiểu "Tú bà" của Giáo Hoàng John XII (955-963) và Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484), nhưng còn siêu hơn cả "Tú Bà" ở Trung Hoa và ở Việt Nam vì rằng các Giáo Hoàng đều có "Đấng tòan năng, toàn thiện, ở khắp mọi nơi" ban ơn cho. Chuyện như sau:
"Ở Avignon, Giáo Hoàng John XXII tham lam cho phép các tu sĩ được giữ tình nhân với điều kiện phải đóng thuế. Ngay cả các ông tu sĩ trong trắng (không có tình nhân - NMQ) cũng phải đóng thuế trong trường hợp họ ngả vào trong vòng tay của một người đàn bà." (In Avignon, the avaracious John XXII allowed priests to keep their mistresses on payment of a tax. Even the few chaste priests had to pay up just in case they, too, fell into the arms of a woman.") (8)
Kinh tởm hơn nữa, Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) vừa loạn luân với chị hay em gái vừa cho phép "mở nhà chứa" để thu thuế.
"Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) can tội loạn luân (incest) ăn ở với chị (em) gái sinh ra đứa con trai tên là Pietro Riario và cũng là giáo hoàng đầu tiên cấp giấy hành nghề mở "nhà chứa" (nhà thổ) tại Kinh Thành La Mã. Nhờ vậy mà mỗi năm, ông thu hoạch được 30 ngàn tiền ducats. Ông cũng thâu hoạch được những khoản tiền khá lớn bằng cách đánh thuế các tu sĩ nào muốn công khai sống với tình nhân (bạn gái). Tệ hơn nữa, ông còn làm tiền bằng cách bán giấy phép cho các ông nhà giầu được quyền "an ủi" các bà có chồng xa nhà, v.v..."
GH Sixtus IV
Nguyên văn: "Sixtus ' favourite was Pietro Riario, whom the historian Theodor Griesinger believed was his son by his own sister.... Sixtus was the first pope to license the brothels of Rome; they brought him in thirty thousand ducats a year. He also gained considerably from a tax imposed on priests who kept a mistress. Another source of income was granting privileges to rich men "to enable them to solace certain matrons in the absence of their husbands." (9)
Ai cũng biết rằng tình yêu lứa đôi trai gái khi thăng hoa thì trở thành tình yêu vợ chồng và tình yêu gia đình. Đây là thứ tình yêu tự nhiên và vô cùng thiêng liêng, vô cùng cao quý. Nó tự nhiên là vì nó bẩm sinh và tất cả mọi sinh vật khi đến "tuổi dậy thì" đều tự nhiên phát sinh ra nhu cầu cần phải có này. Nó thiêng liêng và cao quý vì rằng ai cũng muốn có nó và khao khát có nó. Khi đã có nó thì người ta hết lòng trân quý, sẵn sàng liều chết để bảo vệ nó và bảo vệ cho người mình yêu. Nếu vì một lý do nào đó mà cái tình yêu thiêng liêng cao quý bẩm sinh này mất đi thì người đó trở thành một hạng người "bất bình thường". Ở một mức độ nào đó, đã có nhiều trường hợp những hạng người "bất bình thường" này không còn là con người nữa, mà đã biến thành hàng súc sinh như trường hợp các giáo hòang John XII (955-963), John XXIII (1410-1415), Sixtus IV (1471-1484), Alexander VI (1492-1503), và tập thể tu sĩ áo đen với thành tích đã hãm hiếp tới 40 triệu nạn nhân mà hầu hết là các trẻ em vị thành niên, nữ tu và nữ chiên của giáo hội. Bản tin trên catholic.org.tw nói có tới “40 triệu nạn nhân” bị các con quỷ dâm tặc áo đen này hãm hiếp. Con số nạn nhân bị các “ngài Chúa Thứ Hai” hãm hiếp quả thật là vô cùng khủng khiếp! Bản tin “Tòa Thánh Phê Bình Ủy Ban Liên Hiệp Quốc Về Các Quyền Trẻ Em” do Linh-mục Trần Đức Anh O.P chuyển ý ngày 5 tháng 2 năm 2014 (https://www.catholic.org.tw/vntaiwan/14news/14news0087.htm) ghi:
“Người ta nói là có 40 triệu vụ lạm dụng trẻ em trên thế giới. Rất tiếc là một số trường hợp ấy, - tuy là với tỷ lệ rất nhỏ, so với những gì xảy ra trên thế giới, - cũng liên hệ tới những người của Giáo Hội. Và Giáo Hội đã trả lời và đã phản ứng, và tiếp tục làm như thế! Chúng ta phải nhấn mạnh về chính sách minh bạch này, không dung thứ sự lạm dụng, vì dù chỉ có một vụ lạm dụng trẻ em mà thôi thì cũng là một điều quá nhiều rồi!”
Theo thống kê năm 2012, tổng số các hồng y, tổng giám mục, giám mục và linh mục có khoảng 414,313 người (en.wikipedia.org). Như vậy, chúng ta có thể suy ra để biết rõ mỗi một tu sĩ của Giáo Hội La Mã đã hãm hiếp khoảng gần 100 nạn nhân gồm các trẻ em vị thành niên, nữ tu và nữ tín đồ.
Xin đọc thêm bài viết “ITCCS Tuyên Bố: Giáo Hội Ca Tô Rô Ma Là Một Tổ Chức Tội Phạm Quốc Tế” do tác giả Lý Thái tổng hợp (http://sachhiem.net/LTX/LyThaiTS10.php). (Xin xem Phụ Bản 1 và Phụ Bản 2 ở Phàn Phụ Phần chót của tập sách này.)
Mới đây, ngày 15 tháng 8, 2018 các báo chí khắp nơi có đăng tin nóng: "Mỹ: Hơn 300 linh mục bang Pennsylvania đã xâm hại ‘hàng ngàn’ trẻ em" - Khoảng 301 linh mục thuộc 6 giáo phận Công giáo La Mã ở Pennsylvania (Mỹ) bị cáo buộc xâm hại tình dục hàng nghìn trẻ em trong suốt 70 năm qua, sau đó tìm cách bịt miệng các nạn nhân, báo cáo của bồi thẩm đoàn ở Pennsylvania (Mỹ) công bố hôm qua 14/8 cho biết.
Tình trạng này quả thật là hết sức khủng khiếp.
Nạn nhân và gia đình các nạn nhân không cầm được nước mắt khi tham dự buổi họp báo công bố báo cáo về vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em ở 6 giáo phận Công giáo bang Pennsylvania. Ảnh AP
Xin độc giả đọc lá thư kêu cứu của một nạn nhân là nữ chiên Lữ Thi Thu Nga để biết cung cách hãm hiếp các nạn nhân như thế nào của con quạ đen Giuse Nguyễn Ngọc Dũng. Lá thư này đã được sachhiem.net đăng lại của một diễn đàn khác của Ca-tô giáo (sachhiem.net/TONGIAO/tgB/Bacaytruc00.php).
Vì giới hạn của chương sách này, chúng tôi chỉ trình bày một các tổng lược là tham nhũng là một chính sách do Giáo Hội chủ trương và các nhà lãnh đạo đi tiên phong làm gương cho các vị chức sắc trong giáo hội và các nhân viên trong các chính quyền nằm dưới quyền chỉ đạo của Tòa Thánh Vatican theo đó mà hành xử.